Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống của Hiệu trưởng một số trường THCS Quận Gò Vấp – TP.HCM dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay chất lượng giáo dục của nước ta vẫn còn nhiều điều cần khắc phục như hiệu quả của chương trình giảng dạy, chất lượng của nguồn nhân lực,… và bằng cấp của chúng ta chưa được công nhận rộng rãi trong khu vực. Đặc biệt trong quá trình hội nhập và phát triển, chúng ta đang rất cần một nguồn nhân lực có trình độ tri thức vững chắc và khả năng ứng dụng cao để góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước. Để làm được điều đó, nền giáo dục Việt Nam cần phải có những bước đột phá nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả, tạo ra những con người có đủ tri thức, thái độ và kỹ năng đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Bên cạnh đó, xã hội ngày càng hiện đại với sự phát triển mọi mặt văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội đồng thời cũng kéo theo nhiều vấn đề mà mỗi người trong chúng ta chưa từng gặp phải, chưa từng giải quyết hoặc nếu có gặp thì cũng chỉ ở mức độ ít phức tạp, ví dụ như nạn bạo lực học đường, xâm hại tình dục trẻ vị thành niên, ma túy,… Đây chính là những thách thức mà xã hội đặt ra cho chúng ta. Vậy làm thế nào để học sinh – những trẻ em đang còn ngồi ghế nhà trường – có đủ khả năng để vượt qua những khó khăn, thách thức đó? Câu hỏi này yêu cầu các nhà giáo dục có trách nhiệm phải tìm ra cách trả lời. Và câu trả lời đầu tiên là hãy trang bị cho các em một kiến thức thật vững chắc, một thái độ đúng đắn, một kỹ năng giải quyết mọi vấn đề một cách tương đối hoàn chỉnh ngay khi còn là học sinh ở trường phổ thông, chứ không đợi đến khi vào đời – đó chính là Giáo dục kỹ năng sống. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Năm 1996 Uỷ ban quốc tế về Giáo dục cho Thế kỷ XXI trực thuộc UNESCO do Jacques Delors làm Chủ tịch đưa ra một báo cáo khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển tương lai của cá nhân, dân tộc và nhân loại. Báo cáo này nhấn mạnh giáo dục là “kho báu tiềm ẩn” và đã đưa ra một tầm nhìn về giáo dục cho Thế kỷ XXI dựa trên bốn trụ cột: Học để biết; Học để làm; Học để cùng chung sống; Học để tự khẳng định mình.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt nam diễn ra từ ngày 12 đến 19-01-2011 đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020, trong đó xác định những nguyên nhân của thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010, từ đó xây dựng quan điểm phát triển cho giai đoạn 2011 – 2020. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020 đã xác định rõ “…Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu: Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt; Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp…”. Mục tiêu giáo dục thế kỷ XXI đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em.
Đứng trước yêu cầu cấp bách của xã hội và của việc thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng, ngày 15/5/2008 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong giai đoạn 2008 – 2013, Bộ Giáo dục – Đào tạo cũng đã triển khai Chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT, Kế hoạch 307/KH_BGDDĐT ngày 22/7/2008 để chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện. Một trong những nội dung cơ bản của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” là rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Việc giáo dục kỹ năng sống được tích hợp thông qua việc giảng dạy các bộ môn văn hóa, trong đó người dạy không chỉ truyền đạt kiến thức một chiều mà còn cần phải tổ chức cho học sinh tìm tòi, khám phá và lĩnh hội kiến thức mới, nhờ vậy học sinh có thể rèn luyện khả năng xử lý và giải quyết vấn đề, kỹ năng ứng dụng kiến thức vào thực tiễn cụôc sống. Đây một vấn đề quan trọng trong công tác giáo dục toàn diện mà xã hội ngày nay đặc biệt quan tâm.
Kỹ năng sống đóng vai trò không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, giúp cho chúng ta có đủ tự tin để giải quyết các vấn đề gặp phải trong cuộc sống, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập thế giới hiện nay. Đối với học sinh, ngay khi còn ngồi ghế nhà trường, các em cần được giáo dục kỹ năng sống một cách kỹ lưỡng vì đây chính là chiếc chìa khóa giúp các em hòa nhập vào môi trường xung quanh, biết sàng lọc khi tiếp cận thông tin, xử lý mọi tình huống trong cuộc sống với một cách thức hữu hiệu nhất,… Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Trong những năm gần đây, nhận thức của cán bộ quản lý cũng như giáo viên đối với công tác giáo dục kỹ năng sống có nhiều sự chuyển biến rõ nét. Hệ thống văn bản chỉ đạo cũng luôn đề cập nhiều đến việc tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào nội dung của từng tiết dạy văn hóa, trong hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, đặc biệt là khi Bộ Giáo dục – Đào tạo phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” thì việc giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp được đầu tư nhiều hơn, chú trọng việc gắn họat động giáo dục với cộng đồng. Tuy nhiên trên thực tế ở một số nơi, Hiệu trưởng còn giao khoán cho Chi đoàn, Tổng phụ trách, không có biện pháp chỉ đạo cụ thể, chưa coi trọng hoặc chưa có sự quan tâm đúng mức đến hoạt động này. Ngoài ra, một số giáo viên trung học cơ sở chưa nhận thức đầy đủ đối với việc tích hợp kỹ năng sống trong từng tiết dạy, vẫn còn một bộ phận không nhỏ giáo viên chủ nhiệm chưa thực hiện tốt việc giáo dục kỹ năng sống qua các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp hoặc nếu có thì thực hiện một cách miễn cưỡng, mang tính bắt buộc,… làm cho học sinh không thấy hứng thú với họat động này. Chính vì vậy, trong thời gian qua tình trạng học sinh sử dụng bạo lực với nhau, hay có trường hợp học sinh tự tử khi bị thầy cô, cha mẹ rầy la, hoặc khi gặp khó khăn trong cuộc sống,……do các em chưa có các kỹ năng sống cần thiết như kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng làm chủ cảm xúc,… Điều này phản ánh chất lượng giáo dục của chúng ta vẫn còn những hạn chế nhất định.
Với tình hình thực tế hiện nay như trên, trong vai trò người quản lý giáo dục, tác giả ý thức được sự cần thiết phải nhận thức rõ thực trạng quản lý việc giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong nhà trường THCS nhằm tìm ra những giải pháp tốt hơn giúp cho hoạt động giáo dục kỹ năng sống đi vào chiều sâu. Đó cũng chính là lý do để tác giả chọn đề tài:“Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống của Hiệu trưởng một số trường THCS Quận Gò Vấp – TP.HCM” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục
2. Mục đích nghiên cứu
- Khảo sát thực trạng quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống của Hiệu trưởng một số trường THCS trên địa bàn quận Gò Vấp. Từ đó, đề xuất một số giải pháp quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống của Hiệu trưởng các trường THCS.
3. Giả thuyết khoa học
- Nếu nhận thức đúng thực trạng quản lý giáo dục kỹ năng sống của hiệu trưởng thì có thể tìm kiếm giải pháp phù hợp nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm trong quản lý hoạt động giáo dục này.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
- Khái quát hóa và hệ thống hóa lý luận của công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống.
- Khảo sát thực trạng quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống của Hiệu trưởng các trường THCS Quận Gò Vấp.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm cải tiến công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường THCS.
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Khách thể : Công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong các trường THCS Q.Gò Vấp – TP.HCM
- Đối tượng : Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống của Hiệu trưởng một số trường THCS Quận Gò Vấp – TP.HCM
6. Giới hạn đề tài
Đề tài này dùng phương pháp khảo sát là chủ yếu để nghiên cứu thực trạng quản lý việc giáo dục kỹ năng sống tại một số trường THCS trên địa bàn Quận Gò Vấp.
- Đối tượng điều tra: gồm 4 trường THCS trên địa bàn Q.Gò Vấp: Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Văn Nghi, Gò Vấp, Trường Sơn.
- Phạm vi: Hoạt động chính khóa và ngoại khóa, trong và ngoài chương trình do Bộ Giáo dục – Đào tạo quy định
- Thời gian: Dữ liệu năm học 2011 – 2012
7. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu
7.1. Phương pháp luận
Tiếp cận hệ thống – cấu trúc: Nghiên cứu đối tượng một cách toàn diện, trên nhiều mặt khác nhau trong một tổng thể; Xác định mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố của hệ thống để tìm ra quy luật phát triển của hiện tượng giáo dục. Phân tích cấu trúc bên trong tạo nên đối tượng nghiên cứu, đồng thời đặt đối tượng nghiên cứu trong khách thể nghiên cứu- hệ thống Mẹ chứa đựng đối tượng nghiên cứu.
Tiếp cận lịch sử – logic: Tìm hiểu, phát hiện sự phát triển của đối tượng nghiên cứu trong một khoảng thời gian và không gian cụ thể. Từ đó, người nghiên cứu có thể xác định phạm vi không gian, thời gian và điều kiện cụ thể để tiến hành điều tra phù hợp với mục đích nghiên cứu, và phù hợp với tính logic của vấn đề. Đề tài là sự kế tục có logic của lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Tiếp cận thực tiễn: dựa trên số liệu, tài liệu, các minh chứng cụ thể để đánh giá vấn đề. Quan điểm này được vận dụng trong các phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Các giải pháp đưa ra phù hợp thực tiễn của phạm vi nghiên cứu.
7.2. Phương pháp nghiên cứu lý luận Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
- 7.2.1. Nghiên cứu lý luận về kỹ năng sống.
- 7.2.2. Nghiên cứu các văn bản, các quy định và các tài liệu về giáo dục kỹ năng sống và các quy định về công tác quản lý.
- 7.2.3. Nghiên cứu lý luận về giáo dục toàn diện, giáo dục song hành
- Nghiên cứu thông qua: phân tích nội dung văn bản, tổng hợp lý thuyết, khái quát hóa,…
7.3. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.3.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
- Mục tiêu: tìm hiểu mức độ nhận thức về tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống và kỹ năng vận dụng nhận thức đó vào công tác quản lý hoạt động giáo dục.
- Đối tượng: Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, giáo viên, giáo viên chủ nhiệm, tổng phụ trách, học sinh và cha mẹ học sinh.
- Nội dung: Đưa ra phiếu tìm hiểu với hệ thống câu hỏi cho các đối tượng trả lời.
7.3.2. Phương pháp quan sát
- Mục tiêu: tìm hiểu thông tin của công tác quản lý giáo dục kỹ năng sống trong thực tế từ khâu chuẩn bị đến khâu tổ chức bằng phương pháp quan sát.
- Đối tượng: Tham dự và quan sát trực tiếp việc triển khai các kế hoạch họat động, kế họach chào cờ đầu tuần, …
- Nội dung: Việc quản lý tổ chức giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường. Nhận định về việc thể hiện kỹ năng sống ở học sinh trong và ngoài trường học.
7.3.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
- Mục tiêu: tìm hiểu thêm thông tin để nhận xét, đánh giá ưu điểm, nhược điểm của công tác quản lý giáo dục kỹ năng sống từ khâu chuẩn bị đến khâu tổ chức bằng phương pháp nghiên cứu sản phẩm.
- Đối tượng: kế hoạch họat động, kế họach chào cờ đầu tuần, giáo án họat động ngòai giờ lên lớp, biên bản sinh họat,…
- Nội dung: Nghiên cứu các nội dung liên quan đến việc quản lý tổ chức giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường.
8. Cấu trúc luận văn Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận, trong đó phần nội dung có 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS.
- Chương 2: Thực trạng công tác quản lý giáo dục kỹ năng sống của Hiệu trưởng các trường THCS trên địa bàn quận Gò Vấp, TP.HCM.
- Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh của Hiệu trưởng các trường THCS.
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG TẠI TRƯỜNG THCS
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1.Trên thế giới
Trên thế giới thuật ngữ “Kỹ năng sống” đã xuất hiện trong một số chương trình giáo dục của UNICEF từ những năm 90 của thế kỳ XX, trước tiên là chương trình “Giáo dục những giá trị sống” với 12 giá trị cơ bản cần giáo dục cho thế hệ trẻ. Những nghiên cứu trong giai đoạn này thống nhất một số quan niệm chung về KNS và hệ thống các kỹ năng cơ bản cần có cho thế hệ trẻ.
Bên cạnh đó, ngay từ những năm 60 của thế kỷ 20, tổ chức UNESCO đã vạch rõ ba thành tố của học vấn, đó là: kiến thức, kỹ năng và thái độ, trong đó thái độ và kỹ năng đóng vai trò then chốt. [53]
Theo những nghiên cứu của UNESCO về khái niệm KNS cho rằng “ kỹ năng sống là năng lực cá nhân giúp cho việc thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hằng ngày”. Đồng thời không thể không kể đến tổ chức WHO cũng nghiên cứu về KNS như một năng lực cá nhân với những tác động có chủ đích đặc sắc về phương pháp.
Giáo dục kỹ năng sống tại các nước phương Tây vận dụng một cách tổng hợp quan điểm của những tổ chức nghiên cứu như WHO, UNICEF để giáo dục KNS cho thế hệ trẻ. Đối với các nước gần với Việt Nam như khu vực Châu Á – Thái Bình Dương thì việc nghiên cứu KNS theo hướng áp dụng thử nghiệm hoặc theo hướng ứng dụng trong quá trình huấn luyện là chủ yếu. Các nước như Lào, Campuchia, Malaysia, Bangladesh, chương trình giáo dục KNS được đưa vào lĩnh vực giáo dục chính quy dưới dạng tích hợp vào các môn học cơ bản hay một môn riêng, còn một số nước khác thì tập trung vào lĩnh vực phi chính quy như Indonesia, Thái Lan, Philipine. Những nội dung giáo dục chủ yếu ở hầu hết các nước này là trang bị cho người trẻ tuổi những KNS cần thiết nhằm nâng cao tiềm năng của con người, để có hành vi thích ứng và tích cực đáp ứng nhu cầu, sự thay đổi và nâng cao chất lượng cuộc sống, mục đích chính là dạy – trang bị và hình thành .
Mặc dù, giáo dục KNS đã được nhiều nước trên thế giới quan tâm và cùng xuất phát từ quan niệm chung về kỹ năng sống của WHO hoặc UNESCO, nhưng quan niệm và nội dung giáo dục KNS ở các nước không giống nhau là do nó vừa thể hiện cái chung vừa mang tính đặc thù (những nét riêng) của từng quốc gia. Mặc khác, phần lớn các quốc gia đều mới bước đầu triển khai giáo dục KNS nên những nghiên cứu lý luận về vấn đề này tuy khá phong phú, song chưa thật toàn diện và sâu sắc. Cho đến nay, vẫn chưa có quốc gia nào đưa ra được kinh nghiệm hoặc hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng việc giáo dục KNS cho người học.
1.1.2. Ở Việt Nam Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Việt Nam, thuật ngữ giáo dục kỹ năng sống được du nhập vào cách đây khá lâu và qua nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng, vấn đề giáo dục con người toàn diện luôn được đặt ra nhưng trong thực tế triết lý và phương pháp giáo dục kỹ năng sống ít nhiều còn mới lạ đối với xã hội, nên chưa được sự quan tâm đúng mức.
Trước đây rải rác tại trung tâm hỗ trợ sinh viên TP. Hồ Chí Minh, một số trung tâm học tập cộng đồng địa phương, một số trường giáo dục trẻ khuyết tật,…có các chương trình giáo dục kỹ năng sống. Đến nay, vấn đề xây dựng môi trường học tập, trang bị đầy đủ kỹ năng sống cho thanh thiếu niên học sinh đã được các trường phổ thông quan tâm. Tuy nhiên, tính hiệu quả của công tác giáo dục kỹ năng sống trong các trường phổ thông hiện nay chưa cao. Đa số các bạn trẻ Việt Nam nhìn chung có kỹ năng sống chưa thể sánh bằng thanh thiếu niên tại các nước phát triển, trong khi yêu cầu của một xã hội ngày càng chuyên môn hóa cao như xã hội Việt Nam chúng ta hiện nay đòi hỏi thanh niên phải được trang bị tốt ở hai mảng kỹ năng, đó là kỹ năng chuyên môn và kỹ năng mềm mà có thể gọi chung là kỹ năng sống. [35]
Kể từ năm học 2008 – 2009, Bộ Giáo dục- Đào tạo nước ta đã phát động trong các trường phổ thông trên toàn quốc phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”nhằm mang lại cho học sinh cả nước một “môi trường giáo dục an toàn thân thiện, hiệu quả, phù hợp điều kiện địa phương và đáp ứng nhu cầu xã hội”. Hưởng ứng phong trào này, Trung tâm Giáo dục môi trường và các vấn đề xã hội đã phối hợp với Ban dự án Phát triển giáo dục THPT nhanh chóng xây dựng kế hoạch tổ chức hoạt động nhằm hỗ trợ triển khai đến cơ sở một số nội dung thiết thực. Một trong những hoạt động đó là chương trình Tập huấn giáo dục kỹ năng sống và bình đẳng giới tổ chức tại Hà Nội. Qua đợt tập huấn này, giáo viên biết cách hình thành cho học sinh các kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng đặt mục tiêu,…biết cách giúp các em hiểu kỹ hơn về giới và bình đẳng giới cùng các tri thức thiết yếu để hiểu biết bản thân, tự bảo vệ mình và hòa nhập cộng đồng. Đồng thời chính bản thân giáo viên cũng được củng cố và phát triển nhiều kỹ năng khác như hoạt động nhóm, xây dựng kế hoạch, xử lý tình huống, các cách giải quyết vấn đề,… mà các học sinh cần trang bị để tồn tại, đáp ứng được nhu cầu của cuộc sống và phát triển tốt trong xã hội có đầy biến động như hiện nay… Ở TP.Hồ Chí Minh, các trường THPT, THCS đã tiến hành lồng ghép việc giáo dục kỹ năng sống vào trong các tiết học bộ môn, các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp, các buổi sinh hoạt ngoại khóa. Bên cạnh đó, dần dần cũng có một số ít cá nhân giáo viên có hứng thú nghiên cứu, vận dụng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS một cách sáng tạo trong quá trình giảng dạy.. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Một trong những người đầu tiên có những nghiên cứu mang tính hệ thống về KNS và giáo dục KNS ở Việt Nam là tác giả Nguyễn Thanh Bình. Năm 2005, với đề tài “Giáo dục kỹ năng sống ở Việt Nam” do Nguyễn Thanh Bình làm trưởng nhóm nghiên cứu đã đưa ra những nội dung như là: quá trình nhận thức về KNS và tổng quan các chủ trương, chính sách, điều luật phản ánh yêu cầu tiếp cận KNS trong giáo dục và giáo dục KNS ở Việt Nam; thực trạng giáo dục KNS cho người học từ trẻ mầm non đến người lớn thông qua giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên ở Việt Nam; khái quát cách giáo dục KNS ở Việt Nam; đánh giá về giáo dục KNS ở Việt Nam và rút ra bài học kinh nghiệm. Đây có thể được coi là đề tài có giá trị về mặt lý luận giáo dục KNS tại Việt Nam[32]. Đồng thời, có thể đề cập đến quyển “Giáo trình giáo dục kỹ năng sống”(Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm Hà Nội) của Nguyễn Thanh Bình được ra đời sau khi tác giả tham gia dự án đào tạo giáo viên THCS. Giáo trình này đã tập trung phân tích những vấn đề đại cương về KNS, các nguyên tắc và phương pháp nhằm giáo dục KNS cho học sinh.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu thực trạng giáo dục kỹ năng sống cũng như thực trạng quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS cả nước nói chung và trên địa bàn quận Gò Vấp nói riêng từ trước đến nay vẫn còn lạ lẫm, chưa được các đơn vị trường học cũng như các lực lượng giáo dục quan tâm thực hiện một các có hệ thống..
1.2. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Quản lý
Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm quản lý, cụ thể như sau:
Từ điển Từ và ngữ Hán Việt của tác giả Nguyễn Lân(1989) có ghi: “Quản lý là phụ trách việc chăm nom và sắp đặt công việc trong một tổ chức” [16, tr.555].
Còn theo Nguyễn Ngọc Quang(1989), nhà sư phạm,người góp phần đổi mới lý luận dạy học, đã nêu về khái niệm quản lý trong tập bài giảng “Những khái niệm cơ bản về quản lý giáo dục” như sau: “Quản lý là sự tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động để đạt được mục tiêu dự kiến” [22, tr.130]
Trần Kiểm (1997), trong giáo trình “ Quản lý giáo dục và trường học” dùng cho học viên cao học chuyên ngành Giáo dục học đã viết: “ Quản lý là nhằm phối hợp nổ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tưụ của xã hội” [ 15, tr.15]
Và cũng chính Nguyễn Ngọc Quang (1989), trong tác phẩm của mình đã nêu: “Quản lý là những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tố chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định”.[22, tr.131]
Còn Nguyễn Bá Sơn (2000), trong tác phẩm “ Một số vấn đế cơ bản về khoa học quản lý” đã viết: “Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình lao động” [ 23, tr.15]. Như vậy, có thể nói: Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực( nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức( chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Tóm lại, quản lý là một khoa học vì nó nghiên cứu, phân tích về công việc quản lý, các quan hệ quản lý trong các tổ chức. Nó tổng quát hóa các kinh nghiêm tốt thành các nguyên tắc và lý thuyết áp dụng cho mọi hình thức quản lý tương tự. Nó cung cấp khái niệm cơ bản làm nền tảng cho việc nghiên cứu các môn học về quản lý. Để quản lý cho hiệu quả, nhà quản lý phải linh hoạt vận dụng các lý thuyết vào những tình huống cụ thể. Nó đòi hỏi sự khôn khéo tinh tế cao để đạt tới mục tiêu.Nghệ thuật này chủ yếu phải được học ngay trong thực tiễn.
1.2.2. Kỹ năng
- Trong Từ điển Từ và ngữ Hán Việt của tác giả Nguyễn Lân (1989) có ghi:
- “Kỹ năng là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn” [16, tr.390].
- Theo từ điển Giáo dục học: Kỹ năng là khả năng thực hiện đúng hành động, hoạt động phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành hành động ấy, cho dù đó là hành động cụ thể hay hành động trí tuệ [17,220].
- Như vậy, kỹ năng được hiểu là khả năng thực hiện những thao tác được hình thành và củng cố qua quá trình thực hành và trải nghiệm của bản thân. Kỹ năng chính là công cụ để gia tăng giá trị cho kiến thức bản thân.
1.2.3. Kỹ năng sống (life skills)
1.2.3.1. Khái niệm kỹ năng sống
Theo WHO (1993): Kỹ năng sống là năng lực tâm lý xã hội,là khả năng ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh. Năng lực tâm lý xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát huy sức khỏe theo nghĩa rộng nhất về thể chất, tinh thần và xã hội. Kỹ năng sống là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lý xã hội này [32].
Theo UNICEF (1995): Kỹ năng sống là khả năng phân tích tình huống và ứng xử, khả năng phân tích các ứng xử và khả năng tránh được các tình huống. Các kỹ năng sống nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức “cái chúng ta biết” và thái độ, giá trị “cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng” thành hành động thực tế “làm gì và làm cách nào” là tích cực nhất và mang tính chất xây dựng [32].
UNESO (2003) quan niệm: Kỹ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hằng ngày. Đó là khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp với tư cách ứng xử tích cực giúp con người có thể kiểm soát, quản lý có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hằng ngày [32].
Theo nhóm biên soạn tài liệu giáo dục kỹ năng sống của Vụ giáo dục thể chất mà chủ biên là Nguyễn Võ Kỳ Anh thì: “Kỹ năng sống là khả năng có được những hành vi thích nghi và tích cực, cho phép chúng ta xử trí một cách có hiệu quả các đòi hỏi và thử thách của cuộc sống thường ngày” ..[11, 3] Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Phân tích các quan niệm trên cho thấy: quan niệm của WHO nhấn mạnh đến khả năng của cá nhân có thể duy trì trạng thái tinh thần và biết thích nghi tích cực khi tương tác với người khác và với môi trường của mình. Quan niệm này mang tính khái quát nhưng chưa thể hiện rõ các kỹ năng cụ thể. Quan niệm của UNESCO là quan niệm rất chi tiết, cụ thể, có nhấn mạnh thêm kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ. Còn quan niệm của UNESCO nhấn mạnh rằng kỹ năng không hình thành, tồn tại một cách độc lập mà hình thành, tồn tại trong mối tương tác mật thiết có sự cân bằng với kiến thức và thái độ. Kỹ năng mà một con người có được phần lớn cũng nhờ có được kiến thức như là chúng ta muốn có kỹ năng thương lượng thì phải biết nội dung thương lượng. Việc đề cập thái độ cũng là một góc nhìn hữu ích vì thái độ có tác động mạnh mẽ đến kỹ năng, nếu ta luôn có thái độ kỳ thị thì sẽ không thực hiện tốt kỹ năng biết thể hiện sự tôn trọng với người khác.
Kỹ năng sống khuyến khích thái độ tích cực, phòng ngừa và giảm thiểu các hành vi nguy cơ. Nó giúp con người phát huy sức mạnh nội lực để có thể làm chủ được cuộc sống của mình và sống khỏe mạnh, hạnh phúc, có mục đích , có ý nghĩa.
Như vậy, có nhiều cách biểu đạt khái niệm kỹ năng sống với quan niệm rộng hẹp khác nhau tùy theo cách tiếp cận vấn đề. Trong đề tài này, tác giả dựa vào khái niệm của UNESCO để đưa ra khái niệm KNS vì theo tác giả khái niệm này phù hợp với việc nghiên cứu giáo dục KNS cho học sinh THCS trong nhà trường: “KNS là khả năng đáp ứng và đối phó với những nhu cầu, thách thức của cuộc sống hằng ngày của mỗi người, và là khả năng cần thiết đối với học sinh để các em có thể tự tin trong cuộc sống hàng ngày.”
1.2.3.2. Hệ thống kỹ năng sống
Theo quan niệm của tổ chức WHO, hệ thống các KNS cần được giáo dục cho người học gồm có:
- Nhóm kỹ năng nhận thức bao gồm những kỹ năng cơ bản: tự nhận thức bản thân, tự đặt mục tiêu và xác định giá trị, kỹ năng tư duy, kỹ năng sáng tạo, kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề.
- Nhóm kỹ năng liên quan đến cảm xúc bao gồm một số kỹ năng: kỹ năng nhận biết và chịu trách nhiệm về cảm xúc của mình, kỹ năng kiềm chế và kiểm soát được cảm xúc, kỹ năng tự giám sát – tự điều chỉnh cảm xúc của cá nhân.
- Nhóm kỹ năng xã hội gồm các kỹ năng như: kỹ năng giao tiếp – truyền thông, kỹ năng cảm thông, kỹ năng chia sẻ, kỹ năng hợp tác, kỹ năng gây thiện cảm, kỹ năng thích ứng cảm xúc của người khác.
Theo tổ chức UNESCO thì KNS phải được phân chia dựa trên những kỹ năng nền tảng cơ bản cũng như những kỹ năng chuyên biệt trong đời sống cá nhân của con người ở những mối quan hệ khác nhau cũng như ở những lĩnh vực khác nhau. Xuất phát từ đó, có thể có những nhóm kỹ năng sau: Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
- Nhóm kỹ năng chung gồm những nhóm kỹ năng cơ bản mà mỗi cá nhân đều có thể thích ứng với cuộc sống chung: kỹ năng nhận thức, kỹ năng liên quan đến cảm xúc và các kỹ năng cơ bản về xã hội.
- Nhóm kỹ năng chuyên biệt bao gồm một số KNS được thể hiện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như: các kỹ năng về sức khỏe và dinh dưỡng, các kỹ năng liên quan đến giới và giới tính, các kỹ năng về vấn đề xã hội như rượu, ma túy, thuốc lá, HIV/AIDS, các kỹ năng liên quan đến môi trường thiên nhiên, các kỹ năng liên quan đến vấn đề bạo lực – rủi ro, các kỹ năng liên quan đến cuộc sống gia đình, các kỹ năng liên quan đến môi trường cộng đồng.
Với mục đích giúp người học ứng phó với các vấn đề của cuộc sống và tự hoàn thiện mình, UNESCO phân loại KNS theo các mối quan hệ cá nhân với các nhóm KNS:
- Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với chính mình: Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân, kỹ năng xây dựng mục tiêu cuộc sống, lòng tự trọng, sự kiên định, đương đầu với cảm xúc, đương đầu với căng thẳng.
- Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với người khác: kỹ năng quan hệ/tương tác liên nhân cách, sự cảm thông, đứng vững trước áp lực tiêu cực của bạn bè hoặc của người khác, thương lượng giao tiếp có hiệu quả.
- Nhóm kỹ năng ra quyết định một cách hiệu quả: phân tích vấn đề, nhận thức thực tế, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, ứng xử, giải quyết vấn đề.
Tuy có sự khác biệt về quan niệm hệ thống KNS, nhưng các tổ chức UNESCO, WHO và UNICEF đã thống nhất mười KNS cơ bản, được xem như cần thiết nhất để giáo dục cho tất cả mọi người: kỹ năng ra quyết định, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng tư duy phê phán/suy nghĩ có phán đoán, kỹ năng truyền thông có hiệu quả, kỹ năng giao tiếp giữa người với người, kỹ năng tự nhận thức bản thân, khả năng thấu cảm, kỹ năng ứng phó với cảm xúc, kỹ năng ứng phó với stress.
Trên đây chỉ là một số trong các cách hệ thống các KNS, các cách này chỉ là tương đối vì trên thực tế các KNS không hoàn toàn tách rời nhau mà có liên quan chặt chẽ đến nhau như: khi cần ra quyết định một cách phù hợp thì phải sử dụng kỹ năng nhận thức, kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng xác định giá trị. Hoặc để có thể giao tiếp một cách có hiệu quả cần phối hợp kỹ năng nhận thức, kỹ năng thương lượng, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng cảm thông chia sẻ, kỹ năng kiềm chế, đương đầu với cảm xúc.
Việt Nam, dựa trên cơ sở phân tích kinh nghiệm của quốc tế và thực trạng giáo dục KNS trong nước những năm qua, vào năm 2010 với sự hỗ trợ của tổ chức UNICEF Bộ Giáo dục – Đào tạo đã ban hành tài liệu hướng dẫn tích hợp các KNS trong một số môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp. Tài liệu này đề xuất hệ thống KNS cho học sinh trong các nhà trường phổ thông gồm 21 kỹ năng cơ bản và cần thiết: kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng ứng phó với căng thẳng, kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, kỹ năng thể hiện sự tự tin, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lắng nghe tích cực, kỹ năng thể hiện sự cảm thông, kỹ năng thương lượng, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng kiên định, kỹ năng đảm nhận trách nhiệm, kỹ năng đặt mục tiêu, kỹ năng quản lí thời gian, kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin. Đồng thời, tài liệu này cũng nhấn mạnh các KNS cần được vận dụng linh hoạt tùy theo từng lứa tuổi, cấp học, môn học và điều kiện cụ thể như: đặc điểm vùng, miền, địa phương….
1.2.4. Giáo dục kỹ năng sống Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Giáo dục kỹ năng sống là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh nhằm giúp học sinh có những kiến thức về cuộc sống, có những thao tác, hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ xã hội, giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển đúng đắn đồng thời thích ứng tốt nhất với môi trường sống.Việc giáo dục những kỹ năng cuộc sống chính là sự bổ sung về kiến thức và năng lực cần thiết cho các cá nhân thanh thiếu niên học sinh để họ có thể hoạt động độc lập và giúp họ chủ động tránh được những khó khăn trong thực tế đời sống.
Đối với học sinh, nhất là học sinh bậc trung học cơ sở, giáo dục kỹ năng sống là môn học trang bị những tri thức giúp học sinh hình thành những kỹ năng sống cần thiết, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của con người với môi trường sống. Thông qua hoạt động Giáo dục kỹ năng sống sẽ trang bị thêm cho học sinh những kỹ năng tự chủ, kỹ năng từ chối, khả năng tự đưa ra quyết định và thích nghi, biết chấp nhận, hóa giải được những tác động tiêu cực trong cuộc sống chung quanh .
Theo tác giả Nguyễn Thị Oanh thì Giáo dục kỹ năng sống là hoạt động giúp người học có khả năng về tâm lý xã hội để phán đoán và ra quyết định tích cực, nghĩa là để “nói không với cái xấu: [25,4]. Nhưng giáo dục KNS cho trẻ không phải là đưa ra những lời giải đơn giản cho những câu hỏi thông thường mà giáo dục KNS phải nhằm hướng đến thay đổi hành vi.
Giáo dục KNS cho học sinh là giáo dục những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp các em có thể chuyển tải những gì mình đã biết (nhận thức), những gì mình cảm nhận (thái độ) và những gì mình quan tâm (giá trị) thành những khả năng thực thụ giúp học sinh biết làm gì và làm như thế nào (hành vi) trong những tình huống khác nhau của cuộc sống [24,59].
Công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh chỉ đạt được kết quả tốt khi nó có sự tác động đồng thời của các lực lượng giáo dục: Nhà trường, gia đình và các lực lượng xã hội.
Như vậy, giáo dục kỹ năng sống là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh nhằm giúp học sinh có những kiến thức về cuộc sống, có những thao tác, hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ xã hội như quan hệ của cá nhân với xã hội, của cá nhân với lao động, của cá nhân với mọi người chung quanh và của cá nhân với chính mình, giúp cho cá nhân mỗi học sinh được phát triển đúng đắn đồng thời thích ứng tốt với môi trường sống.
1.3. Cơ sở lý luận về giáo dục kỹ năng sống Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
1.3.1. Nhiệm vụ, vai trò và ý nghĩa của giáo dục kỹ năng sống
1.3.1.1. Nhiệm vụ của giáo dục kỹ năng sống
Xã hội hiện đại luôn đòi hỏi con người có những kỹ năng ứng phó trước những tình huống xảy ra trong cuộc sống nên việc rèn luyện cho học sinh các kỹ năng mềm là nhiệm vụ quan trọng của công tác giáo dục kỹ năng sống. Điều này giúp trang bị cho các em những kiến thức giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp; từ đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong cuộc sống; tạo cơ hội cho các em có khả năng xử lý mọi vấn đề xảy ra trong sinh hoạt hàng ngày.
1.3.1.2. Vai trò của giáo dục kỹ năng sống
KNS giữ vai trò rất quan trọng trong việc phát triển toàn diện cho mỗi con người nói chung và cho các em học sinh nói riêng, vì khoa học giáo dục ngày nay đã khẳng định mỗi cá nhân muốn tồn tại và phát triển trong một xã hội công nghiệp, hiện đại… thì phải học, học không chỉ để có kiến thức, học để biết (Learn to Know), học để hành ( Learn to Do) mà còn học để tự khẳng định (Learn to Be), học để cùng chung sống (Learn to Live together).
1.3.1.3. Ý nghĩa của giáo dục kỹ năng sống
Xã hội hiện đại có sự thay đổi toàn diện về nhiều lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa,… và lối sống với tốc độ nhanh đã làm nảy sinh những vấn đề mà trước đây con người chưa gặp, chưa trải nghiệm, chưa phải ứng phó, đương đầu. Hoặc có những vấn đề đã xuất hiện trước đây, nhưng nó chưa phức tạp, khó khăn và đầy thách thức trong xã hội hiện đại, nên con người dễ hành động theo cảm tính và không tránh khỏi rủi ro, nguy cơ, thách thức trong cuộc sống. Khi đó, KNS chính là hành trang giúp con người chuyển những điều đã biết đến để thay đổi hành vi, nhờ đó mà đạt được lối sống lành mạnh, đảm bảo chất lượng cuộc sống, KNS là một phần quan trọng trong nhân cách con người trong xã hội hiện đại.
KNS góp phần thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội, ngăn ngừa các vấn đề xã hội, sức khỏe và bảo vệ quyền con người. Các cá nhân thiếu KNS là một nguyên nhân làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội. Người có KNS sẽ thực hiện những hành vi mang tính xã hội tích cực, góp phần xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp và do vậy giảm bớt tệ nạn xã hội làm cho xã hội lành mạnh [14,16].
KNS là những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội cần thiết đối với thanh thiếu niên giúp họ có khả năng học tập tốt hơn, ứng xử một cách tự tin đồng thời là một phương sách để hoàn thiện bản thân mình trước mọi người. Đồng thời, KNS cũng giúp biến kiến thức thành những hành động cụ thể, những thói quen lành mạnh. Những người có KNS là những người biết làm cho mình và những người khác được hạnh phúc. Họ thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của họ.
1.3.2. Nội dung giáo dục KNS cho học sinh THCS Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Giáo dục kỹ năng sống ở bậc trung học cơ sở nhằm thực hiện mục tiêu sau: Chuyển dịch kiến thức (cái chúng ta biết), thái độ và giá trị (cái chúng ta nghĩ, cảm thấy hoặc tin tưởng) thành thao tác, hành động và thực hiện thuần thục các thao tác, hành động đó như khả năng thực tế (cái cần làm và cách thức làm nó) theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây dựng ..
Nôi dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường phổ thông tập trung vào các kỹ năng tâm lý – xã hội là những kỹ năng được vận dụng để tương tác với người khác và giải quyết có hiệu quả các vấn đề của cuộc sống. Việc hình thành các kỹ năng sống luôn gắn kết với việc hình thành các kỹ năng học tập và được vận dụng phù hợp với lứa tuổi, điều kiện sống,…
Theo giới hạn nghiên cứu đã trình bày ở trên, tác giả chỉ đi sâu phân tích nội dung của 14 kỹ năng tâm lý – xã hội cần thiết.
1.3.2.1. Kỹ năng tự nhận thức
Tự nhận thức là tự nhìn nhận, tự đánh giá về bản thân. Kỹ năng tự nhận thức là khả năng của con người hiểu về chính bản thân mình, như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân: biết nhìn nhận, đánh giá đúng về tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu… của bản thân; quan tâm và luôn ý thức được là mình đang làm gì, kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng.
Kỹ năng tự nhận thức là KNS rất cơ bản của con người, là nền tảng để con người giao tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác cũng như để có thể cảm thông được với người khác. Để tự nhận thức đúng đắn, học sinh cần phải được trải nghiệm qua thực tế, qua giao tiếp với người khác, và phải có sự hiểu biết rõ về bản sắc dân tộc và nền văn hóa của nơi mà các em được sinh ra.
1.3.2.2. Kỹ năng xác định giá trị
Giá trị là những gì con người cho là quan trọng, là có ý nghĩa đối với bản thân, có tác dụng định hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống. Giá trị có thể là những chuẩn mực đạo đức, chính kiến, thái độ và thậm chí là thành kiến. Giá trị cũng có thể là giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần, có thể thuộc các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, kinh tế… Giá trị chịu tác động của thời gian, kinh nghiệm sống, sự giáo dục của gia đình, môi trường xã hội mà người đó sống và làm việc.
Kỹ năng xác định giá trị là khả năng con người hiểu rõ được những giá trị bản thân, kỹ năng này có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình ra quyết định của mỗi người đồng thời giúp cho con người biết tôn trọng người khác, biết chấp nhận rằng người khác có những giá trị và niềm tin khác. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
1.3.2.3. Kỹ năng thể hiện sự tự tin
Tự tin là có niềm tin vào bản thân; tự hài lòng với bản thân; tin rằng mình có thể trở thành người có ích và tích cực, có niềm tin về tương lai, cảm thấy có nghị lực để hoàn thành các nhiệm vụ.
Kỹ năng thể hiện sự tự tin giúp cá nhân giao tiếp hiệu quả hơn, mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ và ý kiến của mình, quyết đoán trong việc ra quyết định và giải quyết vấn đề, thể hiện sự kiên định, đồng thời cũng giúp người đó có suy nghĩ tích cực và lạc quan trong cuộc sống. Kỹ năng giao tiếp là yếu tố cần thiết trong giao tiếp, thương lượng, ra quyết định và đảm nhận trách nhiệm.
1.3.2.4. Kỹ năng giao tiếp
Kỹ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ cơ thể một cách phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của người khác ngay cả khi bất đồng quan điểm. Kỹ năng này giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả; giúp mọi người có mối quan hệ tích cực với nhau; ngoài ra cũng giúp chúng ta kết thúc các mối quan hệ một cách xây dựng khi cần thiết. Kỹ năng giao tiếp giúp học sinh biết cách ứng xử phù hợp với mọi người xung quanh khi học tập và sinh hoạt trong tập thể.
1.3.2.5. Kỹ năng lắng nghe tích cực
Lắng nghe tích cực là một phần quan trọng của kỹ năng giao tiếp. Người có kỹ năng này biết thể hiện sự tập trung chú ý và thể hiện sự quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình bày của người khác, biết cho ý kiến phản hồi mà không vội vàng đánh giá, đồng thời đối đáp hợp lý trong quá trình giao tiếp.
Người có kỹ năng này luôn biết tôn trọng và quan tâm đến ý kiến của người khác nhờ đó họ hạn chế các bất đồng trong giao tiếp, việc thương lượng và hợp tác của họ đạt hiệu quả cao.
1.3.2.6. Kỹ năng thể hiện sự cảm thông
Thể hiện sự cảm thông là khả năng có thể đặt mình trong hoàn cảnh của người khác giúp ta hiểu và chấp nhận người khác, qua đó có thể hiểu được cảm xúc, tình cảm của người khác và cảm thông với hoàn cảnh hoặc nhu cầu của họ.
Kỹ năng này có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường hiệu quả giao tiếp và ứng xử, cải thiện mối quan hệ giao tiếp xã hội, đặc biệt trong bối cảnh xã hội đa văn hóa, đa sắc tộc. Kỹ năng thể hiện sự cảm thông giúp khuyến khích thái độ quan tâm và hành vi thân thiện, gần gũi với người cần giúp đỡ.
1.3.2.7. Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Mâu thuẫn là những xung đột, tranh cãi, bất đồng, bất bình với một hay nhiều người về một vấn đề nào đó. Mâu thuẫn trong cuộc sống rất đa dạng và thường bắt nguồn từ sự khác nhau về quan điểm, chính kiến, lối sống, tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa. Mâu thuẫn thường có ảnh hưởng tiêu cực tới các mối quan hệ. Mỗi người có cách giải quyết mâu thuẫn khác nhau tùy vào vốn hiểu biết, quan niệm, văn hóa và cách ứng xử cũng như khả năng phân tích tìm hiểu nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn.
Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn là khả năng con người nhận thức được những nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn và giải quyết nó một cách hòa bình. Yêu cầu trước hết của kỹ năng này là phải luôn kiềm chế cảm xúc, tránh bị kích động, nóng vội, bình tĩnh trước mọi tình huống trước khi tìm ra được cách giải quyết tốt nhất.
1.3.2.8. Kỹ năng hợp tác
Kỹ năng hợp tác là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm. Mỗi người đều có những điểm mạnh và hạn chế riêng, sự hợp tác trong công việc sẽ giúp hỗ trợ, bổ sung cho nhau tạo nên sức mạnh trí tuệ, tinh thần và thể chất vượt qua khó khăn, đem lại chất lượng và hiệu quả cao hơn cho công việc chung. Kỹ năng này còn giúp mỗi cá nhân sống hài hòa với người khác.
Kỹ năng hợp tác giúp học sinh có thể hỗ trợ, hoàn thiện cho nhau để hoàn thành tốt các hoạt động học tập và hoạt động khác trong nhà trường. Ngoài ra, kỹ năng hợp tác còn giúp các em biết cách làm việc cùng nhau trong nhiều môi trường khác nhau khi trưởng thành.
1.3.2.9. Kỹ năng tư duy sáng tạo
Tư duy sáng tạo giúp con người có khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề theo phương thức mới; là khả năng kết nối mối quan hệ giữa các khái niệm, ý tưởng; độc lập trong suy nghĩ.
Kỹ năng tư duy sáng tạo giúp con người tư duy năng động với nhiều sáng kiến và óc tưởng tượng; biết cách phán đoán và thích nghi, có tầm nhìn và khả năng suy nghĩ rộng, không bị bó hẹp vào kinh nghiệm trực tiếp đang trải qua.
Trong cuộc sống, chúng ta luôn bị đặt vào những hoàn cảnh bất ngờ hoặc ngẫu nhiên, do đó đòi hỏi mỗi người phải có tư duy sáng tạo để ứng phó một cách linh hoạt và phù hợp. Đối với học sinh THCS, hoạt động chủ đạo của các em là học tập, việc rèn luyện kỹ năng tư duy sẽ làm cho các em năng động, có tầm nhìn và suy nghĩ sâu, và có nhiều sáng kiến trong việc học giúp các em đạt hiệu quả cao trong học tập.
1.3.2.10. Kỹ năng ra quyết định Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Hàng ngày, mỗi người trong chúng ta đều phải đối mặt với những vấn đề cần giải quyết buộc chúng ta phải lựa chọn và ra quyết định
Kỹ năng ra quyết định là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn phương án tối ưu để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống một cách kịp thời, có hiệu quả đồng thời phải ý thức được những hậu quả trước khi ra quyết định từ sự lựa chọn của mình.
Kỹ năng ra quyết định giúp chúng ta tránh được những quyết định sai lầm hoặc chậm trễ gây ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của bản thân. Đây là một kỹ năng cần thiết cho cuộc sống của mỗi người vì ta không thể trông chờ, phụ thuộc vào người khác mặc dù có thể tham khảo ý kiến của những người tin cậy trước khi ra quyết định…
1.3.2.11. Kỹ năng kiên định
Kỹ năng kiên định là khả năng con người nhận thức được những gì mình muốn và lý do dẫn đến sự mong muốn đó, đồng thời kiên định còn là khả năng tiến hành các bước cần thiết để đạt được những gì mình mong muốn trong những hoàn cảnh cụ thể, dung hòa được giữa quyền, nhu cầu của mình với quyền, nhu cầu của người khác.
Kỹ năng kiên định sẽ giúp con người tự bảo vệ được chính kiến, quan điểm, thái độ và những quyết định của bản thân, đứng vững trước những áp lực tiêu cực của những người xung quanh và tránh được việc bị mất tự chủ, bị xúc phạm, mất lòng tin, việc luôn bị người khác điều khiển hoặc luôn cảm thấy tức giận và thất vọng.
1.3.2.12. Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm
Sự tự tin, chủ động và ý thức cùng chia sẻ công việc với các thành viên khác trong một tập thể là sự thể hiện khả năng đảm nhận trách nhiệm của con người. Khi đảm nhận trách nhiệm, cần dựa trên những điểm mạnh, tiềm năng của bản thân, đồng thời tìm kiếm thêm sự giúp đỡ cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ.
Học sinh THCS cần được rèn luyện và hình thành kỹ năng đảm nhận trách nhiệm. Kỹ năng này giúp cho các em tạo được một không khí hợp tác tích cực và xây dựng trong nhóm học tập, giúp giải quyết vấn đề, đạt mục tiêu chung của nhóm, đồng thời tạo sự thỏa mãn và dự tiến bộ trong mỗi thành viên, góp phần cho việc học tập của các em đạt hiệu quả cao hơn.
1.3.2.13. Kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin
Kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin là khả năng xác định chủ đề, loại thông tin cần tìm, từ đó lên kế hoạch, tiến hành tìm kiếm và phân tích, so sánh, tổng hợp các thông tin tìm được một cách hiệu quả.
Trong thời đại bùng nỗ thông tin, kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin là một kỹ năng sống quan trọng giúp con người có thể có được những thông tin cần thiết một cách đầy đủ, khách quan, chính xác và kịp thời.
1.3.2.14. Kỹ năng quản lý thời gian Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Kỹ năng quản lý thời gian là khả năng con người biết sắp xếp các công việc theo thứ tự ưu tiên, biết tập trung vào giải quyết công việc trọng tâm trong một thời gian nhất định, tránh được căng thẳng do áp lực công việc.
Đây là một kỹ năng quan trọng trong nhóm kỹ năng làm chủ bản thân. Quản lý tốt thời gian góp phần rất quan trọng vào thành công của bản thân và tập thể.
1.3.3. Những nguyên tắc tiến hành giáo dục KNS cho học sinh THCS
Tương tác: KNS không thể được hình thành chỉ qua việc nghe giảng và tự đọc tài liệu mà phải thông qua các hoạt động tương tác với người khác. Việc nghe giảng và tự đọc tài liệu chỉ giúp cho học sinh thay đổi nhận thức về một vấn đề nào đó. Nhiều KNS được hình thành trong quá trình học sinh tương tác với bạn cùng học và những người xung quanh (kỹ năng thương lượng, kỹ năng giải quyết vấn đề…) thông qua hoạt động học tập và các hoạt động xã hội trong nhà trường. Trong khi tham gia hoạt động có tính tương tác, học sinh có dịp thể hiện ý tưởng của mình, xem xét ý tưởng của người khác, được đánh giá và xem xét lại những kinh nghiệm sống của mình trước đây theo một cách nhìn nhận khác. Vì vậy, việc tổ chức các hoạt động có tính tương tác cao trong nhà trường tạo cơ hội quan trọng để giáo dục KNS hiệu quả.
Trải nghiệm: KNS chỉ được hình thành khi người học được trải nghiệm qua các tình huống thực tế. Học sinh chỉ có kỹ năng khi các em tự làm việc đó, chứ không chỉ nói về việc đó. Kinh nghiệm có được khi học sinh được hành động trong các tình huống đa dạng giúp các em dễ dàng sử dụng và điều chỉnh các kỹ năng phù hợp với điều kiện thực tế. Giáo viên cần thiết kế và tổ chức thực hiện các hoạt động trong và ngoài giờ học sao cho học sinh có cơ hội thể hiện ý tưởng cá nhân, tự trải nghiệm và biết phân tích kinh nghiệm sống của mình và người khác.
Tiến trình: Giáo dục KNS không thể hình thành trong “ngày một, ngày hai” mà đòi hỏi phải có cả quá trình: nhận thức – hình thành thái độ – thay đổi hành vi. Đây là một quá trình mà mỗi yếu tố có thể là khởi đầu của một chu trình mới. Do đó, nhà giáo dục có thể có tác động lên bất kỳ mắt xích nào trong chu trình trên: thay đổi thái độ dẫn đến mong muốn thay đổi nhận thức và hành vi hoặc hành vi thay đổi tạo nên sự thay đổi nhận thức và thái độ.
Thay đổi hành vi: Mục đích cao nhất của giáo dục KNS là giúp người học thay đổi hành vi theo hướng tích cực. Giáo dục KNS thúc đẩy người học thay đổi hay định hướng lại các giá trị, thái độ hành động của mình. Thay đổi hành vi thái độ và giá trị ở từng con người là một quá trình khó khăn, không đồng thời. Có thời điểm người học lại quay trở lại những thái độ, hành vi hoặc giá trị trước. Do đó, các nhà giáo cần kiên trì chờ đợi và tổ chức các hoạt động liên tục để học sinh duy trì hành vi mới và có thói quen mới; tạo động lực cho học sinh điều chỉnh hoặc thay đổi giá trị, thái độ và những hành vi trước đây, thích nghi hoặc chấp nhận các giá trị, thái độ và hành vi mới (giáo viên không nhất thiết phải luôn luôn tóm tắt bài dùm cho học sinh, mà cần tạo điều kiện cho học sinh tự tóm tắt những ghi nhận cho bản thân sau mỗi nội dung được học).
Thời gian – môi trường giáo dục: Giáo dục KNS cần thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc và thực hiện càng sớm càng tốt đối với trẻ em. Môi trường giáo dục được tổ chức nhằm tạo cơ hội cho học sinh áp dụng kiến thức và kỹ năng vào các tình huống “thực” trong cuộc sống. Giáo dục KNS được thực hiện trong gia đình, trong nhà trường và cộng đồng. Người tổ chức giáo dục KNS có thể là bố mẹ, là thầy cô, là bạn cùng học hay các thành viên cộng đồng. Trong nhà trường phổ thông, giáo dục KNS được thực hiện trên các giờ học, trong các hoạt động lao động, hoạt động đoàn thể – xã hội, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và các hoạt động khác.
1.3.4. Sự cần thiết cấp bách phải giáo dục kỹ năng sống Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
- Xét từ góc độ xã hội
Sự hình thành và phát triển KNS trở thành một yêu cầu quan trọng của nhân cách con người trong xã hội hiện nay. Hội nghị giáo dục thế giới họp tại Senegan (2000) đã thông qua kế hoạch hành động giáo dục cho mọi người gồm có 6 mục tiêu lớn trong đó mục tiêu thứ 3 đã vạch ra rằng “Đảm bảo nhu cầu học tập của tất cả các thế hệ trẻ và người lớn được đáp ứng thông qua bình đẳng tiếp cận với các chương trình học tập và chương trình KNS thích hợp”. [37]
Mục tiêu này đặt ra yêu cầu của quốc gia đảm bảo cho người học được tiếp cận những chương trình KNS phù hợp. Mục tiêu thứ 6 của chương trình cũng khẳng định: Nâng cao toàn bộ các mặt của chất lượng giáo dục và đảm bảo có thể nhận rõ và đo được những kết quả đó về các kỹ năng cơ bản của KNS.
UNESCO đã xác định những lĩnh vực cần được quan tâm đặc biệt về giáo dục KNS, bao gồm:
Liên quan đến việc làm: các chương trình giáo dục KNS trong giáo dục nghề nghiệp thường không tồn tại độc lập mà được tích hợp vào các chương trình dạy kỹ năng nghề nghiệp (chính quy hoặc không chính quy). Điều này cho phép thực hiện đồng thời 2 mục tiêu: một là để tăng cường cơ hội học tập, chuẩn bị cho cá nhân bước vào thế giới công việc bằng việc tạo cho họ đầu vào là các kỹ năng nghề nghiệp; hai là tăng cường tính hiệu quả và sự phù hợp của cá nhân với các kỹ năng nghề được đào tạo (có đáp ứng nhu cầu của thị trường không? Có đáp ứng đầy đủ mong muốn của cá nhân không? Có giúp nâng cao mức thu nhập của họ không? Có giảm những tổn thương/thiệt hại về kinh tế, xã hội của họ không?).
Liên quan đến sức khỏe, HIV/AIDS và lạm dụng ma túy: hội nghị Giáo dục thế giới đã nhận thức được nhu cầu cấp bách hiện nay là đấu tranh với đại dịch HIV/AIDS là 1 trong 15 nội dung của giáo dục vì sự phát triển bền vững. Một chương trình phòng tránh HIV tốt là nó có thể tạo ra sự thay đổi hành vi để làm giảm những nguy cơ của nhiễm HIV. Điều này càng đúng khi những chương trình này cung cấp các thông tin cơ bản và giúp thanh thiếu niên phát triển những kỹ năng sống cần thiết để đề ra quyết định và hành động theo những quyết định liên quan đến sức khỏe. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Liên quan đến xung đột và bạo lực: Giáo dục là trọng tâm của mọi chiến lược xây dựng hòa bình. Điều đó có nghĩa là thông qua giáo dục (chính quy và không chính quy) những cá nhân có được kiến thức, giá trị, thái độ và các kỹ năng sống cần thiết để xây dựng nền móng vững chắc cho lòng tôn trọng quyền con người, các nguyên tắc dân chủ và chống lại bạo lực, tội ác. Tiếp cận KNS tạo ra một mô hình mà mỗi người có thể phát triển các kỹ năng phân tích, tư duy phê phán, ra quyết định (học để biết): tự trọng, thiện chí, sáng tạo (học để tự khẳng định mình); giao tiếp sống với người khác, giải quyết xung đột, hợp tác và cam kết xã hội (học để chung sống với mọi người) giải quyết ổn thỏa đối với mọi việc khác nhau (học để làm).
- Xét từ góc độ giáo dục
KNS của người học được xác định là một biểu hiện của chất lượng giáo dục. Vì thế, trong mục tiêu 6 của kế hoạch hành động Dakar về giáo dục cho mọi người, KNS được coi là một khía cạnh của chất lượng giáo dục, đánh giá chất lượng giáo dục cần tính đến những tiêu chí đánh giá KNS cho người học. Tổ chức giáo dục KNS cho học sinh trong nhà trường, xét cho cùng là để nâng cao chất lượng giáo dục.
Giáo dục KNS là thực hiện quan điểm hướng vào người học, một mặt đáp ứng nhu cầu của người học có năng lực để đáp ứng những thách thức của cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân. Mặt khác, thực hiện giáo dục KNS thông qua những phương pháp hướng đến người học (lấy người học làm trung tâm) và phương pháp dạy học tương tác, cùng tham gia, đề cao vai trò tham gia chủ động, tự giác của người học và vai trò chủ đạo của người dạy sẽ có những tác động tích cực đối với những mối quan hệ người dạy và học, người học với người học. Đồng thời, người học cảm thấy họ được tham gia vào các vấn đề liên quan đến cuộc sống của bản thân, họ sẽ thích thú và học tập tích cực hơn.
Như vậy, giáo dục KNS cho người học, cụ thể là học sinh THCS đồng thời thể hiện tính khoa học và nhân văn của giáo dục.
- Xét từ góc độ văn hóa, chính trị
Giáo dục KNS giải quyết một cách tích cực nhu cầu và quyền con người, quyền công dân được ghi trong pháp luật Việt Nam và quốc tế. Giáo dục KNS giúp con người sống an toàn, lành mạnh và có chất lượng trong một xã hội hiện đại với văn hóa đa dạng và với nền kinh tế phát triển và thế giới được coi là mái nhà chung.
- Xét theo yêu cầu của sự phát triển bền vững
Trong số 15 nội dung cơ bản về giáo dục vì sự phát triển bền vững đã được UNESCO xác định thì có rất nhiều nội dung thống nhất với giáo dục KNS để giải quyết các vấn đề cụ thể như: quyền con người, hòa bình và an ninh, bình đẳng giới, đa dạng văn hóa và hiểu biết về giao lưu văn hóa, sức khỏe, HIV/AIDS, các nội dung về bảo vệ môi trường, giảm nghèo, tinh thần và trách nhiệm tập thể. Đồng thời hình thành được những KNS cốt lõi như kỹ năng đặt mục tiêu: kỹ năng xác định giá trị; kỹ năng ra quyết định, giải quyết vấn đề, kỹ năng kiên định giúp cho mỗi cá nhân có thể định hướng tới cuộc sống lành mạnh, phù hợp với các giá trị sống của xã hội, để có chất lượng cuộc sống và có những hành vi tích cực trong giải quyết các vấn đề của cuộc sống giúp thúc đẩy phát triển bền vững của cả cá nhân và của tập thể. Bên cạnh những kỹ năng sống sót cốt lõi trên, những kỹ năng sống chung như tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, thiện chí, suy nghĩ tích cực còn được áp dụng vào giải quyết các nội dung cụ thể để tạo sự phát triển bền vững. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
1.4. Quản lý hoạt động giáo dục KNS tại trường THCS
1.4.1. Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống là gì?
Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống là những tác động của người hiệu trưởng trong việc huy động các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của hoạt động giáo dục kỹ năng sống là góp phần hình thành một nhân cách toàn diện.
1.4.2. Chức năng quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống
Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống là một trong những chức năng quản lý của Hiệu trưởng trường THCS. Việc quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống có chức năng quản lý việc giáo dục hình thành ở học sinh một nhân cách toàn diện với những kỹ năng mềm cần thiết để các em có thể đối mặt và giải quyết hiệu quả những vấn đề khó khăn trong cuộc sống hàng ngày.
1.4.3. Quy trình quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống
Quy trình quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cũng như quy trình quản lý hoạt động giáo dục ở các lĩnh vực khác. Để quản lý tốt hoạt động giáo dục kỹ năng sống, người hiệu trưởng cần tuân thủ các bước cơ bản của một quy trình quản lý giáo dục, đó là: xây dựng kế hoạch – chuẩn bị điều kiện cơ sở vật chất và nguồn nhân lực – tổ chức thực hiện – kiểm tra đánh giá – rút kinh nghiệm, tuyên dương-phê bình. Thực hiện tốt quy trình quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống sẽ giúp cho người hiệu trưởng thực hiện tốt chức năng quản lý giáo dục.
1.4.4. Tổ chức thực hiện quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống
Công tác tổ chức thực hiện quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống là việc người hiệu trưởng cần làm khi triển khai hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường.
Người hiệu trưởng cần đảm bảo đầy đủ điều kiện về cơ sở vật chất để hoạt động giáo dục kỹ năng sống được diễn ra thuận lợi, ngoài ra việc giám sát kiểm tra để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp cũng sẽ góp phần tạo hiệu quả trong công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
1.4.5. Nội dung quản lý giáo dục kỹ năng sống ở trường THCS: Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
1.4.5.1.Vai trò của Hiệu trưởng trong quản lý hoạt động nhà trường
Hiệu trưởng là người đứng đầu đơn vị trường học có nhiệm vụ:
- Xây dựng, tổ chức bộ máy nhà trường;
- Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm học;
- Quản lý GV, nhân viên; quản lý chuyên môn; phân công công tác, kiểm tra, đánh giá xếp loại GV, nhân viên; thực hiện công tác khen thưởng, kỷ luật đối với giáo viên, nhân viên theo quy định của Nhà nước; quản lý hồ sơ tuyển dụng giáo viên, nhân viên;
- Quản lý HS và các hoạt động của HS do nhà trường tổ chức; xét duyệt kết quả đánh giá, xếp loại HS, ký xác nhận học bạ, ký xác nhận hoàn thành chương trình Tiểu học vào học bạ HS tiểu học (nếu có) của trường phổ thông có nhiều cấp học và quyết khen thưởng, kỷ luật học sinh theo quy định của bộ Giáo dục và Đào tạo;
- Quản lý tài chính, tài sản của nhà trường;
- Thực hiện các chế độ của Nhà nước đối với GV, nhân viên, HS; tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường; thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục của nhà trường.
- Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật;
- Chịu trách nhiệm trước cấp trên về toàn bộ các nhiệm vụ được quy định
Trong nhà trường phổ thông : “Hiệu trưởng quản lý mọi hoạt động của nhà trường theo chế độ thủ trưởng” (điều 4 theo điều lệ nhà trường phổ thông). “Hiệu trưởng là người phụ trách cao nhất ở nhà trường, chịu trách nhiệm trước Nhà nước, trước nhân dân, trước cấp trên trực tiếp quản lý mình về mọi hoạt đông giáo dục của nhà trường” (Điều 2, Quyết định số 243 – CP ngày 28/6/1979 của Hội đồng chính phủ về tổ chức bộ máy biên chế của nhà trường phổ thông).
1.4.5.2. Đặc điểm của học sinh THCS
Lứa tuổi học sinh trung học cơ sở từ lớp 6 đến lớp 9 (lứa tuổi thiếu niên) là giai đoạn phát triển của trẻ từ 11 đến 15, 16 tuổi. Lứa tuổi này có một vị trí đặc biệt và tầm quan trọng trong thời kỳ phát triển của trẻ em vì nó là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành và được phản ánh bằng các tên gọi khác nhau: “thời kỳ quá độ”, “tuổi khó bảo”, “tuổi bất trị”. Đây là lứa tuổi có bước phát triển nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần, các em đang tách dần khỏi thời thơ ấu để tiến sang giai đoạn phát triển cao hơn (người trưởng thành) tạo nên nội dung cơ bản và sự khác biệt cho mọi mặt phát triển, thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức… của thời kỳ này. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Ở lứa tuổi này có sự tồn tại song song “vừa tính trẻ con,vừa tính người lớn”, điều này phụ thuộc vào sự phát triển mạnh mẽ về cơ thể, sự phát dục, điều kiện sống và hoạt động… của các em. Mặt khác, ở những em cùng độ tuổi lại có sự khác biệt về mức độ phát triển các khía cạnh khác nhau của tính người lớn. Điều này do hoàn cảnh sống và các hoạt động khác nhau của các em tạo nên. Hoàn cảnh đó có cả hai mặt: mặt thứ nhất: những điểm yếu của hoàn cảnh kiềm hãm sự phát triển tính người lớn là trẻ chỉ bận tâm vào việc học tập, không có nghĩa vụ khác, nhiều bậc cha mẹ có xu thế không để cho trẻ hoạt động, làm những công việc khác nhau của gia đình, của xã hội; mặt thứ hai: những yếu tố của hoàn cảnh thúc đẩy sự phát triển tính người lớn đó là sự gia tăng về thể chất, về giáo dục, nhiều bậc cha mẹ quá bận, gia đình gặp khó khăn trong đời sống, đòi hỏi trẻ phải lao động nhiều để sinh sống. Điều đó đưa đến trẻ sớm có tính độc lập, tự chủ hơn.
Phương hướng phát triển tính người lớn ở lứa tuổi này có thể xảy ra theo các hướng như:
- Đối với một số em, tri thức sách vở làm cho các em hiểu biết nhiều, nhưng còn nhiều mặt khác nhau trong đời sống thì các em hiểu biết rất ít.
- Có những em ít quan tâm đến việc học ở nhà trường, mà chỉ quan tâm đến những vấn đề làm thế nào cho phù hợp với “mốt”, “thời thượng”. Các em coi trọng việc giao tiếp với người lớn, với bạn lớn tuổi để bàn bạc, trao đổi với họ về các vấn đề trong cuộc sống để tỏ ra mình cũng như người lớn.
- Ở một số em khác không biểu hiện tính người lớn ra bên ngoài, nhưng thực tế đang cố gắng rèn luyện mình có những đức tính của người lớn như dũng cảm, tự chủ, độc lập, e ấp, dịu dàng… không còn quan hệ với bạn khác phái như trẻ con.
Mặc khác, các yếu tố tri giác, trí nhớ, chú ý, tư duy, tưởng tượng và ngôn ngữ lứa tuổi này có nhiều thay đổi đáng kể. Tiêu biểu là sự biến đổi trong tư duy, với sự chuyển dần từ tư duy cụ thể sang tư duy trừu tượng, làm cho khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa, khả năng suy luận phát triển. Học sinh THCS thường muốn độc lập lĩnh hội tri thức theo quan điểm, lập luận riêng của mình và không dễ tin, dễ chấp nhận ý kiến người khác. Đồng thời, thích tìm hiểu những vấn đề phức tạp, khó khăn. Tuy nhiên, tư duy của các em cũng có một số hạn chế, như một em nắm bắt được dấu hiệu bề ngoài của khái niệm khoa học dễ hơn các dấu hiệu bản chất, các em hiểu dấu hiệu bản chất của khái niệm nhưng không phải lúc nào cũng phân biệt được các dấu hiệu đó,… Một số em, hoạt động nhận thức chưa trở thành hoạt động độc lập, sự kiên trì còn yếu.
Các em học sinh có thái độ khác nhau với từng môn học, tùy thuộc hứng thú, sở thích của bản thân, nội dung môn học và giáo viên giảng dạy. Hoạt động học tập lúc này cũng đa dạng hơn, nhiều hình thức sinh động hơn, các em thường thích những giờ học đa dạng phong phú. Tuy nhiên, hoạt động học tập của các em cũng gặp một số khó khăn như: yêu cầu khả năng tư duy trừu tượng, tư duy lý luận của các môn học; sự dậy thì làm cho tâm trạng của học sinh không ổn định, dễ mệt mỏi, chán nản; sự phân hóa trong học tập. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Sự hình thành và phát triển ý thức, tự ý thức là đặc điểm đặc trưng trong sự nghiệp phát triển nhân cách trong giai đoạn này. Sự biến đổi một cách mạnh mẽ của cơ thể và các mối quan hệ xã hội được mở rộng làm các em xuất hiện nhu cầu quan tâm đến nội tâm của mình, đến những phẩm chất riêng, xuất hiện nhu cầu tự đánh giá, so sánh mình với người khác. Nội tại quá trình phát triển ý thức, tự ý thức ở các em xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu tìm hiểu bản thân và kỹ năng chưa đầy đủ của các em trong việc phân tích tính đúng đắn hành vi bản thân. Do vậy, ở lứa tuổi này dễ nảy sinh xung đột từ mâu thuẫn giữa mức độ kỳ vọng của các em với địa vị thực tế của mình trong tập thể, mâu thuẫn giữa thái độ của các em đối với bản thân đang có sự hình thành phẩm chất nhân cách và thái độ của các em đối với người lớn và bạn bè cùng lứa tuổi.
Ý thức và tự ý thức của học sinh được hình thành bằng hai con đường. Thứ nhất là: lĩnh hội các yếu tố từ nền văn hóa, từ ý thức xã hội. Bằng các loại hình hoạt động đa dạng, bằng con đường giáo dục, học tập và giao tiếp xã hội, học sinh THCS lĩnh hội các giá trị xã hội, các chuẩn mực xã hội để hình thành ý thức, tự ý thức cá nhân. Thứ hai là tự giáo dục trong quá trình thực hiện các loại hình hoạt động trong cuộc sống giao tiếp.
Đặc điểm cảm xúc, tình cảm dễ nhận thấy nhất ở học sinh THCS là cường độ mạnh, theo hướng xung đột, quyết liệt (như phản ứng mạnh mẽ khi trong quan hệ với người khác không đạt được kết quả mong muốn). Trạng thái tâm lý nói chung chưa ổn định, thất thường, dễ vui, dễ buồn vô cớ, đôi khi còn mâu thuẫn. Những đặc điểm này mang tính chất tạm thời và sẽ qua đi theo sự trưởng thành của các em.
Tình cảm đạo đức, tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ đang phát triển, những rung cảm về sự cảm phá, phát hiện cái mới liên quan đến nhu cầu nhận thức được mở rộng vượt ra khỏi phạm vi của trường, quan niệm về cái đẹp phong phú và sâu sắc hơn trước. Xúc cảm giới tính là một loại cảm xúc mới lạ xuất hiện lần đầu tiên ở học sinh THCS, những cảm xúc ấy được thể hiện đa dạng và mãnh liệt đôi khi khiến các em bỡ ngỡ, lúng túng và mất tự chủ. Nhìn chung, đời sống xúc cảm, tình cảm của học sinh giai đoạn này rất phức tạp và đa dạng, có tính thất thường, bồng bột song nó là nền tảng quan trọng cho việc hình thành nhân cách toàn vẹn cho các em.
Thời kỳ thiếu niên quan trọng ở chỗ: những cơ sở, phương thức chung của sự hình thành quan điểm xã hội và đạo đức của nhân cách được hình thành, chúng sẽ được tiếp tục phát triển trong tuổi thanh niên. Hiểu rõ vị trí, ý nghĩa của giai đoạn phát triển tâm lý thiếu niên sẽ giúp được những người làm công tác giáo dục có cách giáo dục đúng đắn để giáo dục toàn diện cho các em.
1.4.5.3. Việc xây dựng chương trình kế hoạch Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Hiệu trưởng quản lý chỉ đạo công tác giáo dục kỹ năng sống thông qua công tác xây dựng kế hoạch giáo dục:
Việc xây dựng kế hoạch là một công đoạn không thể thiếu được trong quản lý bất kì một công tác nào của người hiệu trưởng. Có xây dựng kế hoạch, người hiệu trưởng mới xác định được mục tiêu sẽ đạt đến, các biện pháp thực hiện, thời gian tiến hành và hoàn thành, chỉ tiêu cần đạt,… Tránh trường hợp được chăng hay chớ, tới đâu hay tới đó.
Để việc xây dựng kế hoạch giáo dục được tốt, người hiệu trưởng phải dựa trên cơ sở tình hình cụ thể của học sinh, của đội ngũ giáo viên trường mình trong năm học, của địa phương mà trường đóng để định ra nội dung, yêu cầu, biện pháp cho thích hợp. Việc nắm tình hình thực tế đội ngũ giáo viên và học sinh, phải bao gồm tình hình có tính chất thường xuyên, lâu dài, phổ biến và tình hình có tính chất thời sự, tình hình cá biệt, có thể ảnh hưởng tiêu cực ít nhiều đối với tập thể học sinh trường
1.4.5.4. Nội dung
Hiệu trưởng quản lý chỉ đạo thực hiện mục tiêu giáo dục kỹ năng sống cho HS : Cũng như tất cả các hoạt động giáo dục khác, để thực hiện đạt hiệu quả công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, người hiệu trưởng phải quản lý chỉ đạo việc thực hiện mục tiêu của giáo dục kỹ năng sống, đó là: “Chuyển dịch kiến thức, thái độ và giá trị thành thao tác, hành động và thực hiện thuần thục các thao tác, hành động đó như khả năng thực tế theo xu hướng tích cực và mang tính chức xây dựng”. Muốn vậy, người hiệu trưởng phải đảm bảo việc chỉ đạo thực hiện một số nguyên tắc sau:
Giáo dục học sinh qua thực tiễn sinh động của xã hội: Nguyên tắc này đòi hỏi nhà trường phải gắn liền với đời sống thực tiễn của xã hội, của cả nước và địa phương, phải nhạy bén với tình hình chuyển biến của địa phương và cả nước, đưa những thực tiễn đó vào những giờ lên lớp, vào những hoạt động của nhà trường để giáo dục các em học sinh
Giáo dục theo nguyên tắc tập thể: Nguyên tắc này thể hiện ở cả 3 nội dung: Hướng dẫn, dìu dắt học sinh trong sinh hoạt tập thể; Giáo dục học sinh tinh thần vì tập thể. Bởi vì tập thể ở đây có vai trò làm nảy nở, khuyến khích các phẩm chất tốt đẹp như tinh thần tập thể, tính tổ chức kỹ luật, tình đồng chí và tình bạn, tinh thần hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau, tính khiêm tốn học hỏi mọi người,… nó phát huy và có tác dụng điều chỉnh những động cơ kích thích bên trong góp phần rất lớn vào việc giáo dục kỹ năng sống cũng như việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh.
Giáo dục kỹ năng sống phải phối hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh và đặc điểm hoàn cảnh cá nhân học sinh: Đối với học sinh trung học cơ sở, là lứa học sinh có đặc điểm quá độ, phức tạp và nhiều mâu thuẫn trong sự phát triễn tâm lý cũng như sinh lý lứa tuổi. Các em dễ vui, dễ buồn, dễ hăng say, dễ chán nản, muốn hiểu biết nhiều và làm nhiều việc lớn nhưng vì khả năng còn hạn chế nên dễ nảy sinh mâu thuẫn giữa ước mơ và năng lực. Do đó, công tác giáo dục kỹ năng sống cần phải chú ý những đặc điểm đó đồng thời chú ý đến cá tính, giới tính của các em để có hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục phong phú, sinh động cũng như có phương pháp giáo dục thích hợp. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Hiệu trưởng quản lý công tác giáo dục kỹ năng sống thông qua công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và quản lý tốt các hoạt động trường, lớp
Bằng nhiều hình thức và nhiều biện pháp, người hiệu trưởng cần làm cho tập thể sư phạm của nhà trường nhận thức được rằng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là công tác cấp thiết, cần tiến hành thường xuyên, liên tục, ở mọi lúc, mọi nơi, trong tất cả các hoạt động đều có thể và phải thực hiện yêu cầu này. Một giờ dạy trên lớp không chỉ đơn thuần là truyền thụ kiến thức khoa học cho học sinh mà còn là dịp để giáo viên rèn cho học sinh các thao tác, kỹ năng học tập, ứng xử, giáo dục cho các em những hành vi, cử chỉ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan đúng đắn,.. như: trong một giờ tập thể dục không chỉ yêu cầu học sinh biết kỹ thuật động tác mà còn yêu cầu các em phải rèn luyện được ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể, thao tác linh hoạt để rèn luyện phát triển thể chất tự bảo vệ bản thân tránh được bệnh tật… Với những bài dạy thuộc các môn khoa học xã hội có khả năng rất phong phú trong việc giáo dục những nhận thức chính trị đúng đắn, những tình cảm đạo đức tốt như: tình yêu quê hương đất nước, yêu lao động, lòng tự hào dân tộc, lòng căm ghét bọn cướp nước, bán nước, … “chuẩn bị cho các em một cuộc sống có trách nhiệm trong một xã hội tự do, với tinh thần hiểu biết, hóa bình, khả năng dung thứ, bình đẳng về giới tính, và hữu nghị, …” theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em rất phù hợp với mục tiêu giáo dục kỹ năng sống. Còn những bài học về các môn tự nhiên lại có khả năng giáo dục cho học sinh lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước, tác phong khoa học, tính chính xác, tính cần cù, kiên trì, nhẫn nại, lòng ham thích khoa học, chống mê tín dị đoan, … những kỹ năng tính toán, tư duy phân tích, phê phán, kỹ năng giải quyết vấn đề, …
Nói chung, nhiều bài giảng nếu được dạy tốt theo nghĩa đầy đủ là: đảm bảo tính chính xác khoa học, có hệ thống, có trọng tâm và dạy với cả lương tâm người thầy thì tự bản thân những giờ lên lớp đó đã mang tính giáo dục cao, đạt được hiệu quả ở cả ba thành tố của học vấn, đó là: kiến thức, kỹ năng và thái độ.
Tuy nhiên người hiệu trưởng cũng cần lưu ý giáo viên tránh lối giáo dục kỹ năng sống một cách đơn giản, lý thuyết sáo rỗng, gượng ép hoặc đơn điệu, … bởi sẽ kém hiệu quả, mất đi tác dụng giáo dục vì bản thân các kỹ năng sống là khả năng ứng xử theo những cách nhất định trong một môi trường cụ thể phù hợp với các giới hạn về kinh tế, xã hội và văn hóa mà người ta sống; giáo dục kỹ năng sống phải là hoạt động sinh động bổ sung cho các cá nhân thanh thiếu niên học sinh về kiến thức và năng lực cần thiết để họ có thể hoạt động độc lập và giúp họ chủ động tránh được những khó khăn trong thực tế đời sống.
Hiệu trưởng quản lý công tác giáo dục kĩ năng sống thông qua lao động, qua các hoạt động ngoại khóa, hoạt động giáo dục ngoài lên lớp, hoạt động đoàn thể, xã hội và sinh hoạt tập thể:
Hoạt động lao động, hoạt động học tập ngoại khóa, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động đoàn thể, xã hội và sinh hoạt tập thể, … là những hoạt động có nhiều thuận lợi để giáo dục, rèn luyện học sinh các kỹ năng sống trong thực tế, có tác dụng trực tiếp đến việc giáo dục tư tưởng, giáo dục nhận thức, thái độ cho học sinh. Thông qua những hoạt động này sẽ rèn luyện cho các em những thao tác, kỹ năng, thói quen, hành vi tốt.
1.4.5.5. Quy trình tổ chức Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Người hiệu trưởng phải có kế hoạch cụ thể, cân đối; phải quan tâm tổ chức tốt đối với các hoạt động này.
Hiệu trưởng tổ chức, xây dựng các lực lượng và điều kiện giáo dục trong và ngoài nhà trường để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh:
Một đặc điểm quan trọng của công tác giáo dục học sinh là giáo dục thông qua nêu gương có tính thuyết phục cao. Công tác giáo dục cho học sinh là công việc và trách nhiệm của mỗi giáo viên, của toàn bộ các thành viên trong nhà trường chứ không phải là của riêng giáo viên chủ nhiệm hay một vài giáo viên nào. Do đó, để làm tròn trách nhiệm này thì trước hết mỗi thầy cô giáo phải là người thể hiện tốt những mẫu mực về nhân cách, về các kỹ năng nhất là kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp ứng xử, …
Hiệu trưởng phải giúp cho giáo viên nhận thức rõ trách nhiệm nặng nề nhưng vẻ vang của mình là đào tạo con người, để giáo viên phải thương yêu học sinh thật sự, phải có ý thức trách nhiệm về mọi hành vi, ngôn ngữ, cử chỉ của mình đối với học sinh, bản thân thầy cô phải là tấm gương cho học sinh noi theo, phải tin tưởng, tôn trọng học sinh thì mới có thể giáo dục tốt được. Muốn vậy, người hiệu trưởng phải chú trọng công tác bồi dưỡng, phải tổ chức làm sao cho tập thể giáo viên trong trường gương mẫu về mọi mặt, đoàn kết nhất trí thành một khối thống nhất có tác dụng giáo dục mạnh mẽ đối với học sinh. Vì một trong những nguyên tắc giáo dục là: phải thống nhất mọi ảnh hưởng giáo dục ngay trong nhà trường, tránh tình trạng “ ông nói gà, bà nói vịt”, người quan tâm, kẻ thờ ơ …
Ngoài ra, người hiệu trưởng cũng cần phải lưu ý đến việc tạo những điều kiện phương tiện cần thiết để các em thực hiện những yêu cầu, những thao tác, kỹ năng do nhà trường đề ra cho các em, tránh việc nhà trường chỉ biết yêu cầu này đến yêu cầu khác mà không xây dựng, không tạo điều kiện, phương tiện để thực hiện những yêu cầu đó.
Hiệu trưởng chỉ đạo giáo viên chủ động phối hợp với gia đình và xã hội để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh:
Nhà trường cần phối hợp với Ban đại diện cha mẹ học sinh, các tổ chức đoàn thể xã hội và cá nhân nhằm: tạo mối quan hệ gắn kết giữa nhà trường, gia đình và xã hội để thống nhất quan điểm, nội dung, phương pháp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội; huy động mọi lực lượng của cộng đồng chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh, góp phần xây dựng cơ sở vật chất nhà trường. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Bên cạnh đó, nhà trường phải làm sao xứng đáng là trung tâm giáo dục của địa phương, phải làm sao để địa phương đồng tình ủng hộ, kết hợp với nhà trường nhằm mục đích chung là: giáo dục con em nên người.
Hiệu trưởng quản lý công tác giáo dục kỹ năng sống thông qua chỉ đạo xây dựng môi trường giáo dục tốt để giáo dục học sinh :
Một trong các yếu tố góp phần hết sức quan trọng trong việc giáo dục học sinh: cảnh quan sư phạm. “Làm sao để trường ra trường, lớp ra lớp” và tự nhà trường đúng nghĩa của nó đã mang yếu tố giáo dục.
Dù trong hoàn cảnh nào, hiệu trưởng cũng cần tổ chức, sắp xếp tu sửa, tô điểm bộ mặt vật chất, khung cảnh của nhà trường, làm sao cho toàn bộ khung cảnh của nhà trường toát lên ý nghĩa giáo dục đối với học sinh. Ngoài khung cảnh vật chất, hiệu trưởng cần tạo ra một bầu không khí giáo dục trong toàn trường và ở mỗi lớp học, hình thành nên một phong cách sinh hoạt của nhà trường, biểu hiện ở những nề nếp tốt như trật tự, vệ sinh, ngăn nắp, nghiêm túc. Có dư luận tập thể tốt, ủng hộ cái tốt, cái tiến bộ, phê phán cái sai, cái lạc hậu, có phong trào thi đua sôi nổi và đúng thực chất. Và có quan hệ tốt giữa các thành viên trong trường như giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học sinh với nhau.
Trong các mối quan hệ phải thật sự đúng mực, hài hòa; giáo viên thương yêu tôn trọng học sinh, không đánh đập, xỉ vả, mỉa mai, chế giễu, áp bức, dọa nạt, thiên vị hay thành kiến. Học sinh không hỗn xược, không khúm núm sợ sệt mà thật lòng yêu kính, tin tưởng thầy cô. Học sinh đối với nhau thì đoàn kết, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, không kèn cựa, so bì, thù hằn, bè cánh, không đánh, cãi nhau, không nói tục chửi bậy. Với một bầu không khí như vậy, sẽ có tác dụng hết sức tích cực đến việc hình thành các kỹ năng cần thiết trong học tập, trong các mối quan hệ, trong giao tiếp ứng xử và góp phần hình thành nên các phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho các em.
1.4.5.6. Kiểm tra đánh giá
Việc kiểm tra là phản ánh thực trạng tình hình, kết quả thực hiện hoạt động giáo dục kỹ năng sống sau khi người quản lý triển khai kế hoạch thực hiện, đối chiếu thực trạng đó với các văn bản liên quan; kết quả kiểm tra là cơ sở để thực hiện tiếp các nhiệm vụ đánh giá, tư vấn và thúc đẩy.
Đánh giá là xác định mức độ thực hiện các nhiệm vụ của hoạt động giáo dục kỹ năng sống theo đúng quy định, phù hợp với bối cảng địa phương và điều kiện thực tế nhà trường.
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc kiểm tra đánh giá
Công tác kiểm tra, đánh giá nhằm mục tiêu cải thiện chất lượng hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường. Thông qua hoạt động kiểm tra đánh giá, người hiệu trưởng kịp thời phát hiện và chấn chỉnh những sai lệch trong công tác giáo dục kỹ năng sống, từ đó có biện pháp tư vấn thúc đẩy để hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường đạt hiệu quả cao, góp phần hoàn thành mục tiêu giáo dục toàn diện. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Trong quá trình kiểm tra, đánh giá, người quản lý cần chú ý đến các yếu tố ảnh hưởng như bối cảnh địa phương, điều kiện thực tế nhà trường, năng lực đội ngũ, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động, công tác chỉ đạo và biện pháp thực hiện.
Tiểu kết chương 1
Ngày nay xã hội ngày càng phát triển, con người phải đối mặt với những thách thức, những rủi ro mà con người chưa từng trải qua. Việc trang bị cho mọi người những kiến thức cơ bản, cần thiết để giải quyết mọi tình huống của cuộc sống một cách tích cực và có hiệu quả là mục tiêu của việc giáo dục kỹ năng sống. Vấn đề giáo dục kỹ năng sống đã được chú trọng nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam trong những năm gần đây cũng đã được quan tâm đặc biệt nhằm tìm ra những giải pháp trang bị kỹ năng sống cho mọi người, nhất là đối với đối tượng học sinh THCS vì đây là lứa tuổi đang trong quá trình hình thành nhân cách với nhiều biến động phức tạp. Việc trang bị kỹ năng sống giúp các em có khả năng giải quyết những vấn đề xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, hạn chế những rủi ro, tồn tại và làm chủ cuộc sống của bản thân.
Trong nhà trường THCS, người hiệu trưởng có trách nhiệm tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua mọi hoạt động của nhà trường và thực hiện quy trình quản lý như triển khai thực hiện, kiểm tra đánh giá,….đúng quy định sao cho hoạt động giáo dục kỹ năng sống được thực hiện có hiệu quả thiết thực, góp phần vào quá trình giáo dục toàn diện con người trong xã hội hiện đại. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Thực trạng QL giáo dục kỹ năng sống cho học sinh

Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com
Pingback: Luận văn: Giải pháp quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh