Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh các trường phổ thông dân tộc bán trú THCS huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia, là vấn đề tồn tại hay không tồn tại của từng dân tộc. Giá trị văn hóa dân tộc, giá trị truyền thống của các dân tộc là những vấn đề cốt lõi, nền tảng nhất để làm nên nét riêng của mỗi dân tộc, tạo nên sự khác biệt giữa các dân tộc. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (tháng 01/2016) Đảng ta nhấn mạnh quan điểm, khẳng định đường lối phát triển văn hóa trong sự nghiệp xây dựng xã hội phát triển bền vững ở Việt Nam, rất cụ thể: “Xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Khẳng định vai trò của văn hóa trong tiến trình lịch sử dân tộc, tương lai đất nước: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội” với mục đích “Làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp”.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 05/NĐ-CP ngày 14/01/2011 về công tác dân tộc, trong đó khẳng định: “Đảm bảo việc giữ gìn tiếng nói, chữ viết, bản sắc dân tộc, phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc”. Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, đề cập đến chính sách phát triển giáo dục và đào tạo đối với các dân tộc thiểu số, nghị định đã ghi: “Tiếng nói, chữ viết và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc được đưa vào chương trình giảng dạy trong các trường phổ thông, trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng, trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học phù hợp với địa bàn vùng dân tộc”. Về chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa, nghị định cũng đã nhấn mạnh: “Hỗ trợ việc giữ gìn và phát triển chữ viết của các dân tộc có chữ viết. Các dân tộc thiểu số có trách nhiệm gìn giữ văn hóa truyền thống tốt đẹp, tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình phù hợp với quy định của pháp luật”. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Hà Giang là một tỉnh miền núi biên giới cực Bắc của Tổ Quốc, là tỉnh có nhiều di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh, trong đó có trên 50 di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia, cấp tỉnh. Đây chính là những nét văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, tạo nên nét đặc trưng riêng của mỗi vùng miền, do vậy công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc là một trong những việc làm cần thiết trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

Ở trường PTDT bán trú THCS huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang có nhiệm vụ đặc biệt là giảng dạy chương trình phổ thông cho con em học sinh các dân tộc trong huyện, đào tạo nguồn nhân lực. Bên cạnh các nội dung giáo dục khác, nhà trường luôn quan tâm đến công tác giáo dục giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc cho học sinh, đây là một vấn đề quan trọng góp phần không nhỏ vào sự thành công trong sự nghiệp giáo dục chung của các nhà trường.

Tại trường PTDT bán trú THCS mà tác giả tập trung nghiên cứu đề tài, học sinh có điều kiện tiếp xúc với nhiều luồng văn hóa từ xã hội cả tích cực và tiêu cực, nhiều loại văn hóa có sức lôi cuốn mạnh mẽ với giới trẻ nói chung và học sinh nói riêng, đặc biệt là học sinh dân tộc ở vùng sâu, vùng xa ra đến trường học tập. Nhiều học sinh tự ti về truyền thống văn hóa của dân tộc mình như việc ngại sử dụng trang phục dân tộc mình, thích trang phục theo mốt hiện đại. Học sinh có tư tưởng “ra phố xá” nên các văn hóa truyền thống bị coi là “quê mùa”. Với những lí do trên sẽ làm cho một bộ phận học sinh dân tộc không còn yêu thích và quý trọng truyền thống văn hóa của dân tộc mình, thậm chí muốn rũ bỏ để tiếp cận văn hóa hiện đại. Bên cạnh đó, mục tiêu và nhiệm vụ chính trị của nhà trường là “đào tạo nguồn nhân lực và nguồn cán bộ cho địa phương” nên ngoài việc đào tạo kiến thức văn hóa còn cần giáo dục giá trị văn hóa, trong đó khơi gợi lòng tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc là yêu tố quan trọng giúp các em phát triển tình yêu đối với quê hương. Giá trị văn hóa dân tộc là một điều kiện thuận lợi cho học sinh công tác, lao động sản xuất sau này khi các em đã trưởng thành.

Do đó, ngoài nhiệm vụ tăng cường chất lượng trong giảng dạy thì một vấn đề đặt ra đối với đội ngũ giáo viên của các trường là giúp các em luôn biết giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc mình. Tuy nhiên, việc giáo dục bảo tồn giá trị văn hoá trong trường PTDT bán trú THCS huyện Quản Bạ hiện nay còn thiếu tính hệ thống, chưa thực sự được chú trọng, chưa phù hợp thực tế ở địa phương và chưa đáp ứng yêu cầu của Đảng và Nhà nước.

Ngày 07/4/2016 Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang đã ban hành Quyết định số 597/QĐ-UBND về việc ban hành Đề án “Giáo dục kĩ năng sống và văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số cho học sinh phổ thông trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2016-2020”. Do đó, ngoài nhiệm vụ tăng cường chất lượng trong giảng dạy thì một vấn đề đặt ra đối với đội ngũ giáo viên của trường là giúp các em luôn biết giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh các trường phổ thông dân tộc bán trú THCS huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sỹ quản lý giáo dục của mình.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Nhận Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục

2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và khảo sát thực trạng quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa, đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh trường phổ thông dân tộc bán trú THCS huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang để góp phần nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

  • Khách thể nghiên cứu Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh trường phổ thông dân tộc bán trú THCS.

  • Đối tượng nghiên cứu

Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh trường phổ thông dân tộc bán trú THCS huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang.

 4. Giả thuyết khoa học

Công tác quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh trường PTDT bán trú THCS huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang có hạn chế về nội dung, hình thức tổ chức. Nếu khảo sát đánh giá được những tồn tại, hạn chế về nội dung, hình thức tổ chức giáo dục BSVH cho học sinh trường PTDT bán trú THCS huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang sẽ đề xuất những biện pháp quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh đạt hiệu quả cao, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục cũng như thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong giai đoạn hội nhập hiện nay.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

  • 5.1. Xây dựng cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh trường phổ thông dân tộc bán trú THCS
  • 5.2. Khảo sát thực trạng quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh các trường phổ thông dân tộc bán trú THCS huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang
  • 5.3. Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh các trường phổ thông dân tộc bán trú THCS huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang

6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

6.1 Giới hạn về phạm vi nghiên cứu

Đề tài chỉ tập chung nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc cho học sinh các trường PTDT bán trú THCS huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang.

6.2. Giới hạn về khách thể nghiên cứu Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Lãnh đạo, chuyên viên Phòng GD&ĐT huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang. Khảo sát trên 24 Cán bộ quản lý, 150 giáo viên, 200 học sinh (từ lớp 6 đến lớp 9) tại 08 trường PTDT bán trú THCS gồm: Trường PTDT bán trú THCS Nghĩa Thuận, Trường PTDT bán trú THCS Lùng Tám, Trường PTDT bán trú THCS Bát Đại Sơn, Trường PTDT bán trú THCS Quản Bạ; Trường PTDT bán trú THCS Thái An, Trường PTDT bán trú THCS Quyết Tiến, Trường PTDT bán trú THCS Cao Mã Pờ, Trường PTDT bán trú THCS Tả Ván.

Nghiên cứu đề tài được thực hiện từ: 15/11/2019 đến 20/9/2020.

7. Phương pháp nghiên cứu

7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

Nghiên cứu, phân tích, so sách, tổng hợp, hệ thống hóa tài liệu như: sách, tạp chí, sách chuyên khảo, giáo trình và các tài liệu khác về chuyên môn liên quan đến nội dung đề tài, các văn bản quản lý có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài luận văn.

7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi ý kiến

Xây dựng hệ thống câu hỏi điều tra để thu thập thông tin nhằm tìm hiểu thực trạng quản lý hoạt động dạy học, phân tích các nguyên nhân thành công và hạn chế của các biện pháp đang thực hiện.

7.2.2. Phương pháp quan sát và khảo sát thực tế

Quan sát hoạt động ngoại khóa và giảng dạy chính khóa của đội ngũ giáo viên trong các nhà trường thông qua việc dự giờ của giáo viên, hoạt động ngoại khóa của các tổ trưởng chuyên môn và các tổ chức đoàn thể, cùng giáo viên phân tích giờ dạy, thông qua các hoạt động ngoại khóa của nhà trường.

7.2.3. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia, trao đổi, tọa đàm

Tham khảo ý kiến của lãnh đạo, chuyên viên Phòng Giáo dục và Đào tạo, các đồng chí Hiệu trưởng, giáo viên giảng dạy lâu năm, các nhà quản lý… để có thêm thông tin tin cậy đảm bảo tính khách quan cho các kết quả nghiên cứu.

7.3. Nhóm phương pháp xử lý thông tin

Sử dụng toán thống kê để xử lý số liệu đã thu thập được của nghiên cứu thực tiễn trong đề tài luận văn.

8. Cấu trúc của luận văn Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, Tài liệu tham khảo và Phụ lục phần nội dung luận văn gồm 3 chương:

  • Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh trường phổ thông dân tộc bán trú THCS.
  • Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh các trường phổ thông dân tộc bán trú THCS huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang.
  • Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh các trường phổ thông dân tộc bán trú THCS huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang.

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC BẢN SẮC VĂN HÓA CHO HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC BÁN TRÚ TRUNG HỌC CƠ SỞ

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới

Theo Nich Gi-oa-kin, thì: “Bản sắc văn hóa không phải là quá trình qua đó người ta tồn tại mà quá trình qua đó mà người ta trở thành”; Theo A.T. Mugi, cho rằng: “Bản sắc văn hóa không thể được xem xét như một sự co lại và đóng cụ lại của những giá trị bất biến”; Còn theo cách tiếp cận của tác giả Liu Zhongmin ở hai tầng diện tâm lý và hành vi “Bản sắc văn hóa” mà Trần Ngọc Thêm đã khái quát lại: Sự đa dạng về văn hóa là một hiện tượng phổ biến cũng là quy luật phát triển của mỗi quốc gia. Ông Lý Quang Diệu cho rằng: “Trong vấn đề văn hóa và phát triển thì việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc vẫn là vấn đề lớn của thế giới đặc biệt là các nước châu Á. Nếu quốc gia nào không duy trì được bản sắc của mình thì nước đó sẽ đánh mất khả năng tồn tại của mình” [12].

Trong các tác phẩm các cấu hình của sự phát triển văn hóa, Phong cách và các nền văn minh, Văn hóa và con người,… các nhà nghiên cứu Alfred Kroeber và Clark Wissler, đã nghiên cứu về quá trình lan truyền của một hay nhiều đặc trưng văn hóa từ khu vực địa lý này sang khu vực địa lý khác. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng: Có sự khác biệt đáng kể giữa về văn hóa dân tộc các vùng địa lý khác nhau trên thế giới; sự lan truyền giữa các vùng địa lý lân cận mà ở trong một khu vực địa lý nhất định. Trong các quan sát này, sự nổi lên của một trung tâm văn hóa (có sự phát triển rực rỡ) có ảnh hưởng và lan tỏa rất rõ ràng ra các vùng lân cận. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Qua thống kê từ các nghiên cứu của lý thuyết truyền bá văn hóa, các thuật ngữ “Vùng văn hóa”, “Khu vực trung tâm”, “Khu vực ngoại vi”… được xác lập và giúp cho các nhà nghiên cứu về văn hóa vùng, cách thức truyền bá văn hóa. Song song với các nghiên cứu về nền/vùng văn hóa, các nhà nghiên cứu văn hóa.

Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), họp ngày 17/10/2003 đã thông qua Công ước về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể tại phiên họp lần thứ 32 diễn ra từ 29/9 đến 17/10/2003 tại Thủ đô Paris (Cộng hòa Pháp). Công ước gồm 8 chương, 40 điều, nhằm bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể; đảm bảo sự tôn trọng đối với di sản văn hóa phi vật thể của các cộng đồng, các nhóm người và các cá nhân có liên quan; nâng cao nhận thức ở cấp địa phương, quốc gia và quốc tế về tầm quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể, để từ đó đảm bảo sự tôn trọng lẫn nhau trong lĩnh vực này; tạo ra sự hợp tác và hỗ trợ quốc tế.

Di sản văn hóa phi vật thể, theo định nghĩa của Công ước, là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là cá nhân, công nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật thể được cộng đồng và các nhóm người không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người. Vì những mục đích của Công ước này, chỉ xét đến những di sản văn hóa phi vật thể phù hợp với các văn kiện quốc tế hiện hành về quyền con người, cũng như những yêu cầu về sự tôn trọng lẫn nhau giữa các cộng đồng, các nhóm người và cá nhân và về phát triển bền vững.

Về di sản văn hóa phi vật thể là văn hóa dân tộc đặc sắc của nhân loại được thể hiện ở những hình thức sau: Các truyền thống và biểu đạt truyền khẩu, trong đó ngôn ngữ là phương tiện của di sản văn hóa phi vật thể; Nghệ thuật trình diễn; Tập quán xã hội, tín ngưỡng và các lễ hội; Tri thức và tập quán liên quan đến tự nhiên và vũ trụ; Nghề thủ công truyền thống.

Sự ra đời của công ước nhằm bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể là các biện pháp có mục tiêu đảm bảo khả năng tồn tại của di sản văn hóa phi vật thể, bao gồm việc nhận diện, tư liệu hoá, nghiên cứu, bảo tồn, bảo vệ, phát huy, củng cố, chuyển giao, đặc biệt là thông qua hình thức giáo dục chính thức hoặc phi chính thức cũng như việc phục hồi các phương diện khác nhau của loại hình di sản này. Các quốc gia thành viên của Công ước Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể là các quốc gia chịu sự ràng buộc của Công ước Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

U.S.News & World Report là cơ quan truyền thông Mỹ có kinh nghiệm hoạt động 85 năm với nhiều uy tín. Các đánh giá của đơn vị này là kim chỉ nam cho nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa và du lịch. Khảo sát này được tiến hành ở 80 quốc gia và đánh giá điểm dựa trên 7 tiêu chí: Uy tín, giải trí mang ý nghĩa văn hóa, thời trang, tạo xu hướng, hiện đại, hạnh phúc và tác động văn hóa.

Cơ quan truyền thông U.S. News & World Report đã có bảo cáo công bố 10 quốc gia có nền văn hóa ảnh hưởng lớn trên thế giới. Trong bảng xếp hạng 10 đất nước có nền văn hóa ảnh hưởng toàn thế giới thì Ý đứng đầu bảng. Mỗi năm, quốc gia này thu hút khoảng 40 triệu lượt du khách đến tham quan, trải nghiệm ẩm thực, thời trang và nền văn hóa lâu đời của Ý. Thang điểm 10 là tuyệt đối cho Ý.

Ở vị trí số 2 là nước Pháp với số điểm đánh giá là 9,4. Đất nước có tầm ảnh hưởng đến thế giới trong quá khứ và hiện tại và được xem là tốp những đất nước phải đến trong trải nghiệm du lịch. Lần lượt các quốc gia khác là Mỹ, Tây Ban Nha, Anh, Nhật, Thụy Sĩ, Brazil, Úc và Thụy Điển…

1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam

Việt Nam có một nền văn hóa phong phú và đa dạng trên tất cả các khía cạnh, người Việt cùng cộng đồng 54 dân tộc có những phong tục đúng đắn, tốt đẹp từ lâu đời, có những lễ hội nhiều ý nghĩa sinh hoạt cộng đồng, những niềm tin bền vững trong tín ngưỡng, sự khoan dung trong tư tưởng giáo lý khác nhau của tôn giáo, tính cặn kẽ và ẩn dụ trong giao tiếp truyền đạt của ngôn ngữ, từ truyền thống đến hiện đại của văn học, nghệ thuật. Sự khác biệt về cấu trúc địa hình, khí hậu và phân bố dân tộc, dân cư đã tạo ra những vùng văn hoá có những nét đặc trưng riêng tại Việt Nam, với một lịch sử có từ hàng nghìn năm của người Việt cùng với những hội tụ về sau của các dân tộc khác, từ văn hóa bản địa của người Việt cổ từ thời Hồng Bàng đến những ảnh hưởng từ bên ngoài trong hàng nghìn năm nay. Với những ảnh hưởng từ xa xưa của Trung Quốc và Đông Nam Á đến những ảnh hưởng của Pháp từ thế kỷ 19, phương Tây trong thế kỷ 20 và toàn cầu hóa từ thế kỷ 21. Việt Nam đã có những thay đổi về văn hóa theo các thời kỳ lịch sử, có những khía cạnh mất đi nhưng cũng có những khía cạnh văn hóa khác bổ sung vào nền văn hóa Việt Nam hiện đại. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Trong thế kỷ 19, các nghiên cứu về văn hóa dân tộc Việt Nam đã được các đô hộ sử dụng như một công cụ cai trị người dân. Thời kỳ này có các trường học nhưng với mục đích giáo dục đào tạo phục vụ xâm lược và cai trị, vì thế giáo dục bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số nói riêng trong trường học là chính sách nô dịch văn hóa bản địa của thực dân Pháp. Cũng chính vì vậy các công trình nghiên cứu về văn hóa, bản sắc dân tộc Việt Nam giai đoạn này là công cụ của thực dân phong kiến cai trị đất nước ta. Tuy nhiên cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, khi phong trào cách mạng giải phóng dân tộc lên cao, văn hóa Việt Nam được các học giả, nhà văn, nhà khoa học nghiên cứu và đã có các công trình được viết ra theo hướng “Lịch sử văn hóa” mang tính chất miêu tả rất công phu, tỷ mỉ như Lê Qúy Đôn, Phan Kế Bính, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, L.Cadière, P.Huard và M.Durand, Toan Ánh, Lê Văn Siêu,… Bên cạnh giá trị tư liệu hết sức quý báu, các công trình này còn có một số nhược điểm như: tản mạn, thiếu tính hệ thống, tính quy luật; còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn nội tại; thường bị chi phối một cách vô thức bởi căn bệnh “Lấy Trung Hoa làm trung tâm”. Chỉ có một số ít tác giả đã ít nhiều thoát ra khỏi tình trạng trên như Kim Định,Trần Quốc Vượng, Phan Ngọc [27].

Chủ nghĩa Mác-Lênin được Nguyễn Ái Quốc truyền bá về Việt Nam không chỉ là phương thức đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc mà còn kết hợp đúng đắn, hài hòa giữa cách mạng và văn hóa và đây cũng chính là điểm mấu chốt để chủ nghĩa Mác-Lênin thành công trong công cuộc giải phóng dân tộc các nước thuộc địa. Bác Hồ đã nhiều lần nhấn mạnh việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam chỉ rõ mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt Nam cần phải đạt được trong lĩnh vực văn hóa là “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc, đồng thời phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thu những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính dân tộc, khoa học đại chúng”. Chủ trương trên cho thấy ngày từ ngày đầu đảng ta đã quan tâm đúng đắn tới văn hóa, bản sắc dân tộc, giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam [24].

Trong những năm gần đây, nhiều công trình khoa học về lĩnh vực văn hóa được công bố góp phần không nhỏ làm sáng tỏ, nổi bật giá trị văn hóa dân tộc trên nhiều lĩnh vực phải kể đến thứ nhất là công trình “Việt Nam – cái nhìn địa – văn hoá”, Trên mảnh đất ngàn năm văn vật, Văn hoá Việt Nam – tìm tòi và suy ngẫm, đây là 3 công trình của Trần Quốc Vượng. Các công trình này đã khai mở các lí thuyết nghiên cứu văn hoá và phương pháp tiếp cận liên ngành giữa lịch sử-địa lý và văn hóa trong nghiên cứu văn hoá Việt Nam [42].

Thứ hai là cuốn sách “Thăng Long – Hà Nội thế kỷ XVII-XVIII-XIX” Nguyễn Thừa Hỷ. Đây là cuốn sách có giá trị khoa học lớn được phát triển từ luận án tiến sĩ của tác giả, cuốn sách đã được dịch sang tiếng Anh, xuất bản năm 2002. Giá trị nổi bật của công trình là đã đưa ra một hướng tiếp cận mới về đô thị Việt Nam truyền thống dựa trên kết cấu kinh tế – xã hội, cung cấp những nguồn tư liệu gốc đương thời, đặc biệt là các tư liệu bằng tiếng nước ngoài, được xử lí một cách khoa học, giúp các nhà nghiên cứu tiếp tục đi sâu và mở rộng vấn đề. Công trình khuyến khích phương pháp nghiên cứu cấu trúc hệ thống, liên ngành, chú trọng đến tính khách quan, phức hợp và toàn diện của lịch sử. Công trình cũng gợi mở, khuyến nghị một số luận điểm mới về xây dựng và phát triển đô thị, kinh tế hàng hoá, nền dân chủ đô thị, hội nhập quốc tế, đặt lại một số vấn đề trước đây chưa được làm sáng tỏ; thứ 3 là tác phẩm “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” của Trần Văn Giàu; thứ tư là tác phẩm “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay” của Phan Huy Lê – Vũ Minh Giang; thứ năm là tác phẩm: “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”; “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm đã cung cấp những kiến thức, khái niệm cơ sở nền tảng cho ngành văn hóa học; thứ sáu là tác phẩm “Bản sắc văn hóa Việt Nam” của Phan Ngọc; thứ bẩy là tác phẩm “Việt Nam văn hóa và giáo dục” của Trần Mạnh Thường… Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Phan Hữu Dật với quan điểm dân tộc học, có tác phẩm “Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam”. Tác giả Nguyễn Hồng Hà “Văn hóa truyền thống dân tộc với giáo dục thế hệ trẻ”; Tác giả Nguyễn Trung Hoà (Trung tâm nghiên cứu phát triển các dân tộc thiểu số và miền núi) với tham luận: “Tri thức bản địa bảo tồn và phát triển chữ, tiếng Thái vùng Tây Bắc”. Bên cạnh đó cũng có đề tài luận văn Thạc sĩ của tác giả Phạm Đức Long “Biện pháp quản lí phát triển các hoạt động giữ gìn BSVH dân tộc ở Trung tâm học tập cộng đồng huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La. Báo cáo khoa học “Sơ kết 3 năm thực hiện Đề án giáo dục kỹ năng sống và văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số cho học sinh phổ thông trên địa bàn tỉnh Hà Giang”. Các công trình này vừa góp phần bảo tồn bản sắc dân tộc vừa làm sáng tỏ giá trị văn hóa truyền thông đồng thời là tài liệu giáo dục BSVHDT.

Liên quan đến quản lý hoạt động giáo dục BSVHDT cho học sinh có một số công trình nghiên cứu như: Tác giả Lục Mạnh Phương với đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục BSVHDT cho học sinh các trường THPT huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang” tác giả đã khái quát hóa được thực trạng công tác giáo dục BSVHDT cho học sinh tại một số trường THPT và đề ra một số biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động GDBSVHDT cho sinh lứa tuổi THPT; Tác giả Phạm Lệ Thanh với đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục BSVHDT cho học sinh các trường nội trú, tỉnh Điện Biên”; Luận văn thạc sỹ của Tác giả Lý Thị Thủy – 2014, cũng đã đề cập đến vấn đề quản lí hoạt động giáo dục BSVH dân tộc song mới đề cập ở hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.

1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài

1.2.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa

  • Văn hóa

Cho đến nay khái niệm về văn hóa vẫn còn nhiều quan niệm trái ngược, khác nhau về nội hàm của khái niệm “Văn hoá”.

Trong Đại bách khoa toàn thư của Liên Xô văn hóa được định nghĩa “Văn hoá là trình độ phát triển lịch sử của xã hội và của con người, biểu hiện ra trong các kiểu và các hình thái tổ chức đời sống và hành động của con người, cũng như trong các giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người tạo ra. Văn hoá có thể được dùng để chỉ trình độ phát triển về vật chất và tinh thần của những xã hội, dân tộc, bộ tộc cụ thể (ví dụ: văn hoá Ai Cập cổ đại, văn hoá Maya, văn hoá Trung Quốc…). Theo nghĩa hẹp, văn hoá chỉ liên quan tới đời sống tinh thần của con người”. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá nhóm họp tại Venise năm 1970 do UNESCO tổ chức đã đưa ra định nghĩa: “Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động” [38].

Ngay tại nước ta cũng có nhiều định nghĩa về văn hóa khác nhau, trong số đó có một số định nghĩa được nhiều người quan tâm, sử dụng như:

Vào năm 1943, Hồ Chí Minh đã nêu ra một định nghĩa về văn hoá: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở và mặc, các phương thức sử dụng. Toàn bộ các sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [19].

Theo Trần Ngọc Thêm (Năm 1995), trong cuốn giáo trình Cơ sở văn hoá Việt Nam đã định nghĩa văn hoá: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [37].

Còn theo Tác giả Phan Ngọc (1998) định nghĩa: “Văn hoá là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hoá theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hoá dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của cá nhân hay tộc người khác” [27].

Chúng tôi đồng nhất quan điểm về văn hóa như cách hiểu của Hồ Chí Minh: Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.

  • Bản sắc văn hóa

Theo tác giả Phạm Hồng Quang: “Bản sắc văn hóa” là những đặc điểm riêng biệt có, giá trị cao, gồm những giá trị về vật chất và tinh thần được tích lũy và phát triển trong tiến trình đi lên của một dân tộc, nó quy định vị trí riêng biệt về mặt xã hội của một dân tộc. Những giá trị đó có thể có ở mọi dân tộc, song ở dân tộc có bản sắc văn hóa được biểu hiện đậm nét, sâu sắc và đặc biệt hơn [30]. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Tác giả Trần Văn Bính khẳng định: “Bản sắc văn hóa dân tộc” là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh hướng cơ bản thuộc sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc đó, giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính nhất quán so với bản thân mình trong quá trình phát triển và tạo cơ sở cho sự phân biệt, nhận diện khác nhau giữa tộc người này với tộc người kia, dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa nhìn một cách tổng thể của bất kì dân tộc nào, đều gắn bó với lịch sử hình thành và phát triển của chính dân tộc đó [5].

Nhà thơ Tố Hữu thể hiện quan điểm trong đồng bào các dân tộc thiểu số, BSVH biểu hiện đậm đà nhiều mặt. Dân tộc nào cũng có tinh thần dũng cảm trong sản xuất và chiến đấu, tính chân thật, lòng thương người mến khách. Ở nhà sàn, ăn cơm nếp, uống rượu ngô. Đội mũ, khăn, áo, quần nhiều màu sắc, đàn hát, nhảy múa đông người,… Những đức tính và nét sinh hoạt đó thường nổi bật trong đời sống của đồng bào ở các khu vực miền núi.

Bản sắc văn hóa dân tộc là một khái niệm không dễ để xác định, bởi vì BSVH dân tộc có nhiều khái niệm nội hàm khác nhau, song chúng ta có thể khẳng định rằng: “BSVH là tổng hợp những giá trị văn hóa tiêu biểu, riêng biệt của tộc người, phổ quát nhưng đặc sắc, tồn tại linh hoạt và không bị biến dạng. Trong khuôn khổ của luận văn, BSVH dân tộc được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, đó là những đặc trưng tiêu biểu, tiến bộ, riêng biệt của các dân tộc thiểu số.

1.2.2. Hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa

  • Giáo dục bản sắc văn hoá

Giáo dục bản sắc văn hoá là một quá trình xã hội được tổ chức có mục đích, có kế hoạch. Trong đó, dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo dục, đối tượng giáo dục tích cực, chủ động tiếp nhận, bổ sung và hoàn thiện hệ thống giá trị bản sắc văn hóa truyền thống, tinh hoa của dân tộc và nhân loại đồng thời gạt bỏ những giá trị thói quen, tập tục lạc hậu, lỗi thời để những giá trị bền vững luôn sống động với thực tiễn.

Bên cạnh việc giáo dục đạo đức, hình thành những phẩm chất tốt đẹp của con người, giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ, giáo dục ý chí độc lập tự cường cho các em HS,… thì giáo dục BSVH là một nội dung quan trọng trong GDHS ở nhà trường PTDT bán trú hiện nay. Trong giáo dục BSVH cần giúp HS nhận thức một cách đầy đủ, toàn diện và sâu sắc về những giá trị vật chất và giá trị tinh thần trong nền văn hóa Việt Nam, hiểu biết về những nét văn hóa của các dân tộc khác nhau trong cộng đồng, có thái độ tôn trọng và ý thức bảo tồn những nét văn hóa độc đáo đó cũng như hình thành các hành vi ứng xử đúng mực đối với những nét văn hóa đặc trưng của các dân tộc anh em khác nhau cùng chung sống trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta.

  • Giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Giáo dục BSVH là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch nhằm bồi dưỡng cho học sinh phẩm chất, năng lực, tri thức cần thiết về giá trị vật chất và tinh thần, ứng xử, lối sống, ngôn ngữ,… của một dân tộc hướng tới sự phát triển toàn diện của người học trong đời sống văn hóa xã hội của chính dân tộc đó.

Giáo dục văn hóa dân tộc nhằm mục đích cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, những hiểu biết về vốn văn hoá truyền thống của các dân tộc trên quê hương mình; Hình thành và phát triển ở HS các kỹ năng tiếp cận, khai thác tri thức và vốn văn hoá truyền thống của địa phương để tiếp thu, học hỏi, vận dụng trong hoạt động hiện tại cũng như sau này; Giáo dục truyền thống văn hoá, bồi dưỡng ý thức dân tộc, nâng cao thái độ trân trọng di sản văn hoá dân tộc và trách nhiệm đối với sự phát triển của cộng đồng và quê hương, hình thành ở HS tình cảm trong sáng, cao đẹp, yêu thương, gắn bó với cộng đồng.

Nhiệm vụ vận dụng các giá trị văn hóa để giáo dục học sinh là mục tiêu lớn của ngành giáo dục đã được khẳng định trong luật giáo dục: “Thừa kế và phát huy truyền thống tốt đẹp, BSVHDT, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. Trường PTDTBT THCS có chức năng giáo dục VH cho học sinh dân tộc nhằm đảm bảo quyền của học sinh trong giáo dục. Nhờ có giáo dục VHDT, học sinh của trường PTDTBT được phát triển toàn diện, giữ được bản sắc văn hóa dân tộc, trở thành những công dân có tri thức, có văn hóa của dân tộc mình. Giáo dục BSVH trong trường PTDTBT còn góp phần quan trọng vào thực hiện nhiệm vụ bảo tồn và phát triển VHDT.

1.2.3. Quản lý

Theo tác giả Nguyễn Thị Tính: “Quản lý là sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý trong tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt được mục tiêu đã đề ra” [32].

Tác giả Phạm Viết Vượng (2001), cho rằng: “Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân hướng đến mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan” [41].

Các tác giả Đặng Quốc Bảo (2006), Vũ Ngọc Hải, Bùi Minh Hiền cho rằng “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra” (dẫn theo [18]).

Hay nói một cách khác: Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng việc thực hiện các chức năng Quản lý như lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.

Sự tác động của quản lý phải bằng cách nào đó để người bị quản lý luôn hồ hởi, phấn khởi đem hết năng lực và trí tuệ để sáng tạo ra lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và cho cả xã hội. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Từ sự khái quát trên quản lý bao gồm các yếu tố cơ bản như sau:

  • Chủ thể quản lý (có thể một hoặc nhiều người).
  • Đối tượng bị quản lý (có thể một hoặc nhiều người, sự vật, sự việc…).
  • Mục tiêu quản lý nhằm thay đổi hoạt động của tổ chức, trạng thái hoạt động và nâng cao hiệu quả lao động.
  • Chủ thể tiến hành các tác động quản lý bằng các công cụ quản lý và các phương pháp quản lý.
  • Quản lý về cơ bản là tác động lên con người, sự vật để điều hành các hoạt động có lợi cho tổ chức và đạt được những mục tiêu tổ chức đặt ra. Để quản lý tốt trước hết cần hiểu sâu sắc về con người, sự vật với tư cách là đối tượng của quản lý, sau đó phải được đào tạo huấn luyện cách thức tác động đến con người, sự vật.
  • Quản lý là tìm cách, biết cách ràng buộc một cách thông minh, tế nhị việc thỏa mãn nhu cầu cho con người, trên cơ sở đó khích lệ con người đem hết năng lực thực hiện công việc, nhiệm vụ được giao.
  • Quản lý là thực hiện những công việc có tác dụng định hướng, điều tiết phối hợp các hoạt động của cấp dưới; đó chính là thực hiện các chức năng của QL.
  • Quản lý là thiết lập, khai thông các quan hệ cụ thể để hoạt động chung được hình thành, đạt hiệu quả cao, bền lâu và không ngừng phát triển.
  • Quản lý là chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý một cách gian tiếp hoặc trực tiếp nhằm thu được những diễn biến, thay đổi tích cực của cá nhân, tổ chức theo mục tiêu đã đặt ra.

Nói một cách tổng quát nhất có thể xem quản lý là một quá trình tác động có tổ chức, có hướng đích gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường.

Vì vậy bản chất của quản lý là sự tác động có mục đích có kế hoạch của lực lượng quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt được những mục tiêu cơ bản của quản lý.

Tóm lại: Quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức, thông qua công cụ và phương pháp quản lý nhằm làm cho tổ chức đó vận hành thuận lợi và đạt được mục tiêu.

1.2.4. Quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa

Giáo dục BSVH là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch nhằm bồi dưỡng cho học sinh phẩm chất, năng lực, tri thức cần thiết về giá trị vật chất và tinh thần, ứng xử, lối sống, ngôn ngữ,… của một dân tộc hướng tới sự phát triển toàn diện của người học trong đời sống văn hóa xã hội của chính dân tộc đó. Chính vì vậy, quan tâm đến việc giáo dục BSVHDT là một chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước trong thời gian qua.

Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục, công tác giáo dục bản sắc văn hóa ở các nhà trường không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà giáo dục cho cả cộng đồng. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Dựa trên những khái niệm đã có, tác giả luận văn quan niệm: Quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa là quá trình tác động có tổ chức, có mục đích của nhà quản lý lên đối tượng quản lý (hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc gồm: Mục tiêu, nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục cùng các lực lượng tham gia hoạt động giáo dục) nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục bản văn hóa dân tộc trong nhà trường thực hiện giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa dân tộc đối với thế hệ trẻ.

1.3. Lý luận về hoạt động giáo dục bản sắc văn hoá cho học sinh trường Phổ thông dân tộc bán trú trung học cơ sở

1.3.1. Đặc điểm học sinh trường phổ thông dân tộc bán trú trung học cơ sở

Học sinh trường phổ thông dân tộc bán trú học tập rèn luyện trong môi trường học đường đặc thù,là loại trường chuyên biệt mang tính chất phổ thông, dân tộc và bán trú; được ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị và ngân sách; lựa chọn bố trí cán bộ, giáo viên, nhân viên để đảm bảo việc nuôi, dạy học sinh; đồng thời, cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học sinh của trường được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của Nhà nước. Trường PTDT bán trú cấp THCS là các trường bán trú chuyên biệt. Các trường này dành cho con em các dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn về kinh tế – xã hội. Nhà nước thành lập trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT) cho con em các dân tộc thiểu số, con em các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, nhằm bồi dưỡng nguồn nhân lực, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học, duy trì sĩ số học sinh hằng năm. Học sinh được ở tại trường và được cấp kinh phí ăn, ở, sinh hoạt, vui chơi và học tập.

Hầu hết học sinh là người dân tộc thiểu số sinh ra và lớn lên ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, nơi điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn giáo dục chưa phát triển. Năng lực nhận thức của học sinh không đồng đều, khả năng tư duy còn hạn chế, nhất là ở lớp đầu cấp. Phong tục tập quán địa phương, tập quán tộc người có ảnh hưởng nhất định đến nề nếp sinh hoạt của học sinh …Học sinh dân tộc khi hòa nhập với cuộc sống tập thể còn nhiều bỡ ngỡ, lúng túng, nhiều mặt chưa có mục tiêu phấn đấu, đó chính là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến động lực học tập, rèn luyện của các em. Vì vậy ngoài việc đáp ứng yêu cầu quản lý HS bán trú, BQL học sinh bán trú, Ban lao động, GV quản lý HS bán trú… ở các trường PTDTBT còn phải đáp ứng được các năng lực khác như: Có vốn hiểu biết về tâm lí, ngôn ngữ, phong tục, tập quán đặc trưng của mỗi dân tộc, mỗi địa phương các em sinh sống, biết khơi dậy cho các em lòng tự hào dân tộc và hướng phấn đấu đúng đắn.

1.3.2. Mục tiêu và ý nghĩa của giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

1.3.2.1. Mục tiêu giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh

Trong điều kiện hiện nay, khi các yếu tố hiện đại đang dẫn xâm lấn các giá trị văn hóa dân tộc (tộc người), có xu hướng thay thế các nét văn hóa cũ thì vấn đề quan tâm bảo tồn và lưu giữ những giá trị văn hóa dân tộc lại hết sức quan trọng và có ý nghĩa. Giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh trong nhà trường là một cách thức, con đường để giữ gìn những nét văn hóa này trong cộng đồng dân cư.

Mục tiêu giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh:

Cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, những hiểu biết về vốn văn hoá truyền thống của các dân tộc trên quê hương mình.

Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng tiếp cận, khai thác tri thức và vốn văn hoá truyền thống của địa phương để tiếp thu, học hỏi, vận dụng trong hoạt động hiện tại cũng như sau này.

Giáo dục truyền thống văn hoá, bồi dưỡng ý thức dân tộc, nâng cao thái độ trân trọng di sản văn hoá dân tộc và trách nhiệm đối với sự phát triển của cộng đồng và quê hương, hình thành ở học sinh tình cảm trong sáng, cao đẹp, yêu thương, gắn bó với cộng đồng, góp phần phát triển nhân cách cho các em học sinh.

1.3.2.2. Ý nghĩa của giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh trường PTDT bán trú

Giáo dục văn hóa là cách để bảo tồn và phát triển truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc. Con đường để BSVH được bảo tồn và phát triển tốt nhất là thông qua giáo dục. Trong trường PTDT bán trú THCS, giáo dục BSVH là nhằm giúp học sinh nhận thức được giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình, có ý thức về dân tộc, về những giá trị tinh thần và vật chất của dân tộc, về lịch sử, về xã hội, các kinh nghiệm trong cuộc sống; hình thành ở học sinh những tình cảm tốt đẹp về VHDT, có tình yêu thương gắn bó với cộng đồng, có ý thức trách nhiệm với sự phát triển của quê hương, biết tôn trọng, yêu quý, giữ gìn và phát huy bản sắc truyền thống của dân tộc; Hình thành nhân cách con người mới có trí thức và năng lực chuyên môn, đáp ứng công cuộc phát triển – kinh tế xã hội ở các dân tộc miền núi. Cho nên giáo dục cho học sinh trong trường PTDT bán trú THCS không thể chỉ quan tâm đến giáo dục kiến thức, kỹ năng của các môn học mà bỏ qua hoặc coi nhẹ phần giáo dục BSVH.

Giáo dục BSVH còn có tầm quan trọng đặc biệt ở chỗ giúp cho học sinh nhận thức được rằng, BSVH không phải là một khái niệm của hằng số bất biến, mà trong quá trình vận động của lịch sử xã hội và cộng đồng, có những giá trị truyền thống không phù hợp với quy luật của sự phát triển sẽ bị gạt bỏ, tự tiêu vong và đương nhiên, sẽ có những giá trị mới được hình thành, bồi tụ trong quá trình hội nhập, tiếp biến giữa các nền văn hóa. Từ đó các em có nhận thức chủ động trong việc loại bỏ những yếu tố văn hóa không phù hợp, còn lạc hậu, để tiếp nhận những tri thức và hành động văn hóa mới phù hợp, tránh tư tưởng bảo thủ, máy móc trong lối sống, cách sống và trong sinh hoạt của hình thức văn hóa cổ hủ, lạc hậu từ quá khứ.

Giáo dục bản sắc VHDT để hình thành và củng cố những hiểu biết, điều chỉnh hành vi ứng xử với bản sắc văn hóa dân tộc nói riêng, nâng cao ý thức, trách nhiệm cá nhân của học sinh đến vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc VHDT Việt Nam nói chung. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Lứa tuổi học sinh THCS hiểu về văn hóa còn ít, chưa có chọn lọc cho nên các em chịu ảnh hưởng rất lớn về văn hóa từ môi trường sống. Do vậy, giáo dục bản sắc VHDT giúp các em làm chủ được bản thân, sống tích cực, lành mạnh và tiếp thu văn hóa có chọn lọc.

Giáo dục bản sắc văn hóa giúp các em có ý thức duy trì, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp và tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đặc biệt, với sự phát triển nhanh chóng của xã hội ngày nay, trước những hậu quả của đô thị hóa, trước những nguy cơ suy thoái văn hóa truyền thống dân tộc,… Giáo dục BSVH giúp xã hội đẩy lùi những ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa, hình thành văn hóa lành mạnh cho nhà trường, xã hội và cả cộng đồng. Không chỉ có vậy, giáo dục BSVH trong giai đoạn hiện nay là một trong những nội dung quan trọng và bức thiết của nền giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục Phổ thông nói riêng.

1.3.3. Những giá trị văn hóa cần giáo dục cho học sinh trường phổ thông dân tộc bán trú

Giáo dục học sinh về truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số và đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, giáo dục thái độ trân trọng di sản BSVH, từng bước hình thành ở HS lòng tự hào dân tộc, thái độ tự tin khi giới thiệu những giá trị văn hóa của dân tộc mình với các dân tộc khác, làm nên tiếng nói đa dạng, phong phú trong nền văn hóa thống nhất của dân tộc Việt Nam.

Mỗi học sinh trường PTDTBT là đại diện văn hóa của một vùng quê, một dân tộc. Trường PTDTBT tạo điều kiện để HS được thể nghiệm các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình và tiếp xúc với các giá trị văn hóa của dân tộc khác để dòng chảy văn hóa không ngừng được nuôi dưỡng và lớn mạnh. Trường PTDTBT tổ chức các hoạt động tìm hiểu, thể hiện, giao lưu văn hóa để học sinh được trao đổi học tập và cùng tham gia vào việc bảo tồn, phát triển các giá trị BSVH. Nhờ được tiếp xúc thường xuyên với các hoạt động văn hóa và thông qua hoạt động văn hóa mà học sinh trường PTDTBT luôn hiểu biết, gìn giữ được bản sắc văn hóa của dân tộc mình, đồng thời còn là người hiểu biết và tôn trọng bản sắc văn hóa của các dân tộc anh em.

Trong nhà trường phổ thông cần chú trọng giáo dục cho các em biết bảo tồn và phát huy một số nét văn hóa đặc trưng của dân tộc mình như:

(i). Giáo dục ngôn ngữ dân tộc cho các em Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Giao tiếp bằng tiếng dân tộc là một trong những đặc trưng văn hóa vô cùng quan trọng của mỗi dân tộc. Nó là phương tiện giao tiếp, giao lưu ghi lại quá trình lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc đó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tiếng nói của tộc người cũng là một trong những giá trị văn hóa cần bảo tồn, phát huy, vì đó là biểu hiện đặc trưng của tộc người, chỉnh vì vậy bảo tồn tiếng nói và chữ viết của tộc người là một trong các giá trị bản sắc văn hóa cần lưu giữ trong cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ học sinh trong thực hiện nhiệm vụ phát triển và bảo tồn văn hóa truyền thống của dân tộc.

Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, nhiều đồng bào dân tộc thiểu số đã quên tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Việc bảo tồn tiếng nói, chữ viết của đồng bào dân tộc thiểu số là việc quan trọng do đó trong các nhà trường cần giáo dục các em biết bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình.

(ii). Giáo dục cho học sinh về nét văn hóa ẩm thực trong sinh hoạt

Giáo dục cho các em học sinh nét văn hóa ẩm thực trong sinh hoạt của cộng đồng dân tộc thiểu số để qua đó giúp các em họ sinh có thêm kiến thức, hiểu thêm về văn hóa, lịch sử phát triển của dân tộc cũng như những thay đổi của những giá trị văn hóa này trong các tộc người.

Trong văn hóa người Việt ẩm thực là cả một nghệ thuật, nó không chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu cơ bản của con người mà còn có mối quan hệ mật thiết đến lối sống, truyền thống dân tộc, được thể hiện rất rõ qua những dụng cụ được dùng trong bữa ăn, cách ứng xử với mọi người trong khi ăn. Vì thế việc ăn uống còn minh chứng cho lịch sử và sự hình thành nền văn hoá của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Các món ăn qua từng giai đoạn nói lên được cuộc sống, con người của giai đoạn đó và của vùng đất, ví dụ như đồng bào Dân tộc Mông rất chú trọng đến gia vị và màu sắc vì đặc điểm thiên nhiên ở đây giá lạnh, rất cần có những món ăn ấm, nóng với màu sắc mạnh. Nếu như ăn uống trong ngày thường là yêu cầu trọng thực, đảm bảo nhu cầu no thì ở những phiên chợ đông vui, nhu cầu ăn uống cộng cảm được đặt lên hàng đầu. Chỉ cần một bình rượu và một chảo thắng cố, lần lượt, từng người sẽ uống chung bát rượu và ăn chung một chảo canh. Đó là một hình ảnh đẹp về tính cộng đồng và bình đẳng của người Mông ở vùng cao Tây Bắc trong cách thức ăn uống. Còn trong bữa ăn hàng ngày của người Tày, mâm cơm thường để ở chính giữa nhà, phía trên của bếp lửa nhà sàn, Nồi cơm đặt phía dưới gần bếp, ngồi cạnh nồi cơm thường là mẹ hoặc con gái để làm nhiệm vụ xới cơm hoặc tiếp thêm canh rau. Ngoài các bát, đĩa thức ăn dùng chung, bát đũa ăn cơm riêng, bao giờ cũng có thìa ăn canh riêng cho từng người. Bữa ăn là lúc đoàn tụ, tập trung đông đủ mọi thành viên trong gia đình. Vì thế, nếu thiếu một ai thì cũng phải chờ cho đủ mới ăn. Người Tày có câu: “Thíp tua mạ thả ăn yên” (nghĩa là: Mười con ngựa chờ đợi một cái yên – để ví von rằng mâm cơm mười người mà còn thiếu một người thì cũng phải chờ đợi, đó chính là thể hiện tính cộng đồng trong bữa ăn của người Tày). Cách ứng xử trong ăn uống của người Tày còn là ý thức về sự nhường nhịn: “Cần ké kin khẩu khao, lục shao kin khẩu xáo, lục báo kin khẩu xay”, (nghĩa là: người già ăn gạo trắng, con gái ăn gạo giã dối, con trai ăn gạo xay, để nói lên rằng người già rất được kính trọng, được con cháu giành cho phần ngon, bổ).

(iii). Giáo dục cho học sinh nét văn hóa tín ngưỡng của tộc người

Tín ngưỡng cũng là một hình thái biểu hiện văn hóa của người dân tộc, mỗi tộc người có những tín ngưỡng khác nhau. Qua tín ngưỡng có thể nhận thấy các giá trị văn hóa của tộc người trong đó ví dụ như: việc thờ cúng đặc biệt được chú trọng, các nghi lễ liên quan đến thờ cúng tổ tiên luôn được đồng bào duy trì, thể hiện với những nghi lễ độc đáo, đặc sắc. Nghi lễ thờ cúng nói chung của đồng bào dân tộc mang đậm tính nhân văn, hướng con người nhớ đến nguồn cội, xua đuổi cái ác và là sợi dây liên kết cộng đồng sâu sắc. Ví dụ như trong nghi lễ thờ cúng của người Dao sử dụng nhiều tranh cúng và mỗi dịp lễ, Tết, lại có những loại tranh cúng riêng. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

(iv).Giáo dục cho học sinh nét văn hóa trong ứng xử trong cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày

Cộng đồng người dân tộc không chỉ gắn bó với nhau bởi quan hệ gia đình mà ở họ còn có những mối liên hệ cộng đồng tự nhiên, thuần phác đến mức mật thiết, giàu sức sống nhân văn. Quan hệ này thể hiện qua giao tiếp, ứng xử giữa con người với con người, tạo nên cốt cách, thành nét đẹp trong đời sống văn hóa, truyền thống của dân tộc mình. Ví dụ Người Mường Tây Bắc có lệ hễ trong thôn bản có người dựng nhà mới, cả thôn bản đều tham gia. Họ giúp nhau bằng ngày công, bằng nguyên vật liệu, cắt cử người này người kia vào những việc cụ thể mà không đòi hỏi ăn uống với chủ nhà. Người Mường quan niệm “Sông có khúc, người có lúc”, tôi khó lúc này mới cậy nhờ anh giúp; anh gặp lúc khó thì tôi có trách nhiệm giúp lại. Trong cuộc sống chẳng may gà lợn, chó mèo bị dịch bệnh chết, người nuôi trong xóm có lời xin con giống; gia đình được lời sẽ sẵn sàng bắt vật nuôi của mình cho không. Khi cho, thường cho đôi có đực, có cái để chúng còn sinh sôi nảy nở. Về cách ứng xử trong quan hệ vợ chồng của người Tày cũng có những điểm rất hay. Họ lấy ngay những công việc cụ thể để biểu hiện sự tôn trọng, quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Ví như: “Chồng chữa sàn thì vợ đưa rìu, chồng sửa gác thì vợ đưa lạt, chồng ra khỏi bản đi đường xa thì vợ mổ gà, gói xôi”. Nét văn hóa nổi bật hơn cả là vợ chồng người Tày luôn lấy tình thương yêu vợ chồng làm trọng. Một phương châm xử thế tốt đẹp nhất mà khi con gái, con trai đến tuổi dựng vợ, gả chồng đều được bố mẹ răn dạy là: “Vợ chồng tủi sầu không chia, cùng khốn không lìa”; rồi: “Vợ chồng đồng lòng, tát nước bể có ngày cũng cạn”. Tình nghĩa vợ chồng là trên hết, không màng giàu sang: “Thương nhau không cần có ruộng to trước cửa, lấy được nhau vượt ngàn đào củ mài mà ăn”. Hay, một cách ứng xử đẹp nữa mà nó thể hiện rất sâu sắc tình cảm vợ chồng dành cho nhau như: “Thương chồng năng dệt cửi, yêu con chăm vá may, mến vợ việc ruộng nương không biếng nhác”. Còn có những lúc “xô bát, xô đũa” thì: “Vợ la chồng lắng, chồng mắng vợ im”.

(v). Giáo dục cho học sinh về nét văn hóa qua trang phục của đồng bào dân tộc

Việc giáo dục ý thức bảo tồn về trang phục truyền thống của các dân tộc thiểu số cho học sinh trong các trường học vùng dân tộc thiểu số nhằm giúp các em thấy được trang phục truyền thống của mỗi dân tộc không phải ngẫu nhiên xuất hiện và tồn tại. Sự xuất hiện và tồn tại của nó phải được tạo ra trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc. Qua giáo dục, học sinh có nhận thức cụ thể, sâu sắc về ý nghĩa trang phục truyền thống của dân tộc mình và các dân tộc anh em trong đời sống, cũng như sinh hoạt văn hóa, xã hội. Từ đó, các em có niềm tự hào khi mang trên mình trang phục truyền thống.

Mỗi dân tộc có cách tạo hình trang trí, sử dụng trang phục theo những đặc điểm văn hóa riêng của mình. Các nét hoa văn, họa tiết, màu sắc của mỗi loại trang phục, dân tộc đều có những nét độc đáo, thể hiện bản sắc riêng góp phần làm nên bản sắc văn hóa của từng dân tộc. Cách ăn mặc của các dân tộc qua mỗi bộ trang phục đều mang những nét đẹp và ý nghĩa khác nhau, in dấu truyền thống văn hóa và phong tục của dân tộc đó. Một số trang phục còn đi kèm với dấu hiệu phân biệt thứ bậc trong xã hội của từng người như trang phục của thầy mo, trang phục của già làng, trưởng bản…

(vi). Giáo dục cho học sinh về bản săc văn hóa dân tộc qua các loại hình nghệ thuật

Nghệ thuật và loại hình nghệ thuật cũng là biểu thị nét văn hóa đặc sắc của tộc người cần lưu giữ. Việc giáo dục cho HS những giá trị VH cần đưa nội dung này vào giáo dục cho học sinh, bởi lẽ mỗi dân tộc (tộc người) lại có những loại hình thưởng thức giá trị nghệ thuật khác nhau. Nói khác đi mỗi loại hình nghệ thuật này là một cách biểu thị đời sống, tâm tư, tình cảm, mối quan hệ xã hội,… của con người được gửi gắm trong đó. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Có thể kể đến một vài loại hình nghệ thuật trong các tộc người như:

Hát Then: là một hình thức sinh hoạt có vị thế quan trọng trong tín ngưỡng người Tày. Loại hình nghệ thuật này có sự kết hợp giữa vẻ đẹp của con người và thiên nhiên, giữa giá trị nghệ thuật với yếu tố tinh thần và tâm linh. Lời hát Then không chỉ là làn điệu dân gian được chắt lọc từ đời sống tinh thần, nhân sinh quan cuộc sống mà còn là những câu hát trữ tình, giàu nhạc điệu vừa khuyên răn vừa khích lệ trong lao động sản xuất, kinh nghiệm đối nhân xử thế trong đời sống hằng ngày, cách ứng xử với thiên nhiên.

Hát Páo dung: đây là loại hình nghệ thuật gắn với dân tộc Dao, là 1 loại nghệ thuật dân gian lịch sử từ lâu đời, thể hiện chất trữ tình đằm thắm, mượt mà tươi sáng và giản dị của tâm hồn người Dao. Các làn điệu Páo dung phản ánh cuộc sống lao động, sinh hoạt, phong tục, tập quán, lễ nghi và những tâm tư, tình cảm, khát vọng của người Dao trong cuộc sống. Hát Páo dung có ý nghĩa quan trọng trong quá trình bảo tồn văn hóa dân gian dân tộc Dao.

Múa khèn:là một loại hình nghệ thuật độc đáo của bàn con người dân tộc Mông, khèn là loại nhạc cụ do chính bà con đồng bào dân tộc Mông làm ra. Với cây khèn độc đáo này, người chơi thổi thành nhạc điệu cũng là đạo cụ múa  thể hiện tài năng nghệ thuật khéo léo với các thế quay, nhảy. Trong ngày lễ hội, ngày vui, rủ nhau xuống chợ thì tiếng khèn mượt mà, đằm thắm mời gọi bạn đi chơi xuân, xuống chợ, chúc nhau những điều may mắn… Khi có đám tang, đám giỗ tiếng khèn thổi chậm và trầm lắng để chia buồn cùng gia đình tiễn đưa người mất sang bên kia thế giới…

Hàng năm, trường PTDTBT xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục BSVH nhằm trang bị cho HS những kiến thức cơ bản, những hiểu biết về vốn văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số, tổ chức hoạt động trưng bày, giới thiệu về các lễ hội truyền thống, phong tục tập quán, trò chơi dân gian, dân ca, dân vũ và các đặc sản địa phương… Thông qua giáo dục BSVH, trường PTDTBT đã thực hiện quyền của học sinh trong giáo dục. Nhờ có giáo dục BSVH, học sinh của trường PTDTBT được phát triển toàn diện, trở thành những công dân có tri thức, có văn hóa. Giáo dục BSVH trong trường PTDTBT còn góp phần quan trọng vào thực hiện nhiệm vụ bảo tồn và phát triển BSVHDT.

1.3.4. Hình thức giáo dục bản sắc văn hóa của các trường phổ thông dân tộc bán trú

Giáo dục BSVH cho học sinh trong các trường PTDTBT được tổ chức thông qua các hình thức sau:

  • Giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc thông qua giảng dạy các môn học chiếm ưu thế

Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại đang được quan tâm nghiên cứu và áp dụng ở nhiều cơ sở giáo dục trong những năm gần đây. Qua việc tích hợp của GV trong giờ dạy, học sinh được rèn luyện thói quen tư duy, nhận thức vấn đề một cách có hệ thống và lôgic. Qua đó, học sinh cũng thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các kiến thức được học trong chương trình. Trong chương trình giáo dục phổ thông có nhiều môn có thể tích hợp các nội dung giáo dục bản sắc VHDT như môn Ngữ văn, Lịch Sử, Địa lí, môn giáo dục công dân,… Giáo dục bản sắc VHDT thông qua việc tích hợp, lồng ghép nội dung giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc vào bài học của các môn học một cách tự nhiên, phù hợp với nội dung bài học, làm cho bài học sinh động, gắn với thực tế hơn. Tận dụng cơ hội để Giáo dục bản sắc VHDT trên cơ sở đảm bảo kiến thức cơ bản của môn học, tính lôgic nội dung không làm quá tải về kiến thức và tăng thời gian thực hiện bài học.

Phương thức tích hợp giáo dục bản sắc VHDT thể hiện ở ba mức độ:

  • Tích hợp toàn phần: Mục tiêu và nội dung của bài học phù hợp hoàn toàn với mục tiêu và nội dung giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.
  • Tích hợp bộ phận: Một phần bài học có mục tiêu và nội dung GDBSVHDT.
  • Tích hợp liên hệ: Liên hệ thực tiễn về giáo dục BSVHDT vào bài học một cách lôgic.

VD: Các môn học có thể xác định các nội dung cần tích hợp theo bảng sau:

(ii). Giáo dục bản sắc văn hóa thông qua tổ chức hoạt động trải nghiệm Hoạt động trải nghiệm là HĐGD được tổ chức dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú gắn với thực tiễn giúp cho học sinh có cơ hội và điều kiện trải nghiệm kiến thức, văn hóa, kỹ năng đồng thời thiết lập những kỹ năng mới,… Đối với giáo dục BSVH dân tộc, hoạt động trải nghiệm và tổ chức HĐTN có ưu thế trong thiết kế các hoạt động trải nghiệm gắn với chủ đề về văn hóa dân tộc.

Thông qua các hoạt động trải nghiệm, những việc làm cụ thể và các hành động của học sinh, các em được mở mang kiến thức về giá trị văn hóa, thực tế và trải nghiệm dưới dạng kỹ năng hoặc không gian văn hóa để hiểu rõ hơn về nguồn gốc tộc người, về lịch sử hình thành và phát triển của cộng đồng người, Thông qua việc tham gia vào các HĐTN, các em học sinh được phát huy vai trò chủ thể, tính tích cực, chủ động, tự giác và sáng tạo của bản thân. Các em được chủ động tham gia vào tất cả các khâu của quá trình hoạt động. Các em được trải nghiệm, được bày tỏ quan điểm, ý tưởng, được đánh giá và lựa chọn ý tưởng hoạt động, được thể hiện, tự khẳng định bản thân, được tự đánh giá và đánh giá kết quả hoạt động của bản thân, của nhóm mình và của bạn bè,… Từ đó, hình thành và phát triển cho các em những giá trị sống và các năng lực cần thiết. HĐTN về cơ bản mang tính chất của hoạt động tập thể trên tinh thần tự chủ, với sự nỗ lực giáo dục nhằm phát triển khả năng sáng tạo và cá tính riêng của mỗi cá nhân trong tập thể.

Thông qua tổ chức HĐTN để giáo dục bản sắc văn hóa là nhằm giúp học sinh nhận thức được giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình, có ý thức về DT, về những giá trị tinh thần và vật chất của dân tộc, về lịch sử, về xã hội, các kinh nghiệm trong cuộc sống; hình thành ở HS những tình cảm tốt đẹp về VHDT, có tình yêu thương gắn bó với cộng đồng, có ý thức trách nhiệm với sự phát triển của quê hương, biết tôn trọng, yêu quý, giữ gìn và phát huy bản sắc truyền thống của DT; Hình thành nhân cách con người mới có trí thức và năng lực chuyên môn, đáp ứng công cuộc phát triển – kinh tế xã hội.

Ngoài ra tổ chức cho học sinh trực tiếp trải nghiệm một số loại hình trò chơi dân gian, hoạt động sinh hoạt theo tập tục và tín ngưỡng của người dân tộc thiểu số tại địa phương để hiểu thêm về phong tục, tập quán, về truyền thống về sinh hoạt cũng như những kiến thức về mối quan hệ giao tiếp ứng xử trong cộng đồng giúp học sinh có thêm những hiểu biết về giá trị văn hóa của cộng đồng, thêm tự hào về những nét đẹp văn háo dân tộc để từ có mong muốn lưu giữ và bảo tồn những giá trị này trong cuộc sống của các em. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

  • Giáo dục bản sắc văn hóa thông qua tổ chức các hoạt động văn hóa nghệ thuật dân tộc

Bản sắc văn hóa còn được thể hiện qua các loại hình nghệ thuật của cộng đồng dân tộc đó vì thế mà việc thiết kế và tổ chức biểu diễn các loại hình nghệ thuật dân tộc cũng là một hình thức giúp học sinh có dịp tìm hiểu kỹ hơn về loại hình nghệ thuật của dân tộc mình, đồng thời trải nghiệm loại hình văn hóa đó dưới hình thức hoạt động văn hóa nghệ thuật. Việc giới thiệu các tiết mục nghệ thuật trong hình thức tổ chức biểu diễn này sẽ giúp cho các em học sinh thể hiện đa dạng loại hình nghệ thuật của dân tộc mình như: múa khèn của người dân tộc Mông, hát then của người Tày,… qua đó giúp các em học sinh thêm tự hào về những nét đẹp văn hóa nghệ thuật của tộc người mình.

  • Giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc thông qua nội dung giáo dục kiến thức địa phương

Xây dựng kiến thức giáo dục địa phương tính đến các yếu tố đặc thù của đại phương bao gồm: đặc điểm tự nhiên, điều kiện kịch sử và những nét văn hóa dân tộc của địa phương cần bảo tồn và phát huy để học sinh được tiếp cận, học tập một cách hệ thống. Nội dung giá trị văn hóa dân tộc được đưa vào tích hợp trong phần kiến thức địa phương để thực hiện là một cách để giáo dục cho học sinh những nội dung về BSVH đến học sinh.

  • Giáo dục bản sắc văn hóa qua hình thức sinh hoạt câu lạc bộ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc

Hoạt động của các câu lạc bộ có ý nghĩa to lớn trong việc truyền bá cũng như gây ảnh hưởng tích cực đến quá trình hình thành bản sắc văn hóa dân tộc cho các em HS.

Hoạt động câu lạc bộ giúp học sinh thoả mãn nhu cầu phát triển cá nhân, góp phần vào việc đạt được các mục tiêu về giáo dục BSVH cho các em học sinh.

Trong khuân khổ của hoạt động giáo dục BSVH cho các em học sinh thì ta thường tổ chức một số CLB như: CLB làng nghề truyền thống, CLB hát Then, CLB khèn Mông, CLB văn hóa dân gian,…

Liên kết, phối hợp với cơ quan chuyên môn như: Phòng Dân tộc của huyện, Phòng Văn hóa và Thông tin của huyện, Ban tuyên giáo huyện ủy… các tổ chức, cá nhân để phối hợp tổ chức các hoạt động giáo dục BSVH cho học sinh.

Thực hiện tốt việc huy động sự tham gia của cộng đồng đối với hoạt động giáo dục BSVH thông qua việc mời các trí thức địa phương, nghệ nhân, già làng, người có uy tín trong cộng đồng tham gia hoạt động giáo dục BSVH, truyền dạy văn hóa truyền thống cho học sinh của nhà trường.

Xây dựng nếp sống văn hóa trong trường PTDTBT theo nét đẹp phong tục tập quán của các dân tộc là phải tạo được môi trường sống lành mạnh, một không gian văn hóa ấm cúng, tràn đầy tính truyền thống, các em học sinh trong trường học luôn yêu thương, đùm bọc, chia sẻ lẫn nhau, hy sinh cho nhau, chứ không phai là sự so đo, ganh tỵ. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng, làm cho các em học sinh ý thức được rằng việc tiếp thu các giá trị văn hóa truyền thống không chỉ là nghĩa vụ của mỗi người mà còn là nhu cầu cần thiết của cuộc sống. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Xây dựng phòng truyền thống nhà trường, thư viện văn hóa, lớp học để trưng bày, lưu giữ, quảng bá các sản phẩm VHDT do học sinh sưu tầm, hoặc sáng tạo đáp ứng nhu cầu sử dụng lâu dài và kịp thời của các hoạt động giáo dục BSVH.

Giáo dục BSVH cho học sinh dân tộc cần linh hoạt, đa dạng, phong phú, kết hợp hài hòa giữa các bộ môn văn hóa và hoạt động ngoài giờ lên lớp, tạo một không khí thân thiện cởi mở, không khiên cưỡng, gò bó.

1.4. Quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh ở trường phổ trông dân tộc bán trú trung học cơ sở

1.4.1. Lập kế hoạch giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh

Với đặc trưng trường PTDT bán trú THCS, công tác quản lý việc lập kế hoạch thực hiện giáo dục BSVH cho học sinh các trường PTDT bán trú là hết sức cần thiết. Giáo dục BSVH cho HS là một quá trình trong đó không thể thiếu việc xây dựng kế hoạch. Kế hoạch hóa là chức năng quan trọng hàng đầu trong công tác quản lý vì thiếu kế hoạch giáo dục khó đạt được kết quả cao.

Đưa nội dung giáo dục BSVH dân tộc vào trong nhà trường phổ thông dân tộc bán trú THCS là một nhiệm vụ trong công tác quản lý nội dung giáo dục nhà trường. Bởi vì: mỗi một nhà trường gắn với vùng miền, đặc điểm học sinh (vùng dân tộc thiểu số) thì việc thể hiện được nét riêng, nét văn hóa dân tộc trong giáo dục nhà trường từ không gian giáo dục đến các hoạt động giáo dục cụ thể cần toát lên được nét văn hóa vùng miền đặc trưng. Do đó kế hoạch của nhà trường cần toàn diện, trọng tâm theo hướng phát triển các giá trị văn hóa dân tộc trong nhà trường. Để thực hiện điều đó, hiệu trưởng nhà trường phổ thông dân tộc bán trú THCS cần xây dựng được kế hoạch giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh trong nhà trường toàn diện, hệ thống và trọng tâm. Cụ thể:

Xây dựng kế hoạch năm học trong đó đề cập đến nội dung GDBSVH (gắn với văn hóa tộc người ở địa phương); Kế hoạch năm học là kế hoạch ngắn hạn thể hiện hành động cụ thể của nhà trường, tập thể giáo viên nhân viên và học sinh trong thực hiện các hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho HS.

Xây dựng kế hoạch giáo dục bản sắc văn hóa gắn với tổ chức hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa tộc người cho từng khối lớp/toàn trường. Xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục, hoạt động trải nghiệm về văn hóa dân tộc, văn hóa tộc người; Xây dựng kế hoạch giáo dục BSVH theo chủ đề về văn hóa gắn với các mảng nội dung về giáo dục bản sắc văn hóa cụ thể như: chủ đề về nét văn hóa trong ẩm thực dân tộc, chủ đề về nét đẹp trong trang phục (theo từng dân tộc);

  • Có kế hoạch cụ thể về cơ sở vật chất, nguồn lực con người trong triển khai các hoạt động giáo dục BSVH.
  • Chỉ đạo Đội TNTP Hồ Chí Minh, tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch hoạt động cũng phải gắn liền với các nội dụng GDBSVH cho học sinh. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.
  • Muốn kế hoạch có tính khả thi và hiệu quả thì khi xây dựng kế hoạch GD BSVH, CBQL cần dựa trên những cơ sở sau:
  • Phân tích thực trạng GD BSVH trong năm học từ đó rút ra những ưu điểm và khuyết điểm, sắp xếp từng vấn đề để giải quyết.
  • Căn cứ mục tiêu giáo dục, văn bản chỉ đạo về hoạt động HĐGD BSVH để xây dựng kế hoạch cụ thể cho từng học kỳ, năm học, khóa học.
  • Tìm hiểu đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương nhằm phối hợp thống nhất và hiệu quả công tác giáo dục BSVH cho HS.
  • Xác định các điều kiện cơ sở vật chất, nhân lực, tài chính, phương tiện phục vụ cho hoạt động GDBSVH.

1.4.2. Tổ chức thực hiện giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh trong nhà trường

Trường PTDT bán trú THCS ngoài việc thực hiện mục tiêu giáo dục kiến thức cho học sinh còn phải hướng đến mục tiêu giáo dục nhân cách học sinh do đó trong quá trình giáo dục cần tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục BSVH cho học sinh. Không gian văn hóa tộc người là không gian mà các em học sinh được lớn lên, nuôi dưỡng và phát triển thấm đẫm các mối quan hệ văn hóa của tộc người từ lối sinh hoạt hằng ngày, ứng xử giữa con người với con người, con người với môi trường thiên nhiên,…

Trên cơ sở kế hoạch giáo dục BSVH dân tộc, Hiệu trưởng nhà trường phổ thông dân tộc bán trú cấp THCS cần tổ chức triển khai các hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh trong nhà trường, cụ thể:

Thiết lập bộ máy quản lý, phụ trách giáo dục BSVH cho học sinh. Việc thiết lập bộ phận phụ trách này tùy theo chức năng và nhiệm vụ của từng bộ phận trong nhà trường mà phân cấp nhiệm vụ, trách nhiệm quản lý và tổ chức các hoạt động giáo dục BSVH. Cụ thể hóa các công việc gắn với vị trí việc làm của từng thành viên trong bộ máy phụ trách đảm bảo triển khai GDBSVH cho học sinh. Xây dựng các tiêu chí hoạt động, các yêu cầu và quy định cụ thể của việc triển khai giáo dục BSVH cho học sinh trong nhà trường.

Tổ chức hoạt động giáo dục BSVH dân tộc cho học sinh như: tổ chức thi, tìm hiểu về giá trị văn hóa tộc người. Cuộc thi tìm hiểu có thể được tổ chức dưới hình thức: bài viết, sân khấu hóa (tổ chức thành các đội chơi giữa các khối lớp); Triển khai các hoạt động trang trí, xây dựng môi trường trong nhà trường mang đậm không gian văn hóa dân tộc và vùng miền trong nhà trường. Chẳng hạn như: trong điều kiện nhà trường ở vùng có đông học sinh là người dân tộc thiểu số sinh sống và học sinh trong nhà trường phần đông là con em đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực đó thì việc hiển thị các nét văn hóa dân tộc trong không gian trường học cũng là một cách để giới thiệu đến các em học sinh những giá trị văn hóa đến học sinh như: hình ảnh về những nét văn hóa của dân tộc như nghệ thuật, trang phục, lễ hội,… Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Tổ chức các hoạt động dạy học và giáo dục để thực hiện nội dung giáo dục kiến thức địa phương. Dựa trên nội dung chương trình kiến thức giáo dục địa phương đã được thẩm định của cơ quan quản lý tại địa phương, cán bộ quản lý nhà trường có những định hướng cụ thể trong công tác triển khai để thực sự hiệu quả. Theo đó những kiến thức về giáo dục địa phương được đưa, tích hợp và lồng ghép nội dung giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc vào nội dung giảng dạy hoặc tổ chức hoạt động giáo dục cho học sinh được đưa vào trong nhà trường. Thực chất nội dung giáo dục địa phương đã thể hiện những nét văn hóa, giá trị dân tộc và lịch sử trong đó khi biên soạn và tổ chức thực hiện.

Cán bộ quản lý nhà trường có những định hướng và tổ chức hoạt động trải nghiệm giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh: chợ phiên vùng cao, trải nghiệm không gian văn hóa các dân tộc,… Xây dựng kế hoạch giáo dục cụ thể cho việc tổ chức nội dung giáo dục BSVH cho học sinh qua tổ chức hoạt động trải nghiệm.

Cán bộ quản lý nhà trường định hướng và tổ chức những hoạt động cụ thể để phối kết hợp với các bên liên quan trong tổ chức và triển khai các hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho HS. Một số hoạt động phối hợp giữa nhà trường và các bên liên quan có thể tổ chức: Hoạt động tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống làng nghề, hay nét văn hóa trong lao động sản xuất đặc thù của một cộng đồng, tộc người hoặc nét văn hóa trong tổ chức lễ hội của đồng bào dân tộc thiểu số; Tìm hiểu về văn học nghệ thuật, hình thức diễn xướng của người dân tộc thiểu số là một ví dụ, để có những thông tin và sự hiểu biết về lĩnh vực này đòi hỏi có sự phối kết hợp giữa nhà trường, cơ quan quản lý văn hóa của địa phương, người dân,…

Xây dựng hệ thống các tiêu chí cụ thể để làm căn cứ trong tổ chức thực hiện hoạt động GDBSVH cho học sinh đồng thời là căn cứ để đánh giá hoạt động trên cơ sở đó có biện pháp điều chỉnh kịp thời.

1.4.3. Chỉ đạo triển khai giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh trong nhà trường phổ thông dân tộc bán trú

Chỉ đạo quá trình triển khai hoạt động giáo dục BSVH cho học sinh trong nhà trường theo đúng kế hoạch nhằm thực hiện mục tiêu đã đề ra. Sự chỉ đạo của CBQL nhà trường trong triển khai giáo dục BSVH cho học sinh bao gồm những nội dung sau:

Thành lập ban chỉ đạo phụ trách công tác giáo dục BSVH cho HS;

Chỉ đạo các hoạt động tìm hiểu các giá trị văn hóa của dân tộc (tộc người) cần bảo lưu;

Chỉ đạo các hoạt động xây dựng, thiết kế nội dung các giá trị văn hóa cần bảo tồn lưu giữ trong thế hệ trẻ. Những giá trị văn hóa của mỗi vùng miền và tộc người là khác nhau, việc lựa chọn được những giá trị bản sắc văn hóa đưa vào giáo dục trong nhà trường cho học sinh cấp THCS cần phải tính đến độ tuổi, đặc điểm văn hóa dân cư,… để có thể lựa chọn được những giá trị văn hóa đưa vào giáo dục cho học sinh trong nhà trường. Việc thiết kế lại nội dung giáo dục giá trị văn hóa để giáo dục cho học sinh cần giao cho một nhóm giáo viên phụ trách, có sự tham gia của đại diện cơ quan quản lý văn hóa địa phương, trong thiết kế và xây dựng. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Dựa trên những định hướng cần thiết về những giá trị văn hóa cụ thể cần giới thiệu và giáo dục cho học sinh cấp THCS, nội dung giáo dục có thể tập trung của mỗi nhà trường là khác nhau dựa vào đặc điểm vị trí địa lý của nhà trường, thành phần học sinh,… Những giá trị văn hóa như: lễ tục trong gia đình, trang phục, quan niệm về giáo dục con cái, về ứng xử xã hội,… để từ đó chỉ đạo lựa chọn hình thức và xác định loại hình hoạt động để tổ chức giáo dục các giá trị văn hóa tộc người cần thiết cho học sinh;

Chỉ đạo lực lượng tham gia và phối hợp để giáo dục bản sắc văn hóa cho HS, lực lượng tham gia ở đây những giáo viên trong nhà trường được giao nhiệm vụ đảm nhận tổ chức và triển khai hoạt động giáo dục cụ thể cho học sinh trong nhà trường. Mỗi nhà trường tùy vào đặc điểm đội ngũ giáo viên mà có chỉ đạo cụ thể cho phù hợp, ví dụ chỉ đạo nội dung giáo dục triển khai qua hoạt động trải nghiệm được tổ chức theo từng lớp, giáo viên chủ nhiệm lớp là người chịu trách nhiệm trong tổ chức hoạt động giáo dục BSVH cho học sinh của lớp chủ nhiệm.

Chỉ đạo ban hành những quy định tạo cơ chế cho việc giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh; Chỉ đạo phối hợp với cơ quan quản lý văn hóa tại địa phương trong thiết kế và tổ chức các hoạt động giáo dục giá trị văn hóa cho học sinh.

1.4.4. Kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc trong nhà trường

Kiểm tra đánh giá hoạt động giáo dục BSVH là một trong các chức năng của nhà quản lý. Quản lý hoạt động giáo dục BSVH cho học sinh trong trường bán trú đòi hỏi nhà quản lý phải xây dựng được hệ thống các tiêu chí cụ thể để kiểm soát và theo dõi quá trình tổ chức thực hiện. Thực tiễn quản lý hoạt động giáo dục BSVH cho học sinh trường PTDT bán trú THCS cho thấy: cần được giám sát theo từng mảng hoạt động; mức độ tham gia của các lực lượng tổ chức; vấn đề nội dung giáo dục; hình thức tổ chức giáo dục, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động giáo dục BSVH cho học sinh đồng thời đòi hỏi cần có những tiêu chí đánh giá cụ thể.

Về nội dung kiểm tra đánh giá hoạt động giáo dục BSVH bao gồm những nội dung: Nội dung giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc được thiết kế trong kế hoạch giáo dục nhà trường; Nội dung bản sắc văn hóa dân tộc: Tày, Nùng, Giáy về ẩm thực, phong tục tập quán, trang phục truyền thống, tín ngưỡng,…; cơ sở vật chất, quan hệ phối hợp trong tổ chức thực hiện GDBSVH; tổng kết công tác giáo dục BSVH cho học sinh ở trường/lớp theo học kỳ, năm học.

Về hình thức kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục BSVH cho học sinh trong nhà trường PTDT bán trú THCS như: Kiểm tra định kỳ hoạt động giáo dục BSVH mà trong kế hoạch tổ chức hoạt động giáo dục BSVH đã xây dựng; tự kiểm tra và tự giám sát của bộ phận phụ trách để kịp thời có được thông tin cụ thể là căn cứ cho việc điều chỉnh quá trình tổ chức giáo dục kịp thời.

Kiểm tra, đánh giá cần kịp thời phát hiện, chỉ ra những nội dung cần khắc phục, nội dung cần phát huy nhằm thực hiện tối ưu mục tiêu giáo dục nhân cách học sinh của nhà trường. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Kiểm tra, đánh giá sẽ giúp CBQL,GV có trách nhiệm giáo dục BSVH cho học sinh đồng thời phát hiện các sai sót, kịp thời điều chỉnh các tác động quản lý để đưa hoạt động giáo dục đến kết quả mong muốn. Kiểm tra cũng giúp CBQL phát hiện những cách làm hay, các giá trị văn hóa dân tộc tiêu biểu có ảnh hưởng tốt trong cộng đồng để nhân rộng. Đồng thời qua kiểm tra cũng loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu vẫn tồn tại trong cuộc sống của học sinh, của cộng đồng dân tộc ở địa phương.

1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh trường phổ thông dân tộc bán trú trung học cơ sở

1.5.1. Yếu tố khách quan

1.5.1.1. Điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa dân tộc của địa phương

Sự phát triển về kinh tế làm thay đổi diện mạo về văn hóa xã hội, nhưng mặt trái lại có tác động lớn đến giáo dục BSVH vì trong quá trình sống con người được tiếp thu những kinh nghiệm sống, niềm tin, thói quen, chuẩn mực xã hội từ môi trường sống ở xung quanh đặc biệt là các chính sách về phát triển văn hóa, giáo dục của địa phương. Trình độ dân trí của cộng đồng dân cư là các yếu tố khách quan trực tiếp ảnh hưởng đến các hoạt động của nhà trường, trong đó có giáo dục BSVH cho học sinh. Đặc biệt, mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay có tác động rất lớn đến thay đổi quan niệm về giá trị, và cốt lõi văn hóa của học sinh.

Với xu thế tất yếu của giai đoạn hiện nay là sự phát triển mạnh mẽ công nghệ thông tin vào các lĩnh vực, trong đó có giáo dục. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quản lý giáo dục BSVH ở trường PTDT bán trú cấp THCS vì thông tin truyền thông có tác động rất lớn đến việc hình thành các hành vi văn hóa của học sinh.

1.5.1.2. Mối quan hệ nhà trường, gia đình và xã hội

Các em học sinh trong những ngày nghỉ ngày lễ, tết về với gia đình, bạn bè và những mối quan hệ xã hội ở địa phương. Những học sinh chưa có ý thức học tập, nề nếp chưa tốt khi quay lại trường thường có biểu hiện của những nết không đẹp trong hành vi như: Đi học muộn, nghiện game,… Đây là một nguyên nhân dẫn đến việc vi phạm nội quy nhà trường của học sinh.

Hầu hết phụ huynh học sinh có tư tưởng gần như phó mặc vào nhà trường họ có suy nghĩ đơn giản là “trăm sự nhờ thầy cô và nhà trường”. Vì thế nhiều gia đình học sinh hầu như ít thông tin hai chiều với nhà trường, không có sự kiểm tra, giám sát việc học tập, sinh hoạt của con em mình. Chỉ có nhà trường, GVCN chủ động liên lạc với cha mẹ học sinh. Cho nên công tác phối kết hợp trong giáo dục toàn diện của nhà trường gặp khó khăn. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

1.5.1.3. Cơ sở vật chất, điều kiện phục vụ hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh

Cơ sở vật chất và các thiết bị trường học là điều kiện, là phương tiện thiết yếu để tổ chức quá trình giáo dục. Nhà trường có đủ diện tích mặt bằng theo quy định, có quang cảnh môi trường sạch sẽ, phòng học xây dựng đúng quy cách, có trang thiết bị kĩ thuật đồng bộ để phục vụ cho dạy và học ở tất cả các môn học, thư viện đủ sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo, có sân chơi, bãi tập, vườn trường… đó là một trường học có đầy đủ cơ sở vật chất.

Cùng với các hoạt động giáo dục khác, giáo dục lối sống cho học sinh phải có đủ điều kiện tổ chức và phương tiện tốt để tổ chức các hoạt động. Thiết bị tối thiểu để tổ chức các hoạt động là: âm thanh, loa đài, đầu video, dụng cụ thể thao và kinh phí hoạt động. Nhà trường cần đảm bảo các điều kiện vật chất để tập thể giáo viên và học sinh hoàn thành các nhiệm vụ của mình với chất lượng cao.

Với học sinh bán trú, ngoài việc giáo dục nhận thức, cần quan tâm đến đời sống tâm lý của các em để giúp các em khắc phục sự tự ti, mặc cảm vì học tập chưa tốt hoặc phải rời xa môi trường tự nhiên ở địa phương. Tạo môi trường sống cho các em thật sự thân thiện, gần gũi cũng chính là giúp các em biết lưu giữ những nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc mình, đồng thời biết loại bỏ những phong tục, tập quán, thói quen lạc hậu để phù hợp với thời đại.

1.5.1.4. Tác động của ban lãnh đạo, thầy cô giáo và bạn bè đối với việc giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh

Với đặc điểm các em sống ở tại nhà trường, nên ban lãnh đạo, thầy cô giáo, bạn bè là những người gần gũi thân thiết với các em khi xa gia đình, người thân. Việc tạo môi trường học tập, sinh hoạt tốt sẽ có tác động tích cực những nếp sống tốt, uốn nắn kịp thời những biểu hiện sai lệch, thiếu văn hóa trong nếp sống. Vì vậy vai trò, sự thống nhất của ban lãnh đạo, thầy cô giáo, bạn bè và các tổ chức đoàn thể là rất hữu hiệu trong giáo dục BSVH cho HS.

1.5.2. Yếu tố chủ quan

1.5.2.1. Năng lực của Cán bộ quản lý

Trình độ quản lý, đặc biệt là năng lực và kỹ năng quản lý nói chung, kĩ năng quản lý hoạt động giáo dục BSVH nói riêng của CBQL cũng có nhiều ảnh hưởng. Bên cạnh sự am hiểu về văn hóa và bản sắc VHDT thì việc nhà quản lý phải trang bị cho mình kỹ năng quản lý hoạt động này là cần thiết, kỹ năng quản lý thuần thục sẽ giúp cho quá trình quản lý hoạt động giáo dục BSVH trở nên trôi chảy, nhịp nhàng. Có thể đề cập tới một số kỹ năng cơ bản sau: Thiết lập mục tiêu, xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch và kiểm tra việc thực hiện hoạt động đánh giá.

1.5.2.2. Năng lực tổ chức hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa của giáo viên.

Trong nhà trường giáo viên là lực lượng trực tiếp tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa như: xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện… Vì vậy kết quả phụ thuộc rất lớn vào nhận thức và năng lực của từng giáo viên khi tham gia.

Vì vậy nhà trường cần phải có kế hoạch tiếp tục bồi dưỡng nhận thức và nâng cao năng lực nghề nghiệp, nhất là về năng lực giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh. Chỉ khi nào đội ngũ giáo viên nhận thấy rõ vai trò, trách nhiệm của mình đối với việc dạy học và giáo dục thì công tác giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh mới đạt hiệu quả như mong muốn.

1.5.2.3. Đặc điểm văn hóa tộc người của các em học sinh Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Việc tuyên truyền cho các thế hệ học sinh dân tộc biết tôn trọng, giữ gìn và phát huy bản sắc VHDT luôn luôn được chính gia đình, dòng họ giáo dục.

Bên cạnh đó khi các em đến trường cũng được các thầy cô giáo dục nên cơ bản các em cũng có ý thức trong việc giữ gìn BSVHDT mình. Song bên cạnh đó, vẫn có một bộ phận học sinh chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, mục đích của việc giữ gìn BSVHDT mình. Có em thì nghĩ rằng mọi phong tục tập quán của dân tộc mình từ xưa cho đến nay luôn đúng nên không có sự chắt lọc để phù hợp với thời đại ngày nay. Nhưng cũng có em thì lại mang tâm lý tự ty dân tộc, không muốn nhận mình là người dân tộc, ngại mặc trang phục của dân tộc mình.

Một bộ phận học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số, kể cả một số người trưởng thành đã “quên” hoặc ít sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Xu hướng không thiết tha, mặn mà với các hoạt động văn hóa dân gian truyền thống, bản sắc văn hoá của mỗi tộc người, hay sự đồng hóa tự nhiên theo xu hướng “Kinh hóa” là một thực trạng khó cưỡng nổi trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là đối tượng thanh thiếu niên người dân tộc thiểu số. Từ nhận thức đơn giản như vậy đưa đến nề nếp học tập, sinh hoạt mang đậm dấu ấn của dân tộc mình chưa được coi trọng. Nhận thức chưa đầy đủ thì thái độ thực hiện cũng không thể đáp ứng các yêu cầu thiết yếu của nhà trường trong việc duy trì những nét tích cực học tập và sinh hoạt mang đậm nét tiêu biểu của dân tộc. Chính vì thế việc củng cố nhận thức và hành động của học sinh dân tộc trong việc giữ gìn BSVHDT ở các trường PTDT bán trú nói riêng và trong các nhà trường nói chung cần được quan tâm.

Tóm lại, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh các trường PTDT bán trú cấp THCS như: Năng lực của cán bộ quản lý nhà trường; Năng lực tổ chức hoạt động giáo dục BSVH của giáo viên trong nhà trường; Điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị; Sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và các cơ quan quản lý văn hóa ở địa phương; Chương trình và kế hoạch giáo dục của nhà trường,… Chính vì vậy để làm tốt công tác giáo dục BSVH cho học sinh ở các trường PTDT bán trú cấp THCS là một nhiệm vụ chính thức và bắt buộc. Việc giáo dục BSVH trong các trường PTDT bán trú cấp THCS, cùng với các nội dung giáo dục đặc thù khác góp phần vào việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đồng thời góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc VHDT, để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Kết luận chương 1 Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

Giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh trường PTDT bán trú cấp THCS là một trong các nội dung giáo dục của nhà trường nhằm góp phần bảo lưu và phát triển những giá trị này trong thế hệ trẻ. Giáo dục bản săc văn hóa dân tộc cho học sinh gồm giáo dục những nét văn hóa về tiếng tộc người, giáo dục về nét văn hóa của người dân tộc trong cuộc sống hằng ngày, giáo dục về văn hóa dân tộc được thể hiện trong các loại hình nghệ thuật dân tộc gắn với lịch sử ra đời của loại hình nghệ thuật đó trong tộc người,… Hình thức để giáo dục được những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc này đến với học sinh trong nhà trường được thực hiện thông qua nhiều hình thức: qua tổ chức hoạt động trải nghiệm, qua tích hợp và lồng ghép trong thực hiện nội dung giáo dục văn hóa địa phương, tổ chức hoạt động biểu diễn văn nghệ về dân ca và các làn điệu của người dân tộc,…

Quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh trường PTDT bán trú cấp THCS theo tiếp cận vai trò của chủ thể quản lý là hiệu trường nhà trường bao gồm các nội dung: lập kế hoạch giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh, tổ chức hoạt động giáo dục bản sắc VHDT chỉ đạo giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh và kiểm tra đánh giá hoạt động GDBS VHDT ở trường phổ thông DT bán trú cấp THCS. Quả trình quản lý hoạt động giáo dục BSVHDT chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bao gồm cả yếu tố khách quan và chủ quan, trong đó những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp là điều kiện kinh tế và đặc điểm văn hóa địa phương, đặc điểm người học và năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý nhà trường là có ảnh hưởng trực tiếp. Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục bản sắc văn hóa học sinh

One thought on “Luận văn: Quản lý giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh

  1. Pingback: Luận văn: Biện pháp quản lý giáo dục bản sắc văn hóa học sinh

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464