Khóa luận: Thừa kế theo pháp luật lý luận và thực tiễn

Thừa kế theo pháp luật – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trải qua quá trình phát triển xã hội, qua các giai đoạn từ xã hội phong kiến phát triển nên các nhà nước như xã hội chủ nghĩa, tư bản thì đều thể hiện sự chiếm hữu tài sản của con người. Do vậy mà nảy sinh tài sản khi chủ sở hữu tài sản mất đi. Chính vì vậy thừa kế đã trở thành nhu cầu không thể thiêu đối với đời sống mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội. Từ khi hình thành xây dựng XHCN Việt Nam thì vấn đề thừa kế đặc biệt quan trọng, nó được thể hiện trong Hiến Pháp( Điều 19 Hiến Pháp 1959” Nhà nước chiếu theo Pháp luật bảo vệ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân”. Điều 27 Hiến pháp 1980 “ Nhà nước bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân”.Điều 32 Hiến pháp 2017” Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo vệ”. Cùng với Hiến pháp là sự ra đời của Bộ luật dân sự 1995, 2009 đến nay là Bộ luật dân sự 2019 đã đánh dấu một bước pháp triển của pháp luật về thừa kế một cách rõ ràng.Những quy định về thừa kế trong BLDS năm 2019 được xem là kết quả vượt bậc của quá trình pháp điển hóa, không ngừng hoàn thiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vấn đề thừa kế của công dân. Theo đó, chế định thừa kế được quy định bao gồm hai hình thức, đó là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Một trong những nét đẹp truyền thống về gia đình trong văn hóa Việt Nam chính là việc chuyển những thành quả của thế hệ đi trước dành tặng cho con cháu. Tuy nhiên, hiện nay, trên thực tế thói quen lập di chúc của người Việt Nam vẫn chưa phổ biến do còn coi trọng các phong tục, tập quán, tình cảm giữa cha con, vợ chồng, anh em… Bên cạnh đó, có rất nhiều trường hợp lập di chúc nhưng bản di chúc này lại không có giá trị pháp lý vì không đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật, chẳng hạn như vi phạm về chủ thể lập di chúc, hình thức di chúc, nội dung di chúc.

Tuy nhiên do thực tiễn, do sự phát triển mạnh mẽ, những vướng mắc từ trước, những trường hợp xảy ra trong thực tiễn mà pháp luật chưa thể trù liệu hết các trường hợp, tình huống xảy ra. Còn một số quy định của pháp luật về thừa kế mang tính chung chung,chưa chi tiết, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể. Vì vậy, còn nhiều quan điểm trái ngược nhau,nên khi áp dụng thực tế xảy ra tình trạng không nhất quán trong cách hiểu cũng như cách giải quyết.Điều đó đã xâm phạm quyền thừa kế của công dân, gây ra bất ổn trong đời sống sinh hoạt của mỗi gia đình, cộng đồng xã hội.

Xuất phát từ những lý do trên, Em quyết định chọn đề tài Thừa kế theo pháp luật – một số vấn đề lý luận và thực tiễnlàm luận văn tốt nghiệp ngành Luật. Đây là một đề tài có ý nghĩa quan trọng trên cả phương diện lý luận cũng như thực tiễn.

2. Kết cấu của khoá luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

  • Chương 1: Khái quát chung về thừa kế theo pháp luật.
  • Chương 2: Nội dung pháp lý cơ bản về thừa kế theo pháp luật
  • Chương 3: Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện những quy định về thừa kế theo pháp luật

Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

1.1. Các giai đoạn phát triển của pháp luật Việt Nam về thừa kế

Chế định thừa kế nói chung và hình thức thừa kế theo pháp luật nói riêng được quy định trong BLDS là sự kế thừa và phát triển các quy định chung về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV đến nay. Ở mỗi thời kỳ đều có những đặc thù riêng. Việc nghiên cứu, phân tích tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam về thừa kế theo pháp luật để rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện nay.

1.1.1.Trước năm 1945

Chế độ phong kiến Việt Nam tồn tại qua nhiều thế kỉ. Mỗi nhà nước phong kiến đều ban hành văn bản pháp luật để củng cố quyền lực và phục vụ cho công việc quản lý đất nước. Đáng chú ý là các bộ luật của các triều đại phong kiến như bộ luật Hồng Đức năm 1483, Bộ luật Gia Long năm 1815. Ngoài bộ luật các nhà nước phong kiến còn ban hành nhiều văn bản đơn hành như chiếu, chỉ dụ , lệnh của vua… Nội dung các bộ luật điều chỉnh nhiều qua hệ xã hội thuộc đối tượng của nhiều ngành luật hiện nay. Trong đó có các quy định về thừa kế theo di chúc và theo pháp luật.  

  • Quy định về thừa kế theo pháp luật trong Luật Hồng Đức

Trong thời kỳ phong kiến, Luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc triều hình luật được ban hành năm 1483 được coi là một trong những bộ luật phong kiến tiến bộ nhất và đặc sắc nhất trong lịch sử pháp luật Việt Nam đồng thời là bộ luật có niên đại xưa nhất còn giữ được cho tới ngày nay. Bộ luật đánh dấu thời kỳ hoàng kim nhất, rực rỡ nhất của chế độ phong kiến Việt Nam dưới triều đại nhà Lê, đặc biệt là dưới thời vua Lê Thánh Tông.

Những người thừa kế theo pháp luật gồm người có quan hệ huyết thống trực hệ với người để lại di sản. Căn cứ theo quy định tại Điều 374, 375, 376 thì di sản sẽ được chia theo nguyên tắc ưu tiên, trước hết là chia cho các con, không phân biệt con trai, con gái (hàng 1), nếu người chết không có con thì cha mẹ (hàng 2) được hưởng di sản thừa kế. Trường hợp không còn cha mẹ, di sản được chuyển cho người thừa tự, do họ hàng quyết định Luật Hồng Đức ghi nhận con nuôi cũng có quyền thừa kế di sản của cha mẹ nuôi trong trường hợp “có văn tự là con nuôi và ghi trong giấy rằng sau sẽ chia điền sản cho, khi cha mẹ nuôi chết không có chúc thư, điền sản đem chia cho con đẻ và con nuôi” và phần di sản được hưởng là “điền sản chia làm ba, con đẻ được hai phần, con nuôi được một phần; nếu không có con đẻ mà con nuôi cùng ở với cha mẹ từ thuở bé, thì được cả; thuở bé không cùng ở thì con nuôi được hai phần, người thừa tự được một phần” Luật Hồng Đức quy định vợ, chồng không được thừa kế di sản của nhau ngoại trừ một số trường hợp để đảm bảo cho cuộc sống của người vợ góa, chồng góa, chẳng hạn như trường hợp người vợ góa, chồng góa sống độc thân không có người nuôi dưỡng sẽ được hưởng một phần di sản của người chồng hoặc người vợ để sống hết đời và để thờ cúng. Tuy nhiên, nếu người vợ góa, chồng góa tái giá thì phải trả lại phần di sản được hưởng cho họ hàng của người chết.

Theo Điều 390 Luật Hồng Đức “cha mẹ mất cả, có ruộng đất, chưa kịp để lại chúc thư, mà anh em chị em tự chia nhau, thì lấy một phần 20 số ruộng đất làm phần hương hỏa, giao cho con trai trưởng giữ…”

Quy định về thừa kế, đặc biệt là thừa kế theo pháp luật trong Luật Hồng Đức là cơ sở để bảo vệ quan hệ trên dưới, tôn ti, trật tự của gia đình truyền thống đồng thời bảo vệ được quyền thừa kế của những người thừa kế.

  • Quy định về thừa kế theo pháp luật trong Luật Gia Long

Hoàng Việt luật lệ hay còn được biết đến với tên gọi Quốc triều điều luật,

Hoàng triều luật lệ, Luật Gia Long, là bộ luật chính thống của triều Nguyễn ở Việt Nam do vua Gia Long ban hành năm 1815. Với tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” đặc trưng của xã hội phong kiến, Luật Gia Long quy định di sản chia theo pháp luật sẽ được chia đều cho các con trai không phân biệt con trai do thê thiếp sinh ra. Nếu người con chết thì con của người con sẽ thay thế vị trí của cha mẹ mình để nhận di sản của ông bà. Vì con gái không được quyền thừa kế nên trong trường hợp người để lại di sản không có con trai thì các cháu trai thúc bá sẽ được hưởng di sản Luật Gia Long cũng quy định vợ góa, chồng góa không được thừa kế di sản của người chồng hoặc người vợ đã chết trừ trường hợp ngoại lệ tương tự như quy định trong Luật Hồng Đức.

Đối với di sản dùng làm hương hỏa, khác với Luật Hồng Đức, theo quy định của Luật Gia Long thì không bắt buộc phải dành một phần di sản làm hương hỏa.

  • Quy định về thừa kế theo pháp luật dưới thời Pháp thuộc

Chế định thừa kế trong Dân luật Bắc kỳ năm 1931 và Dân luật Trung Kỳ năm 1936 được quy định tương đối giống nhau, được xây dựng dựa trên BLDS Pháp 1804. Theo đó, thừa kế cũng được chia thành hai hình thức là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Di sản được chia theo pháp luật khi không có chúc thư hoặc chúc thư vô hiệu và được chia theo thứ tự ưu tiên. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản ngang nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không có ai ở hàng thừa kế trước. Người thừa kế hàng thứ nhất là các con. Con trai, con gái được chia di sản bằng nhau. Nếu cha hoặc mẹ chết trước hoặc chết cùng ông bà nội hoặc ông bà ngoại, thì các cháu thay thế cha hoặc mẹ nhận di sản của ông hoặc bà (thừa kế thế vị). Trong trường hợp người chết không có con thì di sản chia cho cha, mẹ (hàng thừa kế thứ hai). Nếu không còn cha, mẹ thì di sản chia cho cháu ruột bên nội. Nếu không có cháu ruột thì chia cho anh, chị em ruột.

1.1.2.Từ năm 1945 đến nay

Sau cách mạng tháng Tám Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Một nhà nước non trẻ đã phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp về chính trị, văn hóa, xã hội…Nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước lúc này là bảo vệ, củng cố thành quả cách mạng, kể các những vấn đề liên quan đến lĩnh vực dân sự.Ngày 22/05/1950 Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 97/SL về việc sửu đổi một số quy lệ  chế định trong dân luật, quy định một số nguyên tắc mới để áp dụng trong điều kiện nền dân chủ nước ta. Riêng trong lĩnh vực thừa kế đã quy định vợ , chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau, con trai, con gái đều có quyền thừa kế di sản của cha, mẹ, chồng góa, vợ góa, các con đã thành niên có quyền xin chia di sản, con cháu, hoặc vợ góa, chồng góa không bắt buộc phải nhận thừa kế của người đã chết, các chủ nợ của người chết không có quyền đòi người thừa kế phải thanh toán nợ quá phần di sản mà người đó nhận.

Hiến pháp năm 1959  đã công nhận vấn đề thừa kế thành nguyên tắc tại Điều 19 như sau: “ Nhà nước chiếu theo pháp luật, bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân”. Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định” Các con đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong gia đình và trong việc hưởng thừa kế, không phân biệt con trai, con gái, con ngoài giá thú,con đẻ, con nuôi”

Hiến pháp năm 1980 ghi nhận “ Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản công dân” ( Điều 27).Để phục vụ cho công tác xét xử, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư 81 ngày 24/07/1981 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế( di sản thừa kế, thừa kế theo di chúc, theo kế theo pháp luật, phân chia di sản…). Mặc dù là văn bản pháp lý đầu tiên quy định khá chi tiết về thừa kế kể từ sau Cách mạng Tháng Tám nhưng Thông tư số 81 vẫn còn có những hạn chế nhất định, chẳng hạn như việc chỉ quy định hai hàng thừa kế đã thu hẹp diện thừa kế,

chưa thật sự đảm bảo được quyền hưởng di sản của những người thân của người để lại di sản. Quy định các trường hợp không được hưởng thừa kế theo pháp luật cũng chưa đầy đủ… Trước tình hình đó, đòi hỏi phải có một văn bản vừa có nội dung toàn diện, vừa có tính pháp lý, thực thi cao.

Tiếp đó Luật hôn nhân và gia đình ban hành năm 1986 đã quy định một số điều liên quan đến quyền thừa kế của vợ, chồng ( Điều 14, Điều 16, Điều 17..)

Để phù hợp với sự biến đổi, phát triển của kinh tế – xã hội ở nước ta cũng như nhằm khắc phục những nội dung còn thiếu, còn vướng mắc, ngày 30/08/1990, Hội đồng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh Thừa kế, có hiệu lực từ ngày 10/09/1990.

Nội dung của Pháp lệnh Thừa kế đã mở rộng phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 25 Pháp lệnh Thừa kế thì những người thừa kế theo pháp luật được chia làm ba hàng:

Hàng thứ nhất: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết Hàng thứ hai: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết.

Hàng thứ ba: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.

Quy định trên đã bảo vệ được tối đa quyền của người để lại di sản cũng như quyền của những người thừa kế. So với Thông tư số 81, ngoài quy định mở rộng về diện những người được thừa kế, Pháp lệnh Thừa kế còn quy định quyền thừa kế của một người đang là con nuôi của người khác được thừa kế theo pháp luật của bố, mẹ nuôi và được thừa kế theo pháp luật của bố mẹ đẻ trong khi đó theo Thông tư số 81 thì con nuôi không được thừa kế theo pháp luật đối với di sản của bố, mẹ đẻ.

Tuy còn có những hạn chế nhất định, nhưng có thể khẳng định rằng, Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 là văn bản có hiệu lực pháp lý cao đầu tiên quy định tương đối đầy đủ về thừa kế ở nước ta kể từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến khi BLDS năm 1995 được ban hành. Pháp lệnh thừa kế đã góp phần tích cực trong việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế.

Để phù hợp với công cuộc đổi mới trên mọi bình diện, Hiến pháp năm 1992 đã được ban hành với nhiều nội dung mới. Sau khi Hiến pháp năm 1992 ra đời, nhiều bộ luật được sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới, trong đó phải kể đến BLDS năm 1995 được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 và có hiệu lực từ ngày 01/07/1996.

Bộ luật Dân sự năm 1995 là kết quả của quá trình kiểm nghiệm, sàng lọc thực tiễn đời sống xã hội và hệ thống hóa, pháp điển hóa các quy định trước đây. Thừa kế được quy định ở Phần thứ IV của Bộ luật, đã kế thừa những quy định tiến bộ, còn phù hợp của Pháp lệnh Thừa kế, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số nội dung mới. Quyền thừa kế theo pháp luật của công dân được quy định trong BLDS năm 1995 đã góp phần bảo vệ các quyền dân sự và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.  BLDS năm 2009 về cơ bản vẫn giữ nguyên như trong quy định BLDS năm 1995 và có một số thay đổi nhỏ để khắc phục vướng mắc không phù hợp với thực tế trong quá trình giải quyết tranh chấp về thừa kế trong thời gian qua.

Người được hưởng di sản thuộc hàng thừa kế thứ hai, thứ ba, và nội dung về thừa kế thế vị. BLDS năm 2019 bổ sung về thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.

Như đã đề cập ở trên, pháp luật thừa kế Việt Nam cũng như pháp luật thừa kế của nhiều quốc gia trên thế giới đều ghi nhận hai hình thức thừa kế, đó là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Giữa hai hình thức thừa kế này có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, có thể cùng được áp dụng trong việc phân chia di sản hoặc mang tính chất loại trừ nhau, có thể áp dụng độc lập một hình thức. Phân biệt thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật để tìm ra điểm giống và khác nhau là hết sức cần thiết. Trên cơ sở đó tạo điều kiện cho việc nhìn nhận vấn đề chia thừa kế một cách toàn diện, áp dụng quy định của pháp luật một cách chính xác nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền thừa kế. Hai hình thức thừa kế này có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt nhau. Dưới đây là những điểm chung và điểm khác biệt cơ bản:

  • Điểm giống nhau giữa thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật

Thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật đều là sự dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống .

Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản, nếu không xác định được nơi chư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc một phần di sản( Điều 611 BLDS 2019)

Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết ( Điều 613 BLDS 2019). Tất cả đều có quyền từ chối thừa kế.

Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước( Điều 622 BLDS 2019)

Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm,kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chêt để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế(

Điều 623 BLDS 2019)

  • Điểm khác nhau giữa thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật

Thứ nhất, về ý chí của người để lại tài sản.

Thừa kế theo di chúc: là thừa kế theo ý chí nguyện vọng của người để lại di sản trước khi chết.

Thừa kế theo pháp luật: là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định( Điều 649 BLDS 2019).

Thứ hai, Đối tượng được thừa kế

Thừa kế theo di chúc: là những cá nhân, tổ chức được người lập di chúc đề cập là người nhận di sản trong di chúc và đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.

Thừa kế theo pháp luật là các cá nhân có quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng đối với người để lại di sản( Điều 651 BLDS 2019) hoặc cha mẹ, vợ chồng, con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng mất khả năng lao động được pháp luật bảo vệ quyền thừa kế mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc( Điều 644 BLDS2019) hoặc con riêng và bố dượng, mẹ kế nêu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và được thừa kế di sản( Điều 654 BLDS 2019)

Thứ ba về điều kiện hưởng thừa kế

Thừa kế theo di chúc thì phải có di chúc trong đó di chúc  được lập bằng văn bản, nếu không lập được di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc bằng miệng( Điều 627 BLDS2019)

Thừa kế theo pháp luật trong các trường hợp sau:

Không có di chúc là những người để lại di sản không lập di chúc hoặc có lập di chúc nhưng đã hủy di chúc( di chúc bị xé, bị đốt hoặc tuyên bố hủy bỏ di chúc đã lập…) đều được coi là không có di chúc. Trong những trường hợp này, toàn bộ di sản của người chết để lại sẽ chia cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật.

Di chúc không hợp pháp là di chúc không đáp ứng được các điều kiện tại Điều 652 BLDS 2019. Di chúc bị coi là không hợp pháp sẽ không có hiệu lực pháp luật nên di sản liên quan đến di chúc đó sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật. Ví dụ Anh A có mảnh đất rộng 1000m2, thấy cha tuổi cao sức yếu, B cưỡng ép anh A bằng cách cầm tay A buộc A lập di chúc bằng văn bản với nội dung cho B hưởng toàn bộ mảnh đất 1000m2 của A sau khi A chết, A hoàn toàn không mong muốn lập di chúc như vây bởi A muốn cả 2 đứa con B và C đều được hưởng thừa kế mỗi người một nửa mảnh đất. Như vậy di chúc trên không hợp pháp do người lập cưỡng ép và trường hợp này sẽ được chia theo pháp luật.

Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản đã chết hoặc Tòa án tuyên bố là đã chết( khoản 2 Điều 71 của BLDS 2019, Khoản 1 Điều 611 BLDS 2019)

Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Người không có quyền hưởng di sản là những người đáng lẽ được hưởng di sản thừa kế theo di chúc nhưng lại thực hiện những hành vi đã quy định tại Khoản 1 Điều 621 BLDS 2019 “  a)gười bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe  hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó, b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản,c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người khác nhằm hường một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng, d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trog việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản”.

Phần di sản không được định đoạt trong di chúc là người để lại di sản chỉ định đoạt một phần di sản thì phần còn lại sẽ được áp dụng chia cho những người nằm trong hàng thừa kế .

Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật.

Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, họ từ chối nhận di sản hoặc chết trước, chết cùng thời điểm với người lập di chúc, liên quan đến cơ quan tổ chức được hưởng di sản theo di chúc nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Thứ tư, thừa kế thế vị:

Thừa kế theo di chúc: không có thừa kế thế vị

Thừa kế theo pháp luật trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống, nếu chá cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống( Điều 652 BLDS 2019) Thứ năm, về phân chia di sản:

Theo di chúc: Điều 659 BLDS 2019: “ Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc, nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp được chỉ định trong di chúc, trừ trượng hợp có thỏa thuận khác”

Thừa kế theo pháp luật theo Điều 660 BLDS 2019: “Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia”.

Thứ sáu, thứ tự áp dụng

Thừa kế theo di chúc được ưu tiên áp dụng trước sau đó mới chia theo thừa kế theo pháp luật.

1.2. Thừa kế theo pháp luật và các truờng hợp thừa kế theo pháp luật

Mỗi quốc gia với những đặc điểm riêng về lịch sử, truyền thống, địa lí, thành phần dân cư, trình độ phát triển kinh tế, chính trị, tôn giáo… là nền tảng tạo nên sự đa dạng về xã hội và hệ thống pháp luật ở những quốc gia này. Tuy nhiên, trong sự đa dạng đó vẫn có những điểm tương đồng nhất định. Sự giao lưu và tiếp biến giữa các nền văn hóa, những điểm tương đồng về lịch sử, truyền thống dân tộc của các quốc gia trong khu vực cũng như trên toàn thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hệ thống pháp luật có những điểm giống nhau. Dưới đây là quy định về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng trong pháp luật dân sự của một số nước.

Thừa kế trong hệ thống pháp luật các quốc gia luôn là một chế định quan trọng trong pháp luật dân sự. Điểm chung trong các quy định về thừa kế là đều quy định hai hình thức thừa kế bao gồm thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Các quy định về thừa kế theo pháp luật đều chú trọng bảo vệ quyền thừa kế của những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản. Trong lịch sử và hiện tại cũng đã bảo vệ quyền về tài sản, sở hữu tài sản, quyền thừa kế đối với các cá nhân, tổ chức.

 Do đó, để pháp luật về thừa kế của Việt Nam ngày càng hoàn thiện, việc học hỏi, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng pháp luật cũng như vận dụng linh hoạt, sáng tạo các quy định của các nước là hết sức cần thiết.

1.2.1. Khái niệm về thừa kế theo pháp luật và các trường hợp thừa kế theo pháp luật.

Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người. Ở thời kì này, việc thừa kế nhằm di chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống được tiến hành dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục tập quán riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định. Nghiên cứu về thừa kế, Ph. Awngghen viết: “ Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên mẹ và theo tập tục thừa kế nguyên thủy trong thị tộc mới được thừa kế những người trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại trong thị tộc, vì tài sản để lại không có giá trị lớn,nên lâu nay trong thực tiễn có lẽ người ta vẫn trao tài sản đó cho những bà con than thích nhất, nghĩa là trao cho những người cùng huyết thống với người mẹ.”

Quan hệ thừa kế xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người.Bởi lẽ, quan hệ sở hữu là mối quan hệ giữa người với người về việc chiếm hữu của cải vật chất trong xã hội, trong quá trình sản xuất, lưu thong phân phối của cải vật chất. Sự chiếm hữu vật chất được thể hiện giữa người này với người khác, tập đoàn này với tập đoàn khác. Sự chiếm hữu đó là tiền đề đầu tiên làm xuất hiện quan hệ thừa kế.

Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế là pháp luật về thừa kế, là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định trình tự dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống. Thừa kế là một chế định pháp luật dân sự, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản người chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định đồng thời quy định phạm vi quyền , nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế.Quyền thừa kế hiểu theo nghĩa chủ quan là quyền của người để lại di sản và quyền của người nhận di sản. Quyền chủ quan này phải phù hợp với các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng. Thừa kế với tư cách là một quan hệ pháp luật dân sự trong đó các chủ thể có những quyền và nghĩa vụ nhất định. Trong quan hệ này, người có tài sản, trước khi chết có quyền định đoạt tài sản của mình cho người khác.Những người có quyền nhận di sản có quyền nhận hoặc không nhận.Đối tượng của thừa kế là các tài sản, quyền tài sản thuộc quyền của người đã chết để lại. Tuy nhiên một số quyền tài sản gắn liền với nhân than người đã chết không thể chuyển cho người thừa kế vì pháp luật quy định chỉ người đố mới có quyền được hưởng.

Không nằm ngoài xu thế chung của thế giới, pháp luật thừa kế của Việt Nam cũng quy định hai hình thức thừa kế bao gồm thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Thừa kế theo di chúc là sự dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống theo ý chí của người lập di chúc khi còn sống. Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào người để lại di sản cũng lập di chúc hoặc di chúc do người này lập ra đều phát sinh hiệu lực theo quy định của pháp luật. Do đó, song song với hình thức thừa kế theo di chúc, pháp luật còn quy định về hình thức thừa kế theo pháp luật nhằm đảm bảo quyền thừa kế của các chủ thể.

Theo quy định tại Điều 650 BLDS năm 2019 thì “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”.

Thừa kế theo pháp luật chỉ được thực hiện trong trường hợp người chết không để lại di chúc hoặc có di chúc nhưng di chúc không hợp pháp và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Người thừa kế theo pháp luật là cá nhân và có mối quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản. Những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật được pháp luật chỉ định hưởng di sản theo một trật tự ưu tiên là theo hàng thừa kế.

Qua việc phân tích trên đây có thể rút ra định nghĩa về thừa kế theo pháp luật như sau: Thừa kế theo pháp luật là sự dịch chuyển di sản của người chết cho người còn sống trên cơ sở quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân quan hệ nuôi dưỡng hay quan hệ thân thuộc giữa người có tài sản để lại sau khi họ chết và người nhận di sản.

Những người được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi. Mọi người bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế của người chết, thực hiện nghĩa vụ mà người chết chưa thực hiện trong phạm vi di sản nhận.

Phạm vi những người thừa kế rất rộng, vì vậy pháp luật quy định thành nhiều hàng thừa kế. Trong đó, hàng thứ nhất là những người có quan hệ hôn, huyết thống gần gũi nhất so với các hàng khác. Các hàng thứ hai, thứ ba là những hàng dự bị nếu như người chết không có những người ở hàng thứ nhất hoặc có nhưng họ đều không nhận hoặc không có quyền nhận.

1.2.2. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

Thừa kế theo pháp luật không chỉ phát sinh khi người để lại di sản không có di chúc mà còn có thể phát sinh trong nhiều tình huống khác. Qua mỗi giai đoạn phát triển, quy định về các trường hợp thừa kế theo pháp luật ngày càng chặt chẽ, rõ ràng và toàn diện hơn. Theo quy định tại Điều 650 BLDS năm 2019 thì thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:

Một là, không có di chúc. Đây là trường hợp theo quy định của pháp luật, người để lại di sản đáp ứng yêu cầu về năng lực chủ thể trong việc lập di chúc nhưng lại không thực hiện quyền lập di chúc của mình.

Hai là, di chúc không hợp pháp. Mặc dù người để lại di sản có lập di chúc nhưng di chúc này lại không thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của pháp luật dẫn đến di chúc vô hiệu (không có giá trị pháp lý), di sản sẽ được chia theo pháp luật.

Ba là, những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế. Trường hợp này, di chúc bị coi là vô hiệu căn cứ theo quy định về hiệu lực pháp luật của di chúc tại khoản 3 Điều 651 BLDS năm 2019. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong trường hợp nếu chỉ có một trong số những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản hoặc một trong số các cơ quan, tổ chức không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di sản liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này vô hiệu và được chia thừa kế theo pháp luật.

Bốn là, những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản. Khi mở thừa kế nếu người thừa kế theo di chúc vi phạm khoản 1 Điều 620 BLDS năm 2019 thì không có quyền hưởng di sản. Trường hợp người được chỉ định trong di chúc có quyền hưởng di sản nhưng từ chối nhận di sản thì di sản được chia theo pháp luật.

Năm là, phần di sản không được định đoạt trong di chúc. Trường hợp này xảy ra khi người để lại di sản có nhiều tài sản khác nhau nhưng lại chỉ định đoạt trong di chúc một phần tài sản trong khối di sản này. Khi đó, phần di sản không được thể hiện trong di chúc sẽ được chia theo pháp luật.

Sáu là, phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực. Theo BLDS 2019 thì trong trường hợp di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật. Điều này có nghĩa là di sản liên quan đến phần di chúc vô hiệu sẽ được chia theo pháp luật còn các phần khác vẫn được chia theo di chúc.

Bảy là phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.

Điều kiện để một cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức đó phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Điều này có nghĩa là vào thời điểm người để lại di sản chết mà cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt động thì sẽ không được hưởng thừa kế. Đó là trường hợp pháp nhân bị giải thể hoặc phá sản, quyền và nghĩa vụ của pháp nhân hoàn toàn chấm dứt nên pháp nhân không còn tồn tại trên thực tế.

Việc xác định các trường hợp thừa kế theo pháp luật là vô cùng quan trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người có quyền thừa kế theo pháp luật.

1.3. Một số quy định chung về thừa kế theo pháp luật Việt Nam

1.3.1. Di sản thừa kế

Di sản thừa kế là tài sản của người chết để lại cho những người còn sống. Điều 612 BLDS năm 2019 quy định: “ Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.

Như vậy, di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người chêt, quyền về tài sản của người đó. Quyền sở hữu tài sản là một trong những quyền cơ bản của công dân được Nhà nước bảo hộ. Điều 32 Hiến pháp năm 2017 quy định: “ 1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp , của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. 2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”. Tất cả tài sản thuộc quyền sở hữu của người để lại thừa kế theo quy định của Hiến pháp đều là di sản.

Di sản thừa kế bao gồm:

a.Tài sản riêng của người chết

Tài sản riêng của người chết là tài sản do người đó tạo ra bằng thu nhập hợp pháp( như tiền lương, tiền được trả công lao động, tiền thưởng, tiền nhận bút, tiền trúng thưởng xổ số…) tài sản được tặng cho, được thừa kê, từ liệu sinh hoạt riêng( như quần áo, giường tủ, xe máy, ô tô, vô tuyến..) nhà ở, tư liệu sản xuất các loại, vốn dung để sản xuất kinh doanh.

Tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý được dung làm đồ trang sức hoặc dùng làm của cải để dành.

Nhà ở, diện tích mà người có nhà bị cải tạo XHCN, được Nhà nước để lại cho để ở và xác định thuộc quyền sở hữu của người đó. NHà do được thừa kế, tặng cho, mua, trao đổi hoặc tự xây dựng được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép và đã làm thủ tục sang tên, trước bạ.

Vốn, cổ phần, vật tư, tư liệu sản xuất của những người sản xuất cá thể hoặc của các tư nhân được sản xuất kinh doanh hợp pháp.

Tài liệu, dụng cụ máy móc của người làm công tác nghiên cứu. Cây cối mà người được giao sử dụng đất trồng và hưởng lợi trên đất đó. b. Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác

Trong thực tế có nhiều trường hợp do nhiều người cùng góp vốn để cùng sản xuất kinh doanh, nên có khối tài sản thuộc quyền sở hữu chung của nhiều người ( Đồng sở hữu chủ với một khối tài sản nhất định). Nếu một trong đồng sở hữu chủ chết thì di sản thừa kế của người chết là phần tài sản thuộc sở hữu của người đó đã đóng góp trong khối tài sản chung.

Theo điều 213 BLDS năm 2019, sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất. Điều 66 Luật hôn nhân và gia đình năm 2018 quy định về giải quyết tài sản của chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết: “1. Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.

  1. Khi có yêu cầu chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế dộ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
  2. Trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống , gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu tòa án hạn chết phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự”.
  3. Quyền về tài sản do người chết để lại

Đó là các quyền dân sự được phát sinh từ các quan hệ hợp đồng hoặc do việc bồi thường thiệt hại mà trước khi chết họ đã tham gia vào những quan hệ này( quyền đòi nợ, đòi lại tài sản cho thuê hoặc cho mượn, chuộc lại tài sản đã thế chấp, cầm cố, yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng…)

Ngoài những quyền tài sản nói trên, quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp cũng là di sản thừa kế. Chủ sở hữu quyền tác giả để lại thừa kế tài sản như quyền hưởng nhuận bút và các lợi ích vật chất khác. Đối với quyền sở hữu công nghiệp một loại tài sản có tính chất đặc thù nên những quy định về thừa kế đối với quyền công nghiệp cũng có những nét riêng. Theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp được cấp văn bằng bảo hộ thì được bảo hộ trong thời hạn văn bằng bảo hộ có hiệu lực.

Đất đai thược quyền sở hữu của toàn dân, Nhà nước là người quản lý toàn bộ đất đai và giao cho tổ chức, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài, nên quyền để lại thừa kế quyền sử dụng đất( tùy từng loại đất khác nhau mà quy định khác nhau)

1.3.2. Người để lại di sản thừa kế

Người để lại di sản người có tài sản sau khi chết để lại cho người còn sống theo ý chí của họ được thể hiện trong di chúc hay theo quy định của pháp luật. Người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân, không phân biệt bất cứ điều kiện nào không phân biệt thành phần xã hội, mức độ năng lực hành vi.

Theo quy định tại Điều 609 Bộ luật Dân sự 2019 thì cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình sau khi chết( Thừa kế theo di chúc).Theo đó, luật cũng quy định các đối tượng được lập di chúc bao gồm:  Người từ đủ 18 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép

Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc

Riêng với đối tượng dưới 18 tuổi, luật mới chỉ có quy định về độ tuổi từ đủ 15 đến chưa đủ 18 tuổi. Theo đó, các cá nhân nằm trong độ tuổi này được phép lập di chúc khi được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc và di chúc phải được lập thành văn bản.

Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở….Khi cò sống họ có quyền đưa các loại tài sản này vào lưu thông dân sự hoặc lập di chúc cho người khác hưởng tài sản của mình sau khi chết. Trường hợp công dân có tài sản thuộc quyền sở hữu riêng, không lập di chúc sau khi chết, tài sản này sẽ chia theo quy định của pháp luật.

Đối với pháp nhân , tổ chức được thành lập với những mục đích và nhiệm vụ khác nhau. Tài sản của pháp nhân, tổ chức để duy trì các hoạt động của chính mình.. Không cá nhân nào có quyề định đoạt tài sản của pháp nhân, tổ chức. Khi  pháp nhân, tổ chức đình chỉ hoạt động của mình( giải thể, phá sản…), tài sản được giải quyết theo quy định của pháp luật. Pháp nhân, tổ chức tham gia vào quan hệ thừa kế với tư cách là người được hưởng di sản theo di chúc.

1.3.3. Đối tượng được hưởng thừa kế

Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân hoặc tổ chức hoặc Nhà Nước. Những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại.

Người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và phải là người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng đối với người để lại di sản.

Người thừa kế là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế, người đã thành thai vào thời điểm mở thừa kế và sinh ra mà còn sống cũng là người thừa kế.

Người thừa kế là pháp nhân, tổ chức thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế( Điều 613 BLDS năm 2019).

Người thừa kế phải thực hiện các nghĩa vụ sau:

Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế.

Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như thừa kế cá nhân.

Người thừa kế có quyền nhận di sản thừa ké theo di chúc hoặc theo pháp luật. Ngoài ra, người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài của mình đối với người khác.

1.3.4. Thời điểm, địa điểm mở thừa kế

  • Thời điểm mở thừa kế

Thời điểm mở thừa kế là thời điểm phát sinh quan hệ thừa kế. Theo quy định tại khoản 1 Điều 611 BLDS năm 2019 quy định thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 71 BLDS. Việc xác định mở thừa kế rất quan trọng. Kể từ thời điểm đó,xác định được chính xác tài sản, quyền và nghĩa vụ về tài sản của người để lại thừa kế gồm có những gì và đến khi chia di sản còn bao nhiêu. Thời điểm mở thừa kế là căn cứ xác định những người thừa kế của người đã chết, vì người thừa kế là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trươc khi người để lại di sản chết.

Địa điểm mở thừa kế Khoản 2 Điều 611 BLDS năm 2019 quy định: Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản, nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản.”

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464