Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng văn hóa nhà trường THPT Đoan Hùng hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Quản lý văn hóa nhà trường ở trường Trung học phổ thông Đoan Hùng, Phú Thọ trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.3. Kết quả khảo sát
2.3.1. Thực trạng văn hóa nhà trường ở trường THPT Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ
2.3.1.1. Nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh về tầm quan trọng của xây dựng VHNT.
Để tìm hiểu nhận thức của CBQL, GV, HS về tầm quan trọng của VHNT, tác giả đã sử dụng phiếu điều tra với 04 CBQL, 62 GV, NV và 285 HS. Kết quả thu được thể hiện ở bảng dưới đây.
Bảng 2.4. Nhận thức của CBQL, GV, HS về tầm quan trọng của VHNT
Qua bảng 2.4 tổng hợp kết quả khảo sát thực trạng nhận thức của CBQL, GV và HS về tầm quan trọng của VHNT cho thấy: Đa số CBQL, GV, HS đều cho rằng việc xây dựng VHNT là rất quan trọng và quan trọng. Cụ thể: Số CBQL (chiếm 100,0%), GV (chiếm 87,1%), HS (chiếm 76,5%). Nếu như 75% CBQL nhận thức VHNT rất quan trọng thì tỉ lệ này đối với GV là 45,2% và HS là 43,2%. Bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận (12,9% GV và 23,5% HS) chỉ đánh giá VHNT là tương đối quan trọng. Điều đó cho thấy CBQL có nhận thức tốt về tầm quan trọng của VHNT, tuy nhiên vẫn cần thiết phải nâng cao hơn nữa nhận thức của GV và HS trong việc xây dựng và phát triển VHNT.
2.3.1.2. Nhận thức của giáo viên, học sinh về ảnh hưởng của văn hóa nhà trường đến giáo viên và học sinh. Luận văn: Thực trạng văn hóa nhà trường THPT Đoan Hùng
Tiến hành tìm hiểu nhận thức của GV về ảnh hưởng của VHNT đến GV, tác giả đã tiến hành phát phiếu điều tra đến 62 GV của trường THPT Đoan Hùng. Kết quả thu được thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 2.5. Nhận thức của GV về ảnh hưởng của VHNT đến GV
Kết quả khảo sát ở bảng 2.5 cho thấy: Những nội dung khác nhau của VHNT ảnh hưởng đến GV ở các mức độ khác nhau:
Các biểu hiện của VHNT ảnh hưởng đến GV được phần lớn đánh giá ở mức độ tốt là “GV sẵn sàng hợp tác, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau” chiếm 66,1%; GV “quan tâm cải thiện thành tích giảng dạy và học tập của trường” chiếm 46,8% và “GV tích cực trao đổi phương pháp và kỹ năng giảng dạy” chiếm 41,9%. Bên cạnh đó các biểu hiện được GV đánh giá nhiều ở mức độ trung bình là “GV cảm thấy thoải mái dễ dàng thảo luận về những vấn đề hay khó khăn mà họ gặp phải” chiếm 59,7%; “Bầu không khí cởi mở, tin cậy, tôn trọng lẫn nhau tạo động lực để GV quan tâm cải tiến nâng cao chất lượng dạy và học” chiếm 51,6% và “GV cùng hợp tác với lãnh đạo nhà trường để thực hiện mục tiêu giáo dục đã đề ra” chiếm 50%.
Tuy nhiên vẫn còn một số biểu hiện được GV đánh giá ở mức độ chưa tốt chiếm tỉ lệ tương đối cao là “GV quan tâm đến công việc của nhau” chiếm 25,8% và “GV tích cực trao đổi phương pháp và kỹ năng giảng dạy” chiếm 21%… Điều đó cho thấy mặc dù GV sẵn sàng hợp tác, chia sẻ và học hỏi lẫn nhau nhưng nhiều GV vẫn chưa quan tâm đến công việc của nhau, vẫn “việc ai nấy làm”. Bên cạnh đó phần lớn GV chưa cảm thấy thoải mái dễ dàng thảo luận về những vấn đề hay khó khăn mà họ gặp phải (mức độ trung bình và chưa tốt chiếm 77,4%) và bầu không khí cởi mở, tin cậy, tôn trọng lẫn nhau tạo động lực để GV quan tâm cải tiến nâng cao chất lượng dạy và học còn hạn chế (mức độ trung bình và chưa tốt chiếm 71%)
Cùng với việc khảo sát ảnh hưởng của VHNT đến GV, tác giả đã tiến hành phát phiếu khảo sát đến 285 HS của trường THPT Đoan Hùng. Kết quả thu được thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 2.6. Nhận thức của HS về ảnh hưởng của VHNT đến HS
Kết quả khảo sát qua bảng 2.6 cho thấy: Các biểu hiện của VHNT ảnh hưởng đến HS được HS đánh giá ở các mức độ khác nhau. Đa số HS đánh giá cả 10 biểu hiện ảnh hưởng nêu trên ở mức độ trung bình, trong đó biểu hiện “HS được cởi mở và chấp nhận các nhu cầu và hoàn cảnh khác nhau” chiếm tỉ lệ cao nhất là 80% và biểu hiện “HS nỗ lực đạt thành tích học tập tốt nhất” đạt 55,5%. Các biểu hiện khác dao động từ 59,6% đến 71,2%.
Tỷ lệ HS đánh giá VHNT có ảnh hưởng ở mức độ tốt đến HS cao nhất ở nội dung “HS nỗ lực đạt thành tích học tập tốt nhất” chiếm 33,3%; tiếp đến là “HS cảm thấy gắn bó với trường lớp, thích thú với việc đến trường” chiếm 30,2% và “HS thấy hứng thú, có trách nhiệm tham gia vào các hoạt động học tập, vui chơi, lao động…trong nhà trường” chiếm 28,8% và thấp nhất là biểu hiện “HS tích cực khám phá, liên tục trải nghiệm và tích cực tương tác với GV, bạn bè” chiếm 11,9%, “HS được cởi mở và chấp nhận các nhu cầu và hoàn cảnh khác nhau” chiếm 12,6% và “HS được tôn trọng, được thừa nhận, cảm thấy mình có giá trị” chiếm 16,8%… Qua đó có thể thấy rằng HS còn chưa tích cực trong việc tìm tòi, khám phá tri thức, các hoạt động trải nghiệm còn hạn chế, sự tương tác giữa GV và HS, giữa HS với nhau còn chưa cao.
Các biểu hiện của VHNT được HS đánh giá ảnh hưởng chưa tốt đến HS có tỷ lệ cao hơn các mặt khác, như: “HS tích cực khám phá, liên tục trải nghiệm và tích cực tương tác với GV, bạn bè” chiếm 31,2%; tiếp đến là “HS được tôn trọng, được thừa nhận, cảm thấy mình có giá trị” chiếm 18,9% và “HS được khuyến khích phát biểu, bày tỏ quan điểm cá nhân” chiếm 12,3%. Các nội dung khác thể hiện mức độ ảnh hưởng chưa tốt đến HS có tỷ lệ nhỏ hơn.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Viết Thuê Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Quản Lý Giáo Dục
2.3.1.3. Nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên về các mối quan hệ giữa các thành viên nhà trường. Luận văn: Thực trạng văn hóa nhà trường THPT Đoan Hùng
Để tìm hiểu thực trạng nhận thức của CBQL, GV về các mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường trong các hoạt động xây dựng VHNT ở trường THPT Đoan Hùng hiện nay, tác giả tiến hành phát phiếu điều tra đến 04 CBQL, 62 GV của nhà trường với nội dung: “Xin thầy/cô cho biết mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường là mối quan hệ như thế nào?”. Kết quả thu được thể hiện ở bảng sau đây:
Bảng 2.7: Nhận thức của CBQL, GV về mối quan hệ giữa các thành viên trong công tác xây dựng VHNT
Kết quả khảo sát ở bảng 2.7 cho thấy: Tỷ lệ 37,8% CBQL, GV cho rằng mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường trong công tác xây dựng VHNT là quan hệ mang tính chất quản lý, nguyên tắc. Điều này cho thấy quan hệ giữa CBQL với GV, giữa GV với nhau, giữa GV và HS dựa trên các quy định có tính bắt buộc, đòi hỏi mọi người phải tuân thủ các quy định quản lý của cấp trên và các nội quy được thống nhất trong tập thể. Vì vậy, các nội dung phải được triển khai thật chặt chẽ, cụ thể, tỉ mỉ; quá trình thực hiện phải đảm bảo đúng quy trình, kỹ thuật, đúng tiến độ thực hiện, có theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thường xuyên… Qua quan sát và tìm hiểu của tác giả được biết, mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà còn sử dụng nhiều mệnh lệnh hành chính. Điều đó rất tốt trong quá trình triển khai những quy định có tính bắt buộc chung cho tất cả mọi người, bao gồm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các quy định, quy chế chuyên môn của ngành mà tất cả mọi người phải tuân theo. Tuy nhiên, vì các quy định mang tính nguyên tắc nhưng không phải ai cũng nắm vững, hiểu rõ nên rất dễ tạo ra không khí làm việc căng thẳng, là điều kiện thuận lợi để xảy ra mâu thuẫn, xung đột trong nội bộ nhà trường.
Tỷ lệ 27,3% số CBQL, GV nhà trường cho rằng mối quan hệ đoàn kết, gắn bó chặt chẽ, khích lệ GV, HS dạy tốt, học tốt bên cạnh mối quan hệ mang tính chất quản lý, nguyên tắc. Bên cạnh đó có 16,7% số GV cho rằng quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường là quan hệ hợp tác, chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau. Thực trạng về mối quan hệ này rất có ý nghĩa vì nó góp phần quan trọng vào việc xây dựng tập thể vững mạnh, tạo sự đồng bộ thống nhất cao để thực hiện nhiệm vụ cốt lõi của nhà trường là dạy tốt, học tốt.
Tuy nhiên, vẫn còn 10,6% cho rằng mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường còn độc đoán, áp đặt, thiếu tính dân chủ trong các hoạt động của nhà trường. Chỉ có một số ít (7,6%) cho rằng các mối quan hệ trong nhà trường là dân chủ, cởi mở, tin cậy và tôn trọng lẫn nhau. Luận văn: Thực trạng văn hóa nhà trường THPT Đoan Hùng
Nhận thấy việc giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng VHNT và là vấn đề có tính nhạy cảm. Tác giả đã trực tiếp trò chuyện với một số CBQL, GV và HS nhà trường để tìm hiểu thêm về vấn đề này và nhận thấy:
Quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường được thể hiện ở nhiều khía cạnh. Nhà trường đã thực hiện tương đối tốt các mối quan hệ trong quản lý mang tính nguyên tắc song cũng cần có sự vận dụng linh hoạt vào từng hoàn cảnh cụ thể của từng đối tượng quản lý để có cách ứng xử phù hợp, sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. Bên cạnh đó, nhà trường đã quan tâm đến sự đoàn kết, gắn bó chặt chẽ, khích lệ GV, HS dạy tốt, học tốt, thực tế đạt được ở mức khá, song người quản lý cần tôn trọng tập thể, phát huy tính dân chủ trong các hoạt động của nhà trường hơn nữa, hạn chế việc quản lý bằng mệnh lệnh hành chính khô cứng mà cần phải tăng cường các biện pháp năng động linh hoạt mềm dẻo có hiệu quả, tạo bầu không khí dân chủ cởi mở khích lệ động viên mọi người, quan tâm lắng nghe ý kiến nguyện vọng và tâm tư của đội ngũ GV và của HS, tránh các việc làm độc đoán, gia trưởng áp đặt của người quản lý với cấp dưới, với HS, hạn chế tối đa và triệt tiêu sự đố kỵ, ghen ghét giữa các thành viên, gây mất đoàn kết nội bộ.
Một trong những điểm yếu mà các CBQL, GV và HS đưa ra là quan hệ trong ứng xử và giao tiếp. Ứng xử, giao tiếp trong nhà trường có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng bầu không khí vui tươi phấn khởi, xây dựng nội bộ đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Đồng thời ứng xử và giao tiếp tốt còn góp phần xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người và người, cũng như góp phần hình thành nề nếp, kỷ cương học đường ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên, đôi lúc sự cư xử chưa hài hòa, thiếu khéo léo, thiếu tế nhị của CBQL với GV, của GV với GV, đặc biệt là của GV với HS và HS với nhau đã tạo ra những mâu thuẫn, va chạm không cần thiết khiến cho không khí làm việc căng thẳng, chưa phát huy được tính năng động, sáng tạo của các thành viên trong nhà trường.
Để tìm hiểu sâu hơn về mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường, tác giả tiến hành khảo sát đánh giá mức độ biểu hiện mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường bằng cách phát phiếu hỏi đối với 04 CBQL và 62 GV và 285 HS. Kết quả thu được thể hiện ở bảng sau đây:
Bảng 2.8: Đánh giá của CBQL, GV, HS về mức độ biểu hiện của các mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường
Kết quả khảo ở bảng 2.8 cho thấy: Nhìn chung các biểu hiện mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường được CBQL, GV, HS đánh giá là tương đối tốt, vì tỷ lệ đánh giá ở mức tốt chiếm tỷ lệ cao hơn so với mức trung bình, tỷ lệ đánh giá mối quan hệ là chưa tốt hay không rõ là rất ít. Không có sự khác biệt lớn giữa sự đánh giá của CBQL, GV và HS. Trong tất cả các tiêu chí đánh giá, tỉ lệ đánh giá ở mức độ tốt đối với CBQL từ 50% đến 75,0%; GV từ 37,1% đến 85,5% và HS từ 44,9 % đến 78,2%.
Về mối quan hệ giữa CBQL và GV có thể nhận thấy việc chia sẻ quyền lực, mạnh dạn trao quyền chưa được thực hiện tốt, có 37,1% GV đánh giá ở mức độ tốt và 56,5 ở mức trung bình, điều đó có nghĩa là các CBQL chưa hoàn toàn yên tâm, tin tưởng khi giao một số công việc nào đó cho GV hoặc còn có tâm lý e dè, chưa mạnh dạn trao quyền cho họ. Bên cạnh đó chỉ có 41,9% GV tích cực hợp tác, tham gia đóng góp ý kiến với lãnh đạo nhà trường để thực hiện mục tiêu giáo dục đã đề ra. Số còn lại (58,1%) đóng góp ý kiến ở mức độ trung bình.
Quan hệ giữa GV với GV có vai trò khá quan trọng trong nhà trường vì trong đội ngũ cán bộ GV, NV của nhà trường thì lực lượng GV là chủ yếu; mặt khác nó liên quan đến một hoạt động chính của nhà trường là hoạt động dạy học. Mối quan hệ hợp tác chia sẻ tin cậy, giúp đỡ nhau trong chuyên môn sẽ giúp mỗi GV trưởng thành hơn trong giảng dạy; sự chia sẻ, cảm thông, tôn trọng lẫn nhau sẽ tạo ra sự đoàn kết thống nhất cao góp phần xây dựng tập thể GV nói riêng và nhà trường nói chung vững mạnh. Mối quan hệ tốt đẹp giữa GV với nhau tạo hình ảnh tốt đẹp trong HS, là tấm gương gián tiếp giáo dục HS. Các biểu hiện về mối quan hệ giữa GV với GV, HS được đánh giá tương đối tốt. Đa số GV thể hiện sự đoàn kết, hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau (62,9%); quan tâm, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ và tiến bộ (59,7%); cởi mở, tin cậy, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau (54,8%). Điều đó tạo nên bầu không khí vui tươi, phấn khởi, tạo động lực để GV quan tâm cải tiến, nâng cao chất lượng dạy học, đồng thời góp phần cải thiện thành tích giảng dạy và học tập của nhà trường. Việc quan tâm đến mối quan hệ này cũng là việc nhà trường đang hình thành xây dựng một hệ giá trị chung trong đơn vị, làm cho mọi thành viên trong nhà trường hiểu rõ, cùng mong muốn thực hiện theo những giá trị tốt đẹp đó. Bên cạnh đó, một số ít (4,8%) GV cho rằng việc quan tâm, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ và tiến bộ ở mức độ chưa tốt, nghĩa là vẫn có 03 GV chưa hài lòng về một khía cạnh nào đó trong mối quan hệ giữa GV với nhau. Do vậy nhà trường cũng cần chú ý tới mối quan hệ này.
Quan hệ giữa GV và HS trong nhà trường thể hiện rõ nét nhất trong quá trình dạy học và cụ thể qua hoạt động dạy và học, hoạt động giao tiếp ứng xử giữa thầy và trò. Điều này có thể tác động tích cực (hoặc tiêu cực) tới quá trình dạy học và quá trình giáo dục. Quan hệ này có tính hai chiều và diễn ra trong quá trình dạy học và giáo dục. Các biểu hiện về mối quan hệ giữa GV và HS được đa số CBQL, GV, HS đánh giá: “GV tôn trọng và có sự cảm thông với HS, HS tôn trọng, lễ phép với GV” ở mức độ tốt là 85,5 %; “GV quan tâm phát huy tích cực của HS, HS tích cực hợp tác với GV” ở mức độ trung bình là 50% ; “GV trách nhiệm, yêu thương HS, tin cậy và khuyến khích HS rèn luyện, phấn đấu, bày tỏ, phát biểu quan điểm cá nhân” ở mức độ trung bình là 53,2% và mức độ chưa tốt là 4,8%. Bên cạnh đó 59,7% GV cho rằng “GV đặt ra các mong đợi cao và rõ ràng với HS” ở mức độ trung bình và chỉ có 44,9% HS đánh giá tốt ở tiêu chí này. Có thể thấy rằng mối quan hệ giữa GV và HS trong nhà trường còn có ảnh hưởng lớn của những yếu tố thuộc về truyền thống, nhất là truyền thống “tôn sư trọng đạo”, vì vậy việc HS chưa dám mạnh dạn bày tỏ, nói lên suy nghĩ của mình là điều dễ hiểu.
Mối quan hệ giữa GV và HS có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng bởi nó ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng giáo dục. Thực trạng nêu trên có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, cần phải được đánh giá đầy đủ, chính xác, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp hữu hiệu để làm cho mối quan hệ này ngày càng tốt đẹp hơn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, đồng thời giữ gìn phát huy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Luận văn: Thực trạng văn hóa nhà trường THPT Đoan Hùng
Về mối quan hệ giữa HS với HS: Biểu hiện được đa số CBQL, GV, HS đánh giá ở mức độ tốt đó là “HS chấp thuận các nhu cầu và hoàn cảnh khác nhau của HS”, điều đó cho thấy các em đã có sự cảm thông, chia sẻ với các bạn có hoàn cảnh khác nhau, biết chấp nhận những khác biệt về nhu cầu và sở thích cá nhân, ít có sự phân biệt giàu, nghèo… Bên cạnh đó có 75% CBQL và 54,8% GV, 62,8% HS đánh giá HS đoàn kết, thân ái, hợp tác, thân thiện ở mức độ tốt. Điều đó rất thuận lợi trong việc tạo dựng môi trường văn hóa học đường lành mạnh. Ngoài ra, tỷ lệ 50% CBQL, 43,5% GV cho rằng HS học hỏi, hiểu biết lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ ở mức độ tốt. Như vậy, có thể nhận thấy vẫn còn tỷ lệ lớn HS được đánh giá chưa chịu khó học hỏi và giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ. Qua thực tế quan sát và tìm hiểu của tác giả được biết đa số các HS trong nhà trường có mối quan hệ đoàn kết, bình đẳng, hợp tác và thân thiện, song bên cạnh đó vẫn có một số HS còn những biểu hiện cá nhân, ích kỷ, thậm chí thiếu văn hóa: nói tục, chửi bậy, gây mất đoàn kết, gây gổ đánh nhau ngay trong trường…điều đó làm cho mối quan hệ giữa các HS chưa thực sự tốt đẹp. Việc GD đạo đức, lối sống, kỷ cương, nề nếp học đường cho HS đôi lúc còn chưa được quan tâm đúng mức. Thực trạng trên đòi hỏi nhà trường phải tăng cường các biện pháp giáo dục đạo đức, lý tưởng cho HS, giáo dục kỹ năng sống và tăng cường các biện pháp đảm bảo kỷ cương, nề nếp học đường, ngăn chặn đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong HS.
Nhìn chung mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường được đa số CBQL, GV đánh giá tốt, tỷ lệ đánh giá mối quan hệ này chưa tốt hay không rõ là không nhiều. Tuy nhiên ở một số tiêu chí mức độ trung bình vẫn chiếm tỷ lệ cao, đòi hỏi nhà trường cần quan tâm hơn nữa đến công tác xây dựng mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường, tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng VHNT ngày càng lành mạnh, tích cực và thân thiện hơn. Đồng thời có các biện pháp để ngăn chặn, đẩy lùi, xóa bỏ các hiện tượng tiêu cực trong nhà trường cũng như sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào nhà trường.
2.3.1.4. Nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh về giá tr cốt lõi và hệ thống chuẩn mực văn hóa của nhà trường.
Để tìm hiểu nhận thức của CBQL, GV về giá trị cốt lõi và hệ thống chuẩn mực văn hóa của nhà trường, tác giả tiến hành điều tra bằng phiếu hỏi đối với 04 CBQL và 62 GV của nhà trường, kết quả được so sánh trong biểu đồ dưới đây:
Biểu đồ 2.1. Mức độ nhận thức của CBQL và GV, HS về giá tr cốt lõi và hệ thống chuẩn mực văn hóa của nhà trường
Kết quả khảo sát về mức độ nhận thức của CBQL, GV và HS về giá trị cốt lõi và hệ thống chuẩn mực văn hóa của nhà trường cho thấy:
Có sự khác nhau rõ rệt giữa nhận thức của CBQL, GV và HS. Tỷ lệ biết rất rõ về giá trị cốt lõi và hệ thống các chuẩn mực văn hóa của nhà trường đối với CBQL, GV lần lượt là 75% và 24,2% trong khi đó không có HS nào hiểu biết rõ về vấn đề này. Có 25% CBQL, 66,1% GV và 64,6% HS biết nhưng chưa rõ và có 9,7% GV, 35,4% HS chưa biết. Thực trạng trên cho thấy nhận thức của đa số GV, HS nhà trường không rõ ràng về giá trị cốt lõi và hệ thống các chuẩn mực văn hóa mà nhà trường hướng tới. Kết quả này cho thấy công tác thông tin, tuyên truyền về các vấn đề chiến lược định hướng phát triển của nhà trường còn nhiều bất cập, các thông tin chưa được công bố công khai rộng rãi, các thành viên chưa được chia sẻ thông tin, chưa được tiếp cận hoặc tiếp cận không đầy đủ, các kênh thông tin chưa thông suốt. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý VHNT.
Qua tìm hiểu của tác giả được biết, nhà trường đã xây dựng Chiến lược phát triển nhà trường giai đoạn 2010 – 2015, tầm nhìn đến năm 2020 trong đó nêu rõ tầm nhìn, sứ mệnh và hệ thống các giá trị cơ bản mà nhà trường hướng tới, xác định các vấn đề ưu tiên trong đó có vấn đề giáo dục thái độ, động cơ học tập; giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho HS, xây dựng thương hiệu và tín nhiệm của xã hội đối với nhà trường… Bên cạnh đó nhà trường cũng tích cực trong việc vận động cán bộ, GV, HS nhà trường xây dựng đơn vị văn hóa và được công nhận là đơn vị văn hóa cấp tỉnh năm 2014. Qua quan sát tác giả nhận thấy nhà trường chưa công khai Chiến lược phát triển nhà trường trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như chưa niêm yết tại đơn vị mà chỉ thông qua trước toàn thể CB, GV, NV và HS vào đầu năm học. Do đó số GV, HS có biết nhưng chưa rõ về giá trị cốt lõi và hệ thống các chuẩn mực văn hóa của nhà trường chiếm đa số là điều dễ hiểu. Mặt khác, nhà trường cũng chưa có một kế hoạch riêng nào về chuyên đề xây dựng VHNT, tuy nhiên tại đơn vị có niêm yết tiêu chuẩn cơ quan, đơn vị văn hóa và khẩu hiệu “Quyết tâm xây dựng cơ quan văn hóa”. Công tác quản lý VHNT chưa được cụ thể hóa trong các kế hoạch, vì vậy trong công tác thực hiện còn nhiều vấn đề bất cập, cách hiểu và cách làm của các thành viên trong nhà trường chưa thống nhất và đồng bộ, còn mang tính tự phát, dẫn đến hiệu quả chưa cao.
2.3.1.5. Mức độ biểu hiện của các hành vi vi phạm các chuẩn mực, nội quy của học sinh nhà trường. Luận văn: Thực trạng văn hóa nhà trường THPT Đoan Hùng
Để đánh giá mức độ biểu hiện của các hành vi văn hóa của HS nhà trường, tác giả tiến hành điều tra bằng phiếu hỏi về mức độ vi phạm các chuẩn mực, nội quy của nhà trường đối với 285 HS. Kết quả thu được thể hiện ở bảng dưới đây
Bảng 2.9. Mức độ biểu hiện của các hành vi vi phạm chu n mực, nội quy của HS nhà trường
Kết quả ở bảng 2.9 cho thấy: Mức độ biểu hiện các hành vi vi phạm chuẩn mực, nội quy của HS nhà trường có thể được đánh giá theo nhóm các nội dung như sau:
Các hành vi liên quan đến việc chấp hành các quy định về giờ giấc, nề nếp ra vào lớp, bao gồm các hành vi có STT 1, 2, 4. Kết quả khảo sát cho thấy: Phần lớn HS nhà trường chấp hành tốt các quy định về giờ giấc. Có đến 88,1% HS chưa bao giờ đi học muộn, 87,9% HS chưa bao giờ trốn học, bỏ tiết, nghỉ học không phép và có đến 91,9 % HS không la cà hàng quán, trốn học chơi bi – a, game online. Bên cạnh đó một tỉ lệ rất thấp (từ 2,1% đến 11,6%) số HS đôi khi vi phạm các nội dung này. Cá biệt vẫn có 0,3% HS thường xuyên đi học muộn. Điều đó cho thấy công tác quản lý về giờ giấc, nề nếp ra vào lớp của nhà trường được thực hiện tốt, HS có ý thức trong việc thực hiện nhiệm vụ này. Tuy nhiên, cũng cần quan tâm đến việc vẫn có HS thường xuyên đi học muộn.
Việc chấp hành các nội quy, quy định về học tập: Được thể hiện qua các hành vi có STT 5, 6, 7, 8. Đây là nội dung cần được quan tâm nhiều nhất. HS thể hiện mức độ chấp hành tốt (tức là chưa bao giờ vi phạm) các quy định về nề nếp học tập ở mức độ trung bình (từ 53,7 % đến 79,2%). Đáng chú ý là có tới 9,8 % HS thường xuyên và 35,4 HS đôi khi chưa chuyên cần trong học tập, thực hiện chưa tốt nề nếp tự học; có 1,4% HS thường xuyên và 44,9% HS đôi khi mất trật tự trong giờ học, chuẩn bị bài chưa đầy đủ. Tuy nhiên, có 79,2% HS thể hiện luôn trung thực trong học tập, kiểm tra, thi cử; 53,7% HS có thái độ và động cơ học tập đúng đắn, tích cực, chủ động hợp tác trong học tập. Số còn lại đôi khi vi phạm các quy định trong học tập. Như vậy, có thể thấy học tập là nhiệm vụ chính của HS song việc thực hiện các nhiệm vụ về nề nếp học tập của HS nhà trường thực sự còn chưa tốt. Vẫn còn nhiều HS chưa tích cực, chủ động trong học tập (46,3%), nhiều HS (44,9%) đôi khi còn mất trật tự trong giờ học hoặc chuẩn bị bài chưa tốt khi đến lớp. Nhà trường chưa có biện pháp quyết liệt, hữu hiệu để nâng cao chất lượng các giờ học, giải quyết vấn đề về HS lười học.
Mức độ thể hiện các hành vi về đạo đức, lối sống: Đây là phần dễ dàng nhìn thấy trong “phần nổi” của “tảng băng chìm” về VHNT. Ở mức độ thường xuyên, chỉ có 1,1% HS thể hiện còn nói tục, chửi bậy hay gây gổ đánh nhau trong và ngoài nhà trường; ở mức độ đôi khi đáng chú ý có 28,4% HS chưa tôn trọng, thân thiện, hòa nhã, đoàn kết với bạn, 32,9% HS còn nói tục, chửi bậy, gây gổ đánh nhau trong và ngoài nhà trường và 21,8% trang phục, đầu tóc chưa nghiêm chỉnh, đúng quy định. Phần lớn (92,6%) HS nhà trường không hút thuốc lá, sử dụng rượu bia, chất kích thích; 95,1% HS lễ phép, kính trọng thầy cô giáo và người trên và vẫn còn 4,9% HS đôi khi còn vô lễ với các thầy cô giáo và người trên, điều này cần phải được uốn nắn và điều chỉnh kịp thời. Có 78,6% HS thực hiện tốt việc thực hành tiết kiệm và chống lãng phí và 21,4% đôi khi còn vi phạm. Luận văn: Thực trạng văn hóa nhà trường THPT Đoan Hùng
Việc chấp hành pháp luật của Nhà nước và ý thức, trách nhiệm của HS: 100% HS không chơi cờ bạc, tàng trữ, sử dụng, mua bán, vận chuyển vũ khí, các chất cháy nổ, chất cấm, pháo…, 97,2% không lưu hành các văn hóa phẩm độc hại, đồi trụy, sử dụng internet, phim ảnh có nội dung xấu; 92,3% HS chấp hành tốt pháp luật của nhà nước, đặc biệt là Luật giao thông đường bộ. Không có HS nào thường xuyên vi phạm các nội dung trên. Một số ít HS (7,7%) đôi khi còn vi phạm luật giao thông đường bộ. Đa số các em (97,5%) có ý thức tốt trong việc giữ gìn an ninh trật tự, an toàn trong trường học; 80,4% HS có ý thức giữ gìn vệ sinh trường lớp, bảo vệ cơ sở vật chất, tài sản của nhà trường và 86,3% HS tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, hoạt động xã hội, văn nghệ, thể thao, hoạt động trải nghiệm… nhằm nâng cao kỹ năng sống cho HS.
Qua việc phân tích số liệu khảo sát HS ở bảng 2.11 tác giả đặt ra một số câu hỏi: Tại sao trong khi đa số HS chấp hành tốt các quy định về giờ giấc vẫn còn có HS thường xuyên đi học muộn? nói tục, chửi bậy, gây gổ đánh nhau trong và ngoài nhà trường? mất trật tự trong giờ học, chuẩn bị bài chưa đầy đủ? hay tỷ lệ HS thường xuyên chưa chuyên cần trong học tập, thực hiện chưa tốt nề nếp tự học còn cao?… Để tìm hiểu rõ hơn thực trạng này, tác giả tiến hành quan sát thực tế, nghiên cứu các báo cáo, tài liệu liên quan đến việc theo dõi, đánh giá HS của GV chủ nhiệm lớp, của Đoàn TNCS HCM nhà trường, sổ ghi đầu bài các lớp và phỏng vấn trực tiếp một số HS. Kết quả thu được như sau:
Về hiện tượng một số HS đi học muộn được ghi nhận nhiều nhất trong sổ trực tuần của Đoàn thanh niên và Sổ đầu bài của các lớp. Số HS thường xuyên đi học muộn (từ 03 lần trở lên/tháng) không nhiều, chiếm 2,2% HS toàn trường. Những HS này đa số nhà ở xa trường, lại cách sông cách đò (qua sông Lô và sông Chảy), nhiều khi bị ảnh hưởng bởi thời tiết không thuận lợi dẫn đến việc đi lại khó khăn nên các em thường xuyên đi học muộn.
Về hiện tượng HS nói tục, chửi bậy, gây gổ đánh nhau trong và ngoài nhà trường, qua quan sát của tác giả thấy rằng trong khi đùa nghịch, giao tiếp giữa HS với nhau một số em đôi lúc còn nói tục, chửi bậy một cách vô ý thức, nhất là các HS nam. Bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận nhỏ HS chưa thật sự có ý thức tốt, còn có thái độ thiếu tôn trọng đối với GV và bài giảng của thầy, cũng như thiếu lịch sự và lễ độ trong giao tiếp với GV, nhất là đối với GV trẻ. Riêng về hiện tượng HS đánh nhau trong nhà trường, qua ghi nhận tại các hồ sơ lưu trong 5 năm trở lại đây nhà trường không có HS đánh nhau phải mở hội đồng kỷ luật nhưng vẫn có hiện tượng HS có những mâu thuẫn, xích mích dẫn đến tụ tập đông người, gây mất trật tự, trung bình mỗi năm học có khoảng 03 vụ việc buộc phải xử lý.
Về trang phục và cách ăn mặc, kiểu tóc của HS. Hiện nay nhà trường đã có quy định bắt buộc HS mặc đồng phục đến trường. Nhìn chung, hầu hết các em có ý thức tốt thực hiện. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận HS nam, không tuân theo quy định của nhà trường, mặc không đúng đồng phục hoặc áo bỏ ngoài quần, không sơ vin gọn gàng, tóc để quá dài hoặc nhuộm màu không tự nhiên.
Về các biểu hiện vi phạm nề nếp học tập, qua nghiên cứu sổ ghi đầu bài của các lớp, hầu hết trong các tuần học lớp nào cũng có HS bị GV ghi vào sổ nhắc nhở về thức, thái độ học tập. Các lỗi vi phạm thường gặp là HS còn mất trật tự, làm việc riêng trong giờ học, chưa chuẩn bị bài cũ trước khi đến lớp, chưa tích cực, tự giác trong học tập… Thực tế những lỗi trên HS hay mắc phải nhưng lại chưa có một biện pháp hữu hiệu nào để giải quyết triệt để các vấn đề nêu trên, có nhiều nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng trên nhưng trên hết vẫn là do ý thức cá nhân của mỗi HS chưa có sự cố gắng, nỗ lực vươn lên trong học tập và rèn luyện. Cần có các biện pháp nhằm nâng cao nhận thức cho cá nhân mỗi HS, đặc biệt là các HS vi phạm khuyết điểm, giúp các em có động lực để phấn đấu vươn lên. Giải quyết tốt các vấn đề tồn tại trong học tập là điều kiện tốt để xây dựng và phát triển VHNT.
2.3.1.6. Thực trạng các nội dung giáo dục văn hóa nhà trường. Luận văn: Thực trạng văn hóa nhà trường THPT Đoan Hùng
Tiến hành nghiên cứu thực trạng nhận thức của cán bộ quản lý, GV, HS về các nội dung giáo dục VHNT, tác giả tiến hành phát phiếu hỏi với 04 cán bộ quản lý, 62 GV, 285 HS của trường THPT Đoan Hùng với nội dung câu hỏi: “Trong các nội dung giáo dục VHNT, nội dung nào quan trọng nhất?”. Kết quả thu được thể hiện ở bảng sau đây:
Bảng 2.10: Nhận thức của CBQL, GV, HS về các nội dung giáo dục VHNT
Kết quả ở bảng 2.10 cho thấy: Tất cả các nội dung giáo dục VHNT đều được các đối tượng khảo sát quan tâm nhưng ở các mức độ khác nhau. Nội dung được xác định là quan trọng nhất ở các đối tượng cụ thể như sau:
Đối với CBQL: 50% cho rằng nội dung giáo dục GV, HS thực hiện các chuẩn mực, giá trị, niềm tin trong nhà trường là quan trọng nhất, tiếp đến là nội dung giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho GV, HS (chiếm 25%), và nội dung giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp và ứng xử sư phạm (chiếm 25%).
Đối với GV: 46,8% cho rằng nội dung giáo dục GV, HS thực hiện các chuẩn mực, giá trị, niềm tin trong nhà trường là quan trọng nhất, tiếp theo là đến nội dung giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho GV, HS (chiếm 27,4%), và nội dung giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp và ứng xử sư phạm (chiếm 17,8%), giáo dục truyền thống, nghi thức, nghi lễ của nhà trường (chiếm 4,8%) và cuối cùng là giáo dục lịch sử và các câu chuyện được lưu truyền của nhà trường (chiếm 3,2%). Luận văn: Thực trạng văn hóa nhà trường THPT Đoan Hùng
Về phía HS: Đối với GV: 43,2% cho rằng nội dung giáo dục GV, HS thực hiện các chuẩn mực, giá trị, niềm tin trong nhà trường là quan trọng nhất, tiếp theo là đến nội dung giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho GV, HS (chiếm 36,1%), nội dung giáo dục truyền thống, nghi thức, nghi lễ của nhà trường (chiếm 9,8%); Giáo dục lịch sử và các câu chuyện được lưu truyền của nhà trường (chiếm 6,3%) và nội dung giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp và ứng xử sư phạm (chiếm 4,6%).
Như vậy, nội dung giáo dục GV, HS thực hiện các chuẩn mực, giá trị, niềm tin trong nhà trường đều được 3 đối tượng trên đánh giá là quan trọng nhất với tỉ lệ cao nhất, tính chung là 43,9%, tiếp đến là nội dung giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho GV, HS chiếm tỉ lệ chung là 34,5%. Có sự khác biệt về mức độ quan trọng của các nội dung tiếp theo nhưng mức độ không nhiều. Các kết quả này phản ánh nhận thức về mức độ quan trọng của các nội dung giáo dục VHNT của cán bộ quản lý, GV, HS là khác nhau không nhiều. Điều quan trọng là nhà trường cần phải quan tâm đến tất cả các nội dung giáo dục VHNT, song cần quan tâm hơn cả đến các nhu cầu được đa số CBQL, GV, HS đánh giá là quan trọng nhất và chú ý đến những đánh giá của HS vì đây là chủ thể quan trọng nhất, là cái đích cuối cùng mà nhà trường hướng đến.
2.3.1.7. Thực trạng các con đường giáo dục văn hóa nhà trường.
Để thấy được thực trạng nhận thức của CBQL, GV và HS về các con đường giáo dục văn hóa nhà trường, chúng tôi tiến hành trưng cầu ý kiến 04 CBQL, 62 GV và 285 HS với câu hỏi: “Trong các con đường giáo dục VHNT, theo anh/chị con đường nào là quan trọng nhất?”. Kết quả thu được thể hiện ở bảng sau đây:
Bảng 2.11: Nhận thức của CBQL, GV, HS về các con đường giáo dục VHNT
Kết quả bảng 2.11 cho thấy: 75% CBQL cho rằng nhà trường là con đường giáo dục quan trọng nhất, trong khi đó có 58% GV và 67,4% HS có cùng nhận định trên. Tính chung có 65,8% CBQL, GV và HS đồng ý với quan điểm trên. Đây là tỉ lệ cao nhất của các con đường giáo dục VHNT.
Tiếp đến có 25,8% GV cho rằng việc tự học tập, rèn luyện là quan trọng nhất và gia đình, xã hội có tỉ lệ lần lượt là 9,7% và 6,5%. Còn 15,1% HS lại cho rằng giáo dục bằng con đường gia đình là quan trọng nhất, sau đó mới đến tự học tập, rèn luyện (13,3%) và xã hội (4,2%).
Như vậy có thể thấy cả CBQL, GV và HS đều cho rằng nhà trường là con đường giáo dục quan trọng nhất (chiếm tỷ lệ 65,8%), điều này phù hợp với yêu cầu giáo dục VHNT và con đường giáo dục xã hội ít quan trọng nhất (4,6%) (cả 3 chủ thể đều đánh giá thấp hơn các con đường giáo dục khác). Song có điểm đáng lưu ý là tỷ lệ CBQL, GV, HS cho rằng con đường giáo dục tự học tập, rèn luyện quan trọng nhất chiếm 15,7% đã thể hiện vị trí, vai trò trách nhiệm của HS trong việc xây dựng VHNT. Nhà trường cần phải quan tâm đến cả 4 con đường giáo dục VHNT nêu trên một cách đồng bộ, có sự phối hợp giữa các con đường giáo dục một cách hợp lý, hiệu quả nhất.
2.3.2. Thực trạng quản lý văn hóa nhà trường ở trường THPT Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ Luận văn: Thực trạng văn hóa nhà trường THPT Đoan Hùng
Văn hóa tổ chức của một trường cũng giống như tính cách của một con người. Nó có cội nguồn trong văn hóa của môi trường xã hội mà trường học ấy đang hoạt động, cũng như trong lịch sử của nhà trường. Nó có tương tác với môi trường, bị chi phối bởi đặc điểm văn hóa của từng cá nhân, và nó rất chậm thay đổi. Với cách tiếp cận quản lý VHNT là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý đến toàn bộ các giá trị, niềm tin và các chuẩn mực xử sự được hình thành và duy trì trong quá trình dạy và học, xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển của nhà trường… nhằm đảm bảo xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, tích cực, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở HS tác giả tiến hành nghiên cứu thực trạng công tác quản lý VHNT ở trường THPT Đoan Hùng ở các nội dung sau:
2.3.2.1. Thực trạng hình thành (xây dựng) văn hóa nhà trường
Để tìm hiểu công tác xây dựng VHNT, tác giả tiến hành nghiên cứu các tài liệu thu thập được từ nhà trường bao gồm: Chiến lược phát triển của nhà trường giai đoạn 2010 – 2015, tầm nhìn đến năm 2020; kế hoạch của từng năm học; các báo cáo tổng kết năm học; báo cáo tự đánh giá của nhà trường hàng năm; báo cáo đánh giá ngoài của Sở GD&ĐT Phú Thọ năm 2015, kết hợp với quan sát thực tế ở nhà trường. Kết quả thu được như sau:
Nhà trường đã xây dựng được Chiến lược phát triển của nhà trường giai đoạn 2010 – 2015, tầm nhìn đến năm 2020 trong đó có thể hiện một số nội dung cơ bản của xây dựng VHNT, bao gồm: tầm nhìn, sứ mệnh và hệ thống các giá trị cơ bản mà nhà trường hướng tới, xác định các vấn đề ưu tiên trong đó có vấn đề giáo dục thái độ, động cơ học tập; giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho HS, xây dựng thương hiệu và tín nhiệm của xã hội đối với nhà trường… Tuy nhiên chiến lược này lại không được công khai trên các phương tiện thông tin của nhà trường.
Trong khuôn viên nhà trường có trang trí logo – biểu tượng về nhà trường; có treo các nội quy, quy định đối với CB, GV, NV và HS; các tiêu chuẩn về cơ quan, đơn vị văn hóa mà nhà trường hướng tới; có bảng chuẩn mực đạo đức của GV và HS.
Nhà trường có phòng truyền thống được thiết kế, trưng bày các tư liệu, số liệu, hình ảnh, hiện vật thể hiện được chặng đường xây dựng và phát triển của nhà trường trong suốt 50 năm qua.
Trong các kế hoạch năm học cũng như các báo cáo tổng kết năm học không có nội dung riêng nào về xây dựng VHNT. Trong các văn bản này ít nhiều có đề cập đến các nội dung nhận thức, tu dưỡng rèn luyện và thực hiện các hành vi, chuẩn mực về đạo đức lối sống, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn dạy và học, xây dựng tình thần đoàn kết trong tập thể sư phạm… để xây dựng tập thể sư phạm nhà trường vững mạnh, các tiêu xây dựng chất lượng đội ngũ, chất lượng học lực và hạnh kiểm của HS, việc xây dựng cảnh quan môi trường sư phạm của nhà trường. Luận văn: Thực trạng văn hóa nhà trường THPT Đoan Hùng
Hiện nay các văn bản “pháp lý” mang tính chế tài nhằm điều chỉnh các hành vi văn hóa trong phạm vi nội bộ nhà trường còn thiếu và chưa đồng bộ. Chẳng hạn như chưa có chiến lược phát triển VHNT hay kế hoạch cụ thể trong việc định hướng thực hiện xây dựng VHNT. Vì vậy, trong công tác thực hiện còn nhiều vấn đề bất cập, cách hiểu và cách làm của các thành viên trong nhà trường chưa thống nhất và đồng bộ, còn mang tính tự phát, dẫn đến hiệu quả chưa cao.
Để tìm hiểu về thực trạng các con đường hình thành VHNT, tác giả tiến hành điều tra bằng phiếu hỏi đối với 04 CBQL, 62 GV và 285 HS nhà trường với câu hỏi: “Theo thầy/cô/HS, VHNT hiện nay được hình thành chủ yếu thông qua con đường nào?”. Kết quả cho trong bảng dưới đây:
Bảng 2.12. Thực trạng các con đường hình thành VHNT
Kết quả ở bảng 2.12 cho thấy: Các con đường hình thành VHNT rất đa dạng và phong phú, sự đánh của các đối tượng khác nhau có sự khác biệt không nhiều:
Đối với CBQL: 50% cho rằng VHNT hiện tại được hình thành chủ yếu từ việc xây dựng và thực hiện các chuẩn mực và nội quy; 25% cho rằng VHNT hình thành từ kinh nghiệm tích lũy được qua thời gian, biểu tượng và truyền thống của nhà trường và 25% đánh giá VHNT hình thành từ cách xử lý công việc và việc xây dựng các mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường.
Đối với GV: Có 32,3% cho rằng VHNT hiện tại được hình thành chủ yếu từ việc xây dựng và thực hiện các chuẩn mực và nội quy; tiếp đến là từ kinh nghiệm tích lũy được qua thời gian, biểu tượng và truyền thống của nhà trường (25,8%); từ cách xử lý công việc và việc xây dựng các mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường (14,5%); từ các mục tiêu, chính sách và sự nhất quán trong việc thực hiện những chính sách ấy (12,9%); từ những giá trị và niềm tin, các loại thái độ, cảm xúc và ước muốn cá nhân (9,7%) và cuối cùng là từ những nghi thức, hành vi và đồng phục của nhà trường (4,8%).
Đối với HS: Các kết quả đánh giá có tỉ lệ theo thứ tự từ cao xuống thấp lần lượt là: Tỉ lệ HS cho rằng VHNT hiện tại được hình thành chủ yếu từ việc xây dựng và thực hiện các chuẩn mực và nội quy là 40,7%; tiếp đến là từ kinh nghiệm tích lũy được qua thời gian, biểu tượng và truyền thống của nhà trường là (26,3%); từ những giá trị và niềm tin, các loại thái độ, cảm xúc và ước muốn cá nhân (16,9%); từ các mục tiêu, chính sách và sự nhất quán trong việc thực hiện những chính sách ấy (7,7,%); từ cách xử lý công việc và việc xây dựng các mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường (4,9%); và cuối cùng là từ những nghi thức, hành vi và đồng phục của nhà trường (3,5%). Thứ tự này có sự khác biệt tương đối rõ rệt so với sự đánh giá của CBQL và GV ở nội dung có STT 5 và 3 trong bảng khảo sát.
Kết quả đánh giá chung của CBQL, GV và HS: Phần lớn (39,3%) cho rằng VHNT hiện tại được hình thành chủ yếu từ việc xây dựng và thực hiện các chuẩn mực và nội quy, sau đó là từ kinh nghiệm tích lũy được qua thời gian, biểu tượng và truyền thống của nhà trường (26,2%), các nội dung khác dao động từ 3,7 % đến 15,4% và chênh lệch nhau không nhiều.
Như vậy, tuy không có một kế hoạch chuyên đề riêng về xây dựng VHNT giúp cho công tác xây dựng VHNT được đầy đủ, khoa học và toàn diện song có thể thấy trong các mặt hoạt động của nhà trường cũng đã thể hiện được các nội dung cốt lõi của việc xây dựng VHNT đó là các giá trị và các chuẩn mực văn hóa ứng xử. Hiện tại việc hình thành VHNT chủ yếu được tạo nên qua việc thực hiện các chuẩn mực hành vi, các thủ tục, quy trình mang tính nguyên tắc, tức là mới chú ý đến “bề nổi” của VHNT mà chưa chú ý nhiều đến việc xây dựng thái độ và niềm tin của các thành viên trong nhà trường để từ đó tạo ra động lực để phấn đấu, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục VHNT.
2.3.2.2. Thực trạng duy trì văn hóa nhà trường Luận văn: Thực trạng văn hóa nhà trường THPT Đoan Hùng
Tiến hành tìm hiểu thực trạng duy trì VHNT ở trường THPT Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ tác giả tiến hành quan sát thực tế, nghiên cứu các tài liệu về nhà trường. Kết quả thu được như sau:
Trong những năm qua, để duy trì VHNT cấp ủy, lãnh đạo nhà trường đã chỉ đạo, tổ chức triển khai việc duy trì các kết quả đã đạt được trong tất cả các hoạt động xây dựng VHNT, Cụ thể:
- Hàng năm nhà trường đều xây dựng kế hoạch năm học trong đó có đề ra các nhiệm vụ trọng tâm và các chỉ tiêu và biện pháp chủ yếu thực hiện trong năm học như: Công tác xây dựng đội ngũ, kế hoạch tổ chức các hoạt động giáo dục, công tác xây dựng cơ sở vật chất, cảnh quan môi trường sư phạm; công tác phối hợp với cha mẹ học sinh, các tổ chức, đoàn thể, cá nhân để giáo dục HS về truyền thống lịch sử, văn hoá dân tộc và huy động các nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất cho nhà trường;
- Các chỉ tiêu về kết quả xếp GV, xếp loại học lực, hạnh kiểm của HS; kế hoạch thực hiện các phong trào thi đua, các cuộc vận động trong năm học… Chỉ đạo thực hiện tốt các mục tiêu, chỉ tiêu trong Chiến lược phát triển nhà trường giai đoạn 2010 – 2015, tầm nhìn đến năm 2020 cũng như các nội dung đặt ra trong kế hoạch mỗi năm học. Thực hiện chính sách toàn diện đối với các đối tượng là thành viên của nhà trường và các mối quan hệ giữa các thành viên đó.
- Thường xuyên quán triệt việc thực hiện đạo đức nhà giáo, ở đó tăng cường bồi dưỡng về nhận thức vị trí vai trò của người thầy; tổ chức tốt việc đánh giá chuẩn Hiệu trưởng và chuẩn nghề nghiệp GV. Tổ chức tốt việc thực hiện kỷ luật lao động, quy chế chuyên môn. Phổ biến và hướng dẫn kịp thời cho CBGV học tập và thực hiện đúng theo quy chế đánh giá xếp loại HS Bộ mới ban hành. Tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”. Đề ra quy định về trang phục của GV khi lên lớp, tư thế tác phong, nếp sống, ứng xử mẫu mực; thương yêu giúp đỡ HS. Mỗi GV nhà trường không ngừng học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt, phong trào rèn luyện đạo đức nhà giáo thể hiện ở các mặt: 100% GV đều có ý thức tổ chức kỷ luật, trách nhiệm với công việc và tinh thần phục vụ nhân dân trong các hoạt động giáo dục, chống lại các biểu hiện sai trái, tiêu cực trong giáo dục. Các thầy cô luôn yêu ngành, yêu nghề, yên tâm công tác và hết lòng thương yêu HS. Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nhà trường thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở và kịp thời uốn nắn các hành vi chưa chuẩn mực của GV. Mỗi cán bộ lãnh đạo thực sự là những tấm gương tiêu biểu vễ đạo đức, lối sống. Phong trào tự học và sáng tạo đối với GV đã thể hiện việc tự học vừa là quá trình để tự hoàn thiện mình vừa để nêu gương cho HS, các GV không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ mà còn tự học tin học, ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu về chuẩn nghề nghiệp. Sáng tạo của các thầy cô chủ yếu thể hiện trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy qua từng bài học, đổi mới trong cách quản lý và giáo dục HS và sáng tạo trong vận dụng tri thức và công nghệ mới vào quá trình giảng dạy. Mỗi năm học có từ 15 đến 18 đồ dùng dạy học mới được các GV tự làm để phục vụ cho công tác dạy học. Trong 5 năm qua đã có 06 GV tiêu biểu được tuyên dương khen thưởng cấp tỉnh trong cuộc vận động này. [24]
- Nhà trường đã xây dựng tốt nền nếp kỷ cương đối với HS, xây dựng nội quy HS; Đoàn trường xây dựng kế hoạch hoạt động và đánh giá thi đua các tập thể HS ngay từ đầu năm học. Thực hiện tốt việc phối hợp quản lý giáo dục HS giữa các lực lượng: GV chủ nhiệm, đội cờ đỏ của đoàn trường, gia đình HS. Tổ chức bồi dưỡng cán bộ lớp, cán bộ chi đoàn xây dựng tập thể tự quản; tổ chức tốt các hoạt động giáo dục, nâng cao chất lượng các tiết sinh hoạt tập thể, sinh hoạt lớp, sinh hoạt chi đoàn lớp; tăng cường giáo dục pháp luật, giáo dục kỹ năng sống…, đồng thời tổ chức nhiều hoạt động theo kế hoạch giáo dục và chủ đề, chủ điểm hàng tháng trong năm học; đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao, văn nghệ, tổ chức các cuộc thi, sáng tạo kỹ thuật…
- Cuối mỗi tuần Hiệu trưởng họp giao ban với các thành phần chủ chốt trong nhà trường để đánh giá tình hình HS tuần và kiển khai kế hoạch tuần tiếp theo. Sau mỗi tuần Đoàn trường đều có đánh giá thi đua các tập thể lớp, đánh giá thi đua cuối kỳ, cuối năm học. Nhìn chung các năm qua nền nếp HS đảm bảo tốt, cuối năm số tập thể lớp HS đạt từ 20 đến 24 (trong tổng số 24 tập thể lớp) đạt tập thể lớp tiên tiến; Tỉ lệ HS có hạnh kiểm khá, tốt luôn đạt trên 99,5%, không có HS hạnh kiểm yếu và HS vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội.
- Tổ chức tốt phong trào thi đua “Dạy tốt – Học tốt” tiếp tục được phát huy và đi vào chiều sâu và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và giáo dục mũi nhọn thu hút 100% CB, GV, HS tham gia. Các hình thức nhằm đẩy mạnh phong trào thi đua “Hai tốt” được tập trung vào việc đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với chương trình phân ban và trình độ của HS, nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn ở các tổ, nhóm chuyên môn. Tích cực dự giờ thăm lớp, trao đổi kinh nghiệm trong tổ nhóm chuyên môn, tiến hành hội giảng vào các dịp 20/10, 20/11, 08/3; 26/3. Nhiều giờ hội giảng với chủ đề đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học được thực hiện. Thông qua các giờ hội giảng đó mỗi thầy cô giáo thấy được những mặt mạnh, mặt yếu trong công tác giảng dạy, biết ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, đáp ứng yêu cầu của giáo dục hiện đại. Trong mỗi năm học, nhà trường đều tổ chức thi GV giỏi cấp trường cho một số các bộ môn, tạo không khí thi đua sôi nổi trong phong trào thi đua dạy tốt tại đơn vị. Công đoàn đã làm tốt công tác vận động đoàn viên tích cực hưởng ứng tham gia cuộc thi, động viên tinh thần tạo điều kiện về thời gian… cho các GV tham gia thi. Kết quả trong 5 năm 2010 – 2015 đã có 23 GV được công nhận là GV dạy giỏi cấp trường, trong đó có 06 GV được công nhận GV giỏi cấp tỉnh và 01 GV giỏi Quốc gia. Bên cạnh đó các GV tích cực bồi dưỡng đội tuyển HS giỏi. Công tác phát hiện và bồi dưỡng HS giỏi đã được nhà trường quan tâm. Với các hình thức bồi dưỡng linh hoạt, GV nhà trường khi được phân công bồi dưỡng đội tuyển đều có nhận thức đúng đắn với tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt tình, trách nhiệm. Kết quả kỳ thi HS giỏi cấp tỉnh lớp 12 các môn văn hoá hàng năm luôn xếp ở vị trí thứ 7 đến 12 trên tổng số 43 trường THPT trong toàn tỉnh.
- Thực hiện phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, HS tích cực” của ngành GD, hướng tới xây dựng trường chuẩn quốc gia, nhà trường đã chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, khuôn viên nhà trường luôn đảm bảo an toàn, sạch sẽ, có nhiều cây xanh, thoáng mát và ngày càng đẹp hơn. Lớp học đủ ánh sáng, bàn ghế phù hợp với lứa tuổi HS. Có đủ nhà vệ sinh cho GV, HS và được giữ gìn sạch sẽ. HS tích cực tham gia bảo vệ cảnh quan môi trường sư phạm. Tổ chức dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và điều kiện của địa phương, giúp các em tự tin trong học tập. Tăng cường giáo dục đạo đức và rèn luyện kỹ năng sống cho các em HS thông qua các buổi sinh hoạt tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp. Thường xuyên tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao. Tổ chức các trò chơi dân gian trong các dịp lễ hội…
- Phong trào xây dựng “Cơ quan, đơn vị văn hoá”, “Gia đình văn hoá” đã được chú trọng, cuộc vận động xây dựng gia đình nhà giáo văn hoá được đông đảo CB, GV, NV hưởng ứng và thực hiện có kết quả cao. 100% các gia đình nhà giáo đều là gia đình văn hoá. Nhà trường đã làm tốt việc phối kết hợp với chính quyền phát động các phong trào thi đua, thực hiện dân chủ hoá trường học, quan tâm tới đời sống, cơ sở vật chất và tinh thần của CB, GV, NV nhà trường, xây dựng mối đoàn kết tập thể, tích cực xây dựng cơ quan văn hoá. Luận văn: Thực trạng văn hóa nhà trường THPT Đoan Hùng
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, đặc biệt là sử dụng các phần mềm quản lý như phần mềm quản lý chuyên môn, phần mềm quản lý nhân sự EMIS, PMIS, quản lý tài chính, quản lý thư viện… Tích cực bồi dưỡng nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ thông tin cho các cán bộ phụ trách các bộ phận; duy tu, bảo dưỡng và mua sắm thêm hệ thống máy vi tính mới, bảng tương tác. Thành lập duy trì và nâng cao khả năng hoạt động của phòng công nghệ thông tin. Hàng năm nhà trường đều tổ chức bồi dưỡng tin học và ứng dụng công nghệ thông tin cho cán bộ GV để thực hiện việc soạn giảng, xây dựng đề kiểm tra, tổ chức trình chiếu phục vụ giáo dục tập thể, tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho HS. Xây dựng Website của trường từ năm 2010 với giao diện đẹp, nội dung toàn diện, phong phú thông tin, phản ánh các hoạt động của nhà trường và ngày càng được hoàn thiện.
- Công tác kiểm tra việc thực hiện các nội dung về VHNT được tiến hành lồng ghép trong công tác kiểm tra việc chấp hành các nội quy, quy định của nhà trường và trong việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Hàng năm định kỳ 2 lần vào cuối học kỳ I và vào cuối năm học, nhà trường tiến hành kiểm tra, đánh giá, bình xét, xếp loại thi đua đối với CB, GV, NV và HS trong việc thực hiện nhiệm vụ, chấp hành những nội quy, quy định của nhà trường. Công tác đánh giá, phân loại được thực hiện nghiêm túc, đúng theo quy định, đảm bảo công bằng, công khai, dân chủ. Qua việc kiểm tra, đánh giá, bình xét thi đua đã lựa chọn và bình bầu các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng đề nghị các cấp có thẩm quyền công nhận, khen thưởng, tạo được động lực cho CB, GV, NV và HS phấn đấu vươn lên.
- Phối hợp tốt với các tổ chức đoàn thể, các lực lượng trong và ngoài nhà trường tham gia cùng giáo dục HS, đặc biệt là cha mẹ HS.
Nhìn chung, trong những năm qua, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ chính của nhà trường là công tác dạy và học, công tác duy trì VHNT tuy không được tách thành nội dung riêng nhưng đã được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động của nhà trường, từ việc xây dựng các mục tiêu, kế hoạch, chính sách, các chuẩn mực, nội quy đến việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ, cũng như công tác chỉ đạo, kiểm tra tại đơn vị.
Có thể thấy các nội dung về VHNT đã được thực hiện một cách nghiệm túc, phát huy được sức mạnh của các tổ chức và cá nhân trong nhà trường, xây dựng khối đoàn kết nhất trí cao trong tập thể nhà trường góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của nhà trường qua mỗi năm học.
2.3.2.3. Phát triển văn hóa nhà trường
VHNT không phải nhất thành bất biến mà hình thành qua một quá trình lâu dài, với những điều chỉnh do tác động của cả bên trong lẫn bên ngoài. Phát triển VHNT cần có những bước đi phù hợp. Để nghiên cứu thực trạng phát triển VHNT, tác giả tiến hành quan sát thực tế, nghiên cứu các tài liệu về nhà trường và phỏng vấn một số CBQL, GV và HS. Kết quả thu được như sau:
Để phát triển VHNT, nhà trường đã xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển trong tương lai, xây dựng được tầm nhìn – định hướng để phát triển VHNT: “Là một trong những trường có chất lượng cao của tỉnh mà HS lựa chọn để học tập và rèn luyện, nơi GV và HS cảm thấy tự hào, vững tin và luôn có khát vọng vươn lên”. Sứ mệnh của nhà trường là “Tạo dựng được môi trường học tập về nề nếp, kỷ cương có chất lượng giáo dục cao, để mỗi HS đều có cơ hội phát triển tài năng và tư duy sáng tạo”. Xác định các giá trị cốt lõi làm cơ sở cho sự thành công của nhà trường bao gồm: “Tình đoàn kết; tinh thần trách nhiệm; lòng tự trọng; tính trung thực; lòng nhân ái; sự hợp tác; tính sáng tạo và khát vọng vươn lên”. [25]. Luận văn: Thực trạng văn hóa nhà trường THPT Đoan Hùng
Tuy nhiên, công tác đánh giá văn hóa hiện tại và xác định những yếu tố văn hóa nào cần thay đổi là một việc làm khó khăn vì văn hóa thường tiềm ẩn, khó thấy, do vậy chưa được tiến hành đầy đủ. Chưa có các biện pháp cụ thể để thu hẹp khoảng cách của những giá trị văn hóa hiện có và văn hóa của nhà trường trong tương lai.
Việc xác định vai trò của lãnh đạo trong việc dẫn dắt thay đổi và phát triển VHNT còn mờ nhạt, chưa có các nỗ lực để tuyên truyền cho mọi thành viên trong nhà trường nhận thức đúng tầm nhìn, từ đó tạo sự tin tưởng, xóa đi các ngờ vực, lo âu và cùng nỗ lực thực hiện.
Chưa có một kế hoạch, một phương án hành động cụ thể, chi tiết tới từng việc, từng người để thực thi việc phát triển VHNT. Công tác đánh giá VHNT còn hạn chế.
Để tìm hiểu sự tự hào, niềm tin của các thành viên đối với tổ chức nhà trường, là điều kiện quan trọng trong việc phát triển VHNT, tác giả đã tiến hành khảo sát ý kiến của 04 CBQL, 62 GV và 285 HS. Kết quả thu được như sau:
Bảng 2.13. Đánh giá mức độ tự hào và niềm tin của các thành viên vào tổ chức nhà trường
Kết quả khảo sát ở bảng 2.13 cho thấy: Đa số CBQL, GV, HS đều cho thấy sự tự hào mình là một thành viên của tổ chức nhà trường và tin tưởng vào sự phát triển của nhà trường trong tương lai. Có 38,2% HS rất tự hào về nhà trường, trong khi đó tỉ lệ này thấp hơn đối với GV (25,8%) và CBQL (25%). Bên cạnh đó một tỉ lệ tương đương đặt niềm tin vào nhà trường. Có 100% CBQL, 90,1% GV và 93,3% HS tin tưởng đến rất tin tưởng; Tuy nhiên cũng cần phải chú ý đến tỉ lệ 12,9% GV và 8,4% HS chưa cảm thấy tự hào và 8,1% GV và 6,7% HS chưa tin tưởng về nhà trường. Dù tỉ lệ đó là nhỏ song điều đó cho thấy trong công tác xây dựng và phát triển nhà trường, cần quan tâm toàn diện đến tất cả các mặt hoạt động, đặc biệt là công tác tuyên truyền để mọi thành viên trong nhà trường hiểu, đồng thuận, tạo động lực để phấn đấu vươn lên. Nếu căn cứ dựa trên sự tự hào, niềm tin của các thành viên trong nhà trường là xác thực, lãnh đạo nhà trường có quyền tin tưởng vào sự thành công từ việc sự khởi xướng xây dựng và phát triển VHNT.
Thực tế trên cho thấy, việc phát triển VHNT là công việc của cả tập thể nhưng Hiệu trưởng nhà trường có vai trò hết sức quan trọng: Là người xác định tầm nhìn cho nhà trường, dẫn dắt nhà trường thực hiện tầm nhìn đó, đồng thời là người tổ chức lập kế hoạch chiến lược, định hướng VHNT… Hoạt động của Hiệu trưởng mang tính toàn diện, quán xuyến tất cả các phương diện của một nhà trường, từ kế hoạch chiến lược phát triển nhà trường, đội ngũ CB, GV, hoạt động dạy học – giáo dục… cho đến cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, mối quan hệ nhà trường với cộng đồng. Việc xây dựng và phát triển VHNT có ảnh hưởng quyết định của người đứng đầu nhà trường – người Hiệu trưởng. Nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục của nhà trường thì việc xây dựng và phát triển VHNT là một nội dung quan trọng cần được Hiệu trưởng quan tâm.
2.4. Đánh giá thực trạng Luận văn: Thực trạng văn hóa nhà trường THPT Đoan Hùng
2.4.1. Điểm mạnh
Đội ngũ cán bộ, GV, NV nhà trường được biên chế đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng. 100% CB, GV, NV có trình độ chuyên môn đạt chuẩn và trên chuẩn. Các thầy cô luôn yêu nghề, yên tâm công tác, nhiệt tình có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc và luôn mong muốn nhà trường phát triển. Có nhận thức tốt về tầm quan trọng của VHNT, sẵn sàng hợp tác, học hỏi và chia sẻ với nhau trong công việc và cuộc sống.
HS nhà trường đa số chăm ngoan, có tinh thần, ý thức cao trong học tập và rèn luyện; đoàn kết, thân thiện và hợp tác, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Chất lượng giáo dục của nhà trường ngày càng được nâng cao, uy tín của nhà trường ngày càng được khẳng định.
Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của nhà trường từng bước được đầu tư xây dựng đáp ứng yêu cầu của trường chuẩn quốc gia và yêu cầu đổi mới giáo dục.
Với bề dày truyền thống 50 năm xây dựng và phát triển, công tác quản lý VHNT có nhiều thuận lợi. Ban lãnh đạo nhà trường đã xây dựng được kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn phát triển nhà trường có tính khả thi, sát thực tế. Công tác tổ chức triển khai kiểm tra đánh giá sâu sát, thực chất và có nhiều đổi mới. Kế hoạch năm, học kỳ, tháng, tuần phù hợp với thực tế. Lãnh đạo nhà trường được sự tin tưởng cao của CB, GV, NV và HS. Quan điểm chỉ đạo của Ban lãnh đạo là “Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”.
Công tác dạy và học đã đi vào chiều sâu, nhà trường luôn tổ chức tốt các phong trào thi đua, các cuộc vận động gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ năm học.
2.4.2. Điểm yếu Luận văn: Thực trạng văn hóa nhà trường THPT Đoan Hùng
Nhận thức của một bộ phận CBQL, GV, HS nhà trường về vị trí, vai trò của công tác quản lý VHNT còn hạn chế dẫn đến một bộ phận HS chưa có cố gắng trong học tập và rèn luyện, còn lười học, chưa tự giác, hay vi phạm nội quy, chuẩn mực đạo đức của nhà trường.
Công tác quản lý VHNT còn chưa được quan tâm đúng mức, nội dung quản lý VHNT chưa được cụ thể hóa, chưa có định hướng chiến lược và các biện pháp hữu hiệu nên quá trình thực hiện còn mang tính tự phát nên chưa phát huy được vai trò chủ thể của các cá nhân trong nhà trường và hiệu quả đạt được chưa cao.
Cơ sở vật chất chưa đồng bộ và hiện đại, chưa có nhà đa năng để phục vụ các hoạt động tập thể của nhà trường và luyện tập thể dục, thể thao cho GV, HS.
Công tác kiểm tra, đánh giá chưa chặt chẽ và chưa thường xuyên, còn mang nặng tính phong trào, chưa đi vào thực chất của vấn đề. Vì vậy chưa phát huy được hiệu quả, sức mạnh đặc thù của VHNT. Công tác thông tin tuyên truyền chưa được chú trọng.
2.4.3. Thuận lợi
Nhà trường luôn được sự quan tâm của sâu sắc lãnh đạo Sở GD & ĐT, tỉnh Phú Thọ, Huyện ủy, HĐND, UBND Huyện Đoan Hùng, lãnh đạo địa phương, sự hỗ trợ của các ban ngành, đoàn thể, đặc biệt sự quan tâm phối kết hợp của các bậc cha mẹ HS.
Nhân dân huyện Đoan Hùng có truyền thống hiếu học, có nhiều HS thành đạt qua các thời kỳ. Công tác xã hội hóa giáo dục được thực hiện tốt, giúp nhà trường có thêm điều kiện xây dựng cảnh quan môi trường sư phạm luôn sạch đẹp.
Đời sống và thu nhập của người dân ngày càng được nâng lên; ý thức đối với sự nghiệp giáo dục ngày càng cao, đa số cha mẹ HS đều xác định và quan tâm đầu tư cho con em học tập.Nhà trường đã tạo được uy tín với HS, phụ huynh và nhân dân trong khu vực.
2.3.4. Khó khăn Luận văn: Thực trạng văn hóa nhà trường THPT Đoan Hùng
Đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng giáo dục của cha mẹ HS và xã hội trong thời kỳ hội nhập.
Yêu cầu về chất lượng chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, khả năng sáng tạo và thích ứng của đội ngũ CBQL, GV, NV ngày càng cao mới đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục.
Tình trạng xuống cấp về đạo đức bên ngoài xã hội và tư tưởng thực dụng đang có nguy cơ ngăn cản bước tiến của nhà trường. Môi trường xã hội xung quanh ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng học tập của HS như: các điểm internet, trò chơi điện tử, tệ nạn xã hội… thiếu sự kiểm soát chặt chẽ của các cơ quan chức năng và sự phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Tiểu kết chương 2
Qua nghiên cứu thực trạng VHNT và thực trạng công tác quản lý VHNT ở trường THPT Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ có thể thấy:
Trong những năm qua nhà trường đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong việc thực hiện nhiệm vụ trên tất cả các mặt hoạt động, trong đó có công tác quản lý VHNT. Nhà trường đã xây dựng được Chiến lược phát triển giai đoạn 2010 – 2015, tầm nhìn đến năm 2020 trong đó nêu rõ tầm nhìn, sứ mạng, hệ thống các giá trị cơ bản mà nhà trường thực hiện và hướng đến trong tương lai. Đây là văn bản “pháp lý” có tính định hướng rõ nét nhất về công tác quản lý VHNT.
Tuy nhiên, việc quản lý VHNT chưa được thể hiện một cách rõ nét, chưa có tính hệ thống, chuyên sâu và chưa được quan tâm đúng mức, còn bất cập với yêu cầu tác quản lý giáo dục trong giai đoạn hiện nay cũng như với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng và sự phát triển của khoa học và công nghệ. Vẫn tồn tại một bộ phận HS có các hành vi vi phạm chuẩn mực và nội quy của trường, của ngành; còn một số cán bộ GV chưa nhận thức rõ, đầy đủ về tầm quan trọng của quản lý VHNT, về nội dung, phương thức, con đường, về mối quan hệ giữa các thành viên nhà trường trong công tác quản lý VHNT; các nội dung, hình thức tổ chức các hoạt động còn riêng lẻ, đơn điệu mờ nhạt, chưa phối kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường; vai trò của các tổ chức đoàn thể và đội ngũ GV chủ nhiệm chưa được phát huy cao, trong khi đó một số thành viên trong nhà trường lại chưa thực sự tích cực, tự giác, sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động có tính chất xây dựng VHNT ở đơn vị mình.
Nhận thức quản lý VHNT là một nhiệm vụ quan trọng, góp phần khẳng định thương hiệu và uy tín của nhà trường, để khắc phục những hạn chế nêu trên cần phải xây dựng một hệ thống các biện pháp đầy đủ, đồng bộ, rõ nét và có tác dụng thiết thực, giúp công tác quản lý của nhà trường ngày càng hoàn thiện và hiệu quả. Luận văn: Thực trạng văn hóa nhà trường THPT Đoan Hùng
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Biện pháp quản lý văn hóa trường THPT Đoan Hùng

Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com
Pingback: Luận văn: Tổng quan về văn hóa trường THPT Đoan Hùng