Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Thực trạng triển khai hoạt động dạy học và quản lí hoạt động dạy học ở trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai, Quận Lê Chân, Thành phố Hải Phòng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Khái quát về tình hình phát triển kinh tế – xã hội quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng
2.1.1. Vị trí địa lí
Bản đồ 2.1: Bản đồ Quận Lê Chân (theo nguồn UBND Quận Lê Chân)
Quận Lê Chân, vùng đất gắn liền với tên tuổi, sự nghiệp của Nữ anh hùng dân tộc Lê Chân – người con gái nổi danh tài sắc. Là một quận nội thành của thành phố Hải Phòng với vị trí phía Đông tiếp giáp Quận Ngô Quyền và một phần quận Dương Kinh; phía Tây tiếp giáp với quận Kiến An, huyện An Dương; phía Nam tiếp giáp với huyện Kiến Thụy và phía Bắc tiếp giáp với quận Hồng Bàng. Cùng với hai quận Hồng Bàng và Ngô Quyền, Lê Chân là một trong ba quận trung tâm của thành phố, có hệ thống giao thông thuận lợi có quần thể di tích lịch sử mang đậm nét văn hoá truyền thống.
Quận Lê Chân có 15 phường, diện tích là 12,5 km2, dân số gần 24 vạn người, là quận có bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa lâu đời, là “cái nôi” của thành phố, gắn liền với lịch sử phát triển của thành phố Hải Phòng.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế – xã hội
Trong suốt 41 năm qua, kinh tế của quận Lê Chân phát triển ổn định và có mức tăng trưởng khá. Quận được coi là “hình ảnh thu nhỏ” của thành phố Hải Phòng trong phát triển kinh tế hàng hóa, trong quá trình đổi mới và dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên địa bàn quận có nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp và xây dựng của Trung ương và thành phố với nguồn nhân lực dồi dào, nhất là nguồn lực lao động công nghiệp. Nguồn lực này kế tiếp nhau qua các thế hệ và được đào tạo, tôi luyện qua thực tiễn sản xuất. Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
Văn hóa xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, quận đã hoàn thành chương trình phổ cập trung học và nghề, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập mẫu giáo cho trẻ 5 tuổi.
Tính đến năm học 2013 – 2014, bậc tiểu học liên tục dẫn đầu thành phố về các cuộc giao lưu học sinh giỏi (từ năm học 2014 – 2015 theo quy định tại công văn số 5105/CT-BGD ngày 03 tháng 11 năm 2014 của Bộ Giáo dục và đào tạo, quy định không tổ chức các cuộc giao lưu học sinh giỏi tiểu học). Năm học 2015-2016, là năm thứ 17 liên tục bậc THCS dẫn đầu thành phố về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Đội ngũ giáo viên luôn được chú trọng đào tạo, bồi dưỡng để đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa và đổi mới giáo dục đào tạo.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
2.2. Thực trạng về giáo dục Quận Lê Chuẩn, thành phố Hải Phòng
Quận Lê Chân vốn là đô thị cũ, đất chật, người đông; thu nhập bình quân của người dân trên địa bàn còn ở mức trung bình. Những năm gần đây, do quá trình đô thị hóa, với việc sáp nhập, mở rộng địa giới hành chính, dân số cơ học của quận tăng nhanh. Đây chính là sức ép không nhỏ lên giáo dục đào tạo bởi đa số người dân chuyển về sinh sống tại quận Lê Chân có mức sống thấp. Trong khi đó, nguồn lực đất đai dành để xây trường, mở rộng trường học ngày càng hạn hẹp. Mặc dù vậy, truyền thống hiếu học đã ăn sâu bén rễ trong các thế hệ học sinh của quận.
Năm học 2015- 2016 là năm học tiếp tục đánh dấu sự bứt phá của giáo dục quận Lê Chân, ghi nhận thắng lợi toàn diện của giáo dục quận với 17 năm liên tiếp đứng đầu thành phố về công tác phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi.
Những năm 1999 – 2005, giáo dục Hải Phòng nói chung và quận Lê Chân nói riêng bước vào giai đoạn đổi mới với bộn bề khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn, trang thiết bị dạy học, tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi khan hiếm… Tuy nhiên giáo dục Lê Chân lại phải gánh vác trên vai một trọng trách: phấn đấu giữ vị trí tiên phong trong thành tích giáo dục của thành phố.
Theo đó, các trường đều phải cố gắng bằng nội lực vươn lên, khắc phục khó khăn, tìm tòi để dần dần từng bước chinh phục tri thức trên con đường đầy gian nan này. Với tinh thần bền bỉ, ý chí quyết tâm không ngại khó ngại khổ, giáo dục quận Lê Chân đã từng bước gặt hái được những thành tích đáng mừng. Chất lượng đại trà được nâng lên. Tỷ lệ học sinh đỗ vào các trường quốc lập những năm đó đạt từ 75 đến 80%, xếp vào tốp đầu của thành phố. Về chất lượng mũi nhọn, quận Lê Chân đã thành điểm sáng của thành phố trong công tác bồi dưỡng HSG. Chỉ tính riêng năm học 2004- 2005, năm cuối cùng của giai đoạn này, quận Lê Chân đã đạt được 102 giải. Trong đó có 15 giải quốc gia. Cũng trong giai đoạn này giáo dục Quận Lê Chân đã được vinh dự nhận Cờ thi đua xuất sắc của thành phố. Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
Với những thế hệ vàng đi trước như vậy, 5 năm tiếp theo, từ năm 2005-2010 , giáo dục Lê Chân lại đánh dấu thêm một chặng đường đi đầy vẻ vang thắng lợi. Thành tích học sinh giỏi vượt hơn so với giai đoạn trước. Tính tổng số giải của 5 năm lên tới 342 giải. Với con số này, Quận Lê Chân lại giữ vững thêm 11 năm liên tục là lá cờ đầu của thành phố trong công tác phát hiện và bồi dưỡng HSG. Chất lượng đại trà của các trường cũng vượt lên với thành tích nổi bật: 78% đến 85% học sinh đỗ các trường công lập. Tỷ lệ học sinh đỗ các lớp chuyên trường năng khiếu Trần Phú và các khối chuyên của các trường Hà Nội cũng tăng lên rất nhiều. Trong đó, nhiểu HS cùng một lúc đỗ thủ khoa hai lớp chuyên.
Cứ thế, thành tích nối dài, chặng đường 6 năm sau từ 2011- 2016 lại càng minh chứng cho thành tích bền vững của giáo dục quận Lê Chân trong suốt 17 năm. Trên bề dày truyền thống hiếu học của Quận, cùng với sự nỗ lực của tất cả đội ngũ những người thầy người cô và bao thế hệ học sinh, giáo dục quận Lê Chân lại tiếp tục thu về những thắng lợi mới. Cùng với công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện của giáo dục nước nhà, trên tinh thần chỉ đạo chung của Sở Giáo dục đào tạo Hải Phòng, giáo dục quận Lê Chân lại có những bước đi mang tính đột phá sáng tạo, vượt qua những khó khăn của giai đoạn hội nhập, phát triển.
Bên cạnh công tác giáo dục mũi nhọn, quận Lê Chân luôn chú trọng và quan tâm, coi giáo dục đại trà là nền tảng để nâng tầm và phát triển. Minh chứng thành tích trong công tác này đó là tỉ lệ trúng tuyển vào lớp 10 trường THPT công lập luôn đạt tỉ lệ cao (81%), thể hiện ở chất lượng điểm trung bình 2 môn Toán và Văn đứng trong tốp đầu của thành phố. Toàn quận có 37 học sinh được tuyển thẳng vào lớp 10 THPT công lập. Số lượng học sinh đỗ vào trường THPT Chuyên Trần Phú là 261 em chiếm gần một nửa số học sinh đầu vào của nhà trường. Trong số đó có nhiều em đỗ thủ khoa, á khoa.
Năm học 2015- 2016 là năm tiếp tục đánh dấu sự bứt phá của giáo dục quận Lê Chân với thắng lợi toàn diện của giáo dục quận, 17 năm liên tiếp quận đứng đầu thành phố về công tác phát hiện, đào tạo bồi dưỡng học sinh giỏi. Cụ thể quận có 175 học sinh đoạt giải quốc gia, nhiều hơn 140 học sinh so với năm học trước. Ngoài ra còn có 402 học sinh đoạt giải cấp thành phố, tăng 94 em so với năm học 2014- 2015. Riêng các môn văn hóa có 145 giải, trong đó có 38 giải nhất
Học đi đôi với hành, lí thuyết gắn liền với thực tiễn, ở cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống dành cho học sinh trung học, giáo dục quận Lê Chân cũng đứng đầu thành phố về số lượng giải cũng như chất lượng với 45 giải cấp Quốc gia (trong đó số giải nhất là 21), ở cấp thành phố là giải (với 13 giải nhất, 28 giải nhì). Vươn cao hơn, xa hơn trên các đấu trường quốc tế, trong năm học này, tại cuộc thi toán Châu Á Thái Bình Dương, 1 huy chương vàng của em Nguyễn Tuấn Minh đạt số điểm tối đa 100/100 và em Phạm Thiên Hương huy chương Bạc với số điểm 85/100 đều là học sinh của Quận Lê Chân (hai học sinh lớp 7, đã từng là học sinh của trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai); một dự án Khoa học kỹ thuật tham dự thi quốc tế tại Mỹ giành giải ba… Tại Cuộc thi Khoa học kĩ thuật cấp Quốc gia, quận Lê Chân vinh dự đạt được 01 giải Nhì, 01 giải Ba và 01 giải khuyến khích. Đây là các giải duy nhất mà bậc THCS của thành phố đạt được ở cuộc thi này.
Hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện cho học sinh cả về đức – trí – thể mĩ, các nhà trường luôn tìm những hướng đi mới, khuyến khích các em học sinh mạnh dạn tham gia các sân chơi mới. Vì vậy, bên cạnh những thành tích về văn hóa còn có sự đóng góp không nhỏ của số lượng giải Thể dục thể thao, âm nhạc, mỹ thuật ở các bậc học. Có 87 huy chương thể thao các loại cấp quốc gia (trong đó có 20 huy chương vàng, 26 huy chương bạc và 41 huy chương đồng).
Các lĩnh vực âm nhạc, mỹ thuật, quận đã có 77 giải cấp thành phố bậc tiểu học, học sinh quận Lê Chân cũng đoạt giải nhất trong cuộc giao lưu Olympic tiếng Anh cấp thành phố; đồng thời là địa phương duy nhất đại diện cho thành phố tham gia giao lưu cấp quốc gia về an toàn giao thông và vinh dự đoạt giải nhất. Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
Đằng sau kết quả đáng tự hào của học sinh là biết bao công sức của người thầy. Trong Cuộc thi dạy học tích hợp dành cho giáo viên, các thầy cô nhận được 12 giải cấp Quốc gia (trong đó có 8 giải nhất), 17 giải cấp Thành phố (với giải nhất). Trong Cuộc thi Thiết kế bài giảng điện tử E-learning do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức, quận Lê Chân vinh dự là 1 trong 9 Phòng Giáo dục đào tạo trên toàn quốc đoạt giải Đồng đội.
Trong cuộc thi sáng tạo thiết bị đồ chơi bậc Mầm non cấp thành phố, quận đã được xếp thứ nhất toàn đoàn với 12 giải.
Những con số ấy, những thành tích ấy đã phản ánh chặng đường vinh quang của giáo dục Lê Chân – nhiều khó khăn, chông gai thử thách nhưng cũng đầy kết quả ngọt bùi.
2.3. Một số nét về trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai
2.3.1. Thực trạng chung về trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai
Trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai được xây dựng năm 1927. Trước năm 1955 trường có tên là trường Nữ học Minh Khai; sau giải phóng Hải Phòng 13/5/1955 được đổi thành trường cấp I, II Minh Khai; tiểu học Minh Khai. Trải qua quá trình phát triển của nhà trường, trường là nơi đào tạo nữ học sinh Trung học, học sinh cấp tiểu học và THCS. Đến năm 2006 trường chính thức được mang tên trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai. Cơ quan chủ quản: Uỷ ban nhân dân Quận Lê Chân.
Trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai nằm trên địa bàn phường An Biên, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Trường có một điểm trường duy nhất với tổng diện tích: 3750 m2, bình quân đạt 1,8 m2 /hs.
Về cơ sở vật chất: Trường có 29 phòng học đạt chuẩn và 05 phòng chức năng; trường đang được đầu tư cải tạo và nâng cấp khu nhà vệ sinh 200m2, hiện đại, thoáng, mát, sạch, đẹp. Thiết bị hiện đại: Nhà trường có 75 máy vi tính được kết nối mạng Internet, 15 bộ máy chiếu Projector, 01 máy phô tô, 03 máy in đen trắng, 01 máy ảnh kỹ thuật số, 02 bộ bảng thông minh tương tác, 13 máy soi vật thể cùng nhiều trang thiết bị khác đáp ứng đủ yêu cầu dạy, học, cùng các hoạt động giáo dục khác. Cảnh quan nhà trường khang trang “Xanh- sạch- đẹp” tạo môi trường học tập thân thiện, học sinh tích cực.
Năm 2013, trường được nhận Huân chương lao động hạng Nhì; Công đoàn nhà trường được nhận cờ thi đua của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam năm 2015; Đoàn TNCS HCM được công nhận Chi đoàn “Văn minh công sở” cấp thành phố năm 2015; Đội TNTP HCM được nhận Bằng khen của Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh năm 2015.
2.3.2. Thực trạng hoạt động dạy học ở trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
2.3.2.1. Hoạt động học tập của học sinh
trường tiểu học, hoạt động chủ đạo của học sinh thay đổi từ vui chơi là chủ yếu (ở trường mẫu giáo) sang giai đoạn tập trung cao cho học tập. Đây là giai đoạn quan trọng của cuộc đời với sự phát triển tâm sinh lý đầy biến động và rất nhanh chóng. Đặc biệt, trẻ sống ở thành phố, sớm tự ý thức được mình, có nhiều kỳ vọng hơn, “khôn hơn”. Mặc dù vậy, chúng vẫn là trẻ em, vẫn cần phải được giáo dục và định hướng về ý thức xã hội, ý thức công dân, tinh thần trách nhiệm, tính năng động sáng tạo, cách ứng xử giao tiếp, các giá trị văn hóa đạo đức… thông qua các hoạt động thực tiễn, trên lớp học, ngoài giờ học, trong học tập cũng như trong các hoạt động xã hội.
Sự phát triển sớm về trí tuệ, sự gia tăng khối lượng tri thức ở trẻ ngày nay là biểu hiện gia tốc phát triển tâm sinh lý của các em trên nhiều bình diện: năng khiếu, nhu cầu, thị hiếu, hứng thú, thẩm mỹ. Nguyên nhân do trẻ em ngày nay được tiếp nhận một khối lượng rất lớn thông tin biến đổi từng ngày xung quanh chúng (nghe nhìn – phát thanh, truyền hình, báo chí, công nghệ thông tin…). Với đặc điểm ấy, trẻ có điều kiện tiếp thu nhanh hơn, có điều kiện thuận lợi để vận dụng những điều đã học được. Đó là thuận lợi cho giáo dục nhưng cũng là khó khăn cho cha mẹ và các thầy giáo cô giáo vì tầm suy nghĩ của trẻ rộng hơn, những câu hỏi hay vấn đề chúng đặt ra phong phú và phức tạp hơn.
Giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kĩ năng cơ bản về nghe, đọc, nói, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về nghệ thuật…
Phải làm gì để trẻ hứng thú học tập, yêu trường, yêu lớp như ngôi nhà thứ hai của mình? Đó chính là việc không hề đơn giản mà thầy cô giáo, các nhà quản lý giáo dục tiểu học luôn trăn trở.
Sau nhiều nỗ lực, kết quả học tập, tu dưỡng của học sinh toàn trường trong 3 năm học gần đây thể hiện như sau:
- Kết quả giáo dục đại trà Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
Biểu đồ 2.1: Kết quả giáo dục đại trà
Từ năm học 2014-2015, đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học thực hiện theo Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28/8/2014, có hiệu lực từ 15/10/2014. Chất lượng học sinh được đánh giá trên 3 lĩnh vực (Kiến thức – kĩ năng môn học, phẩm chất, năng lực) và đánh giá theo 2 mức độ (hoàn thành hoặc chưa hoàn thành; đạt hoặc chưa đạt)
Khó có thể so sánh chất lượng đại trà học sinh trong ba năm học vừa qua nhưng bảng số liệu trên cũng cho thấy bên cạnh những học sinh học tập tu dưỡng tốt vẫn còn một bộ phận nhỏ học sinh chưa xác định được mục đích, mục tiêu học tập, chưa hứng thú rèn luyện trên lớp và tự học ở nhà, do vậy kết quả học tập chưa cao.
- Kết quả giáo dục mũi nhọn
Biểu đồ 2.2. Kết quả giáo dục mũi nhọn
Biểu đồ trên cho thấy chất lượng mũi nhọn học sinh giỏi của nhà trường từng bước phát triển, 3 năm qua có 78 giải học sinh giỏi cấp Quận, 95 giải học sinh giỏi cấp Thành phố, 23 giải học sinh giỏi cấp Quốc gia. Kết quả công tác bồi dưỡng học sinh giỏi luôn đứng trong đầu khối tiểu học Quận Lê Chân. Tuy vậy, duy trì sự ổn định, bền vững chất lượng đại trà cũng như mũi nhọn vẫn là mục tiêu phấn đấu của nhà trường trong những năm tiếp theo.
2.3.2.2. Đội ngũ giáo viên
Trường hiện có 100 cán bộ, giáo viên, nhân viên, trong đó 79 cán bộ giáo viên cơ hữu, chiếm 79%; thiếu 2 giáo viên văn hóa, 1 nhân viên văn thư, 1 nhân viên thư viện, 1 nhân viên thiết bị. Tỉ lệ nữ chiếm 90%. Độ tuổi dưới 30 tuổi chiếm 14 %, dưới 40 tuổi chiếm 37%, dưới 50 tuổi chiếm 24%, số còn lại trên 50 tuổi chiếm 25%.
Như vậy, số GV lâu năm trong nghề (với thâm niên trên 10 năm công tác trở lên, tuổi đời dưới 50 tuổi) chiếm tỷ lệ 61%. độ tuổi này, GV có kinh nghiệm giảng dạy, có tay nghề vững vàng, vốn kinh nghiệm thực tiễn khá phong phú, là đội ngũ đã có nhiều đóng góp cho các hoạt động giáo dục của nhà trường trong những năm qua.
Độ tuổi trên 50 tuổi chiếm 25%. Đây là một tỷ lệ không nhỏ so với tổng số, song tập chung ở đối tượng nhân viên. Trong số này, GV lớn tuổi cũng là những người có nhiều kinh nghiệm giảng dạy, đóng góp không ít sức lực, trí tuệ tạo nên thành tích cao trong công tác bồi dưỡng HS, giúp đỡ GV trẻ, mới ra trường. Vì vậy, cần có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ cốt cán làm lực lượng kế cận thay thế số GV ở tuổi này. Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
Chất lượng đội ngũ: Đạt trình độ trên chuẩn chiếm 95%, trong đó có … giáo viên trình độ đại học, 2 CBQL và một giáo viên trình độ thạc sĩ. Đây là điều kiện cơ bản đảm bảo đáp ứng yêu cầu đổi mới Giáo dục. Tuy vậy vấn đề được nhà trường quan tâm hàng đầu vẫn là nâng cao mức độ đạt chuẩn nghề nghiệp giáo viên
Trong 3 năm gần đây nhà trường có 32 giáo viên dạy giỏi cấp Quận, 10 giáo viên dạy giỏi cấp Thành phố, 02 giáo viên dạy giỏi cấp quốc gia, 25 chiến sĩ thi đua các cấp; 29 Sáng kiến được thẩm định xếp loại A và được áp dụng rộng rãi trong trường, quận và thành phố. Bên cạnh đó vẫn còn số ít giáo viên hạn chế về công tác chủ nhiệm, hạn chế trong xử lý tình huống sư phạm; sử dụng các phương pháp, hình thức dạy học máy móc, chưa linh hoạt theo môn học, bài học và đặc biệt là chưa phù hợp đối tượng, gây ảnh hưởng đến chất lượng học sinh.
2.4. Điều tra, khảo sát thực trạng dạy học trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai, Quận Lê Chuẩn, thành phố Hải Phòng
Mục đích điều tra: Thu thập thông tin, số liệu về thực trạng dạy học và quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng nhằm xây dựng cơ sở thực tiễn để đề xuất các giải pháp.
- Nội dung điều tra:
Thực trạng chuẩn bị và thực thi hoạt động dạy học; công tác quản lý, chỉ đạo đổi mới hoạt động dạy học ở trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai.
Khảo sát tính cần thiết và khả thi của các biện pháp đề xuất.
Phương pháp nghiên cứu: Chủ yếu sử dụng phương pháp điều tra và phỏng vấn. Để điều tra, tác giả xây dựng mẫu phiếu gồm 3 phần: Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
- Giai đoạn chuẩn bị hoạt động dạy học;
- Giai đoạn thực thi hoạt dộng dạy học;
- Đánh giá việc lãnh đạo, chỉ đạo của ban giám hiệu nhà trường.
Mẫu nghiên cứu: Điều tra, lấy ý kiến toàn bộ cán bộ quản lý và giáo viên nhà trường (82 người);
2.4.1. Kết quả khảo sát thực trạng chuẩn bị giảng dạy của giáo viên
Bảng 2.3: Thực trạng chuẩn bị giảng dạy của giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới
Qua phân tích số liệu, giai đoạn chuẩn bị lên lớp của giáo viên đạt ở mức độ “thỉnh thoảng” với điểm trung bình X = 3,21. Điểm trung bình dao động trong khoảng 2,5 ≤ X ≤ 3,82. Chỉ có khoảng 1% số giáo viên “Rất thường xuyên” chuẩn bị trước khi lên lớp; Có khoảng 1/3 số giáo viên thường xuyên chuẩn bị; ½ số giáo viên “thỉnh thoảng” chuẩn bị; còn lại chuẩn bị ở mức “hiếm khi” hoặc “không”. Điểm bình quân 9 nội dung ở giai đoạn chuẩn bị đạt 3,21 chứng tỏ giáo viên có ý thức trong công việc.
Trong 9 nội dung chuẩn bị giảng dạy, “Chuẩn bị tài liệu phục vụ dạy học” là nội dung giáo viên chuẩn bị tốt nhất. Số giáo viên thực hiện “Thường xuyên” và “Rất thường xuyên” chiếm 69/182 = 72%.
Nội dung “Dự kiến hình thức, phương pháp kiểm tra đánh giá”, giáo viên đã chuẩn bị kém nhất. Với điểm trung bình X = 2,5, nội dung này giáo viên thực hiện ở dưới mức độ “thỉnh thoảng”. Giáo viên chưa coi trọng đến khâu kiểm tra, đánh giá (khâu cuối cùng quyết định chất lượng dạy học) Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
Các nội dung “Xem lại mục tiêu học sinh đạt được sau giờ học (3 cấp độ) theo từng nội dung đã chọn” “Dự kiến phương tiện, công nghệ dạy học tương ứng các phương pháp dạy học” cũng chưa được quan tâm đúng mức. Ngoài một số giáo viên ý thức chung chưa cao còn có thêm một số giáo viên trẻ chưa quen với phân hóa đối tượng để đưa ra mục tiêu dạy học phù hợp theo 3 cấp độ . Bản thân giáo viên cũng chưa định lượng được các bậc nhận thức tương ứng với các đơn vị kiến thức của bài học dẫn đến tình trạng cung cấp kiến thức quá dễ hoặc quá khó, không kích thích được tính tích cực của học sinh. Một số khác, giáo viên đã giảng dạy lâu năm trong nghề thường ngại đổi mới, ngại sử dụng phương tiện dạy học hiện đại (vì lo không an toàn, khó xử lý tình huống kĩ thuật). Điều này tất yếu ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động dạy học.
Sau khi khảo sát 9 nội dung cần thiết thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị giảng dạy, còn 3 nội dung thực hiện chưa tốt: “Xem lại mục tiêu học sinh đạt được sau giờ học (3 cấp độ) theo từng nội dung đã chọn” “Dự kiến phương tiện, công nghệ dạy học tương ứng các phương pháp dạy học” “Dự kiến hình thức, phương pháp kiểm tra đánh giá”. Với những hạn chế nêu trên, cần có những biện pháp tương ứng giúp giáo viên khắc phục để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
2.4.2. Kết quả khảo sát thực trạng thực thi hoạt động dạy học của giáo viên
Bảng 2.4: Thực trạng thực thi hoạt động dạy học của giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới
Mức độ thực hiện từng nhiệm vụ của quá trình dạy học nêu trên đạt điểm bình quân theo đánh giá chung của cán bộ quản lý và giáo viên là X = 3,08. Như vậy việc thực thi hoạt động dạy học của giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới đạt ở mức trung bình khá.
Trung bình thực hiện các nhiệm vụ: mức độ “Rất thường xuyên” và “Thường xuyên” chiếm khoảng 1/3; mức “Thỉnh thoảng” chiếm 1/3 và mức độ “Hiếm khi”, “Không” chiếm 1/3 còn lại. Điều này cho thấy ý thức thực hiện đổi mới của từng nhóm giáo viên có sự khác biệt. Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
Kết quả thực hiện các nhiệm vụ được đánh giá cũng không đồng đều với mức điểm trung bình dao động 2,37 ≤ X ≤ 4,22. Các nhiệm vụ “Thực hiện đúng yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng do bộ GDĐT ban hành” ” Phân tích đúng đặc điểm nhu cầu, nguyện vọng của đối tượng học sinh” “Quan sát, định hướng, giúp đỡ, động viên học sinh trong các hoạt động học tập” được thực hiện ở mức độ “thường xuyên” , đạt thứ bậc cao nhất trong bảng xếp hạng vì đây là những yêu cầu bắt buộc nằm trong các văn bản Hướng dẫn thực hiện quy chế chuyên môn hàng năm của Sở GDĐT Hải Phòng, phòng GDĐT Quận Lê Chân.
Các nhiệm vụ đạt thứ bậc thấp (Hiếm khi): “Tạo điều kiện cho học sinh được tự học, trải nghiệm, hợp tác, sáng tạo” “Rà soát kết quả hoạt động của HS để điều chỉnh các khâu của quá trình dạy học phù hợp với sự tiến bộ của học sinh”, với điểm trung bình ở mức độ “hiếm khi”. Nguyên nhân của sự thấp kém này là do điều kiện tài chính, CSVC của nhà trường hạn chế; Hình thức tổ chức dạy học ở nhà (hướng dẫn tự học) chưa được đề cao; Khâu “rút kinh nghiệm sau giờ dạy” đã được đề ra nhưng giáo viên thực hiện còn hình thức, chưa xuất phát từ kết quả hoạt động học tập của học sinh.
Năm nhiệm vụ còn lại đạt mức “thỉnh thoảng” (2,55 ≤ X ≤ 3,01). Tại sao lại có tình trạng trên? Nguyên nhân là do
- Thời gian đầu tư cho việc nghiên cứu bài dạy chưa nhiều;
- Bản thân giáo viên lúng túng khi áp dụng phương pháp nhưng e dè khi tham khảo ý kiến đồng nghiệp trừ các tiết lên lớp dạy tốt, tiết chuyên đề, thi giáo viên dạy giỏi….;
- Phần liên hệ kiến thức còn ít, liên hệ vấn đề lí luận và thực tiễn đời sống xã hội chưa tốt, trong đó phần liên hệ trách nhiệm học sinh sau mỗi bài học là rất quan trọng.
- Theo phản ánh của học sinh, một số giờ dạy, thầy cô chưa thu hút được học sinh, chưa tạo ra được sự hưng phấn cho người học, khiến trò không hào hứng với việc phát biểu xây dựng bài.
Một kinh nghiệm cho thấy, một giờ dạy thành công phải là giờ dạy nhận được nhiều ý kiến phát biểu của học sinh (phát huy được vốn hiểu biết của học sinh trong hình thành kiến thức mới).
- Sự “thiếu lửa” ở thầy cô giáo đã góp phần “tiếp tay” cho sự lười biếng lại của học sinh.
Những hạn chế về năng lực, phương pháp, nghệ thuật giảng dạy và cả độ nhiệt tình, “thiếu lửa” ở thầy cô và cả ấn tượng không tốt của một số thầy cô trong quan hệ thầy – trò cũng đã góp phần “tiếp tay” cho sự lười biếng, ỷ lại của học trò. Và thực tế, việc chưa khích lệ được tính tự giác xây dựng bài của học sinh do năng lực của nhà giáo đã tạo ra khoảng cách ngày càng lớn giữa thầy và trò. Khoảng cách này sẽ không thể rút ngắn khi chính thầy cô không biết khắc phục sửa chữa, luôn yêu cầu ở trò quá cao. Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
“Một lỗ hổng” trong việc vận dụng phương pháp mới là thầy cô chưa thật quan tâm đúng mức đến nội dung cốt lõi, thiết thực của bài học, cho nên nếu áp dụng phương pháp mới, tiết học trở nên sinh động hơn, học sinh hào hứng tham gia sôi nổi, nhưng nội dung bài học không nắm vững thì rốt cuộc phương pháp mới chưa phát huy được tác dụng.
Quen với nếp cũ, dạy học quá coi trọng kiến thức. Cách dạy học truyền thống này đã khiến tư duy của nhiều học sinh đi vào lối mòn, không kích thích được sự phát triển của trí não. Điều đó làm cho một số HS tuy rất chăm học nhưng sự tiếp thu vẫn rất ít vì không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng những kiến thức đã học trước đó vào phần sau. HS chỉ biết ghi mà không biết cách lưu thông tin sao cho khoa học, tự chủ, độc lập.
Ứng dụng CNTT và các phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học là một trong các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nhưng hiện tại vẫn còn một số giáo viên vì trình độ ứng dụng CNTT còn hạn chế hoặc chưa sử dụng thành thạo các thiết bị hiện đại nên lúng túng hoặc có tâm lí “e ngại” khi đổi mới PPDH.
Thực tế cho thấy, kiến thức, kỹ năng về CNTT ở một số giáo viên chưa đủ vượt ngưỡng để đam mê và sáng tạo; thậm chí còn né tránh, tâm lý ngại khó khi phải soạn bằng giáo án điện tử. Bởi muốn soạn giảng một giáo án điện tử, người giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần, vừa phải biết tin học và sử dụng thành thạo phần mềm Powerpoint và vừa phải tốn khá nhiều thời gian, công sức để cắt, ghép, chụp phim … Vì thế, tuy việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy đã đem lại hiệu quả cao nhưng mức độ ứng dụng trong nhà trường và bản thân giáo viên chưa cao, chưa rộng rãi và chưa thể trở thành một hệ thống ứng dụng đồng bộ trong môi trường giáo dục hiện nay.
Hơn nữa, để ứng dụng CNTT trong dạy học còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố khách quan và chủ quan về CSVC.
Thực thi hoạt động dạy học của giáo viên là nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường. Bất kì hoạt động nào của nhà trường đều hướng về hoạt động này. Bởi vậy các nhà quản lý giáo dục cần có những biện pháp giúp giáo viên khắc phục hạn chế trong giảng dạy, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
Bảng 2.5: Thực trạng Kiểm tra đánh giá học sinh theo Thông tư số 30/2014
Qua điều tra, khảo sát, kết quả trên cho thấy thực trạng Kiểm tra đánh giá học sinh chưa hoàn toàn đúng với tinh thần thông tư 30/2014/TT-BGDĐT, X = 2,35. Điểm trung bình 8 nội dung khảo sát ở mức “gần đạt” đã phản ánh đúng thực trạng Kiểm tra đánh giá học sinh tại trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai. Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
Điểm đánh giá các nội dung tương đối đồng đều 1,96 ≤ X ≤ 2,60. Ba trong tám nội dung ở vị trí “đạt” nhưng chưa chắc chắn, đó là “Kết hợp đánh giá của giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh” “Đánh giá để thúc đẩy và ghi nhận sự tiến bộ của từng học sinh; đảm bảo kịp thời, công bằng, khách quan” “Sử dụng kết hợp các hình thức kiểm tra đánh giá: quan sát, vấn đáp, viết”. Đây là những yêu cầu cơ bản, thường xuyên được nhắc đến trong các buổi sinh hoạt chuyên môn từ cấp tổ, nhóm đến cấp trường, cấp quận.
Những nội dung còn lại thì sao? Năm nội dung còn lại ở mức “gần đạt”.
- Nguyên nhân:
Thực hiện Thông tư 30 từ tháng 10/2014, giáo viên phải thay đổi cách nghĩ, thói quen, cách làm đã thành nếp. Đây là việc làm rất khó. Hơn nữa, với GV mỗi độ tuổi khác nhau việc nắm bắt cái mới, thực hiện cái mới không đồng đều. Một số GV việc đánh giá theo dõi học sinh chưa thường xuyên còn mang tính chống đối, làm cho xong. Lời nhận xét còn hình thức thiếu tính động viên khích lệ hoặc cho đây là việc làm dài dòng không cần thiết. Một bộ phận PHHS chưa thật sự đồng tình, ủng hộ đánh giá HS theo thông tư 30, chưa tích cực phối hợp với nhà trường, thầy cô trong việc đánh giá con em mình; vẫn còn trông chờ vào điểm số. Họ cho điểm mới là kết quả thật; cụ thể như vậy mới nắm bắt hằng ngày chất lượng học tập của con em mình.
Giáo viên chưa biết hướng dẫn và thu hút phụ huynh học sinh vào việc hỗ trợ, giúp đỡ con em học tập và rèn luyện. Học sinh chưa ham thích học, say mê tìm tòi sáng tạo trong quá trình học để phát triển năng lực, phẩm chất của chính mình.
Với các GV dạy môn năng khiếu, tự chọn, dạy nhiều lớp (có trường hợp phải dạy nhiều khối), việc ghi nhận xét cho HS chiếm quá nhiều thời gian.
GV khi lên lớp cũng đã thực hiện việc kiểm tra đánh giá theo tiến trình, kết hợp ba hình thức kiểm tra nhưng do chưa được trang bị lí luận về kiểm tra đánh giá, chưa có kĩ thuật lập dàn bài, viết câu hỏi phục vụ cho những mục tiêu khác nhau của bài học, tiết học, các kì kiểm tra đánh giá khác nhau, nên hiệu quả của khâu quan trọng này chưa cao, chưa đạt được mục đích của nó là vì sự tiến bộ của người học và cung cấp thông tin phản hồi cho giáo viên và nhà quản lí.
Không phải ngẫu nhiên mà sau hơn hai năm thực hiện Bộ đã điều chỉnh thông tư 30 thành thông tư 22
2.5. Điều tra, khảo sát thực trạng quản lí hoạt động dạy học trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, đáp ứng yêu cầu đổi mới Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
2.5.1. Thực trạng quản lý đổi mới hoạt động dạy học của ban giám hiệu nhà trường đáp ứng yêu cầu đổi mới
Bảng 2.6: Thực trạng Quản lý đổi mới hoạt động dạy học ở trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai
Thực trạng Quản lý, đổi mới hoạt động dạy học được khảo sát, lấy ý kiến trên 5 việc cụ thể.
Kết quả cho thấy, việc quản lý, chỉ đạo đổi mới hoạt động dạy học có mức độ “đạt”, X = 3,27. Công tác chỉ đạo đổi mới dạy học ở trường được đánh giá cao, với gần 50% được đánh giá chung là Tốt hoặc Tương đối tốt. Mức độ chưa đạt chỉ chiếm khoảng 0,49% tổng số phiếu.
Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố quản lý không đồng đều. Ảnh hưởng nhiều nhất là “Quán triệt tư tưởng đổi mới GD cho mọi thành viên của nhà trường.” đạt điểm trung bình X = 4,34; tiếp theo là “Lập kế hoạch triển khai các nội dung đổi mới dạy học trong thực hiện bài học, môn học”, X = 3,84; “Huy động sự tham gia của những người liên quan đến hoạt động giáo dục học sinh”, X = 3,55. Ba yếu tố này đều được đánh giá “Tương đối tốt”.
Kết quả khảo sát cho thấy Đổi mới giáo dục là một thách thức lớn đối với nhà trường. Đổi mới phải bắt đầu từ tư tưởng. Giáo viên không chỉ là người mang kiến thức đến cho học sinh mà phải là người dạy cho học sinh cách nghĩ, cách tìm ra kiến thức và vận dụng nó vào cuộc sống. Có như vậy mới đảm bảo cung cấp cho các em hành trang đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời. Vấn đề này liên quan đến công tác quán triệt tư tưởng đổi mới GD cho mọi thành viên của nhà trường, bước đầu đã đạt kết quả.
Bên cạnh kết quả đạt được, khảo sát cho thấy công tác quản lý, chỉ đạo đổi mới còn những hạn chế nhất định: Hai yếu tố còn lại thực hiện ở mức thấp hơn hẳn, “Gần đạt”. “Tổ chức đổi mới phương thức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh và mục tiêu tạo lập năng lực, phẩm chất cho người học” “Kiểm tra việc thực hiện đổi mới” là hai yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt lại chưa được coi trọng. Nguyên nhân là do nhà quản lý chưa có những giải pháp tích cực, đồng bộ, chưa thực sự quan tâm đến việc nâng cao nghiệp vụ, tay nghề cho giáo viên. Đổi mới phương pháp dạy học mới chỉ dừng lại ở một số giờ dạy, một số môn học nhất định. Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
Mặc dù nhà trường cập nhật, triển khai và áp dụng các văn bản mới của cấp trên nhưng vẫn có trường hợp giáo viên chưa thông tư tưởng đổi mới, đón nhận cái mới một cách miễn cưỡng dẫn đến tình trạng làm qua loa, chống đối “ Bình mới nhưng rượu cũ”, CBQL không kiểm soát được. Hoặc CBQL tuyệt đối hóa việc đổi mới phương pháp dạy học dẫn đến tình trạng GV cảm nhận quá sức mình, từ đó không muốn tiếp cận. Họ thấy các điều kiện về năng lực cá nhân, CSVC của nhà trường, đối tượng học sinh không thuận lợi cho bản thân đổi mới cách dạy. Do vậy GV ít tập trung vào nghiên cứu tài liệu, không chịu khó học hỏi kinh nghiệm dẫn đến chất lượng thấp, không đáp ứng được nhu cầu đổi mới. Nội dung sinh hoạt chuyên môn định kì của các tổ khối còn hình thức, chung chung, chưa thật hiệu quả cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện đổi mới.
2.5.2. Thực trạng kiểm tra đánh giá hoạt động giảng dạy của giáo viên
Bảng 2.7: Thực trạng kiểm tra đánh giá hoạt động giảng dạy ở trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai
Qua điều tra khảo sát, có thể khẳng định thực trạng quản lý kiểm tra – đánh giá HĐ giảng dạy của giáo viên đã có nề nếp. Với điểm trung bình 2,79, quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá giờ dạy đạt mức độ “Có tác dụng giáo dục vừa phải”.
Các nội dung khảo sát cho kết quả đánh giá tương đối đồng đều. Không có nội dung đạt mức cao hơn hay thấp hơn.
Tỉ lệ trung bình số phiếu đánh giá hoạt động kiểm tra này ở mức “Có tác dụng giáo dục to lớn” và “Có tác dụng giáo dục tốt” gần bằng 1/3 tổng số phiếu cho thấy nhà trường đã thực hiện nghiêm túc công tác thanh kiểm tra.
Tuy vậy, hoạt động này có tác dụng thúc đẩy hoạt động dạy học tốt hơn hay không? Cần xem lại nội dung 5. Vì sao “Sử dụng kết quả kiểm tra, đánh giá để thúc đẩy hoạt động DH tốt hơn” lại đứng ở thứ bậc đó? Vì đánh giá xếp loại mới chỉ là công việc của nhà quản lý, chưa thể hiện hết vai trò, chức năng tư vấn, thúc đẩy, khuyến khích, động viên và chưa đề cao việc giám sát điều chỉnh sau kiểm tra (hậu kiểm tra).
Việc xây dựng tiêu chí đánh giá hoạt động giảng dạy của giáo viên đôi khi chưa bám sát yêu cầu đổi mới. Do chưa chủ động nắm bắt, điều chỉnh; còn trông chờ sự chỉ đạo đồng bộ từ các cấp lãnh đạo.
2.5.3. Thực trạng bồi dưỡng đội ngũ theo từng nội dung đổi mới Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
Bảng 2.8: Thực trạng Bồi dưỡng đội ngũ theo từng nội dung đổi mới
Có 6 nội dung bồi dưỡng đội ngũ, đáp ứng yêu cầu đổi mới. Điểm trung bình của 6 nội dung trên, X = 2,27, ở mức “gần đạt”. Nội dung bồi dưỡng “Tư tưởng, đạo đức, tác phong” được đánh giá cao nhất, X = 2,54. Đổi mới phải bắt đầu từ tư tưởng. Giáo viên không chỉ là người mang kiến thức đến cho học sinh mà phải là người dạy cho học sinh cách nghĩ, cách tìm ra kiến thức và vận dụng nó vào cuộc sống để hình thành năng lực. Có như vậy mới đảm bảo cung cấp cho các em hành trang đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời. Vấn đề này liên quan đến công tác quán triệt tư tưởng đổi mới GD cho mọi thành viên của nhà trường.
Năm nội dung còn lại, theo ý kiến của số đông người được khảo sát, chỉ ở mức “gần đạt”. Điều này chứng tỏ đây là những nội dung mà cán bộ, giáo viên nhà trường rất quan tâm và cần được bồi dưỡng nhiều hơn.
Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ là yêu cầu có tính quyết định đối với hoạt động sư phạm. Để giáo viên có thể đảm nhiệm tốt vai trò của mình, trong quá trình đổi mới cần phải có những đột phá trong đào tạo, bồi dưỡng. Hình thành ở giáo viên một số năng lực sư phạm cần thiết và giúp cho những năng lực đó phát triển trong suốt cuộc đời làm nghề dạy học của họ.
Nội dung bồi dưỡng Kĩ năng ứng xử sư phạm bị đánh giá ở mức thực hiện thấp nhất. Khảo sát sâu thêm 20 giáo viên về nguyên nhân của thực trạng trên. Có 3 giáo viên cho biết đã hiểu và biết cách ứng xử; 7 ý kiến cho rằng nội dung bồi dưỡng chung chung, chưa cụ thể; 5 ý kiến cho rằng khó áp dụng lý thuyết vào các tình huống sư phạm; 5 ý kiến cho rằng thời gian bồi dưỡng ngắn, chưa thường xuyên để giáo viên hiểu sâu sắc nội dung.
Biểu đồ 2.3: Đánh giá nội dung bồi dưỡng kĩ năng ứng xử sư phạm
Kĩ năng ứng xử sư phạm là yêu cầu khó do tính chất đặc biệt đa dạng và tế nhị trong hoạt động giao tiếp. lĩnh vực này không có một công thức chung, một đáp án bất di bất dịch. Bởi vì, mỗi người tùy theo tri thức, vốn kinh nghiệm, mục đích, yêu cầu, hoàn cảnh sống, vị thế xã hội, nhân cách mà có cách xử lí khác nhau.
Mỗi cá nhân đều hiểu ứng xử sư phạm thực sự là vấn đề không đơn giản. Có khi chỉ vì thiếu một chút tế nhị hoặc chưa thấu hiểu đặc điểm tâm lí của học sinh mà giáo viên đã mắc phải những sai lầm đáng tiếc.
Bồi dưỡng Kĩ năng ứng xử sư phạm hiệu quả để mỗi thầy cô giáo đều biết cách ứng xử thông minh, hợp tình, hợp lí các trong những tình huống cụ thể, có vai trò rất lớn làm nên thành công trong công tác giáo dục của người giáo viên cũng như cán bộ quản lý. Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
2.5.4. Thực trạng quản lý cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới
Bảng 2.9: Thực trạng Quản lý CSVC và thiết bị dạy học ở trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai
Qua số liệu khảo sát, ý kiến đánh giá việc quản lí CSVC, thiết bị dạy học không đồng đều ở các nội dung. Điểm trung bình ở mức Đạt. Trong đó 5 nội dung được đánh giá Đạt, 4 nội dung Gần đạt.
Năm nội dung quản lí hành chính được đánh giá cao. Trong đó quản lí thông qua văn bản được đánh giá cao nhất. Điều này chứng tỏ tư tưởng đổi mới trong quản lí CSVC đã được tiếp thu và vận dụng vào thực tiễn.
Trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai được xây dựng theo kiến trúc Pháp nên các phòng học đảm bảo về diện tích, thông gió, ánh sáng tự nhiên, nhiệt độ, cách âm, cảnh quan, môi trường. Nhiều năm gần đây do nhu cầu của người dân trên địa bàn và ngoài địa bàn tuyển sinh tăng cao nên sĩ số của hầu hết các lớp vượt quá mức quy định (trung bình 45 học sinh/52m2 phòng học); số lượng phòng chức năng không đảm bảo (thiếu phòng Âm nhạc, Mỹ thuật, Nhà đa năng).
Nội dung “Quy chế, nội quy sử dụng phòng học, phòng chức năng; Thiết bị dạy học” đứng ở vị trí thứ 6, đạt điểm trung bình X = 2,5. Tìm hiểu thêm, 40 học sinh khối 4- 5 được hỏi đều trả lời không biết nội quy sử dụng phòng học, phòng Tiếng Anh, Tin học cũng đã thể hiện đúng điều này.
Hầu hết các phòng, không có hồ sơ ghi chép tình trạng sử dụng.
Nội dung “Bồi dưỡng giáo viên, nâng cao trình độ, năng lực sử dụng thiết bị dạy học” ở vị trí thứ 8. Với quan điểm dạy học mới, giảm bớt lí thuyết, tăng cường thực hành, chú trọng rèn luyện các kĩ năng, giáo viên cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề làm mẫu. Hơn nữa, đây là khâu tất yếu trong giảng dạy mà mỗi giáo viên cần lưu tâm. Do đó nhu cầu dược bồi dưỡng nhiều hơn, có chất lượng hơn về năng lực sử dụng thiết bị dạy học là đòi hỏi khách quan, cần được điều chỉnh kịp thời, đáp ứng yêu cầu đổi mới.
“Chỉ đạo giáo viên vận động CMHS đầu tư bổ sung CSVC cho nhà trường; tham gia trang trí lớp học thân thiện” mức độ thực hiện thấp nhất, X = 1,88. Đánh giá trên cho thấy hoạt động Xã hội hóa giáo dục ở trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai còn dè dặt, chưa đổi mới, sáng tạo. Nguyên nhân, do Hiệu trưởng sợ điều tiếng “tư lợi”, chưa nắm chắc quy trình Xã hội hóa … nên ngại vận động. Nhiệm vụ phối hợp nhà trường với gia đình và xã hội vì thế cũng ít hiệu quả.
2.6. Đánh giá chung về thực trạng hoạt động dạy học và quản lý hoạt động dạy học, đáp ứng yêu cầu đổi mới trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai, Quận Lê Chân, Thành phố Hải Phòng
Nghiên cứu về thực trạng hoạt động dạy học và quản lý hoạt động dạy học trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai, tác giả nhận thấy có nhiều thuận lợi nhưng cũng tồn tại không ít khó khăn.
2.6.1. Thuận lợi: Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
Trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai nằm ngay trung tâm thành phố Hải Phòng, nên đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, hỗ trợ từ phòng GDĐT, UBND Quận Lê Chân, Sở GDĐT, UBND thành phố Hải Phòng.
Bối cảnh đổi mới GD và yêu cầu của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 (số 29 – NQ/TW) của Ban Chấp hành TW Đảng khóa XI cũng như những chỉ đạo đổi mới của Bộ GDĐT và Sở GDĐT đã tác động đến cộng đồng xã hội nói chung và các nhà trường nói riêng thay đổi nhận thức và bước đầu triển khai những thay đổi theo hướng tích cực;
Đội ngũ GV nhà trường có trình độ chuyên môn tốt, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục, tỷ lệ GV đạt trình độ chuẩn là 100%, trình độ GV trên chuẩn là 95%.
CBQL nhà trường đã rất chú trọng tới công tác lập kế hoạch hoạt động, giúp toàn thể GV thống nhất được phương hướng thực hiện nhiệm vụ trong năm học, tổ chức phân công giảng dạy cho GV dựa trên năng lực, hoàn cảnh và nguyện vọng, hợp tình, hợp lý đây là một yêu cầu mà rất nhiều nhà quản lý tại các cơ sở giáo dục trong nước còn đang gặp nhiều khó khăn.
Nhận thức đầy đủ về quan điểm đổi mới trong hoạt động dạy học của CBQL, GV là cơ sở tạo sự đồng thuận trong các hoạt động của nhà trường.
Giáo viên nhà trường có ý thức chuẩn bị nội dung, tài liệu phục vụ dạy học; tìm hiểu đối tượng dạy học; tham khảo ý kiến của cha mẹ học sinh trong đánh giá người học cho thấy những yêu cầu cơ bản trong đổi mới đã được thấm nhuần và chuyển thành hành động tích cực.
Việc quản lý chương trình dạy học ở nhà trường được thực hiện nghiêm túc, BGH thường xuyên kiểm tra đôn đốc nên tiến độ thực hiện được đảm bảo, lịch báo giảng được thực hiện đều đặn bám sát phân phối chương trình.
CBQL nhà trường thường xuyên thăm lớp, dự giờ để nắm bắt tình hình tổ chức lớp học, giảng dạy của GV, khả năng tiếp thu kiến thức của HS, sự tương tác giữa các HS trong lớp. Trên cơ sở đó có những ý kiến chỉ đạo kịp thời giúp cho việc quản lý hoạt động này đi đúng hướng và giúp cho GV tổ chức giảng dạy đạt hiệu quả.
2.6.2. Khó khăn và những hạn chế Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
Bên cạnh những thuận lợi, khi quản lí hoạt động dạy học trên phạm vi nghiên cứu còn gặp phải một số khó khăn và hạn chế nhất định, như: Số HS tăng thêm hàng năm, trong khi nhà trường chưa đáp ứng kịp thời về cơ sở vật chất, thiếu phòng chức năng, phòng học nên sĩ số HS/ lớp cao; bàn ghế ở một số lớp chưa đúng quy định (gắn chặt bàn với ghế); một số đồ dùng dạy học hiện đại còn thiếu.
Công tác chỉ đạo còn hạn chế ở việc Vận động cha mẹ học sinh tham gia xây dựng nhà trường; Hiệu quả Kiểm tra đánh giá giáo viên; Bồi dưỡng giáo viên, nâng cao trình độ sử dụng PPDH, PP kiểm tra đánh giá học sinh, kĩ thuật dạy học, sử dụng thiết bị dạy học, kĩ năng ứng xử sư phạm.
GV do quen với phương pháp dạy học truyền thống nên khả năng hướng dẫn tự học, tổ chức hoạt động nhóm, tổ chức hoạt động trải nghiệm và kiểm tra, hướng dẫn, theo dõi tiến độ các hoạt động học tập đó của HS còn nhiều hạn chế.
Việc cải tiến nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ, khối chuyên môn và việc đánh giá xếp loại, tự xếp loại chung chung nặng màu sắc cảm tính, thiếu hẳn khâu giám sát nên chưa phát huy được tính tích cực của chức năng KT- ĐG trong hoạt động quản lý.
Quản lý đổi mới đánh giá học sinh chưa hoàn toàn đúng với tinh thần Thông tư 30. Nhiều nhận xét của giáo viên còn mang tính hình thức, thiếu tính định hướng phát triển năng lực học sinh. Một bộ phận cha mẹ học sinh chưa thấu hiểu nên không đồng tình với cách đánh giá này.
Yêu cầu đổi mới DH phù hợp với chương trình và đối tượng HS và việc bồi dưỡng GV-TH theo chuẩn nghề nghiệp chưa đạt kết quả mong muốn ở một bộ phận GV nên chưa đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn.
Các hình thức tổ chức học cho HS chủ yếu diễn ra ở trong lớp học, HS ít có cơ hội trải nghiệm bên ngoài thực tế, chưa có nhiều cơ hội để HS thực hành hoạt động vận dụng.
2.6.3. Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên
Năng lực quản lí của BGH nhà trường chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đổi mới. Chưa năng động, sáng tạo, linh hoạt trong đổi mới. Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
Khâu kiểm soát hoạt động dạy học của GV đối với việc học của học sinh còn máy móc, cứng nhắc… nên công tác tổ chức hoạt động dạy học hướng vào mục tiêu phát triển năng lực, phẩm chất còn chưa đạt hiệu quả như mong muốn của nhà trường. Khâu đổi mới đánh giá học tập theo tinh thần của thông tư 30 chưa phát huy hiệu quả. Một bộ phận giáo viên ngại đổi mới, lối mòn tư duy khó xóa. Tình trạng GV ham giảng giải nhiều vẫn khá phổ biến, còn việc tự học của HS, nhất là việc học cá nhân rất mờ nhạt, hoạt động trải nghiệm hiểm thấy trong các giờ học.
Tóm lại: Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế được phát hiện từ nghiên cứu thực trạng là phương pháp quản lí của CBQL nhà trường còn một số hạn chế, việc bồi dưỡng đội ngũ chưa đạt kết quả mong muốn, cơ sở vật chất và một số điều kiện dạy học chưa đảm bảo, năng lực nghề nghiệp của GV chưa theo kịp yêu cầu đổi mới GD.
Tiểu kết chương 2
Kết quả khảo sát thực trạng hoạt động dạy học và quản lý hoạt động dạy học tại các trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai, Quận Lê Chân, Thành phố Hải Phòng cho thấy hoạt động quản lý của BGH nhà trường đã đáp ứng được một số yêu cầu quản lý cơ bản đặt ra trong chương 1 của luận văn này.
Đánh giá thực trạng về tình hình quản lý hoạt động dạy học, qua việc khảo sát lấy ý kiến của đội ngũ CBQL, GV đã cho thấy công tác quản lý này vẫn còn nhiều hạn chế đặc biệt trong hoạt động đánh giá giáo viên, bồi dưỡng cho GV đổi mới PPDH, đánh giá HS, đa dạng hóa các hình thức tổ chức học cho HS, huy động sự tham gia của CMHS, cộng đồng xã hội vào các hoạt động giáo dục của nhà trường, …Việc tìm ra nguyên nhân của những tồn tại là một trong những căn cứ tin cậy để tác giả đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động dạy học cho CBQL nhà trường ở chương 3. Luận văn: Thực trạng Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Biện pháp Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học

Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com