Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Luận văn: Phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, du lịch đã thực sự trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Du lịch đã nhanh chóng trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên thế giới. Du lịch là một đề tài hấp dẫn và trở thành vấn đề mang tính toàn cầu. Nhiều quốc gia phát triển trên thế giới đã lấy chỉ tiêu đi du lịch của dân cư là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng cuộc sống.
Theo số liệu thống kê của Hội đồng du lịch và lữ hành thế giới (WTTC), năm 2011 ngành du lịch và lữ hành toàn cầu đã đóng góp tới 6,3 nghìn tỷ đô la GDP, tạo ra 255 triệu việc làm. Sang tới năm 2012, số lượng khách quốc tế đã vượt qua con số 1 tỷ lượt người, đóng góp 6,5 nghìn tỷ đô la cho kinh tế toàn cầu và tạo ra 260 triệu việc làm trên toàn thế giới và trong 10 năm tới sẽ đạt mức tăng trưởng trung bình 4% năm.
Còn tại Việt Nam theo Tổng cục thống kê, ước tính lượng khách du lịch quốc tế năm 2013 đạt 7,512 triệu lượt người, tăng 10,6% so với năm 2012, Việt Nam dự định thu hút 8 triệu khách du lịch quốc tế và 40 triệu khách nội địa trong 2014, doanh thu thu về khoảng 220 nghìn tỷ đồng (10,42 tỷ USD)
Sự tăng trưởng của ngành du lịch nói chung còn là bệ đỡ cho các ngành dịch vụ liên quan như nhà hàng, khách sạn, mua sắm, giải trí và vận chuyển. Cũng chính bởi sự tăng trưởng này mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xây dựng chiến lược phát triển du lịch thành ngành mũi nhọn. Chính sự phát triển ồ ạt của ngành du lịch toàn cầu đã dẫn đến hiện trạng có rất nhiều loại hình du lịch, sản phẩm du lịch bị sao chép, dập khuôn như du lịch mua sắm, du lịch mạo hiểm, du lịch chữa bệnh….dẫn đến nguy cơ nhàm chán cho du khách. Trong bối cảnh này, cần có một loại hình du lịch hoàn toàn mới để thu hút du khách
Việt Nam là một quốc gia có nguồn tài nguyên du lịch văn hóa đa dạng và độc đáo, có rất nhiều làng nghề thủ công mỹ nghệ, có nghệ nhân làng nghề, có môi trường kinh doanh du lịch an toàn v.v… vì vậy chúng ta có thể phát triển một loại hình du lịch mới, khác với các sản phẩm du lịch trước đây. Bên cạnh đó, Việt Nam nói chung và con người Việt Nam nói riêng luôn được cộng đồng thế giới đánh giá là điểm đến và con người thân thiện, hiếu khách và đầy tính nguyên sơ. Đây là những điều kiện quan trọng để chúng ta có thể phát triển thành công các hoạt động du lịch mới trong tương lai. Đó là du lịch sáng tạo, đây là loại hình du lịch phát triển dựa trên sự tham gia tích cực và có tính sáng tạo của khách du lịch.
Du lịch sáng tạo là một loại hình du lịch văn hóa, là loại hình du lịch liên quan đến phát triển cộng đồng theo hướng bền vững, nhằm cung cấp cho du khách cơ hội để trực tiếp tham gia vào các hoạt động tại công đồng điểm đến du lịch chứ không chỉ đơn thuần là những hoạt động chiêm ngưỡng, ngắm nhìn, tham qua như những hình thái du lịch truyền thống. Du lịch sáng tạo sẽ cung cấp cho khách du lịch những cơ hội để phát huy tiềm năng sáng tạo của mình cũng như có thể cảm nhận được những giá trị văn hóa từ những trải nghiệm thực tế. Luận văn: Phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam.
Đặc trưng của du lịch sáng tạo là nâng cao nhận thức, học hỏi những kinh nghiệm sống mới mẻ, những tri thức độc đáo của các từng dân tộc, của từng vùng dân cư khác nhau trên thế giới. Chính những đặc trưng này đã khiến cho du lịch sáng tạo được đánh giá là hoạt động du lịch của thế hệ mới và nó có sự khác biệt rõ ràng với các hình thức du lịch trước đây.
Cùng giống như các hoạt động du lịch văn hóa khác thì du lịch sáng tạo cũng tạo nên sự tăng trưởng và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, của địa phương, đặc biệt là giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động từ chính những điều kiện và cơ sở vốn có của địa phương, đồng thời du lịch sáng tạo còn góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa độc đáo.
Tuy nhiên, hiện tại chưa có công trình nào nghiên cứu về loại hình du lịch rất tiềm năng này trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, chỉ mới có một số nghiên cứu nhỏ lẻ, thiếu tính hệ thống và chưa hình thành được một cơ sở lý luận về vấn đề này. Vì vậy việc nghiên cứu sâu hơn các cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm phát triển du lịch sáng tạo là hết sức quan trọng và cần thiết. Xuất phát từ vấn đề lý luận và thực tiễn trên mà đề tài “Phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam”, được lựa chọn làm đề tài nghiên cứu.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Du Lịch – Khách Sạn
2. Mục đích nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu của đề tài: Góp phần phát triển du lịch Việt Nam nói chung, trong đó có phát triển du lịch sáng tạo như một loại hình du lịch mới đầy tiềm năng nhằm phong phú hóa sản phẩm du lịch.
2.2 Để thực hiện được mục đích nghiên cứu này, đề tài có nhiệm vụ:
Nhiệm vụ thứ nhất, tổng quan cơ sở lý luận về phát triển du lịch sáng tạo như làm rõ các khái niệm, đặc điểm, nội dung của du lịch sáng tạo
- Nhiệm vụ thứ hai, đánh giá và phân tích tiềm năng phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam.
- Khảo sát nhu cầu du lịch sáng tạo của khách.
- Nhiệm vụ thứ ba, định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: điều kiện phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là thì phần lý thuyết đề cập tới cơ sở lý luận của phát triển du lịch sáng tạo nói chung. Về mặt thực tiễn là nghiên cứu, khảo sát một số điều kiện để phát triển du lịch sáng tạo tại Việt.
- Phạm vi điều tra số liệu: do điều kiện thời gian nên mới chỉ tiến hành khảo sát điểm tại một số địa phương có nhiều khách du lịch quốc tế như Hà Nội, Tp.HCM, Đà Nẵng, Hội An, Phan Thiết ….
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Luận văn: Phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam.
Trên thế giới, du lịch sáng tạo là xu hướng du lịch mới và được coi là thịnh hành hiện nay. Do đó, có khá nhiều các nhà nghiên cứu, các học giả đã đề cập đến nội dung này.
Thuật ngữ du lịch sáng tạo lần đầu tiên được Pearce và Butler (1993) đưa ra năm 1993, song rất tiếc hai ông không đưa ra định nghĩa về nó.
Sau này, vào năm 2000, Krispin Raymond, người New Zealand và Greg Richards, người Hà Lan cũng đã nghiên cứu phát triển những vấn đề có tính lý luận cơ bản về du lịch sáng tạo
Trong bài báo “Trào lưu du lịch sáng tạo” của mình, Georges Roussin đã trích dẫn định nghĩa du lịch sáng tạo
Tác giả Jessica Harriet Pfanner trong luận văn thạc sỹ “Archaeological Seeing as Creative Tourism?” được thực hiện tại trường đại học Warwich đã đề cập tới việc phát triển hoạt động du lịch sáng tạo thông qua các hoạt động khảo cổ học tại khu vực khảo cổ Nash House & New Place ở Stratford-upon-Avon.
Tác giả Pirita J. Ihamäki trong luận văn “Creative tourism expereince scapes by Geocachers” được thực hiện tại trường đại học công nghệ Tampre Phần Lan thì có đề cập tới việc phát triển du lịch sáng tạo thông qua các trò chơi công nghệ để tạo ra định dạng mới trong du lịch mạo hiểm và kinh doanh du lịch chăm sóc sức khỏe.
Tác giả Bred King,“Creative Tourism and Cultural Development: Some Trends and Observations”, đã đề cập đến một số xu hướng phát triển du lịch sáng tạo trong phát triển văn hóa. Trong nội dung bài viết này tác giả đã làm sáng tỏ một số câu hỏi: Du lịch sáng tạo là gì? khách du lịch sáng tạo là ai?; họ tìm kiếm điều gì và làm thế nào để các dự án du lịch văn hóa đáp ứng được hoạt động phát triển du lịch sáng tạo.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập và đánh giá thông tin, dữ liệu thứ cấp đó là thu thập các tài liệu nghiên cứu về du lịch sáng tạo. Do vấn đề này còn khá mới, nhất là ở Việt Nam, nên việc nghiên cứu gặp nhiều khó khăn như dịch thuật khái niệm, thống nhất thuật ngữ bằng tiếng Việt.
- Phương pháp chuyên gia: Phỏng vấn, trao đổi với chuyên gia, giảng viên, nhà nghiên cứu, các cán bộ, nhân viên làm trong ngành du lịch về loại hình du lịch mới này.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi trực tiếp với du khách quốc tế tại điểm tham quan có đông du khách như Bảo tàng chiến tranh, Bưu điện Tp.HCM, nhà thờ Đức Bà…
6. Cấu trúc của đề tài Luận văn: Phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, phần chính của công trình này gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch sáng tạo
- Chương 2: Điều kiện và thực trạng phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam
- Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SÁNG TẠO
1.1 hái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Sáng tạo
Ngày nay, sáng tạo thường được coi là một nguồn lực chính trong nền kinh tế tri thức, dẫn tới những sáng tạo và thay đổi về công nghệ, đồng thời đem lại lợi thế cạnh tranh về kinh doanh và các nền kinh tế quốc gia.
Nền tảng cơ bản của du lịch sáng tạo chính là sự sáng tạo. Sáng tạo là một đặc tính quan trọng của trí tuệ loài người. Sáng tạo là một nhu cầu nội tại của con người. Ở các mức độ khác nhau, những người có tri thức bình thường đều hướng tới và tạo ra những giá trị mới, hoặc vật chất, hoặc phi vật chất.
Vậy sáng tạo là gì? Cho đến nay chưa có một định nghĩa nào làm hài lòng tất cả các nhà nghiên cứu về vấn đề này. Nguyên nhân của hiện tượng này chính là sự lan tỏa mạnh mẽ của tính sánh tạo trong mọi lĩnh vực của đời sống như khoa học, văn hóa, kinh tế, kỹ thuật…Tuy nhiên các nhà khoa học đều đồng tình khi cho rằng sáng tạo phải là một hoạt động tạo ra một sản phẩm mới, có giá trị vật chất hay tinh thần mới. Nhiều nhà nghiên cứu còn khẳng định thêm là các sản phẩm đó phải là các sản phẩm có giá trị.
Mommaas cho rằng trong gia đoạn hiện nay, sáng tạo có sự phát triển vượt bậc do chịu ảnh hưởng sâu sắc của quá trình toàn cầu hóa (Mommaas, 2009i). Toàn cầu hóa làm cho mọi người dễ dàng tiếp cận với các tri thức khác nhau, nhu cầu sở thích khác nhau, trên cơ sở sự khác biệt có thể khám phá ra sự giao thoa của các luồng tư tưởng đó. Ví dụ, nhận biết thấy trong hoàn cảnh giao thông hiện nay ở Việt Nam, di chuyển bằng xe máy là phương tiện phù hợp nhất, các hãng xe Nhật Bản luôn chủ động tìm hiểu nhu cầu, sở thích của người tiêu dùng để từ đó sáng tạo ra chiếc xe ngày càng phù hợp hơn, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Chiếc xe được tạo ra có đặc tính là nhỏ (phù hợp với thể trạng người Việt Nam), tốn ít xăng (phù hợp với khả năng tài chính của người tiêu dùng), đẹp mắt về màu sắc và kiểu dáng (phù hợp với thị hiếu), tiện dụng như chứa được nhiều đồ vật, từ mũ bảo hiểm đến máy laptop (phù hợp với công năng sử dụng mà người chủ xe muốn có). Đây chính là lí do xe máy Nhật luôn được khách hàng Việt nam ưa chuộng. Luận văn: Phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam.
Sáng tạo là một khái niệm tương đối mới và tùy thuộc vào từng ngôn ngữ, từng ngành nghề khác nhau mà nó được hiểu khác nhau nhưng đều có điểm chung là một hoạt động của con người nhằm tạo ra bất k cái gì có đồng thời tính mới và tính ích lợi. Theo cách hiểu này thì từ “hoạt động” được dùng với nghĩa rất rộng, chứ không phải theo nghĩa hẹp – “hoạt động của riêng con người”. Đó chính là hoạt động tạo ra sự phát triển của bất k đối tượng nào và sự phát triển là thuộc tính của vật chất (hiểu theo nghĩa triết học). Còn cụm từ “bất k cái gì” cho thấy kết quả (thành phẩm) sáng tạo cũng như chính hoạt động sáng tạo có thể có ở bất k lĩnh vực nào của thế giới vật chất và thế giới tinh thần, miễn là “cái gì đó” có đồng thời tính mới và tính ích lợi. Nếu “cái gì đó” chỉ có hoặc tính mới, hoặc tính ích lợi thì không được coi là sáng tạo.
Tính mới” là bất k sự khác biệt nào của đối tượng cho trước so với đối tượng tiền thân của nó (đối tượng cùng loại ra đời trước đó xét về mặt thời gian). Trong trường hợp này, chúng ta nói rằng đối tượng cho trước có tính mới. Để có được sự sáng tạo, tính mới phải đem lại lợi ích (tạo ra giá trị thặng dư), không phải mới để mà mới. “Tính ích lợi” do tính mới tạo ra có thể rất đa dạng như tăng năng suất, hiệu quả; tiết kiệm năng lượng, nguyên vật liệu; giảm giá thành; có thêm chức năng mới; sử dụng thuận tiện hơn; thân thiện hơn với môi trường; tạo thêm được các xúc cảm, thẩm mỹ tốt…
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một định nghĩa nào về sáng tạo làm hài lòng tất cả các nhà nghiên cứu. Nguyên nhân của hiện tượng này chính là sự lan tỏa mạnh mẽ của tính sánh tạo trong mọi lĩnh vực của đời sống như khoa học, văn hóa, kinh tế, kỹ thuật…Tuy nhiên các nhà khoa học đều đồng tình khi cho rằng sáng tạo phải là một hoạt động tạo ra một sản phẩm mới, có giá trị vật chất hay tinh thần mới. Nhiều nhà nghiên cứu còn khẳng định thêm là các sản phẩm đó phải là các sản phẩm có giá trị.
Sáng tạo là nhân tố căn bản tạo nên động lực cho sự phát triển các mặt kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật của xã hội. Nhà sáng chế, người sáng tạo là những danh từ tồn tại trong rất nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Nhà kinh tế kiêm xã hội học Hoa K Richard Florida (2002) đề xuất một khái niệm mới, khái niệm giai cấp sáng tạo. Đó là tập hợp những nhà sáng tạo. Theo khảo sát của ông, ở Hoa K có khoảng 30% tổng lao động là những người thuộc giai cấp sáng tạo.
Thành phố sáng tạo là thuật ngữ do nhà nghiên cứu đô thị học người Anh Charles Landry đưa ra năm 1980, song ngay sau đó đã được UNESCO lập ra mạng lưới các thành phố sáng tạo. Hiện nay trên toàn thế giới có 34 thành phố sáng tạo thuộc 7 ngành sáng tạo.
Trong kinh doanh, sáng tạo một trong những nhân tố cơ bản tạo nên vị thế cạnh tranh của ngành, của doanh nghiệp. Mặc dù ngành nào cũng cần có sáng tạo, song tùy từng tính chất nghề nghiệp, mức độ yêu cầu tính sáng tạo không thể hiện đồng nhất. Một số nhà nghiên cứu gọi các ngành hay các nghề có mức độ yêu cầu nhiều tính sáng tạo là ngành hay nghề sáng tạo. Đó là những ngành/nghề có sản phẩm được tạo ra chủ yếu dựa trên kiến thức hay kỹ năng. Có nhiều ý kiến xung quanh việc liệt kê các ngành nghề được coi là ngành nghề sáng tạo. Howkins[3] đưa vào danh sách các ngành nghề được coi là sáng tạo gồm: quảng cáo, kiến trúc, nghệ thuật, thủ công, thiết kế, thời trang, phim ảnh, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, xuất bản, nghiên cứu triển khai, phần mềm, đồ chơi và trò chơi, phát thanh, truyền hình (Howkins 2001). Bộ Văn hóa, Truyền thông và Thể thao Anh quốc cũng đưa ra một danh sách các ngành nghề sáng tạo. Đó là quảng cáo, kiến trúc, buôn bán sản phẩm nghệ thuật và đồ cổ, hàng thủ công, thiết kế truyền thông, thiết kế thời trang, phim, videao chụp ảnh, phần mềm máy tính, game máy tính, xuất bản điện tử, nghệ thuật diễn xướng, xuất bản, tivi, phát thanh…
Thấy được vai trò to lớn của sự sáng tạo nên nước Anh đã cho thành lập Bộ Văn hóa, Truyền thông và các Nghề Sáng tạo, Malaysia lập Bộ Du lịch và Kinh tế Sáng tạo.
Như vậy, sáng tạo là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta, không phải chỉ có những người làm nghệ thuật mới phải thường xuyên sáng tạo mà những người ở những ngành nghề khác nhau cũng va chạm với nó trong cuộc sống hằng ngày.
1.1.2 Du lịch sáng tạo Luận văn: Phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam.
Theo một số tài liệu, thuật ngữ sáng tạo đã được đưa vào 1976, Ram Kohli, người Ấn Độ đã lập ra hãng Lữ hành Sáng tạo
Theo Greg Richards (2005), thực tiễn ra đời một loại hình du lịch văn hóa mới mà sau này có tên là du lịch sáng tạo được ghi nhận vào những năm 90 của thế kỉ trước khi mà các nhà nghiên cứu và nhà quản lý tìm kiếm giải pháp tăng cường việc bán các sản phẩm thủ công truyền thống cho khách du lịch. Về phía khách du lịch, xu hướng đi tìm những trải nghiệm độc đáo, trải nghiệm kỹ một lối sống, một kinh nghiệm v.v…bản địa ngày càng gia tăng và trở nên nghiêm túc hơn.
Sau đó, du lịch sáng tạo đã được coi là một trong những loại hình du lịch mới của du lịch văn hóa. Du lịch sáng tạo đã trở thành một loại hình khó sao chép hơn các loại hình du lịch truyền thống trước đây vì nó là hàm số không chỉ của nhà cung cấp dịch vụ mà còn của kỹ năng, kinh nghiệm của chính du khách. Lúc đầu du lịch sáng tạo chủ yếu chỉ là loại hình du lịch có thể tạo cho du khách cơ hội trải nghiệm một cách chủ động vào các hoạt động sáng tạo của địa phương. Trước thực tế đó, một số nhà nghiên cứu đã quan tâm nghiên cứu về loại hình này. Những vấn đề được nghiên cứu, tranh luận là khái niệm, nội dung, đặc điểm, các loại hình, các mô hình, các điều kiện phát triển … du lịch sáng tạo. Thuật ngữ du lịch sáng tạo lần đầu tiên được Pearce và Butler (1993) iii đưa ra năm 1993, song rất tiếc hai ông không đưa ra định nghĩa về nó. Sau này, vào năm 2000, Krispin Raymond, người New Zealand và Greg Richards, người Hà Lan, hai nhà khoa học đi tiên phong trong việc nghiên cứu phát triển những vấn đề có tính lý luận cơ bản về du lịch sáng tạo đã định nghĩa du lịch sáng tạo là chuyến đi cung ứng cho khách du lịch cơ hội phát triển tiềm năng sáng tạo thông qua việc tham gia tích cực vào các lớp học và học hỏi những trải nghiệm đặc trưng của điểm đến. (Richards, G., & Raymond, C., 2000iv). Trong bài báo “Trào lưu du lịch sáng tạo” của mình, Georges Roussin đã trích dẫn định nghĩa du lịch sáng tạo của Mạng lưới các Thành phố Sáng tạo như sau: “du lịch sáng tạo là chuyến đi hướng đến và gắn kết với một trải nghiệm chân thực thông qua việc tham gia các khóa học nghệ thuật, di sản hay một đặc điểm nào đó của địa phương và cung ứng sự liên kết với những người sinh sống và sáng tạo ra văn hóa sống tại điểm đến” (Georges Roussin)
Như vậy, sản phẩm du lịch sáng tạo là những sản phẩm được tạo bởi sự hợp tác giữa nhà cung ứng du lịch và khách du lịch. Nếu như trước đây, ở các loại hình du lịch văn hóa, khách du lịch chỉ là người thụ động tiêu thụ tại chỗ những giá trị vật chất hay tinh thần của tự nhiên hay văn hóa do nhà cung ứng cung cấp thì trong du lịch sáng tạo, khách du lịch tham gia chủ động vào quá trình tạo ra sản phẩm du lịch, vừa là nhà đồng sản xuất, vừa là người tiêu dùng. Với sự hướng dẫn của những nghệ nhân, những người sáng tạo, khách du lịch có năng lực sáng tạo đã sáng tạo ra những sản phẩm tại điểm đến.
Tóm lại, có thể hiểu du lịch sáng tạo là một loại hình du lịch văn hóa mà trong đó khách du lịch được chủ động tham gia vào hoạt động để tạo ra những giá trị mới về vật chất hoặc tinh thần cho sản phẩm truyền thống của điểm đến.
1.2. Các điều kiện cơ bản để phát triển du lịch sáng tạo Luận văn: Phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam.
1.2.1. Điều kiện cung đăc trưng cho phát triển du lịch sáng tạo
Với cách hiểu về du lịch sáng tạo như trên thì để đáp ứng điều kiện cầu về du lịch sáng tạo, điều kiện cung đặc trưng của du lịch sáng tạo sẽ gồm bốn thành tố cơ bản là tài nguyên du lịch sáng tạo, nguồn nhân lực du lịch sáng tạo, môi trường sáng tạo và sản phẩm cho sáng tạo.
1.2.1.1. Tài nguyên du lịch sáng tạo
Trước hết là các nghề thủ công truyền thống, tính trên địa bản cả nước, Việt Nam có trên 100 nghề thủ công truyền thống. Hầu hết các nghề này gắn với cuộc sống và sinh hoạt nông thôn. Thông thường, nghề thủ công được ra đời là do nhu cầu phục vụ cuộc sống thường nhật, phục vụ sản xuất nông nghiệp và được tiến hành vào thời kì nông nhàn nên thời gian chế tác thường không quá dài. Đại đa số nghề thủ công truyền thống có quy trình sản xuất cũng không quá phức tạp, không quá nhiều công đoạn. Đây chính là những lợi điểm của nghề thủ công truyền thống Việt Nam với tư cách là một tài nguyên du lịch sáng tạo.
Bên cạnh nghề thủ công truyền thống, nghệ thuật chế biến đồ ăn cũng có sức hấp dẫn rất lớn đối với khách du lịch sáng tạo. Có thể nói rằng, các món ăn truyền thống của Việt Nam là đích hướng đến trong xu thế ăn uống của thế giới. Đó là xu thế ăn ít mỡ, ít thịt động vật và tăng cường rau quả. Chế biến thức ăn dựa trên căn bản rau quả nhưng vẫn tạo ra cảm giác ngon miệng là một nghệ thuật lớn. Người đầu bếp Việt biết khéo léo kết hợp các loại thực phẩm khác nhau một cách hợp lý để tạo ra những món ăn có hương vị khác với hương vị của các loại thực phẩm ban đầu. Bên cạnh sự khéo tay, chế biến và thưởng thức món ăn còn mang ý nghĩa văn hóa, triết lý của người Phương Đông. Việc học kĩ năng chế biến nấu ăn các món ăn Việt được khách du lịch sáng tạo đánh giá rất cao. Nghệ thuật ẩm thực Việt Nam có sức hút rất lớn đối với khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch sáng tạo. Không phải ngẫu nhiên mà tại hội thảo “Marketing mới cho thời đại mới” ngày 17/8/2007 tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, Philip Kotler đã gợi ý Việt Nam nên trở thành bếp ăn của thế giới!
Ca múa nhạc, đặc biệt là ca hát dân ca là tài nguyên du lịch sáng tạo thứ ba của Việt Nam. Âm nhạc truyền thống Việt Nam cũng rất phong phú và đa dạng. Nó được chính người dân sáng tác và truyền lại từ đời này sang đời khác, lan truyền từ vùng này qua vùng khác. Nhìn chung có thể gộp các dạng âm nhạc truyền thống này thành 5 lớp lớn là nhạc cung đình, nhạc nghi lễ, nhạc “thính phòng”, nhạc kịch, dân ca. Nhạc kịch là loại hình kén chọn khách du lịch hơn vì để có thể tham gia diễn loại hình này, khách du lịch phải cần nhiều thời gian để luyện tập. Dân ca có thể là tài nguyên khai thác khả thi nhất vì giai điệu không quá khó, lời ca không quá dài và mang nhiều nét chung của cuộc sống thường ngày như hát ru, đồng giao, các điệu hò, quan họ, trống quân, hát ghẹo, hát xẩm…. Nhiều làn điệu dân ca cho phép hoặc bắt người hát phải nhanh chóng sáng tác ca từ cho phù hợp với ngữ cảnh trình diễn. Hát ả đào (ca trù), ca Huế, đờn ca tài tử là các lọai hình tiêu biểu nhất, hấp dẫn khách du lịch nhất.
Nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên rất đa dạng của Việt Nam thì phù hợp với du lịch sáng tạo mang dấu ấn của nền văn minh hiện đại là nghệ thuật quay phim, chụp ảnh. Với cảnh quan thiên nhiên rất hấp dẫn, những khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, những sinh hoạt đời thường và hoạt động sôi động trong các dịp lễ tết là môi trường cho các nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp và nghiệp dư thể hiện tài năng sáng tạo của mình. Các nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp hoặc không chuyên chắc chắn sẽ cố tìm mọi góc đứng, tư thế để có được những bức ảnh đẹp để ghi lại mùa lúa chín trên ruộng bậc thang Mù Căng Chải, rừng trắng hoa đào, hoa mận Luận văn: Phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam.
Mộc Châu vào đầu xuân, nương hoa tam giác mạch khi đến Hà Giang vào mùa thu.
Ngoài các tài nguyên kể trên, còn có nhiều nguồn khác cho tài nguyên du lịch sáng tạo như hội họa, điêu khắc …
1.2.1.2. Nguồn nhân lực du lịch sáng tạo
Nguồn nhân lực du lịch sáng tạo là những nghệ nhân, chuyên gia, những người có khả năng sáng tạo sản phẩm và có khả năng truyền đạt bí quyết nghề nghiệp cho người học. Nghệ nhân là người chuyên làm nghề nghệ thuật biểu diễn hoặc một nghề thủ công mĩ nghệ, với trình độ cao. Thông thường nghệ nhân là những người có tài năng đặc biệt về một lĩnh vực nào đó. Ở nước ta, các ngành nghề sáng tạo nào cũng có nghệ nhân, có chuyên gia.
Tuy nhiên, điều quan trọng nhất chính là những người làm du lịch. Muốn phát triển du lịch sáng tạo phải có người làm du lịch sáng tạo. Cũng tương tự như các ngành nghề khác, yếu tố con người luôn chiếm một vị trí quan trọng, bởi lẽ chỉ có những người trực tiếp làm các công việc liên quan đến hoạt động du lịch, họ có cơ hội nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo ra những sản phẩm du lịch mới, thậm trí trên cơ sở những sản phẩm cũ thêm một chút sáng tạo của những nhà làm du lịch là chúng ta có thêm được những sản phẩm du lịch mới khiến du khách không cảm thấy nhàm chán mà còn thấy hứng thú.
1.2.1.3. Môi trường du lịch sáng tạo
Môi trường du lịch sáng tạo là môi trường có không khí sáng tạo, kích thích khách du lịch phát huy óc sáng tạo để tạo ra sản phẩm có giá trị mới về vật chất và/hoặc có giá trị tinh thần mới. Môi trường đó có thể là không gian làng nghề, không gian gia đình nghệ nhân, câu lạc bộ, hoặc lớp học nghề v.v…
Làng nghề là không gian ở vùng ngoài đô thị ở đó sinh sống cộng đồng có chung truyền thống sản xuất các sản phẩm thủ công cùng chủng loại.
Ở Việt Nam có trên 2000 làng nghề. Có thể xếp các làng nghề theo vật liệu và sản phẩm chế tác thành các loại làng mây tre đan, làng làm cói và lục bình, làng gốm sứ, làng (điêu khắc) gỗ, làng sơn mài, làng thêu ren, làng (điêu khắc) đá, làng dệt (thủ công), làng giấy (thủ công), làng tranh nghệ thuật, làng kim khí, và các làng nghề khác.
Câu lạc bộ là một tổ chức của những người có cùng sở thích, tự nguyện tham gia và thường xuyên sinh hoạt, gặp gỡ nhau. Câu lạc bộ có thể là một môi trường tốt cho phát triển du lịch sáng tạo. Khách du lịch có thể đến sinh hoạt trong một câu lạc bộ về lĩnh vực mà mình yêu thích và muốn sáng tạo, nhờ sự giúp đỡ của các thành viên có kĩ năng, tay nghề, khách du lịch có thể phát huy óc sáng tạo của mình để tạo nên các sản phẩm mới.
Lớp học nghề cũng là một môi trường tốt cho khách du lịch chóng tiếp thu những kiến thức, kĩ năng chuyên môn để chế tác sản phẩm. Nếu ở làng nghề, câu lạc bộ khách du lịch có thể học được những kĩ năng, bí quyết nghề từ những nghệ nhân, những người yêu thích nghề thì ở các lớp học nghề, khách du lịch được các giảng viên truyền đạt một cách sư phạm hơn.
Ngoài ra du khách của du lịch sáng tạo có thể tham gia vào hoạt động du lich sáng tạo tại nhà của người dân hay nghệ nhân, chuyên gia
1.2.2. Điều kiện cầu để phát triển du lịch sáng tạo Luận văn: Phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam.
1.2.2.1. Nhu cầu, sở thích của khách du lịch
Điều kiện đầu tiên của cầu du lịch nói chung và cầu du lịch sáng tạo nói riêng phải kể đến đó chính là nhu cầu và sở thích đối với hoạt động du lịch. Người ta chỉ đi du lịch thì có nhu cầu và sở thích về hoạt động này. Còn nhu cầu và sở thích đi du lịch ngoài mong muốn của từng cá nhân khác nhau thì trên bình diện xã hội nó được quyết định bởi trình độ văn hoá chung của người dân, trình độ văn hoá chung của một dân tộc luôn được đánh giá theo tiêu chí hệ thống giáo dục và chất lượng của giáo dục và đào tạo. Nếu trình độ chung của một dân tộc được nâng cao thì động cơ đi du lịch của họ sẽ cũng tăng lên. Số người đi du lịch cũng tăng, lòng ham hiểu biết và tìm hiểu thế giới xung quanh cũng tăng nhanh và dần dẫn sẽ tạo nên thói quen đi du lịch ngày càng rõ rệt. Mặt khác, nếu trình độ văn hoá chung của một đất nước cao thì đất nước đó khi phát triển du lịch sẽ bảm đảm chất lượng phục vụ du khách đến nước họ du lịch.
Bên cạnh đó, trong hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa như hiện nay thì nhu cầu giao lưu học hỏi, nhu cầu sáng tạo và tự hoàn thiện mình càng khiến cho một bộ phận dân cư trên thế giới đi du lịch để thỏa mãn nhu cầu của mình.
1.2.2.2. Khả năng chi trả của du kh ách
Một trong điều kiện cầu quan trọng nhất của việc đi du lịch nói chung đó chính là khả năng chi trả của khách du lịch. Chúng ta không thể thực hiện việc đi du lịch nếu không có khả năng chi trả chứ chưa nói việc chi trả nhiều hay ít là tùy vào từng loại hình du lịch khách nhau. Bởi lẽ hoạt động đi du lịch là hoạt động di chuyển từ nơi nay sang nơi khác và kèm theo đó là hàng loạt các dịch vụ khác nhau như nơi ăn, chốn ở, phương tiện đi lại, bảo hiểm…..Do đó, một điều kiện cần là phải có khả năng chi trả cho hoạt động du lịch của mình. Thông thường khả năng chi trả cho hoạt động du lịch được quyết định phần nhiều bởi mức sống về vật chất và trình độ văn hoá chung của người dân. Mức sống về vật chất cao sẽ liên quan đến mức thu nhập của người dân, đây là chỉ tiêu và điều kiện quan trọng để người dân có thể tham gia hoạt động du lịch. Do vậy, phúc lợi vật chất của nhân dân là điều kiện có ý nghĩa to lớn trong sự phát triển của du lịch. Thông qua các nghiên cứu về đời sống của con người thì các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng mỗi khi thu nhập của người dân tăng thì sự tiêu dùng du lịch cũng tăng theo, đồng thời có sự thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng du lịch. Điều kiện vật chất của người dân phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế, vào thu nhập quốc dân của đất nước đó. Vì nguyên nhân đó, những nước có điều kiện kinh tế phát triển sẽ đảm bảo cho người dân có mức sống cao, một mặt có điều kiện sản xuất ra nhiều của cải vật chất và tạo điều kiện phát triển du lịch trong nước, mặt khác, người dân nước này sẽ có điều kiện đi du lịch nước ngoài. Trên thực tế đã có rất nhiều quốc gia trên thế giới có rất nhiều tiềm năng về thiên nhiên và văn hoá để phát triển các hoạt động du lịch, nhưng nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển khiến cho người dân nước họ không có điều kiện về vật chất để đi du lịch. Luận văn: Phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam.
1.3. Tình hình phát triển du lịch sáng tạo ở một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
1.3.1. Thái Lan
Ngành du lịch Thái Lan rất quan tâm, chú trọng phát triển du lịch dựa trên khả năng khai thác sự độc đáo của lịch sử, khảo cổ, đa dạng dân tộc, truyền thống, văn hóa và tự nhiên. Thái Lan luôn chủ động mang tới những trải nghiệm, những cái nhìn khác biệt cho khách du lịch từ những tài nguyên nhân văn tưởng trừng chẳng có gì khác biệt. Quan trọng chưa chắc là bạn nắm giữ những tài nguyên hấp dẫn như nào mà quan trọng hơn cả là bạn biến chúng trở nên khác biệt.
Đối với việc phát triển du lịch theo hướng sáng tạo, Thái Lan đã nhấn mạnh những đặc điểm cơ bản để làm rõ những lợi ích thuyết phục của loại hình du lịch này là:
Thứ nhất, mang lại lợi ích cho du khách tạo điều kiện để du khách tận hưởng được chiều sâu văn hóa của đất nước mình theo một cách thức mới mẻ, hấp dẫn nhằm phát triển du lịch Thái Lan;
Thứ hai, mang đến lợi ích kinh tế cho cộng đồng cư dân bản địa để học có thể sinh sống và phát triển một cách độc lập, giảm nhiều sự chênh lệch giữa các khu vực.
Khi xây dựng mô hình du lịch sáng tạo ở địa phương này (mỗi làng một sản phẩm), ngành du lịch Thái Lan phân tích và chỉ ra những thuận lợi và khó khăn, phát triển mô hình qua các buổi thảo luận và đóng góp ý kiến để hoàn thiện. Cộng đồng dân cư địa phương cũng được khuyến khích tham gia đóng góp ý tưởng và tham gia triển khai thực hiện để góp phần bảo vệ bản sắc văn hóa địa phương. Những ý tưởng, mô hình, thành công được khuyến khích, nhân rộng và phát triển ở các vùng lân cận. Cộng đồng địa phương chính là nên tảng để tiếp thu, chia sẻ kinh nghiệm, tạo nên sự hấp dẫn và thành công dựa trên khả năng sáng tạo và sự phát triển bền vững.
Tại Thái Lan du khách có thể dễ dàng tham gia vào các hoạt động du lịch sáng tạo. Với tư cách là đất nước là xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, khách du lịch, đặc biệt là các đối tượng khách đến từ các nước phương Tây sẽ được trải nghiệm công việc trồng lúa, công việc của cư dân nông nghiệp Châu Á. Những du khách đam mê ẩm thực Thái Lan không thể chối từ được hoạt động nấu món ăn Thái Lan từ những đầu bếp chuyên nghiệp. Tùy từng sở thích của mỗi người các du khách có thể chọn cho mình tour du lịch trồng lúa, nấu món ăn Thái, múa các điệu múa truyền thống Thái Lan hay học dệt vải….
Khi phát triển du lịch sáng tạo, Thái Lan không chú trọng phát triển những khách sạn, nhà hàng lộng lẫy và cao cấp, những khu vui chơi giải trí, nhộn nhịp mà tâm điểm của xu hướng này là giá trị văn hóa cốt lõi của cư dân bản địa. Chính vì thế, du lịch sáng có thể phát triển ở rất nhiều nơi, kể cả khi điều kiện kinh tế địa phương chưa thật sự phát triển vững chắc nhưng sẽ thành công nếu nơi đó chứa đựng những giá trị văn hóa độc đáo hứa hẹn mang tới cho du khách những trải nghiệm giá trị, thứ vị.
1.3.2.Nhật Bản Luận văn: Phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam.
Điển hình trong phát triển du lịch sáng tạo ở Nhật Bản đó chính là sự thành công của mô hình “mỗi làng một sản phẩm”, ban đầu đây chỉ là mô hình phát triển nông thôn của Nhật Bản nhưng sau đó được kết hợp ứng dụng cả trong phát triển du lịch. Mô hình mỗi làng một sản phẩm được thực hiện dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản là: thứ nhất: Hành động địa phương nhưng suy nghĩ toàn cầu; thứ hai: tự tin và sáng tạo và cuối cùng là phát triển nguồn nhân lực. Mỗi địa phương, tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mình lựa chọn ra những sản phẩm độc đáo, mang đậm nét đặc trưng của địa phương để phát triển du lịch sáng tạo.
Ở Nhật Bản, để phát triển du lịch sáng tạo thì các nhà quản lý và người làm du lịch tiêp cận về du lịch từ hai phía đó là: khách du lịch và địa phương tiếp nhận khách du lịch. Mô hình phát triển du lịch sáng tạo ở Yufuin thực hiện theo phương thức đang được áp dụng nhiều ở Nhật Bản hiện nay đó là chính cộng đồng địa phương sẽ tự đề xuất mô hình phát triển du lịch bền vững và thực hiện. Khác với mô hình phát triển du lịch cách đây 10 năm trước của Nhật Bản là: chính quyền Trung ương ra quy hoạch, địa phương thực hiện.
Nghiên cứu của GS. Seiji Yoneda trường đại học Ehime – Nhật Bản cho biết vùng Yufuin của Nhật Bản mỗi năm đón khoảng 3,8 triệu khách du lịch trong đó có khoảng 900.000 khách lưu trú và 70% là khách đến lần thứ 2, gần 10% là khách đến hơn 10 lần. Nhờ có một số hoạt động cộng đồng gắn với du lịch mà vùng Yufuin đã thu hút, hấp dẫn khách du lịch như: liên hoan phim Yufuin, vào mùa thu tổ chức cuộc thi hét, khôi phục phát triển ngành nghề thủ công truyền thống, đồ lưu niệm mang nhãn hiệu Yufuin là những sản phẩm gắn liền với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày…
Một điểm rất đáng chú ý là người dân địa phương thậm chí cả trẻ em cũng được trực tiếp đào tạo tạo hướng dẫn du lịch.
Qua nghiên cứu về mô hình phát triển du lịch bền vững ở Yufuin chúng ta có thể nhận thấy rõ bài học kinh nghiệm về phát triển du lịch sáng tạo dựa trên phát triển du lịch cộng đồng bền vững: không nên phát triển quá rộng mà cần có sự kiểm soát nhất định; bản thân những tài nguyên mà cộng đồng địa phương thấy bình thường nhưng thực tế lại là tiềm năng để khai thác phát triển du lịch sáng tạo; nhận thức của cộng đồng rất quan trọng để phát triển du lịch bền vững; tinh thần hợp tác giữa các cá nhân trong cộng đồng.
Như vậy, những triết lý và bài học được đúc rút từ kinh nghiệm thực tế của người Nhật Bản như “Nguồn tài nguyên là có hạn nhưng sự sáng tạo là vô hạn”; “nếu bạn có kỹ năng và óc sáng tạo thì những nguồn tài nguyên tưởng như là bỏ đi sẽ trở thành những vật dùng quý giá, nhưng ngược lại, nếu bạn không có kỹ năng và sự sáng tạo, thì những nguồn tài nguyên quý giá nhất cũng sẽ trở thành vô dụng” đã được vận dụng thành công để phát triển du lịch sáng tạo.
Từ thực tế của Thái Lan và Nhật Ban chúng ta thấy rằng Việt Nam hoàn toàn có thể áp dụng những kinh nghiệm trên vào phát triển du lịch ở Việt Nam như mô hình “mỗi làng nghề một sản phẩm” hay phát triển du lịch miền quê, nông thôn…Việt Nam không phải nhất thiết phải nơi nào cũng xây khách sạn lớn cho khách ở mà với những loại loại hình du lịch rất thực tế như du lịch trãi nghiệm, du lịch sáng tạo, du lịch thiền, …du khách chỉ cần ở những nơi có môi trường tự nhiên thông thoáng, với nhiều cảnh quan đẹp, yên tĩnh, hoang sơ vừa đáp ứng nhu cầu của du khách vừa bảo vệ cảnh quan thiên nhiên bền vững.
Về nguồn nhân lực cho du lịch sáng tạo chúng ta nên quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thân cho nghệ nhân, chuyên gia, thợ lành nghề…những người sẽ có đóng góp rất to lớn cho sự phát triển của du lịch sáng tạo.
Tiểu kết chương 1 Luận văn: Phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam.
Tóm lại, như đã phân tích ở trên Du lịch sáng tạo là một loại hình du lịch văn hóa, là loại hình du lịch liên quan đến phát triển cộng đồng theo hướng bền vững, nhằm cung cấp cho du khách cơ hội để trực tiếp tham gia vào các hoạt động tại công đồng điểm đến du lịch chứ không chỉ đơn thuần là những hoạt động chiêm ngưỡng, ngắm nhìn, tham qua như những hình thái du lịch truyền thống.
Du lịch sáng tạo sẽ cung cấp cho khách du lịch những cơ hội để phát huy tiềm năng sáng tạo của mình cũng như có thể cảm nhận được những giá trị văn hóa từ những trải nghiệm thực tế.
Nghiên cứu cơ sở lý luận về phát triển du lịch sáng tạo tại Việt Nam hiện nay cho phép làm sáng tỏ khái niệm; vai trò và vị trí của phát triển du lịch sáng tạo trong các loại hình du lịch hiện nay, đồng thời xác định được yếu tố nào là những yếu tố có thể quyết định sự thành công trong phát triển du lịch sáng tạo trong điều kiện hiện nay của Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu những kinh nghiệm về phát triển du lịch sáng tạo của một số quốc gia trên thế giới như Thái Lan, Nhật Bản, là những quốc gia khi so sánh có điều kiện phát triển du lịch sáng tạo tương đồng với Việt Nam. Luận văn: Phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam.
Trên cơ sở đó, tiến hành nghiên cứu các điều kiện và hiện trạng phát triển du lịch sáng tạo tại Việt Nam để đề xuất ra những biện pháp, chiến lược phát triển du lịch sáng tạo tại Việt Nam cũng như xây dựng một lộ trình cụ thể và các biện pháp hỗ trợ cần thiết để khai thác các giá trị văn hóa, nghệ thuật, nhân văn, lịch sử của đất nước vào phát triển du lịch sáng tạo.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam
Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com
Pingback: Luận văn: Giải pháp phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam