Luận văn: Giải pháp pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Giải pháp pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Luận văn: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp

3.1.1 Hoàn thiện quy định về đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý

Thứ nhất, để đảm bảo việc nộp đơn đăng ký bảo hộ chính xác, đáp ứng yêu cầu về cả khoa học lẫn thực tiễn hoạt động cũng như bảo đảm thể chế kinh tế thị trường, công tác này nhất thiết phải có sự tham gia của tập thể các nhà sản xuất. Do vậy, theo quan điểm của tác giả, cần sửa đổi Điều 88, Luật SHTT như sau:

“Quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý của Việt Nam thuộc về Nhà nước. Nhà nước cho phép hiệp hội hoặc tổ chức tập thể đại diện được thành lập bởi cơ quan hành chính địa phương, có thẩm quyền đại diện cho tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh sản phẩm tại địa phương có chỉ dẫn địa lý thực hiện quyền đăng ký.”

Quy định trên sẽ xóa bỏ quyền đăng ký của cơ quan hành chính, qua đó hạn chế sự can thiệp không cần thiết của Nhà nước vào hoạt động kinh tế. Đồng thời, việc tổ chức, cá nhân đơn lẻ không được phép đăng ký chỉ dẫn địa lý cũng đảm bảo tính tập thể của đối tượng này và giảm thiểu các rủi ro, tranh chấp về lợi ích có thể xảy ra.

Thứ hai, bổ sung thêm bản mô tả điều kiện cấp quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý vào yêu cầu đối với hồ sơ đăng ký bảo hộ nộp lên Cục SHTT. Theo quy định hiện hành, tiêu chuẩn cũng như trình tự thủ tục xin cấp quyền sử dụng của các nhà sản xuất được ghi nhận trong quy chế quản lý, sử dụng chỉ dẫn địa lý do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành. Tuy nhiên, tác giả đánh giá việc này làm hạn chế khả năng kiểm soát chất lượng nông sản xuất ra thị trường bởi sự thiếu chặt chẽ ngay từ quy chuẩn đầu vào dành cho tổ chức, cá nhân sản xuất. Do đó, cần yêu cầu mô tả điều kiện và thủ tục cấp quyền sử dụng đối với chỉ dẫn địa lý ngay trong đơn đăng ký. Như vậy, Cục SHTT có cơ sở để xem xét ngay từ đầu, buộc chủ thể nộp đơn phải sửa đổi, bổ sung nếu có sai sót; tránh tình trạng chỉ dẫn địa lý được cấp văn bằng bảo hộ nhưng quy chế sử dụng ban hành về sau lại quá lỏng lẻo, dẫn đến suy giảm chất lượng và danh tiếng nông sản.

Thứ ba, bổ sung yêu cầu đối với bản đồ địa lý được nộp theo hồ sơ đăng ký. Theo đó, bản đồ địa lý cần được quy định rõ ràng là “khu vực sản xuất thực tế của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý”. Không thể phủ nhận Thông tư vừa nêu đã có quy định tương tự bằng từ “tương ứng” (bản đồ khu vực địa lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý), nhưng tác giả cho rằng cách dùng từ này chỉ có ưu điểm là ngắn gọn nhưng chưa thể hiện được hết tính ràng buộc về mặt địa lý giữa nhà sản xuất nông sản với chỉ dẫn địa lý. Chính vì thế, ghi nhận quy định chặt chẽ, cụ thể hơn là một việc làm cần thiết, nhất là khi bản đồ có vai trò then chốt trong quá trình đăng ký và bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Luận văn: Giải pháp pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.

3.1.2 Hoàn thiện quy định về điều kiện bảo hộ chỉ dẫn địa lý

Thứ nhất, quy định áp dụng trực tiếp khoản 1 Điều 6.5 của EVFTA liên quan tới việc cấm sử dụng các thuật ngữ “kiểu”, “dạng”, “loại”, “học theo” đi kèm với chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm khác ngoài sản phẩm được bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong Phụ lục GI-I.

Pháp luật Việt Nam đã tương thích với hầu hết các cam kết tại Điều 6.5 của EVFTA, chỉ trừ nội dung liên quan đến việc cấm sử dụng các thuật ngữ như: “kiểu”, “dạng”, “loại”, “học theo” đi kèm với chỉ dẫn địa lý. Có thể đánh giá, đây là quy định thể hiện sự khắt khe trong bảo hộ về CDĐL của EVFTA nhưng nó cũng sẽ góp phần mang lại hiệu quả bảo hộ cao hơn cho các CDĐL được liệt kê trong danh sách. Các sản phẩm mang CDĐL được phân biệt rõ ràng hơn sẽ hạn chế vấn đề về xâm phạm quyền và tránh được sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Chính vì thế, việc pháp luật Việt Nam bổ sung thêm quy định này không chỉ để phù hợp với cam kết của EVFTA mà còn góp phần tăng cường sự chặt chẽ của pháp luật nội địa trong vấn đề bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Tuy nhiên, để quy định này thực sự mang lại hiệu quả cao nhất, các cơ quan chuyên môn cần phải chú ý hướng dẫn về trình tự thực hiện việc điều chỉnh sau đàm phán điều chỉnh Danh mục tại Phụ lục GI-I; và thủ tục thông báo cho EU về các CDĐL ngừng bảo hộ của Việt Nam và thủ tục đình chỉ bảo hộ với các chỉ dẫn địa lý của EU mà EU thông báo ngừng bảo hộ.

Thứ hai, sửa đổi Điều 92 Luật SHTT để bỏ quy định về việc nêu “tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý” trong Văn bằng bảo hộ cho phù hợp với cam kết trong EVFTA cũng như phù hợp với bản chất của Văn bằng bảo hộ.

Theo quy định hiện hành, văn bằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý ghi nhận tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý, các tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ, tính chất đặc thù của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý, tính chất đặc thù về điều kiện địa lý và khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý. Có thể thấy, “tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý, các tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý” là một trong những nội dung chính được thể trong văn bằng bảo hộ. Tuy nhiên, trong những năm qua, quy định về ghi tên tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng CDĐL trong văn bằng bảo hộ đã bộc lộ một số hạn chế. Quy định này vừa không phù hợp với cam kết “đảm bảo sử dụng chỉ dẫn địa lý vô thời hạn, không phải đăng ký lại” tại Điều 6.6 của Hiệp định EVFTA, vừa mâu thuẫn với Điều 123 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành và vô hình chung làm giảm đi hiệu quả khai thác CDĐL của các chủ thể quyền cũng như các tổ chức, cá nhân được trao quyền trên thực tế. Chính vì thế, không nhất thiết phải ghi tên tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý vào văn bằng mà chỉ cần được quản lý bởi cơ quan, tổ chức được trao quyền quản lý CDĐL đó. Luận văn: Giải pháp pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.

Thứ ba, cân nhắc về quy định hướng dẫn việc xử lý các trường hợp trùng, gây nhầm lẫn giữa nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý.

Pháp luật Việt Nam hiện đã loại trừ khả năng có chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu đang được bảo hộ trừ trong một số trường hợp cụ thể được nêu rõ. Do đó, về cơ bản pháp luật Việt Nam đã tương thích với Điều 6.7 Hiệp định nên không cần thiết phải điều chỉnh, sửa đổi về mặt nội dung. Tuy nhiên, cần chú ý rằng trong thực tế áp dụng, có thể phát sinh những rủi ro liên quan tới: cách giải thích khác nhau về khả năng “trùng, gây nhầm lẫn” với nhãn hiệu đã đăng ký trước đó, xảy ra trong quá trình xem xét đơn đăng ký CDĐL; hoặc xác định quyền của chủ nhãn hiệu và tổ chức cá nhân có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý trong trường hợp Việt Nam bảo hộ đồng thời cả nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý tương tự nhau. Chính vì thế, ban hành thêm các quy định hướng dẫn cụ thể, chẳng hạn như trong văn bản hướng dẫn về bảo hộ chỉ dẫn địa lý là điều cần thiết.

3.1.3 Hoàn thiện quy định về nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý

Thứ nhất, bổ sung thêm đối tượng được cấp quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý. Hiện nay pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam chỉ quy định tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm có nguồn gốc chỉ dẫn địa lý ở khu vực tương ứng với chỉ dẫn địa lý. Tác giả kiến nghị pháp luật nên bổ sung thêm một số các đối tượng khác cũng nên có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý nếu đáp ứng được các điều kiện được quy định trong luật hoặc quy chế sử dụng chỉ dẫn địa lý do tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý ban hành, như tổ chức, cá nhân kinh doanh, khai thác sản phẩm trong khu vực sản xuất sản phẩm có chỉ dẫn địa lý được bảo hộ.

Thứ hai, cần bổ sung các quy định về thủ tục cấp quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý, điều kiện cấp quyền chỉ dẫn địa lý. Quy định cụ thể cho việc cấp quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý sẽ tạo ra tính thống nhất và hiệu quả cho hoạt động quản lý và cấp quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý. Khắc phục được sự lúng túng và khó khăn trong việc xin cấp quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý của các tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm có nguồn gốc địa lý tại khu vực tương ứng với chỉ dẫn địa lý.

Thứ ba, bổ sung quy định về nghĩa vụ công khai danh sách các tổ chức, cá nhân được cấp quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý bởi tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý. Luật SHTT nên bỏ yêu cầu ghi danh các tổ chức, cá nhân được cấp quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý trong văn bằng bảo hộ. Tuy nhiên, việc bỏ ghi danh này sẽ khó khăn cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như người tiêu dùng khó xác định được các tổ chức, cá nhân cung cấp sản phẩm đạt tiêu chuẩn được gắn chỉ dẫn địa lý. Thay vào đó, nên có một quy định về nghĩa vụ công khai danh sách các tổ chức, cá nhân được cấp quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý. Quy định này sẽ bảo đảm sự ổn định cho văn bằng bảo hộ, không phải tiến hành thay đổi thường xuyên nhưng vẫn bảo đảm sự minh bạch, công khai về các tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý.

3.1.4. Hoàn thiện quy định về kiểm soát chất lượng nông sản mang chỉ dẫn địa lý Luận văn: Giải pháp pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.

Hiện nay, mặc dù các quy định về điều kiện bảo hộ chỉ dẫn địa lý đối với sản phẩm nông nghiệp tương đối chặt chẽ nhưng lại chưa có bất kỳ văn bản nào quy định về cơ chế quản lý, kiểm soát chất lượng đặc thù của sản phẩm. Do vậy, Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý trong vấn đề này, qua đó thể chế hóa vai trò của cơ quan nhà nước, tổ chức tập thể, nhà sản xuất riêng lẻ cũng như các đơn vị khác có liên quan. Để công tác kiểm soát chất lượng các sản phẩm nông nghiệp đạt hiệu quả cao, tác giả đề xuất một số biện pháp cơ bản như sau:

Thứ nhất, các cơ quan chức năng cần gấp rút ban hành mẫu logo, tem chứng nhận sử dụng chung cho tất cả các loại sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Kinh nghiệm quản lý của EU đã chứng minh, một dấu hiệu chung như thế vừa tăng giá trị thương mại của sản phẩm, nhất là nông sản, đồng thời cũng hỗ trợ đắc lực cho cơ quan chức năng trong vấn đề kiểm soát hàng hóa lưu thông trên thị trường. Ở góc độ người tiêu dùng, việc làm này không chỉ giúp họ tự bảo vệ quyền lợi của mình mà mặt khác còn có thể trở thành nguồn cung cấp thông tin hữu hiệu đến cơ quan chức năng để phát hiện các hành vi xâm phạm chỉ dẫn địa lý.

Thứ hai, xây dựng trung tâm kiểm soát chất lượng độc lập hoặc giao cho các tổ chức chứng nhận tư nhân được công nhận thực hiện. Giải pháp này thực chất đã từng được Cục SHTT đề cập đến từ năm 2004, với ba trung tâm đầu mối thành lập ở ba miền Bắc, Trung, Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, hướng đi đó vẫn chưa được thực hiện. Việc thành lập các trung tâm kiểm soát chất lượng độc lập là vấn đề mang tính lâu dài, có ý nghĩa lớn lao trong việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý đối với các sản phẩm nông nghiệp. Theo quy định hiện hành, cơ quan kiểm soát chất lượng vẫn do chính đơn vị quản lý ủy quyền hoặc đứng ra thành lập nên khó tránh khỏi có lợi ích liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong khi đó, sứ mạng lớn nhất của chỉ dẫn địa lý là duy trì và quảng bá chất lượng đặc trưng của sản phẩm do điều kiện địa lý mang lại mà không nơi nào khác có được. Do đó, nếu không có sự kiểm soát chất lượng một cách chặt chẽ và độc lập thì mục đích lớn lao nói trên sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Thứ ba, quy định cụ thể cơ cấu, điều kiện thành lập và tăng cường trách nhiệm cho tổ chức tập thể đại diện. Hầu hết các ngành hàng chủ yếu ở Việt Nam đều đã thành lập tổ chức tập thể hoặc hiệp hội đóng vai trò đại diện cho quyền và lợi ích chung. Tuy nhiên, hoạt động của các tổ chức này vẫn còn nhiều bất cập. Điều đó đòi hỏi việc ban hành luật về hiệp hội để tránh tình trạng chồng chéo chức năng và phát huy tối đa hiệu quả của tổ chức này.

Thứ tư, phân định rõ nhiệm vụ của hệ thống quản lý ngoại vi với hệ thống quản lý nội bộ. Theo đó, cơ quan quản lý nhà nước chỉ đóng vai trò tổ chức thực hiện, kiểm soát thị trường, kiểm tra việc sử dụng chỉ dẫn địa lý như gia hạn, thu hồi giấy phép,…mà không được can thiệp vào các vấn đề chuyên môn. Công tác đó sẽ do tổ chức tập thể thực hiện bao gồm: quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh của các thành viên (diện tích, sản lượng, địa điểm, năng lực,…); nghiên cứu áp dụng phương thức canh tác, chế biến, bảo quản; xây dựng và quản lý việc sử dụng hệ thống tem, nhãn, bao bì sản phẩm và các phương tiện quảng bá sản phẩm.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp Luận văn: Giải pháp pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.

3.2.1 Nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp

Thứ nhất, về công tác thẩm định hồ sơ đăng ký chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp.

Thẩm định hồ sơ đăng ký CDĐL, đặc biệt là khâu thẩm định về nội dung là một bước hết sức quan trọng của quy trình đăng ký, đòi hỏi phải đảm bảo các yêu cầu về chuyên môn. Công tác thẩm định càng chặt chẽ, càng hiệu quả thì sẽ góp phần đẩy nhanh tiến độ đăng ký, nâng cao giá trị của CDĐL được đăng ký và giảm thiểu được các rủi ro về tranh chấp, xâm phạm quyền trong tương lai. Để tăng cường hiệu quả công tác thẩm định hồ sơ đăng ký CDĐL rất cần có một cơ chế thống nhất cho hoạt động của Hội đồng tư vấn kỹ thuật về chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp nhằm hỗ trợ cho Cục Sở hữu trí tuệ về các lĩnh vực này.

Thứ hai, quy định về quy trình xây dựng hồ sơ, các bước tiến hành xác lập quyền cho sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp.

Trong hồ sơ xác lập quyền SHCN đối với CDĐL, ngoài quy định cụ thể về khu vực địa lý, phương pháp xác định khu vực địa lý, mô tả chất lượng sản phẩm và quy trình sản xuất đặc thù cần có thêm quy định về quy trình sản xuất truyền thống, hệ thống kiểm soát chất lượng và mô tả thực trạng sản xuất, thị trường. Có thể nói, nếu quy trình xây dựng hồ sơ càng cụ thể, chặt chẽ thì càng đảm bảo được tính bền vững trong việc xây dựng và duy trì chất lượng của sản phẩm, nhất là trong quá trình sử dụng, khai thác sau khi được cấp văn bằng bảo hộ.

Thứ ba, phát hiện và hỗ trợ của Nhà nước trong việc tạo môi trường thuận lợi cho việc đăng ký bảo hộ các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp. Luận văn: Giải pháp pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.

Việc xây dựng các thể chế, chính sách nhằm hỗ trợ phát triển các sản phẩm đặc sản của Nhà nước là yếu tố then chốt, ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL. Chính việc tạo ra một môi trường thuận lợi hơn cho sự phát triển sẽ góp phần khuyến khích các hoạt động đăng ký bảo hộ CDĐL được thực hiện nhiều hơn và được tiến hành hiệu quả hơn. Việc hỗ trợ này không có nghĩa là Nhà nước sẽ làm thay doanh nghiệp, người dân trong việc lập hồ sơ đăng ký hay quản lý việc khai thác, bảo vệ quyền SHCN đối với CDĐL. Với vai trò là chủ thể quản lý cao nhất, Nhà nước nên đẩy mạnh hơn nữa việc đầu tư nghiên cứu những mô hình tối ưu hơn cho việc thiết lập hồ sơ đăng ký hay mô hình quản lý, khai thác CDĐL hiệu quả hơn. Để tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc tạo môi trường thuận lợi cho việc đăng ký bảo hộ các sản phẩm mang CDĐL thì trước hết cần tập trung thực hiện hai chính sách lớn, đó là:

  • Tiếp tục thực hiện và phát huy hơn nữa hiệu quả, vài trò của chương trình Phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2020-2025.
  • Nhanh chóng phê duyệt và hoàn thiện Chiến lược Sở hữu trí tuệ quốc

Thứ tư, nhận thức của các chủ thể có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp, cũng như các cơ quan quản lý nhà nước nơi có CDĐL về vai trò, ý nghĩa của việc đăng ký bảo hộ CDĐL.

Vấn đề nâng cao nhận thức của các chủ thể về giá trị, tầm quan trọng và lợi ích của việc đăng ký CDĐL, cũng như tạo dựng niềm tin về hiệu quả mà đăng ký CDĐL mang lại trong quá trình thực hiện các hoạt động khai thác, quản lý, bảo vệ quyền là điều rất quan trọng. Đây được coi là một trong những yếu tố thúc đẩy hoạt động thực hiện pháp luật về đăng ký CDĐL diễn ra một cách nghiêm túc và đạt hiệu quả cao hơn.

Để nâng cao nhận thức của các chủ thể thì việc cung cấp và tiếp nhận thông tin là điều then chốt, bởi vì thông tin hiện đang là vấn đề yếu kém mà các cá nhân, cơ sở sản xuất hay hiệp hội quản lý CDĐL đều đang gặp phải. Có thể nói, nếu trang bị những kiến thức và thông tin đầy đủ về bảo hộ CDĐL trong nước và thị trường quốc tế, về nguy cơ bị xâm phạm cho các chủ thể thì mới có thể nâng cao nhận thức của họ về vấn đề đăng ký bảo hộ.

3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quản lý, khai thác quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp

Thứ nhất, khắc phục hạn chế trong hoạt động giám sát, nhận diện và kiểm soát chất lượng.

Có thể nhận định, việc đăng ký bảo hộ thành công một CDĐL đã khó, thế nhưng việc duy trì chất lượng, uy tín và nâng cao giá trị trong quá trình khai thác, sử dụng CDĐL đó càng khó khăn hơn. Chính vì thế, vai trò của công tác kiểm soát chất lượng phải ngày càng được chú trọng, không chỉ dừng lại ở giai đoạn đăng ký bảo hộ CDĐL mà còn phải được thực hiện xuyên suốt trong quá trình quản lý, cũng như khai thác, sử dụng CDĐL. Các nước Liên minh châu Âu đặt ra quy trình kiểm soát rất nghiêm ngặt trong quản lý hậu đăng ký CDĐL. Chẳng hạn tại Pháp, Bộ Kinh tế có cơ quan thực hiện nhiệm vụ cụ thể này là Vụ cạnh tranh, tiêu dùng và chống gian lận. Tại Italy, Hiệp hội các nhà sản xuất sẽ tham gia kiểm soát gian lận.

Với điều kiện thực tế ở Việt Nam, để khắc phục hạn chế trong hoạt động giám sát, nhận diện và kiểm soát chất lượng, chúng ta cần xây dựng hệ thống kiểm soát chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp hợp lý, thể hiện qua việc:

  • Hình thành các quy định về kiểm soát CDĐL, trong đó quy định cụ thể về cấu trúc của hệ thống kiểm soát; nội dung và phương pháp; quy trình chứng nhận. Luận văn: Giải pháp pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
  • Tổ chức hệ thống không nên rập khuôn theo cái chung (ngoại vi, nội bộ, tự kiểm soát), mục tiêu là kiểm soát được các yêu cầu bảo hộ CDĐL.
  • Xác định các yếu tố cần kiểm soát rõ ràng: nguồn gốc, loại sản phẩm, chất lượng đặc thù và khu vực địa lý.
  • Xây dựng công cụ và kế hoạch kiểm soát rõ ràng.

Thứ hai, thống nhất trong việc ban hành quy định ở các cấp độ quản lý.

Ở cấp độ trung ương: Cần quy định cụ thể về quản lý chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp như: cấp quyền, kiểm soát, quy hoạch vùng bảo hộ…

Ở cấp độ địa phương: Cần thống nhất về tên gọi của văn bản quản lý (Quy định hoặc Quy chế).

Bên cạnh đó, về phạm vi điều chỉnh của văn bản quản lý cũng cần có sự thống nhất (Quy định/Quy chế áp dụng chung cho tất cả CDĐL hoặc chỉ áp dụng cho từng CDĐL riêng biệt).

Thứ ba, đồng nhất mô hình tổ chức quản lý về chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp và xây dựng mô hình tổ chức quản lý phù hợp với đặc trưng và điều kiện của sản phẩm.

Để khắc phục tình trạng chồng chéo, thiếu nhất quán trong việc lựa chọn cơ quan quản lý CDĐL thì phải xác định rõ Sở Khoa học và Công nghệ hay Ủy ban nhân dân tỉnh sẽ là cơ quan thực sự có khả năng quản lý CDĐL. Đồng thời, nên có hướng đồng nhất mô hình tổ chức quản lý về CDĐL ở Việt Nam.

Để thực hiện được giải pháp đồng nhất mô hình tổ chức quản lý về CDĐL, Nhà nước ta cần đưa ra những hướng dẫn chung trong quản lý CDĐL thông qua việc hoàn thiện cấu trúc về các quy định thể chế quản lý; mục tiêu quản lý; yêu cầu trong quản lý; nội dung quản lý và tổ chức quản lý đối với CDĐL. Bên cạnh đó, để có thể xây dựng mô hình tổ chức quản lý phù hợp với đặc trưng và điều kiện của sản phẩm thì cần nhấn mạnh và nâng cao vai trò chủ đạo của Nhà nước (nguồn lực, tổ chức và quản lý); xác định rõ quy mô và phạm vi sản xuất, chế biến sản phẩm; nhận diện chính xác đối tượng tham gia vào hoạt động sản xuất, chế biến; định hình sản phẩm rõ ràng (chất lượng, nguồn gốc, dấu hiệu nhận diện, quy trình kỹ thuật) và linh hoạt trọng việc quản lý, phát huy vai trò của các tổ chức tập thể (hiệp hội, hội, hợp tác xã).

Ngoài ra, nên cân nhắc tổ chức một cơ quan chứng nhận chất lượng độc lập tại địa phương nhằm đảm bảo sự khách quan trong việc chứng nhận chất lượng của hệ thống quản lý này. Luận văn: Giải pháp pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.

Thứ tư, về vai trò và năng lực chuyên môn của các tổ chức tập thể.

Theo quy định pháp luật của một số nước châu Âu, chẳng hạn như Pháp, tổ chức tập thể đóng vai trò rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ quá trình thực hiện bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL, từ việc xây dựng hồ sơ đăng ký đến phát triển CDĐL trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Tập thể các nhà sản xuất là một tổ chức tập thể chặt chẽ, có quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý và cũng là tổ chức duy nhất có quyền đệ trình hồ sơ xin đăng ký bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL, theo dõi sản xuất, xây dựng kế hoạch bảo vệ CDĐL khi có những xâm phạm từ bên ngoài.

Còn ở Việt Nam, vai trò của các tổ chức tập thể vẫn còn quá mờ nhạt, mới chỉ đóng vai trò phối hợp và tham gia nhằm tạo dựng sự đồng thuận của cộng đồng. Hơn nữa, theo quy định pháp luật hiện hành, trách nhiệm kiểm soát nội bộ là một yêu cầu trong quy chế quản lý và sử dụng CDĐL, nhưng nó không trở thành điều kiện để được sử dụng CDĐL, từ đó cho thấy trách nhiệm của tổ chức tập thể không hề được gắn với quyền hạn của tổ chức này. Chính vì thế, cần thiết phải có sự tăng cường vai trò của các tổ chức tập thể, từ cơ cấu tổ chức cho tới năng lực chuyên môn và nhiệm vụ quyền hạn một cách hợp lý hơn, cụ thể:

  • Quy định hiệp hội phải được hình thành và hoạt động tốt trước khi nộp đơn đăng ký CDĐL để tránh tình trạng một số CDĐL thành lập hiệp hội mang tính chất lấy lệ, hoạt động kém hiệu quả.
  • Miễn giấy phép Cấp quyền sử dụng cho hiệp hội sản xuất khi hiệp hội đó đứng tên đăng ký CDĐL hoặc tham gia vào quá trình xác lập quyền và đáp ứng đầy đủ các điều kiện đã nêu trong Bản mô tả danh tiếng, tính chất, chất lượng đặc thù của sản phẩm.
  • Tạo hành lang pháp lý cho phép hiệp hội tham gia sâu hơn vào quá trình quản lý CDĐL, bằng quyết định quản lý CDĐL của cơ quan có thẩm quyền.
  • Tạo hành lang pháp lý, chính thức công nhận sự tham gia của hiệp hội vào quá trình thực hiện và cần quy định rõ ràng khi nào cần sự có mặt của hiệp hội khi tiến hành kiểm tra sản phẩm trên thị trường.

Thứ năm, đảm bảo sự phối hợp giữa doanh nghiệp (quản lý tự động), hiệp hội ngành hàng (kiểm soát trong) và cơ quan quản lý địa phương (kiểm soát ngoài) để quản lý hiệu quả sản phẩm đã được đăng bạ và bảo hộ.

Có thể nói, chính nét đặc thù trong quy định pháp luật Việt Nam về các chủ thể của quyền SHCN đối với CDĐL đã tạo ra một sự phân chia về quyền và nghĩa vụ giữa chủ sở hữu, chủ thể quản lý và chủ thể sử dụng CDĐL. Vì thế, để cơ chế quản lý hiện hành thực sự phát huy hiệu quả, bên cạnh việc chú trọng hoàn thiện bộ máy, nâng cao năng lực chuyên môn của các cơ quan chuyên trách hay hỗ trợ nhiệt tình cho các doanh nghiệp thì các chính sách, quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác, hỗ trợ giữa các cơ quan quản lý với nhau và với các doanh nghiệp, chẳng hạn như quy định về trình tự, cơ chế phối hợp là điều hết sức cần thiết. Nếu các chủ thể này có thể phối hợp chặt chẽ với nhau thì sẽ góp phần tạo dựng được một cơ chế quản lý thông suốt và hiệu quả hơn. Luận văn: Giải pháp pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.

Bên cạnh đó, Việt Nam cần cân bằng giữa vai trò của hiệp hội các nhà sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp với sự can thiệp của cộng đồng. Thử nghiệm các mô hình quản lý đối với các bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp sản phẩm sao cho phù hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam.

Thứ sáu, về công tác quảng bá những sản phẩm địa phương được bảo hộ CDĐL ở thị trường trong nước và nước ngoài.

Trên thế giới, xây dựng và phát triển chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp đã trở thành chiến lược nâng cao nhận thức của người tiêu dùng, quảng bá hình ảnh, phát huy những những giá trị truyền thống. Việt Nam có hàng ngàn sản phẩm đặc trưng trải dài trên mọi miền của đất nước, mỗi sản phẩm đặc trưng của vùng miền mang sứ mệnh của những đại sứ về văn hóa Việt Nam đến người tiêu dùng trong nước và quốc tế. Đó là những giá trị đặc sắc cần được phát huy và khai thác trong quá trình hội nhập. Với xu thế phát triển của thị trường hiện nay, nếu chỉ dừng ở việc bảo hộ CDĐL mà không chú trọng thực hiện các hoạt động quảng bá ra thị trường thì việc khai thác thương mại các sản phẩm được bảo hộ sẽ khó mang lại hiệu quả kinh tế cao và bền vững.

Công tác quảng bá nếu được tiến hành một cách hợp lý sẽ là phương án hữu hiệu giúp nâng tầm giá trị của các sản phẩm mang CDĐL ngay tại thị trường trong nước và nước ngoài. Để công tác quảng bá đạt hiệu quả cao thì nhất thiết phải được chú trọng cả về quy mô, hình thức và nội dung. Có thể nói, công tác quảng bá, xây dựng hình ảnh cho một CDĐL không chỉ là trách nhiệm riêng của cá nhân hay doanh nghiệp đang khai thác các lợi ích trực tiếp từ CDĐL hay của địa phương nơi có CDĐL đó mà phải được gắn với trách nhiệm chung của cả cộng đồng, quốc gia. Quy mô quảng bá CDĐL phải ngày càng được mở rộng và cần sự chung tay góp sức của nhiều đối tượng, có chính sách cụ thể và được đầu tư kinh phí hợp lý. Đặc biệt hơn, với xu thế hội nhập và tự do lưu thông của hàng hóa trên thị trường thì việc quảng bá không chỉ dừng lại ở phạm vi một quốc gia, một vùng lãnh thổ mà còn có thể mở rộng ra phạm vi của khu vực và toàn cầu. Tuy nhiên, đi kèm với công tác quảng bá là những bước chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt pháp lý để phù hợp với quy định pháp luật quốc tế và giảm nguy cơ bị xâm phạm.

Khu vực địa lý không chỉ là nơi sản xuất của người dân địa phương vì mục tiêu phát triển kinh tế mà còn là khu vực được bảo tồn và có thể được xem là tài sản quốc gia vì những ý nghĩa kinh tế, văn hóa mà nó mang lại. Văn hóa làng nghề đã được ghi nhận là bộ phận không thể tách rời của nền văn hóa quốc gia nói chung. Thế nên, phát triển CDĐL gắn với du lịch chính là trách nhiệm của cộng đồng để tôn vinh văn hóa Việt Nam. Phát triền kinh tế gắn với du lịch sẽ giúp cho những người sản xuất có nhiều cơ hội để quảng bá sản phẩm và thương hiệu của mình hơn. Về phía các địa phương nơi có sản phẩm mang CDĐL, cần có kế hoạch phát triển các làng nghề gắn với phát triển du lịch. Các sản phẩm và làng nghề truyền thống nhằm phục vụ tốt hơn cho du lịch và ngược lại, du lịch giúp quảng bá và nâng cao danh tiếng của sản phẩm và làng nghề. Đây hiện đang là mô hình được áp dụng phổ biến trên thế giới.

Hơn thế nữa, với xu thế hội nhập vào các thị trường rộng lớn hơn đòi hỏi các phương thức quảng bá phải đa dạng và hiệu quả hơn. Bên cạnh những cách thức truyền thống, chúng ta cần chú ý hơn tới việc sử dụng những phương thức hiện đại thông qua các phương tiện thông tin truyền thông, đặc biệt là mạng Internet để mang tới cho khách hàng sự tiếp cận dễ dàng hơn và cũng tiết kiệm được chi phí hơn.

3.2.3. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp Luận văn: Giải pháp pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.

Thứ nhất, tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể thực hiện quyền tự bảo vệ

Mặc dù hiện nay hầu hết việc quản lý CDĐL đều thuộc các cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao nhiệm vụ, tách rời khỏi hoạt động sản xuất kinh doanh của cá nhân, doanh nghiệp nhưng không phải vì lý do đó mà có thể xem nhẹ quyền tự bảo vệ của các chủ thể. Khi lợi ích của một một cá nhân hay doanh nghiệp bị xâm phạm thì chính họ sẽ là người cần có ý thức phản kháng đầu tiên và nếu được tạo điều kiện thuận lợi thì chính họ có thể tự mình ngăn chặn hành vi xâm phạm một cách kịp thời và đúng pháp luật, qua đó sẽ tránh khỏi thiệt hại hoặc hạn chế tối đa thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra.

Đối với CDĐL, quyền tự bảo vệ của các chủ thể quyền có thể được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua nhiều hành vi nhưng trước hết phải xuất phát từ ý thức phòng ngừa, ý thức gìn giữ thương hiệu và kiến thức pháp luật của các chủ thể nhằm thực hiện các quyền yêu cầu.

Thứ hai, tăng cường hơn nữa các biện pháp thực hiện dân sự và kiểm soát tại biên giới.

Hiệp định EVFTA đặt ra thêm một số yêu cầu về thực hiện dân sự và kiểm soát biên giới so với Hiệp định TRIPS, nhằm tăng cường tính hiệu quả của hoạt động thực hiện quyền. Vì thế, Việt Nam cũng cần chú trọng hơn trong việc triển khai và thực hiện các biện pháp này, cụ thể:

Cần tăng cường hơn nữa năng lực, sự chủ động của cơ quan hải quan trong việc tìm ra hàng hóa nghi ngờ xâm phạm quyền SHTT trong quá trình tác nghiệp và áp dụng biện pháp kiểm soát biên giới với cả hàng giả mạo CDĐL.

Cần quy định rộng hơn về thời điểm mà chủ thể quyền có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, chuyển từ việc chỉ quy định hai thời điểm là thời điểm khởi kiện và sau khi khởi kiện thành bất kỳ thời điểm nào (không phụ thuộc vào việc đã khởi kiện hay chưa). Tất nhiên, với thời điểm được quyền yêu cầu thoáng hơn thì pháp luật phải chặt chẽ hơn trong quy định về điều kiện, chứng cứ, chứng minh. Bên cạnh đó, cần quy định cụ thể và đa dạng hơn về các tình huống áp dụng/điều kiện yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và với mỗi điều kiện yêu cầu áp dụng nên tương ứng với một hoặc một số biện pháp cụ thể. Luận văn: Giải pháp pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.

Thứ ba, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan có thẩm quyền từ khâu quản lý sản xuất, quản lý thị trường, quản lý xuất nhập khẩu.

Có thể hình dung việc tạo ra một cơ chế kiểm soát chặt chẽ ở nhiều khâu và có sự đồng bộ giữa các khâu kiểm soát sẽ tạo ra một hệ thống kiểm soát mạnh mẽ hơn. Chính việc kiểm soát tốt hơn sẽ giảm thiểu khả năng bị xâm phạm của các đối tượng cần được bảo vệ. Bởi vì, khi các sản phẩm mang CDĐL được bảo vệ tốt từ khâu đầu vào, đầu ra cho đến quá trình lưu thông trên thị trường thì sẽ khó bị xâm phạm hơn.

Thực hiện quyền SHTT đòi hỏi vận hành hệ thống này với sự phối hợp giữa các cơ quan theo cả chiều ngang và chiều dọc. Hiện nay, vấn đề xâm phạm quyền SHTT ngày càng trở nên tinh vi hơn, diễn ra trên nhiều loại hàng hóa, dịch vụ và ở nhiều địa bàn, vì thế sự phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền SHTT cần phải được tăng cường. Hơn nữa, ở nước ta, nhận thức hạn chế của cộng đồng về bảo vệ tài sản trí tuệ, năng lực của các cơ quan thực hiện quyền SHTT còn hạn chế và sự phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền chưa thực sự tốt là ba nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực hiện quyền SHTT nói chung và đối với CDĐL nói riêng còn kém hiệu quả. Do đó, thiết lập và vận hành một cơ chế phối hợp tốt giữa các cơ quan thực hiện quyền SHTT là một trong những giải pháp thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền SHCN đối với CDĐL ở nước ta.

Kết luận Chương 3

Bảo hộ chỉ dẫn địa lý là việc Nhà nước, các cơ quan chức năng và các chủ thể, thông qua hệ thống pháp luật tiến hành các hoạt động liên quan đến việc xác lập, khai thác, quản lý và bảo vệ các chủ thể chống lại các hành vi xâm phạm quyền đối với CDĐL. Trong nền kinh tế thị trường, các quy định pháp luật về bảo hộ CDĐL là các chuẩn mực để tiến hành hoạt động khai thác thương mại. Đây được xem là một công cụ để nâng cao tính cạnh tranh của hàng hóa, phát triển uy tín của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường và bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Chỉ dẫn địa lý đã ngày càng khẳng định được giá trị và dường như đang trở thành xu hướng tiêu dùng ở Việt Nam và trên thế giới. Với tiềm năng rất lớn về số lượng các sản phẩm có thể gắn CDĐL và quan điểm của Nhà nước về phát triển bền vững hoạt động bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL, hoạt động bảo hộ CDĐL của Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, đứng trước những thách thức to lớn của thời kỳ hội nhập, với thị trường ngày càng mở rộng, cạnh tranh ngày càng gay gắt, đặc biệt trong bối cảnh tham gia vào Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-EU (EVFTA) đòi hỏi Việt Nam phải có những điều chỉnh, những bước hoàn thiện cả về chính sách, quy định pháp luật và công tác thực thi cho phù hợp. Do đó, cần thiết phải có sự phân tích, rà soát pháp luật Việt Nam với những cam kết trong EVFTA về SHTT, cụ thể là về bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL để xác định rõ các nội dung khác biệt, các quy định chưa hợp lý và từ đó có sự điều chỉnh các quy định pháp luật để bảo đảm tuân thủ các cam kết của EVFTA. Chính điều này sẽ góp phần tận dụng những tiềm năng sẵn có nhằm nâng cao giá trị, tăng tính cạnh tranh của các đặc sản vùng miền, hạn chế tối đa các rủi ro về mặt pháp lý cho các doanh nghiệp xuất khẩu, từ đó giúp hạn chế các tranh chấp liên quan đến bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL và góp phần nâng cao vị thế của các sản phẩm mang CDĐL của Việt Nam trên thị trường quốc tế.

KẾT LUẬN CHUNG Luận văn: Giải pháp pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.

Chỉ dẫn địa lý dù là vấn đề được ghi nhận lâu đời trong hoạt động thương mại nhưng lại là một chế định khá mới ở Việt Nam dưới góc độ lập pháp. Trong phạm vi đề tài luận văn đã cố gắng phân tích sâu sắc những vấn đề lý luận cơ bản, khái quát quy định pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp trên cơ sở có so sánh với pháp luật một số quốc gia trên thế giới. Luận văn đua ra một số nhận định được một số bất cập trong quy định pháp luật lẫn thực tiễn thi hành; qua đó, bước đầu đề xuất một số giải pháp sửa đổi, hoàn thiện cơ chế bảo hộ hiện nay.

Đặc điểm của một sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý là phải gắn liền với lợi thế địa lý trong đó yếu tố tự nhiên giữ vai trò cốt lõi, phần lớn hàng hóa được chấp thuận bảo hộ đều là nông sản. Trên cơ sở đó, chỉ dẫn địa lý cho những sản phẩm có nguồn gốc nông, lâm nghiệp, thủy sản đưa lại nhiều giá trị lớn lao từ việc nâng cao giá trị thương mại cho nông sản, giúp cải thiện đời sống người nông dân, bảo tồn và phát huy ngành nghề truyền thống của Việt Nam, hướng đến hiện đại hóa nông thôn và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế cả nước.

Trong hai hướng tiếp cận, Việt Nam lựa chọn phương thức bảo hộ nguồn gốc xuất xứ nông sản bằng ban hành quy định độc lập về chỉ dẫn địa lý. Với lợi thế là người đi sau, nước ta đã kế thừa được không ít kinh nghiệm, đặc biệt là từ Liên minh châu Âu, để xây dựng một hệ thống pháp luật về bảo hộ chỉ dẫn địa lý tương đối hoàn thiện. Dẫu vậy, quá trình thi hành chế định nói trên đã và đang bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập. Chẳng hạn, các điều kiện bảo hộ đặt ra yêu cầu rất cao với nông sản nhưng không có hướng dẫn rõ ràng, cụ thể khiến chủ thể đăng ký lẫn cơ quan hành chính nhà nước đều lúng túng trong việc khi thực hiện quyền và nghĩa vụ. Mặt khác, luật SHTT Việt Nam chưa quy định chặt chẽ vấn đề kiểm soát chất lượng nông sản mang chỉ dẫn địa lý dẫn đến nguy cơ hàng giả, hàng kém chất lượng, làm suy thoái danh tiếng sản phẩm được bảo hộ. Bắt nguồn từ những vướng mắc của pháp luật, kết hợp với trình độ nhận thức, thực hiện còn nhiều hạn chế của cả cơ quan nhà nước lẫn cộng đồng sản xuất đã dẫn đến tình hình bảo hộ chỉ dẫn địa lý đối với nông sản Việt Nam không tương xứng với tiềm năng nông nghiệp cả nước, nên chưa đem lại hiệu quả cao như kỳ vọng.

Xét dưới góc độ kinh tế, chỉ dẫn địa lý nói chung và đối với nông sản nói riêng có vai trò to lớn trong sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam nói chung. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn ứng dụng , vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể giải quyết, tiêu biểu như phương thức bảo hộ nông sản Việt tại Hoa Kỳ – một thị trường đặc biệt quan trọng nhưng không thừa nhận chế định chỉ dẫn địa lý. Các nhóm giải pháp đã được đề xuất phần lớn chỉ dừng lại ở mức độ định hướng, chưa có nhiều đột phá cũng như phân tích về những bước đi chi tiết và cụ thể. Tất cả những thiếu sót đó sẽ là cơ sở để tác giả tiếp tục hoàn thiện, phát triển đề tài bảo hộ chỉ dẫn địa lý đối với nông sản về sau. Luận văn: Giải pháp pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:  

===>>> Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp

One thought on “Luận văn: Giải pháp pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp

  1. Pingback: Luận văn: Thực tiễn pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464