Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp theo pháp luật Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc thực hiện đề tài
Các sản phẩm cùng loại được xuất xứ từ các vùng địa lý khác nhau thường có tính chất, chất lượng khác nhau. Như vậy, điều kiện tự nhiên và xã hội của một vùng địa lý nhất định đã làm nên đặc trưng về chất lượng của sản phẩm từ vùng địa lý đó, làm cho sản phẩm này khác biệt với sản phẩm cùng loại được xuất xứ từ các vùng địa lý khác. Từ xa xưa, người tiêu dùng đã biết chọn pho mai (fromage) có nguồn gốc từ Hà Lan, rượu vang có xuất xứ từ Bordeaux (một vùng địa lý thuộc Tây Nam nước Pháp), pha lê Bohemia (thuộc Cộng hòa Séc), đồng hồ Thụy Sĩ, vải thiều Thanh Hà (Hải Dương), bưởi Đoan Hùng… do chất lượng và danh tiếng của các sản phẩm đến từ các vùng địa lý mang lại. Ở nước ta, Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành lần đầu tiên năm 2005 và sau đó được sửa đổi, bổ sung vào năm 2009, 2019, 2022, cùng một số Nghị định hướng dẫn thi hành đã thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ (SHTT), góp phần hoàn thiện và giải quyết được những đòi hỏi thực tế liên quan đến vấn đề bảo hộ quyền SHTT nói chung và quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) đối với chỉ dẫn địa lý (CDĐL) nói riêng.
Xét về khía cạnh pháp lý, bảo hộ CDĐL có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bảo hộ CDĐL không chỉ trao cho các chủ thể quyền được ngăn cấm những người không có thẩm quyền sử dụng CDĐL, hoặc đối với những sản phẩm không có nguồn gốc từ khu vực địa lý đã nêu, hoặc loại trừ những mặt hàng thuộc cùng một khu vực địa lý nhưng sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng mà còn tạo ra công cụ pháp lý để nhà sản xuất chống lại các hành vi giả mạo CDĐL. Từ đó, nhà sản xuất có thể gia tăng giá trị cho sản phẩm của mình. Điều này còn mang ý nghĩa quan trọng đối với quốc gia có nền nông nghiệp là lợi thế như Việt Nam. Bởi ở Việt Nam sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản vẫn đang đóng vai trò đặc biệt quan trọng: vừa đảm bảo an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, vừa giúp tăng thu ngoại tệ và góp phần thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng hơn. Bên cạnh những lợi thế lớn về điều kiện tự nhiên với rất nhiều những sản đặc sản vùng miền có giá trị kinh tế cao, Việt Nam có truyền thống làm nông nghiệp, thủ công nghiệp từ hàng nghìn năm nay với lực lượng lao động dồi dào, nhiều kinh nghiệm. Thêm vào đó, với những tác động tích cực từ chính sách ưu đãi đầu tư của Chính phủ, lĩnh vực đầu tư nông nghiệp tại Việt Nam đang có những chuyển biến tích cực, các sản phẩm nông nghiệp và thủ công đang dần trở thành những hàng hóa có giá trị kinh tế cao, trở thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực để thu ngoại tệ. Nếu trên thế giới có những sản phẩm tự nhiên như: Champagne, Cognac, Habanos, Havana, Porto thì Việt Nam chúng ta cũng có thể tự hào với những sản phẩm như nước mắm Phú Quốc, cà phê Buôn Ma Thuột, chè xanh Mộc Châu,… Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tháng 12/2017, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của nước ta ước đạt 3,13 tỷ USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu năm 2017 đạt 36,37 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2016. Bộ cũng xác định rõ thị trường trọng tâm của Việt Nam trong những năm tới vẫn sẽ là Trung Quốc, EU, Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc. Trong thời kì hội nhập hiện nay, CDĐL dần trở thành một bộ phận vô hình của sản phẩm, góp phần làm gia tăng giá trị cho sản phẩm, vì thế bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL là cách giúp các sản phẩm địa phương vươn ra thị trường toàn cầu mà vẫn giữ được bản sắc. Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
Nhìn chung, hệ thống pháp lý về quyền SHTT của Việt Nam nói chung và quyền SHCN đối với CDĐL nói riêng đã dần được hoàn thiện, phần nào bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, cơ chế thực thi quyền SHCN đối với CDĐL hiện hành vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập. Bên cạnh đó, những năm qua có nhiều CDĐL được coi là “nổi tiếng” của Việt Nam bị “đánh cắp” ở nước ngoài, điển hình như cà phê Buôn Ma Thuột, nước mắm Phú Quốc. Thực trạng này xuất phát từ cơ chế bảo hộ của nước ta đối với CDĐL còn chưa thực sự chặt chẽ trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ tất cả các lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật kinh tế.
2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
2.1 Mục tiêu chung
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là phân tích, đánh giá pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam để từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp.
2.2 Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tiêu chung đã nêu trên, các mục tiêu cụ thể của luận văn được xác định cụ thể như sau:
Thứ nhất, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp;
Thứ hai, phân tích và đánh giá quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp;
Thứ ba, làm rõ thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp tại Việt Nam;
Thứ tư, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp.
2.3. Câu hỏi nghiên cứu Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
Bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL cho sản phẩm nông nghiệp là gì?
Thực hiện bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL cho sản phẩm nông nghiệp trên thực tiễn sẽ mang đến những giá trị như thế nào cho chủ sở hữu quyền SHTT và cộng đồng.
Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL cho sản phẩm nông nghiệp như thế nào? Có tồn tại hạn chế gì?
Những giải pháp nào có thể góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL cho sản phẩm nông nghiệp ở Việt Nam.
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chỉ dẫn địa lý là chế định pháp lý về SHTT đã được các nhà luật gia quan tâm trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp lại tương đối ít ỏi. Tuy nhiên cũng có thể kể đến một số công trình tiêu biểu có liên quan:
- Thứ nhất, nhóm các luận văn
Vũ Thị Thu Hà (2021), Bảo hộ chỉ dẫn địa lý và thực tiễn thi hành tại tỉnh Thanh Hoá, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn đã phân tích thực trạng pháp luật về bảo hộ chỉ dẫn địa lí và thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá; từ đó đưa ra định hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Nguyễn Cường (2017), Bảo hộ chỉ dẫn địa lý đối với nông sản, qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật, Đại học Huế. Luận văn đã luận giải những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật hiện hành bảo hộ chỉ dẫn địa lý đối với nông sản, qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về bảo hộ chỉ dẫn địa lý đối với nông sản.
- Thứ hai, nhóm các bài viết khoa học
Phạm Thị Hiền, Chu Thị Thanh An (2015), Bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Liên minh châu Âu và cơ hội cho Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12, tr. 25 – 33. Bài viết đã làm rõ vai trò của bảo hộ chỉ dẫn địa lý, so sánh một số tiêu chí bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Liên minh châu Âu và Việt Nam, qua đó nhận định về cơ hội đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý của Việt Nam.
Bùi Thị Hằng Nga, Nguyễn Minh Bách Tùng (2020), Bảo hộ chỉ dẫn địa lý: yêu cầu của phát triển nông nghiệp bền vững, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 17, tr. 50-56. Bài viết đã phân tích các điểm hạn chế của pháp luật liên quan đến bảo hộ chỉ dẫn địa lí và đề xuất các giải pháp để tăng cường hiệu quả của hoạt động bảo hộ chỉ dẫn địa lí cho nông sản Việt Nam, góp phần phát triển nền nông nghiệp hiện đại, bền vững.
Nguyễn Thúy Hằng (2020), Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với chỉ dẫn địa lý theo yêu cầu của Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA), Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 7, 10-14. Bài viết đã phan tích yêu cầu về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với chỉ dẫn địa lí của Hiệp định EVFTA; đồng thời đề xuất các giải pháp tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực thi hành.
Nguyễn Thị Nguyệt (2021), Hoàn thiện các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ về quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 22, tr. 22-26; truy cập tại. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đã làm rõ khái niệm về chỉ dẫn địa lý và ý nghĩa của việc sử dụng chỉ dẫn địa lý trong hoạt động thương mại; phân tích thực trạng các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ về sử dụng chỉ dẫn địa lý, tập trung vào hai vấn đề chính: chủ thể có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý, điều kiện và thủ tục để được cấp quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý; và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Pháp luật hiện hành về bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL cho sản phẩm nông nghiệp theo Luật SHTT năm 2005 (sửa đổi bổ sung 2009, 2019, 2022) và các văn bản hướng dẫn thi hành;
- Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL cho sản phẩm nông nghiệp tại Việt Nam trong thời gian vừa qua.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Từ thời điểm Luật SHTT năm 2005 có hiệu lực thi hành trên thực tiễn (1/7/2006) cho đến hiện tại.
- Về không gian: Trên địa bàn nước Việt
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
Phương pháp phân tích và thống kê, tổng hợp để hệ thống hóa, làm rõ các vấn đề liên quan trong đề tài nghiên cứu. Như làm rõ các vấn đề về lý luận, thuật ngữ và các quy định của pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL cho sản phẩm nông nghiệp.
Phương pháp so sánh luật học để đối sánh các quy định pháp luật Việt Nam và một số quy định pháp luật các quốc gia trên thế giới về bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL cho sản phẩm nông nghiệp đưa ra những nhận định; từ đó tạo cơ sở khoa học pháp lý cho đề xuất hoàn thiện pháp luật.
Phương pháp thống kê (số liệu thứ cấp) và nghiên cứu điển hình được sử dụng để thu thập thông tin một số vụ án cụ thể, xác định một số vướng mắc, khó khăn, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL cho sản phẩm nông nghiệp.
6. Đóng góp khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1. Đóng góp khoa học Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
Thứ nhất, luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị về cơ sở lý luận trong bảo hộ quyền hộ quyền SHCN đối với CDĐL.
Thứ hai, luận văn cung cấp các kiến thức cơ bản về hệ thống quy định pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL.
Thứ ba, luận văn cung cấp góc nhìn khoa học về thực tiễn thực hiện pháp luật qua đó chỉ ra một số những “bất cập” trong các quy định này. Từ đó, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL cho sản phẩm nông nghiệp.
6.2. Đóng góp về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan lập pháp, các nhà quản lý trong hoạt động xây dựng, ban hành chính sách pháp luật về SHTT.
Bên cạnh đó, luận văn là tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, xây dựng và thực thi pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với CDĐL cho sản phẩm nông nghiệp.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Mục lục, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Danh mục viết tắt; phần chính của luận văn có 03 chương và những nội dung cơ bản sau:
- Chương 1: Tổng quan về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp.
- Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp.
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI CHỈ DẪN ĐỊA LÝ CHO SẢN PHẨM NÔNG NGHIỆP
1.1. Khái quát về chỉ dẫn địa lý và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm về chỉ dẫn địa lý Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
Chỉ dẫn địa lý (Geographical Indication) là khái niệm xuất phát từ Pháp ở những năm đầu thế kỷ 20 và trở nên phát triển rộng rãi trên thế giới sau này. Năm 1992 Cộng đồng chung Châu Âu ban hành Quy chế 2081/92 thì CDĐL được sử dụng để chỉ tên một vùng, một khu vực hay một quốc gia mô tả sản phẩm bắt nguồn từ địa điểm đó. Chất lượng hay danh tiếng của sản phẩm này có do đặc điểm địa lý gắn với những đặc tính vốn có, có thể là sự kết hợp yếu tố do con người tạo ra. Trong các giai đoạn của quá trình sản xuất sản phẩm thì yếu tố liên kết với vị trí địa lý phải luôn xuất hiện.
Theo Thỏa ước Lisbon năm 1958 được sửa đổi bổ sung năm 1979 thì CDĐL được biết đến dưới thuật ngữ “Tên gọi xuất xứ” (Appellation of origin) và định nghĩa là “Tên gọi địa lý của vùng, khu vực, quốc gia nơi sản xuất ra sản phẩm và sản phẩm đó mang tính chất, chất lượng đặc thù của môi trường địa lý bao gồm yếu tố tự nhiên và con người”.
Vào ngày 15/12/1993 Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) đã công nhận quyền SHTT trong lĩnh vực thương mại, tiền đề cho bảo vệ CDĐL và tên gọi xuất xứ trên thế giới, trong các văn kiện về nội dung này thì thuật ngữ CDĐL được sử dụng không tạo ra sự nhầm lẫn với các khái niệm khác được chỉ ra trong các hiệp định trước. WTO đã đưa ra khái niệm trong đó không có sự phân biệt giữa các sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp hay hàng hóa thủ công và sản xuất công nghiệp, nhưng không áp dụng cho loại hình dịch vụ. Theo quy định tại Điều 22.1 Hiệp định các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT (TRIPS): “Chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hóa bắt nguồn từ lãnh thổ của một thành viên hoặc từ một khu vực hoặc một địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định”. Có thể kể đến một số sản phẩm như rượu Tequila của Mexico, vang Bordeau của Pháp,… TRIPS không quy định giới hạn việc sử dụng CDĐL là tên một địa danh, mà những biểu tượng, hình ảnh gợi lên nguồn gốc địa lý, quốc kỳ,… cũng được công nhận. Theo định nghĩa này thì một sản phẩm được mang chỉ dẫn địa lý là sản phẩm phải có ba điều kiện:
Thứ nhất, các chỉ dẫn này có thể là dấu hiệu bất kỳ (từ ngữ, hình ảnh) miễn là qua đó có thể chỉ ra được hàng hóa mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ bắt nguồn từ lãnh thổ của quốc gia nào hoặc thuộc khu vực địa phương nào của lãnh thổ quốc gia đó. Tuy nhiên dấu hiệu trên hàng hóa phải liên quan đến một quốc gia cụ thể hoặc một địa phương, khu vực của một quốc gia cụ thể đến mức qua dấu hiệu người tiêu dùng biết được hàng hóa bắt nguồn từ đâu.
Thứ hai, hàng hóa mang chỉ dẫn địa lý phải có nguồn gốc từ quốc gia hoặc từ khu vực địa phương mà hàng hóa đó được xác định mang chỉ dẫn địa lý.
Thứ ba, hàng hóa mang chỉ dẫn địa lý phải có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do quốc gia hay khu vực địa phương đã được chỉ dẫn là nơi hàng hóa bắt nguồn quy định.
Tại Việt Nam, trước khi Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành, CDĐL được quy định dưới thuật ngữ “Tên gọi xuất xứ hàng hóa”. Theo Bộ luật Dân sự năm 1995, “tên gọi xuất xứ hàng hoá là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ xuất xứ của mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện những mặt hàng này có các tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó”.
Khi Luật SHTT năm 2005 được ban hành, CDĐL được hiểu là “dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể”. Tháng 6 năm 2019 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật SHTT, có hiệu lực kể từ ngày 01/11/2019 và Luật Sở hữu trí tuệ số 07/VBHN-VPQH ngày 25/6/2019 của Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 01/11/2019 vẫn giữ nguyên định nghĩa về CDĐL của các văn bản luật trước đây: “Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể”.
Luật SHTT sửa đổi năm 2022 đã định nghĩa lại và bổ sung khái niệm CDĐL đồng âm. Cụ thể, Luật SHTT sửa đổi năm 2022 đảo dấu hiệu pháp lý “nguồn gốc địa lý” lên trước “sản phẩm” có nguồn gốc địa lý đó. Theo đó, Khoản 22 Điều 4 Luật SHTT sửa đổi năm 2022 nêu rõ “Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ nguồn gốc địa lý của sản phẩm từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc quốc gia cụ thể”. Theo đó, CDĐL được hiểu là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể. Ví dụ: Gốm sứ Bát Tràng, nước mắm Phú Quốc, bưởi Phúc Trạch, …
1.1.2. Khái niệm sản phẩm nông nghiệp Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
Trong WTO, hàng hoá được chia làm hai nhóm chính: nông sản và phi nông sản. Nông sản được xác định trong Hiệp định Nông nghiệp của WTO là tất cả các sản phẩm được liệt kê từ Chương I đến XXIV (trừ cá và sản phẩm từ cá) và một số sản phẩm thuộc các chương khác trong Hệ thống hài hoà hoá mã số thuế. Với cách hiểu này, nông sản gồm một phạm vi khá rộng các loại hàng hoá có nguồn gốc từ hoạt động nông nghiệp như:
- Các sản phẩm nông nghiệp cơ bản như lúa gạo, lúa mỳ, bột mỳ, sữa, động vật sống, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, chè, rau quả tươi…;
- Các sản phẩm phái sinh như bánh mỳ, bơ, dầu ăn, thịt.;
- Các sản phẩm được chế biến từ sản phẩm nông nghiệp như bánh kẹo, sản phẩm từ sữa, xúc xích, nước ngọt, rượu, bia, thuốc lá, bông xơ, da động vật thô.
Như vậy, sản phẩm nông nghiệp là một phần loại hình sản phẩm trong định nghĩa về nông sản. Tại Việt Nam, pháp luật không có định nghĩa cụ thể về nhóm hàng nông sản, do đó, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm này. Cụ thể, nông nghiệp thường được hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi), thuỷ sản, lâm nghiệp và diêm nghiệp. Các ngành công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản lại được gộp vào lĩnh vực công nghiệp. Hay tại Hệ thống ngành nghề kinh tế Việt Nam đã liệt kê danh mục các ngành nghề thuộc lĩnh vực nông nghiệp là trồng các cây hàng năm như lúa, ngô, cây lương thực, cây thuốc lá, thuốc lào,…và trồng các cây lâu năm như cây ăn quả, cây cao su, cà phê, cây dược liệu.
1.1.3. Khái niệm và vai trò của bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp
- Khái niệm về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp
Vấn đề đặt ra về SHCN ở Việt Nam được đưa vào Điều lệ về cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất và sáng chế (ban hành kèm theo Nghị định 31-CP ngày 23/01/1981 của Hội đồng Chính phủ), trong đó trọng tâm bảo hộ quyền nhân thân của người sáng chế hay người cải tiến hơn là quyền sở hữu. Giai đoạn từ năm 1981 đến 1989, vấn đề bảo hộ quyền SHTT đơn thuần là hoạt động hành chính, giai đoạn này Việt Nam cũng đã ban hành một số văn bản đáng kể như pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa năm 1982, Giải pháp hữu ích năm 1988, Kiểu dáng công nghiệp năm 1988, Chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng SHCN năm 1988 và quyền tác giả năm 1986. Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
Pháp lệnh về Bảo hộ quyền SHCN được ban hành ngày 28/01/1989 cho thấy bước ngoặc quan trọng, trong việc cung cấp căn cứ cho hoạt động bảo hộ SHCN tại Việt Nam như bảo hộ đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp,… Sau Pháp lệnh 1989, năm 1990 Chính phủ ban hành Nghị định 84-HĐBT sửa đổi, bổ sung một số điều liên quan đến các đối tượng SHCN được quy định trước đó. Sự ra đời của Bộ luật Dân sự năm 1995 chính là bước ngoặc lớn trong sự phát triển hệ thống pháp luật của Việt Nam về bảo hộ SHCN, luật hóa toàn bộ các văn bản pháp luật về các vấn đề dân sự đã tồn tại trước đó, tạo nên cơ sở pháp lý về quyền sở hữu và quyền dân sự.
Ở Việt Nam, trước khi Luật SHTT được ban hành (2005), quyền SHTT và chuyển giao công nghệ được quy định tại Bộ luật Dân sự 1995, cụ thể ở Phần 6, đây là một chế định về quyền tài sản. Tên gọi XXHH được quy định tại Điều 786 BLDS “Tên gọi xuất xứ hàng hóa là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ xuất xứ của mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện những mặt hàng này có các tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó”. Với quy định rằng một tên gọi XXHH được bảo hộ phải là tên địa lý của một nước hoặc một địa phương là nơi mà hàng hóa tương ứng được sản xuất và hàng hóa đó phải có tính chất, chất lượng đặc thù do yếu tố địa lý của nước (tự nhiên, con người) của địa phương đó quyết định, được làm rõ tại Điều 6 Nghị định số 63/CP. Phân biệt khi quốc gia, địa phương nói trên không phải là Việt Nam hoặc không thuộc về Việt Nam, tên gọi XXHH tương ứng chỉ được xem xét bảo hộ tại Việt Nam nếu đang được bảo hộ tại nước mang tên hoặc có địa phương mang tên đó quy định tại Điều 7 Nghị định số 63/CP.
Khoản 2 Điều 7 Nghị định số 63/CP quy định những đối tượng không được bảo hộ tên gọi XXHH tại Việt Nam đó là các chỉ dẫn không phải là tên địa lý bất kể các dấu hiệu mang tính chất biểu tượng của nước, địa phương là nơi xuất xứ của hàng hóa hay những tên gọi XXHH trở thành tên gọi chung của hàng hóa và không còn đặc tính chỉ dẫn xuất xứ hàng hóa đó.
Trong lĩnh vực SHTT nói chung và SHCN nói riêng thì Việt Nam đang từng bước thực hiện tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, cùng với những chuẩn bị cần thiết để có thể gia nhập WTO, các quy định về bảo hộ CDĐL đã được ban hành tại Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 03/10/2000 của Chính phủ. Tại Điều 10 Nghị định này quy định các điều kiện được bảo hộ là CDĐL, như sau:
Đầu tiên, đó là sự thể hiện dưới dạng một từ ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc hình ảnh, dùng để chỉ một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, địa phương thuộc một quốc gia; Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
Thứ hai, thì đặc trưng về chất lượng, uy tín, danh tiếng hoặc các đặc tính khác của hàng hóa mang CDĐL có được chủ yếu là do nguồn gốc địa lý tạo nên được thể hiện trên hàng hóa, bao bì hàng hóa hay giấy tờ giao dịch liên quan tới việc mua bán nhằm chỉ dẫn nguồn gốc hàng hóa được sản xuất, kinh doanh tại quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương.
Căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 10 Nghị định số 54/CP về bảo hộ tên gọi XXHH và CDĐL cần phải xác định những điểm tương đồng và không tương đồng giữa tên gọi XXHH và CDĐL.
Quy định tại Điều 10 Nghị định số 54/CP về các yếu tố, điều kiện của CDĐL có những nét tương đồng với quy định tên gọi XXHH tại Điều 786 Bộ luật dân sự.
Điều 10 Nghị định số 54/CP đã quy định những thông tin không được bảo hộ là CDĐL, đó là tên gọi thông thường của hàng hóa và tên gọi của hàng hóa đã mất khả năng chỉ dẫn nguồn gốc địa lý.
Quy định trên cho thấy các yếu tố về địa lý: khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình, thủy văn,… và những điều kiện tự nhiên khác của địa phương, quốc gia hay một vùng lãnh thổ là những yếu cơ bản kết hợp với điều kiện xã hội để tạo ra những sản phẩm, hàng hóa mang đặc trưng riêng chỉ có tại khu vực đó. Bên cạnh các yếu tố cấu thành CDĐL nêu trên thì CDĐL theo quy định tại Điều 10 thể hiện dưới dạng một từ ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc hình ảnh dùng để chỉ một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, địa phương thuộc một quốc gia, đồng thời cũng cần thỏa mãn yêu cầu về chất lượng, tính chất đặc trưng, đặc tính khác của loại hàng hóa có được chủ yếu là do nguồn gốc địa lý quyết định. Với các quy định tại Bộ luật dân sự 1995 đã thay thế toàn bộ các quy định về SHTT trước đây, đây cũng là văn bản pháp luật quy định đầy đủ các quyền SHCN như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, tên gọi xuất xứ hàng hóa,…). Các điều chỉnh trong BLDS cho thấy sự thay đổi nhằm thích ứng với các nội dung Hiệp định TRIPS và các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Tuy nhiên thực tế cho thấy đến khi Quốc hội ban hành Luật SHTT năm 2005 thì các quy định về SHTT được điều chỉnh tại hơn 40 văn bản pháp luật khác nhau mới được thống nhất, như một phần cam kết gia nhập WTO nhằm pháp điển hóa các quy định xung đột trong lĩnh vực SHTT. Hiện nay, điều kiện bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý được quy định trong Luật SHTT (được sửa đổi, bổ sung năm 2009, năm 2019 và 2022), tại mục 6 Phần thứ ba từ Điều 79 đến Điều 83.
Theo Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng: “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là việc Nhà nước bảo đảm độc quyền sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp cho cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ hoặc được chuyển giao văn bằng bảo hộ”. Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
CDĐL cho sản phẩm nông nghiệp xuất hiện do nhu cầu của những người sản xuất muốn đánh dấu cho các sản phẩm của mình để nhằm phân biệt sản phẩm do họ sản xuất với sản phẩm đến từ những vùng khác. Càng ngày, các nhà sản xuất càng ý thức được vai trò quan trọng như một phương tiện xúc tiến thương mại, làm gia tăng giá trị và uy tín cho sản phẩm, mang lại những lợi ích kinh tế to lớn cho người sử dụng chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp, như tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn khách hàng; sản phẩm bán chạy hơn và giá thành sản phẩm cũng cao hơn so với những sản phẩm khác cùng loại không được sản xuất ở khu vực địa lý đặc biệt đó. Người tiêu dùng cũng dựa vào những dấu hiệu chỉ dẫn nguồn gốc địa lý để nhận biết và lựa chọn sản phẩm. Có thể nói, được sử dụng những chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp đã trở nên nổi tiếng là mong muốn của hầu hết các nhà sản xuất. Vì vậy, các chủ thể khác, vì mục đích lợi nhuận có thể sẵn sàng tìm mọi cách để lợi dụng danh tiếng, uy tín từ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp của người khác.
Việc sử dụng CDĐL cho sản phẩm nông nghiệp bất hợp pháp không những có thể gây tổn hại đến uy tín và lợi ích của những người sản xuất ở khu vực địa lý đó mà còn gây thiệt hại cho người tiêu dùng khi mua nhầm phải những hàng hóa không đúng nguồn gốc, làm mất lòng tin của công chúng vào những dấu hiệu vẫn giúp họ xác định nguồn gốc của sản phẩm. Uy tín sản phẩm càng cao thì nhu cầu bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp lại càng lớn. Đó là nhu cầu bảo vệ quyền được thông tin đúng sự thật của người tiêu dùng khi lựa chọn hàng hóa và nhu cầu bảo vệ thành quả đầu tư của những người sản xuất tại địa phương trong việc xây dựng uy tín cho sản phẩm.
Từ đó, một vấn đề đặt ra là nếu việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền của con người sử dụng chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp thì chưa đủ mà còn cần phải quy định các cơ chế hữu hiệu bao gồm những phương thức và biện pháp nhất định để có thể ngăn chặn và chống lại hành vi xâm phạm từ phía các chủ thể khác. Vì vậy, pháp luật các quốc gia bên cạnh việc quy định khung pháp lý trong việc xác lập và thực hiện quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp còn có những quy định bảo vệ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp chống lại hành vi xâm phạm và các biện pháp ngăn chặn, xử lý các hành vi này. Thực tế, chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp càng nổi tiếng càng có uy tín rộng rãi trên thị trường thì nhu cầu bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp đó chống lại các hành vi xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp càng lớn.
Từ các phân tích trên có thể hiểu: “Bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp được hiểu là việc Nhà nước thông qua các quy định pháp luật quy định việc xác lập, công nhận và thực hiện quyền đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể chống lại hành vi xâm phạm chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp”.
- Vai trò của bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp
Kết quả thống kê nghiên cứu của các quốc gia trên thế giới về sự phát triển CDĐL đã chứng minh rằng có khoảng hơn 10.000 CDĐL được bảo hộ, với giá trị thương mại được ước tính là hơn 50 tỷ USD. Càng khẳng định rằng CDĐL là một cơ hội mà các quốc gia phải tận dụng để tối ưu sản phẩm với những tính chất đặc thù và chất lượng vượt trội, khác biệt so với các sản phẩm cùng loại. Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
Tính cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp sẽ tăng lên sau khi được bảo hộ CDĐL. Với thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, thì Stephane Passeri, Giám đốc Chương trình hợp tác quyền SHTT EC-ASEAN cho rằng người tiêu dùng ngày càng khó tính hơn, CDĐL sẽ giúp gia tăng bán lẻ các sản phẩm, phân bổ giá trị tốt hơn, từ đó thúc đẩy phát triển sản xuất.
Lợi ích thương mại CDĐL có được góp phần nâng cao giá trị kinh tế, nâng tầm giá trị, phát triển sản phẩm nông nghiệp gắn với địa phương, tác động đến toàn bộ chuỗi cung ứng, các sản phẩm và dịch vụ trong khu vực liên quan, từ đó thúc đẩy nhóm doanh nghiệp phát triển, nâng cao tính hội nhập cho nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Sự liên kết giữa sản phẩm và xuất xứ của nó cho thấy CDĐL còn là sợi dây kết nối phương thức sản xuất với các đặc trưng, chất lượng riêng biệt của sản phẩm. Các lợi ích cho thể kể đến do CDĐL mang lại cho kinh tế nông thôn như:
Thứ nhất, Tăng hiệu quả sản xuất và gia tăng giá thành sản phẩm: CDĐL đóng góp một vai trò quan trọng trong sự phát triển của khu vực nông thôn và ngành nông nghiệp ở những nơi có hoàn cảnh khó khăn, như khu vực miền núi, CDĐL cho phép bảo vệ truyền thống và văn hóa, góp phần tăng thu nhập cho người nông dân, bảo tồn đa dạng sinh học. Có thể kể đến giai đoạn 1992-2002 giá của sản phẩm AOC (Appellation d’Origine Controlee) phô mát Comte tăng 28,3% trong khi sản phẩm phô mát không AOC chỉ tăng 6,3%. Tương tự như chè Darjeeling ở Ấn Độ, sau khi được bảo hộ CDĐL thì giá bán sản phẩm tăng lên gấp 4 lần so với các sản phẩm cùng loại không có CDĐL.
Thứ hai, Tác động tích cực đến phát triển nông nghiệp, nông thôn: CDĐL tạo ra việc làm trực tiếp và gián tiếp trong khu vực nông nghiệp, làm hạn chế làn sóng di cư khỏi nông thôn; CDĐL góp phần giữ gìn truyền thống của ngành sản xuất bằng cách duy trì chất lượng, uy tín, danh tiếng của sản phẩm địa phương, các phương thức sản xuất truyền thống. Môi trường, cảnh quan, đa dạng sinh học vùng nông thôn được giữ gìn từ duy trì các điều kiện tự nhiên, cây giống, con giống và quy trình công nghệ truyền thống để sản xuất.
Thứ ba, CDĐL trở thành dấu hiệu nhận diện thương hiệu sản phẩm nông nghiệp: CDĐL được xem là tài sản có giá trị, như những thương hiệu, đóng vai trò hết sức quan trọng trên thị trường tiêu dùng và có sức cạnh tranh lớn trong thương mại toàn cầu. Các thành công đáng ghi nhận của việc sử dụng CDĐL đó là nhiều khu vực trên thế giới đã và đang tiến hành quá trình cải thiện phương thức sản xuất, khuyến khích nông nghiệp phát triển và áp dụng các công cụ nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Bên cạnh việc CDĐL mang nhiều đặc điểm của những sản phẩm có chất lượng với các đặc trưng riêng biệt từ vị trí địa lý mang lại đã giúp nhận diện thương hiệu sản phẩm trong mắt người tiêu dùng. Địa phương được gắn liền với sản phẩm mang CDĐL đã chứng minh cho việc các CDĐL đem đến giá trị kinh tế dài hạn và còn mang đến các giá trị về mặt xã hội. Yếu tố xã hội được đánh giá, xác định dựa trên sự công nhận phong tục tập quán, gia tăng giá trị truyền thống, khơi nguồn sự gắn bó giữa người dân địa phương với lịch sử và các yếu tố truyền thống hiện hữu mang đặc trưng vùng miền.
Tuy nhiên, không phải CDĐL nào cũng mang lại sự thành công cho sản xuất và kinh doanh, không ít các mô hình thất bại bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy, CDĐL đã đặt ra các vấn đề quan trọng cần được quan tâm đó là việc nghiên cứu, đánh giá và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến CDĐL. Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
Tại một số quốc gia như Nhật Bản có chương trình “Mỗi làng – Một sản phẩm” (OVOP) dựa trên các kiến thức bản địa và sự sáng tạo của người dân tạo ra sản phẩm hàng hoá đặc trưng cho mỗi làng, giảm thiểu cạnh tranh. “OVOP đã làm sống lại những nghề thủ công với tư duy “Tầm nhìn tổng thể, hành động địa phương” và dựa trên 6 nguyên tắc: Người dân làm chủ; phát huy những tiềm năng chưa được khai thác của mỗi làng; Liên tục thử nghiệm và cải tiến chất lượng sản phẩm; gia tăng giá trị lợi nhuận; phát triển thị trường; phát triển và bảo tồn các giá trị bản địa. Từ đó có thể thấy chìa khóa của OVOP là hàng năm tiến hành các cuộc thi để thử nghiệm và cải tiến chất lượng sản phẩm cả về mẫu mã và bao bì đóng gói”.
Hay tại Pháp, nền kinh tế nông thôn được phát triển dựa vào việc xây dựng nhãn hiệu cộng đồng hay các sản phẩm đặc thù để thúc đẩy các lĩnh vực như ẩm thực, lễ hội truyền thống, du lịch,. Các hoạt động trên đã giúp người nông dân và nông nghiệp nông thôn của Pháp vượt qua các khó khăn và vẫn đứng vững trước quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Từ đây các nhãn hiệu cộng đồng và các sản phẩm đặc thù trở thành công cụ hữu hiệu đã làm sống lại nền nông nghiệp nông thôn Pháp. Mô hình này cho thấy những hiệu quả vượt trội và đã được nhân rộng, phát triển trên thế giới.
Tại Tây Ban Nha, trên một số khu vực miền núi đứng trước nguy cơ già hóa lực lượng lao động, dân cư sinh sống đa số là người già và đàn ông chăn cừu, trong khi đó phụ nữ trẻ và thanh niên rời bỏ nông thôn, do đó đòi hỏi phải có những thay đổi và cải tiến nhằm cải thiện nền kinh tế của khu vực này, người dân Tây Ban Nha đã xây dựng CDĐL cho sản phẩm đặc trưng của địa phương là thịt cừu, phát triển du lịch bản địa gắn với cừu, ẩm thực thịt cừu và khôi phục các lễ hội truyền thống. Các hoạt động trên đã thúc đẩy nền kinh tế khu vực này phát triển trở lại, gia tăng thu nhập của người dân chăn cừu, giúp họ nhận thấy được sự tự hào khi được sử dụng các kiến thức bản địa vốn có,. và ngày càng có nhiều phụ nữ không muốn rời bỏ nông thôn nữa.
Nhiều quốc gia như Tây Ban Nha, Pháp, Nhật Bản,. đã cho thấy sự thành công trong thực tiễn với các giải pháp, phương án để xây dựng thương hiệu cho nông sản của mình, góp phần nâng cao giá trị mặt hàng nông sản và thúc đẩy phát triển nông nghiệp nông thôn, trong đó CDĐL của EU với các quan điểm chống lại sự giả mạo và lạm dụng tên gọi sản phẩm gắn với các vị trí địa lý nhất định; chống lại các hành vi xâm phạm và cạnh tranh không lành mạnh. CDĐL đã chứng minh vai trò quan trọng trong quá trình bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống, đa dạng sinh học, phát triển kinh tế nông thôn, thúc đẩy hoạt động sản xuất, thương mại và không ngừng gia tăng giá trị của các sản phẩm nông nghiệp địa phương.
1.2. Pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
1.2.1. Điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp
Căn cứ vào Luật SHTT năm 2005 (sửa đổi bổ sung 2009, 2019, 2022) và các văn bản hướng dẫn thi hành, có thể khái quát thành 04 nhóm điều kiện cơ bản sau đây:
Một là, nông nghiệp mang CDĐL phải có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng. Điều kiện này được hiểu là các công đoạn để cho ra thành phẩm từ trồng trọt, chăn nuôi, thu hoạch, chế biến,…đều diễn ra trên lãnh thổ khu vực địa lý đó. Đây là cơ sở để đặt tên hoặc lựa chọn dấu hiệu khác (hình ảnh, biểu tượng,…) nhằm mô tả CDĐL.
Yêu cầu đối với điều kiện này là phải tồn tại một vùng địa lý tương ứng với CDĐL được nêu trong đơn đăng ký . Pháp luật Việt Nam đòi hỏi khu vực địa lý phải có ranh giới được xác định một cách chính xác bằng từ ngữ và bản đồ. Quy định này thường gây nhầm lẫn rằng, khu vực mang CDĐL phải hoàn toàn trùng khớp với địa giới hành chính hiện hành. Nhìn chung, trong thực tiễn áp dụng, khu vực địa lý đôi khi trùng khớp với tên địa danh được sử dụng.
Hai là, nông nghiệp phải có danh tiếng, tính chất, chất lượng đặc thù. Điều kiện này có thể chia thành hai nội dung liên quan mật thiết với nhau: (1) Danh tiếng của sản phẩm; (2) Tính chất, chất lượng đặc thù.
“Danh tiếng” của sản phẩm nông nghiệp được pháp luật hiện hành quy định như sau: “Danh tiếng của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được xác định bằng mức độ tín nhiệm của người tiêu dùng đối với sản phẩm đó thông qua mức độ rộng rãi người tiêu dùng biết đến và chọn lựa sản phẩm đó”. Về lý thuyết, khó có thể đưa ra những tiêu chí rõ ràng để xác định mức độ danh tiếng cho một loại sản phẩm. Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
Nội dung của điều kiện này (danh tiếng và chất lượng) liên quan chặt chẽ là vì danh tiếng của sản phẩm chỉ được gây dựng nên từ chất lượng vượt trội và độc đáo của từng loại sản phẩm nông nghiệp. Tính chất, chất lượng của sản phẩm mang CDĐL không chỉ xác định bằng cảm quan mà còn bằng định tính, định lượng về vật lý, hóa học, sinh học, có khả năng kiểm tra được bằng phương tiện kỹ thuật hoặc do chuyên gia giám định. Trong quyết định về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký CDĐL của Cục SHTT luôn kèm theo bản mô tả chi tiết thông số kỹ thuật của sản phẩm.
Hồ sơ đăng ký chỉ mô tả các chỉ tiêu định tính mà không xây dựng được tiêu chuẩn định lượng sẽ khó được cơ quan nhà nước thông qua và cấp văn bằng bảo hộ. Nguyên do là vì khi có hành vi xâm phạm xảy ra, không thể xuất trình được căn cứ khoa học để xác định sự khác biệt giữa các nông nghiệp được bảo hộ với sản phẩm xâm phạm quyền.
Đặc biệt, chất lượng của nông nghiệp ngoài thơm, ngon, hấp dẫn…còn phải đặc trưng riêng biệt. Cùng một loại nước mắm, trái cây nhưng được bảo hộ với nhiều CDĐL khác nhau thì bắt buộc phải có tính đặc thù….
Ba là, phải có mối quan hệ hữu cơ giữa danh tiếng, tính chất và chất lượng nông nghiệp với điều kiện địa lý. Trong tất cả những điều kiện đặt ra, đây là yêu cầu khó khăn nhất không chỉ cho nhà sản xuất mà cả với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Người nộp đơn phải chứng minh được các yếu tố đặc trưng của khu vực địa lý đã ảnh hưởng sâu sắc như thế nào đến danh tiếng, chất lượng, tính chất sản phẩm nông nghiệp. Các nhân tố đó, theo quy định của pháp luật nước ta, được hiểu là: “yếu tố quyết định” bao gồm: yếu tố tự nhiên về khí hậu, thủy văn, địa chất, địa hình, hệ sinh thái… và yếu tố con người như kỹ năng, kỹ xảo, quy trình sản xuất truyền thống…. Một mặt hàng nông nghiệp được tạo ra thường trải qua không ít thao tác, công đoạn thì chỉ những giai đoạn then chốt, chi phối trực tiếp đến kết quả đầu ra mới cần đáp ứng mối quan hệ hữu cơ mật thiết kể trên.
Bốn là, nông nghiệp không thuộc các trường hợp không được bảo hộ của pháp luật. Điều kiện này được nhắc đến sau cùng vì ảnh hưởng của nó không xuất phát từ tự thân sản phẩm muốn đăng ký CDĐL mà từ các yếu tố bên ngoài tác động vào. Trong thực tế thi hành, thông thường cơ quan nhà nước sẽ tiến hành xem xét điều kiện này trước tiên.
Pháp luật SHTT Việt Nam hiện nay quy định nhóm các đối tượng sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa CDĐL:
- Trường hợp tên gọi sử dụng để đăng ký trở nên quá phổ biến và được xem là tên gọi chung cho sản phẩm.
- Trường hợp CDĐL của nước ngoài không được bảo hộ hoặc đã chấm dứt, không còn sử dụng ở quốc gia sở tại.
- Trường hợp CDĐL trùng hoặc tương tự với một nhãn hiệu đang được bảo hộ và sẽ gây nhầm lẫn nếu sử dụng.
- Trường hợp CDĐL gây hiểu sai lệch cho người tiêu dùng về nguồn gốc nông nghiệp.
Mặc dù quy định 04 trường hợp như trên trong Luật SHTT, nhưng đến nay pháp luật Việt Nam chưa đưa ra văn bản hướng dẫn cụ thể. Do đó, quá trình thực thi đã nảy sinh không ít khó khăn, bất cập đòi hỏi các nhà làm luật phải gấp rút bổ sung, sửa đổi.
1.2.2. Xác lập quyền bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
Xác lập quyền là khâu đầu tiên có ý nghĩa quan trọng làm phát sinh quyền của các chủ thể đối với đối tượng được bảo hộ. Theo quy định của pháp luật, quyền sở hữu công nghiệp đối với CDĐL sẽ được xác lập dựa trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ theo thủ tục đăng ký. Có thể hiểu, để CDĐL được bảo hộ, chủ thể có quyền phải tiến hành thủ tục đăng ký với cơ quan nhà nước theo quy định pháp luật. Nhìn chung, quy định của pháp luật hiện hành về phương thức xác lập quyền đã có sự thay đổi so với pháp luật trước đây. Theo Nghị định số 54/2000/NĐ-CP, quyền sở hữu công nghiệp đối với CDĐL sẽ tự động xác lập khi đáp ứng những điều kiện nhất định. Chủ thể có thẩm quyền không cần tiến hành thủ tục đăng ký bảo hộ đối với CDĐL. Tưởng chừng như việc bảo hộ tự động sẽ mang lại nhiều thuận lợi, tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các chủ thể sử dụng CDĐL. Tuy nhiên, trên thực tế, cơ chế bảo hộ tự động tồn tại nhiều khó khăn trong trường hợp có hành vi xâm phạm quyền đối với CDĐL. Khi có tranh chấp xảy ra, việc cung cấp những bằng chứng chứng minh để bảo vệ tư cách chủ thể quyền của CDĐL mất khá nhiều thời gian và công sức. Khắc phục những khó khăn còn tồn đọng, pháp luật hiện hành đã thay đổi phương thức xác lập quyền, từ việc bảo hộ một cách tự động chuyển sang bảo hộ trên cơ sở cấp văn bằng bảo hộ. Thông qua phương thức đăng ký, chủ thể quyền đối với CDĐL có cơ sở khẳng định CDĐL đã được đăng ký trên thực tế, quyền đối với CDĐL được xác lập hợp pháp sau khi có văn bằng bảo hộ. Văn bằng bảo hộ được coi như một “tấm giấy thông hành” góp phần khẳng định chất lượng của sản phẩm mang CDĐL trên thị trường, đồng thời, cũng là căn cứ hợp pháp để xử lý những hành vi xâm phạm quyền đối với CDĐL. Ngoài ra, đối với những CDĐL trước đây đã được bảo hộ tự động theo Nghị định số 54/2000/NĐ-CP, để tiếp tục được bảo hộ phải tiến hành thủ tục đăng ký để được cấp văn bằng bảo hộ. Như vậy, pháp luật hiện nay ghi nhận quyền SHCN đối với CDĐL chỉ được xác lập dựa trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua thủ tục đăng ký.
Việt Nam thuộc nhóm các nước lựa chọn hình thức bảo hộ riêng (sui generic) đối với CDĐL. Luật SHTT của Việt Nam có các quy định riêng về khái niệm, điều kiện bảo hộ, cách thức bảo hộ… đối với CDĐL. Đồng thời, pháp luật Việt Nam cũng rất linh hoạt trong việc áp dụng quy định về cạnh tranh không lành mạnh và bảo hộ các dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của sản phẩm thông qua quy định về bảo hộ nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận. Trước năm 2005, các quy định về bảo hộ tên gọi xuất xứ của Việt Nam được quy định tại Bộ Luật Dân sự năm 1995. Năm 2005, Luật SHTT ra đời đã thiết lập một hệ thống bảo hộ chặt chẽ đối với CDĐL. Dưới góc nhìn so sánh khác với quy định của Liên minh châu Âu và một số nước khác, pháp luật Việt Nam quy định quyền sở hữu và quyền đăng ký CDĐL thuộc về Nhà nước. Nhà nước cho phép tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm mang CDĐL, tổ chức tập thể đại diện cho các tổ chức, cá nhân đó hoặc cơ quan quản lý hành chính địa phương nơi có CDĐL thực hiện quyền đăng ký CDĐL. Người thực hiện quyền đăng ký CDĐL không trở thành chủ sở hữu CDĐL đó. Nhà nước trao quyền sử dụng CDĐL cho tổ chức, cá nhân tiến hành việc sản xuất sản phẩm mang CDĐL tại địa phương tương ứng và đưa sản phẩm đó ra thị trường. Nhà nước trực tiếp thực hiện quyền quản lý CDĐL hoặc trao quyền quản lý CDĐL cho tổ chức đại diện quyền lợi của tất cả các tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng CDĐL. Đây là quy định có tác động trực tiếp đến hệ thống quản lý CDĐL hiện nay của Việt Nam. Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
Pháp luật Việt Nam về CDĐL nói chung và đối với nông nghiệp nói riêng đã có những quy định rõ ràng về chủ thể đăng ký, trình tự thủ tục cũng như thời hạn bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý.
Thứ nhất, về chủ thể đăng ký: Quyền nộp đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý theo quy định của pháp luật Việt Nam thuộc về Nhà nước. Nhà nước thực hiện quyền trên thông qua việc cho phép các đối tượng sau tiến hành đăng ký, gồm: tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm mang CDĐL; tổ chức tập thể đại diện cho các tổ chức, cá nhân đó; hoặc cơ quan quản lý hành chính địa phương tương ứng với CDĐL.
Thứ hai, về trình tự thủ tục:
Bước 1: Nộp đơn và các tài liệu liên quan đến Cục SHTT, gồm: Đơn đăng ký (theo mẫu), tờ khai (theo mẫu), Bản mô tả tính chất/chất lượng/danh tiếng sản phẩm (kèm theo tài liệu xác nhận), Bản đồ khu vực địa lý tương ứng.
Bước 2: Thủ tục xử lý đơn
- Thẩm định hình thức: Kiểm tra tính hợp lệ của bộ hồ sơ về mặt hình thức theo quy định. Chủ thể nộp đơn có quyền yêu cầu sửa chữa, bổ sung hoặc theo yêu cầu của Cục SHTT.
- Công bố đơn: Nếu bộ hồ sơ hợp lệ sẽ được Cục SHTT công bố trên Công báo SHCN nhằm trưng cầu khiếu nại từ bên thứ ba (nếu có).
- Thẩm định nội dung: Đánh giá khả năng bảo hộ CDĐL cho sản phẩm nông nghiệp, đồng thời xác định phạm vi bảo hộ.
Bước 3: Cấp văn bằng bảo hộ
Nếu hồ sơ đăng ký đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo hộ và chủ thể nộp đơn đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính (phí, lệ phí) thì Cục SHTT sẽ ra quyết định cấp văn bằng bảo hộ và ghi vào Sổ Đăng ký quốc gia về SHCN.
Thứ ba, về thời hạn: Văn bằng bảo hộ CDĐL cho sản phẩm nông nghiệp (tức Giấy chứng nhận đăng ký CDĐL) có hiệu lực vô thời hạn kể từ ngày cấp. Hiệu lực kể trên có thể bị chấm dứt nếu danh tiếng/chất lượng/đặc tính của nông nghiệp bị thay đổi và không thể khắc phục; hoặc bị hủy bỏ trong trường hợp vi phạm quy định, tiêu chuẩn của pháp luật SHTT.
1.2.3. Khai thác và bảo vệ quyền quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
- Khai thác quyền quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp
Theo quy định pháp luật Việt Nam, tên gọi của sản phẩm được bảo hộ CDĐL không thể thuộc sở hữu của bất cứ cá nhân nào. Ngược lại, quyền đó thuộc về cộng đồng địa phương và họ được trao quyền để đảm bảo sản phẩm của địa phương được sản xuất theo đúng các quy trình của cộng đồng. Nhà nước trao quyền sử dụng CDĐL cho tổ chức, cá nhân tiến hành việc sản xuất sản phẩm mang CDĐL tại địa phương tương ứng và đưa sản phẩm đó ra thị trường.
Tổ chức được trao quyền quản lý CDĐL có quyền cho phép người khác sử dụng CDĐL đó theo quy định của pháp luật. Các tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng hoặc tổ chức được trao quyền quản lý có quyền ngăn cấm người khác sử dụng CDĐL đó theo quy định pháp luật hiện hành. Trên cơ sở những quyền được pháp luật cho phép, người sử dụng CDĐL có quyền ngăn cấm việc sử dụng bất kỳ dấu hiệu nào trùng hoặc tương tự với CDĐL được bảo hộ cho sản phẩm không có nguồn gốc từ khu vực địa lý mang CDĐL đó làm cho người tiêu dùng hiểu sai rằng sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực địa lý đó, cũng như sử dụng CDĐL được bảo hộ cho sản phẩm tương tự với sản phẩm mang CDĐL được bảo hộ với mục đích lợi dụng uy tín để thu lợi nhuận không chính đáng.
Có thể đánh giá, nếu việc đăng ký bảo hộ là một hoạt động nhằm tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể trong việc sử dụng CDĐL thì hoạt động quản lý và kiểm soát chất lượng đối với sản phẩm mang CDĐL là khâu quan trọng nhằm duy trì và đảm bảo chất lượng chất lượng, đặc tính sản phẩm, đồng thời giúp cho quy trình sản xuất được thực hiện đúng như quy định đã đăng ký. Hoạt động quản lý CDĐL diễn ra không chỉ ở khâu sản xuất, từ nguồn nguyên liệu đầu vào, quá trình sản xuất mà còn diễn ra sau sản xuất ở khâu phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Hoạt động này càng phải được chú trọng khi sản phẩm mang CDĐL vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Việc quản lý CDĐL thường diễn ra ở ba cấp độ: tự quản lý, quản lý nội bộ và quản lý ngoại vi. Ở Việt Nam, do tính chất đặc thù của CDĐL là thuộc sở hữu nhà nước nhưng quá trình sản xuất sản phẩm mang CDĐL lại được tiến hành trong phạm vi vùng địa lý tương ứng, nên việc quản lý các CDĐL của nước ta thường được trao cho cơ quan địa phương có thẩm quyền. Kinh nghiệm ở các quốc gia cho thấy hiệu quả việc quản lý CDĐL phụ thuộc rất nhiều vào sự phối hợp giữa quản lý nhà nước (quản lý ngoại vi) và quản lý của tổ chức tập thể các nhà sản xuất, kinh doanh ở địa phương (quản lý nội bộ), trong đó vai trò của tổ chức tập thể đóng vai trò quyết định. Hiện nay, Việt Nam chưa có quy định cụ thể về chủ thể cũng như nội dung quản lý đối với các CDĐL của Việt Nam. Chính vì lý do này mà mỗi CDĐL lại được quản lý theo một hướng khác nhau.
Chính vì CDĐL thuộc quyền sở hữu của Nhà nước nên chủ thể này có thể trực tiếp thực hiện quyền quản lý thông qua các cơ quan chức năng như: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ… hoặc trao quyền quản lý CDĐL cho các tổ chức đại diện quyền lợi của tất cả các tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng CDĐL như là: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực Trung ương nơi có vùng địa lý tương ứng với CDĐL hoặc cơ quan được UBND cấp tỉnh xác định và trao quyền quản lý.
- Sơ đồ 1.1: Quản lý Chỉ dẫn địa lý Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
Về các quyền khai thác, sử dụng đối với CDĐL, Hiệp định TRIPs không quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người có quyền sử dụng CDĐL. Trên thực tế tại một số nước trên thế giới hiện nay, đối với những nước bảo hộ CDĐL dưới hình thức nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận, việc sử dụng nhãn hiệu phải tuân theo Quy chế sử dụng nhãn hiệu và do chủ sở hữu nhãn hiệu kiểm soát. Đối với những nước bảo hộ CDĐL dưới hình thức đăng ký (các nước thuộc EU), quyền và nghĩa vụ của người đó có quyền sử dụng CDĐL và pháp luật Việt Nam cũng áp dụng tương tự như vậy. Nội dung quyền SHCN đối với CDĐL được thể hiện ở các quyền cơ bản sau: quyền sử dụng CDĐL; quyền ngăn cấm người khác sử dụng CDĐL và quyền yêu cầu xử lý vi phạm. Song song với các quyền được hưởng, tổ chức và cá nhân có quyền sử dụng CDĐL cũng có các nghĩa vụ của mình, đó là họ phải bảo đảm chất lượng, uy tín, danh tiếng của hàng hóa mang CDĐL và không ngừng xây dựng và phát triển để sản phẩm khẳng định giá trị của mình trong mắt người tiêu dùng.
- Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp
Thông thường, các biện pháp bảo vệ quyền đối với CDĐL được áp dụng khi có chủ thể quyền có yêu cầu. Pháp luật Việt Nam đã có những quy định về biện pháp xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHTT nói chung và quyền SHCN đối với CDĐL nói riêng. Theo quy định tại Điều 9 Luật SHTT năm 2005, sửa đổi năm 2009, tổ chức, cá nhân có quyền áp dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để tự bảo vệ quyền SHTT của mình. Căn cứ vào Điều 198 của luật này, các chủ thể quyền có thể áp dụng các biện pháp khác nhau để tự bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp của mình, như là: (i) Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; (ii) Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại; (iii) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; (iv) Khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Tuy nhiên, về mặt lý thuyết CDĐL là tài sản của nhà nước, quyền sở hữu CDĐL thuộc về nhà nước, vì thế, việc bảo vệ CDĐL không chỉ được thực hiện bởi các chủ thể là cá nhân, tổ chức có quyền sử dụng CDĐL mà còn được thực hiện bởi chính các cơ quan nhà nước. Việc bảo vệ CDĐL có thể xuất phát từ nhiều chủ thể, cơ quan chức năng nhằm đảm bảo lợi ích của cả động đồng và xã hội. Theo đó, tùy thuộc vào tính chất và mức độ của hành vi xâm phạm, việc bảo vệ CDĐL có thể được thực hiện thông qua các biện pháp sau: Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
- Thứ nhất, biện pháp dân sự
Quyền SHTT được nhà nước công nhận như một quyền dân sự của các tổ chức, cá nhân đối với tài sản SHTT nhất định và do đó, nếu có vi phạm xảy ra thì biện pháp dân sự cũng được áp dụng trước tiên để xử lý hành vi vi phạm đó.
Biện pháp này được áp dụng đối với các hành vi xâm phạm theo yêu cầu của chủ sở hữu công nghiệp bị thiệt hại do các hành vi xâm phạm gây ra và ngay cả khi hành vi đó đã hoặc đang bị xử lý bằng biện pháp khác như hành chính, hình sự thì cũng có thể áp dụng biện pháp dân sự. Để xử lý theo biện pháp này, chủ sở hữu công nghiệp phải thực hiện thủ tục yêu cầu áp dụng biện pháp dân sự và thủ tục áp dụng biện pháp dân sự theo như pháp luật quy định.
Thông qua toà án, chủ thể có quyền có thể yêu cầu toà án áp dụng những biện pháp dân sự sau đối với người vi phạm. Điều 202 Luật SHTT năm 2005, sửa đổi bổ sung 2009, 2019, 2022 quy định tòa án áp dụng các biện pháp dân sự sau đây để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm: Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; Buộc xin lỗi, cải chính công khai; Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; Buộc bồi thường thiệt hại; Buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
Trong biện pháp này, điều quan trọng nhất là xác định được mức bồi thường thiệt hại. Có nhiều cách xác định mức bồi thường thiệt hại. Ví dụ, xác định tổng thiệt hại vật chất (tổn thất tài sản; giảm sút doanh thu, lợi nhuận, cơ hội kinh doanh; chi phí hợp lý để khắc phục thiệt hại) tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền SHTT, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất. Hoặc trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất thì tòa án sẽ ấn định, tùy thuộc vào mức độ thiệt hại.
Bảo vệ quyền SHCN bằng biện pháp dân sự là phương thức bảo vệ quyền vừa ngăn chặn được hành vi vi phạm,vừa có thể khắc phục được đầy đủ thiệt hại thông qua chế tài bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, phương thức này cũng là phương thức có thể áp dụng rộng rãi nhất, linh hoạt nhất, bởi cá nhân, tổ chức khi thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm là có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ. Với ưu điểm nổi trội như vậy, ở các nước trên thế giới đây là phương thức được lựa chọn hàng đầu của chủ sở hữu quyền SHTT. Tuy nhiên trên thực tế nó trái ngược với Việt Nam. Chính vì CDĐL là một tài sản vô hình, vì vậy người ta không thể yêu cầu đòi lại tài sản đối với loại tài sản này. Thông thường khi bị xâm phạm quyền SHCN đối với CDĐL, cá nhân, tổ chức bị vi phạm có thể lựa chọn một trong hai yêu cầu: Kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi trái pháp luật đối với hành vi thực hiện quyền SHCN đối với CDĐL. Theo hướng này thì tổ chức quản lý hoặc người sử dụng CDĐL chỉ cần đưa ra được những chứng cứ về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với CDĐL của bên bị đơn. Hành vi xâm phạm có thể chưa gây thiệt hại nhưng có nguy cơ sẽ gây ra thiệt hại cho chủ sở hữu hoặc người sử dụng hợp pháp CDĐL. Tuy nhiên vấn đề người bị xử lý có được thông báo trước hay là sẽ bị áp dụng tức thời các biện pháp xử phạt là một trong những vấn đề chưa được làm rõ. Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
Trong quá trình giải quyết vụ án, để ngăn chặn kịp thời hành vi xâm phạm có thể gây ra những hậu quả xấu, gây thiệt hại cho nguyên đơn, tòa án có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại chương V của Bộ luật tố tụng dân sự 2005 (BLTTDS), tuy nhiên đây là những quy định chung cho các vụ việc dân sự mà chưa đáp ứng được một số yêu cầu của TRIPs và BTA. Hiệp định TRIPs và Hiệp định BTA đều có yêu cầu chi tiết về biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo thực thi quyền SHTT như sau:
Áp dụng khi cần thiết phải ngăn chặn hành vi xâm phạm xảy ra và ngăn chặn hàng hóa vào lưu thông thương mại, kể cả hàng hóa nhập khẩu vào lưu thông trong nước và để bảo toàn các chứng cứ về hành vi bị nghi ngờ xâm phạm;
Áp dụng ngay theo yêu cầu của chủ thể quyền mà không cần nghe ý kiến của bên bị áp dụng trong trường hợp mà bất cứ sự chậm trễ nào cũng có thể gây ra thiệt hại không thể khắc phục được cho bên chủ thể quyền hoặc nếu có nguy cơ rõ ràng rằng chứng cứ đang bị thủ tiêu với điều kiện bên bị áp dụng phải được thông báo không chậm trễ sau khi bị áp dụng các biện pháp tạm thời đó và có quyền khiếu nại để yêu cầu thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp này;
Áp dụng trước khi khởi kiện, với điều kiện sẽ bị bãi bỏ nếu không khởi kiện thời hạn nhất định.
Trong quá trình thực thi quyền SHTT, việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời như thu giữ, kê biên, niêm phong… là có vai trò cực kỳ quan trọng. Đặc biệt là đối với việc ngăn chặn sự xâm nhập của hàng hóa vi phạm vào thị trường và bảo vệ chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm. Vì lý do này, Hiệp định TRIPs và Hiệp định BTA đều có các quy định cho phép các cơ quan tư pháp được áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng. Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng là một biện pháp cần thiết để bảo đảm cho chủ sở hữu thực hiện quyền khởi kiện một cách đúng đắn, bởi vì trong nhiều trường hợp nếu không xác minh một số thông tin nhất định thì không thể quyết định khởi kiện và nếu không có chứng cứ thích hợp thì không thể khởi kiện.
Chế tài dân sự đòi bồi thường thiệt hại là chế tài rất quan trọng đối với việc bảo đảm thực thi quyền sở hữu SHTT nói chung và của CDĐL nói riêng. Hiệp định TRIPs và BTA yêu cầu phải dành cho cơ quan tố tụng thẩm quyền buộc người xâm phạm BTTH cho chủ thể nắm giữ quyền SHTT dưới hình thức trả một khoản tiền đủ để bù thiệt hại do hành vi xâm phạm gây nên (kể cả các khoản chi phí tố tụng và chi phí thuê luật sư) và các khoản lợi nhuận nếu chưa được tính vào thiệt hại thực tế; hoặc trả khoản bồi thường thiệt hại theo mức luật định. TRIPs cho phép nhưng không bắt buộc dành cho cơ quan tố tụng thẩm quyền buộc BTTH theo mức luật định. Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
Trên thực tế, ở Việt Nam việc quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại còn nhiều hạn chế do những quy định về pháp luật bồi thường thiệt hại trong trường hợp xâm phạm quyền SHCN thiếu đồng bộ và thiếu khả năng áp dụng trong thực tế. Pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về cách thức xác định thiệt thại để tính mức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhưng quy định này chủ yếu vẫn được xây dựng để áp dụng đối với tài sản hữu hình mà quyền SHCN là một loại tài sản vô hình. Do vậy, nếu chỉ căn cứ vào những quy định này để giải quyết bồi thường là không công bằng. Việc xác định mức thiệt hại trong lĩnh vực SHTT trong nhiều trường hợp là không đơn giản và khó khăn, do vậy bên cạnh các căn cứ xác định thông thường như căn cứ vào “tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền và khoản lợi nhuận mà bị đơn thu được”, Luật SHTT đã quy định cho trường hợp không thể xác định được là “tùy thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá năm trăm triệu đồng”. Đây là một quy định mới và hết sức quan trọng vì đã mở ra khả năng cho bên bị xâm phạm quyền có quyền yêu cầu tòa án buộc bên xâm phạm phải bồi thường thiệt hại cho mình theo mức ấn định trước nhằm giảm bớt gánh nặng cho chủ thể quyền trong việc chứng minh về mức độ thiệt hại trong trường hợp khó xác định, mức bồi thường tối đa không quá 500 triệu đồng như quy định tại Mục C, Khoản 1, Điều 205 của Luật SHTT. Do đó nếu bên bị thiệt hại cho rằng phải được bồi thường ở mức cao hơn thì phải có nghĩa vụ chứng minh được mức thiệt hại cụ thể, nếu không chứng minh được thiệt hại thì chỉ có thể được bồi thường ở mức tối đa như vậy.
Chính vì quy định về bồi thường thiệt hại là một trong những ưu thế đặc thù của phương thức kiên dân sự, do vậy những hạn chế trên cùng với chi phí nhiều và mất thời gian theo đuổi vụ kiện khiến người bị xâm phạm không muốn áp dụng biện pháp này. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến việc người bị xâm phạm thường yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp hành chính để xử lý hành vi xâm phạm.
- Thứ hai, biện pháp hành chính
Đây là biện pháp được áp dụng để xử lý các hành vi xâm phạm thuộc các trường hợp đã quy định tại điều 211 Luật SHTT hiện hành. Chủ thể quyền SHCN đối với CDĐL bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra hoặc phát hiện hành vi xâm phạm đều có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp hành chính để xử lý các hành vi xâm phạm đó.
Nếu như biện pháp dân sự thể hiện mối quan hệ giữa bên xâm phạm và bên bị xâm phạm thì việc áp dụng biện pháp hành chính thể thể hiện mối quan hệ hành chính giữa một bên là cơ quan thực thi quyền và một bên xâm phạm quyền.
Biện pháp hành chính áp dụng đối với hành vi xâm phạm nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Biện pháp này do cơ quan công an, quản lý thị trường, thanh tra, hải quan và ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền thực hiện. Biện pháp hành chính bao gồm hai hình phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền. Ngoài ra, tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
- Tịch thu hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ;
- Đình chỉ có thời hạn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm.
Ngoài các hình thức xử phạt trên, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả sau đây: Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
Buộc tiêu huỷ hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
Ngoài những biện pháp trên thì tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính theo Điều 215 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành.
- Thứ ba, biện pháp hình sự
Biện pháp hình sự được áp dụng để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ thông qua việc quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền sở hữu bị coi là tội phạm. Như vậy, biện pháp hình sự được áp dụng đối với hành vi xâm phạm quyền SHTT ở mức nghiệm trọng, hành vi đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự. Thông thường, hành vi vi phạm bị xử lý hình sự có thể đã bị xử lý hành chính.
Biện pháp hình sự là biện pháp xử lý xâm phạm có tính răn đe và trừng phạt cao nhất, được áp dụng khi các cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm quyền đối với CDĐL có yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của pháp luật hình sự. Các hình vi đó bao gồm sản xuất và buôn bán hàng giả, hàng hóa xâm phạm quyền SHCN.
- Thứ tư, biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất nhập khẩu
Biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất nhập khẩu mang chỉ dẫn địa lý được áp dụng đối với trường hợp chủ sở hữu có quyền yêu cầu kiểm tra, giám sát để phát hiện hàng hóa xuất nhập khẩu có dấu hiệu xâm phạm quyền SHCN hoặc đề nghị tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với các hàng hóa đó.
Đây là biện pháp được thực hiện bởi cơ quan hải quan nhằm mục đích kiểm tra, giám sát và ngăn chặn hàng hóa xuất nhập khẩu có dấu hiệu xâm phạm quyền đối với CDĐL. Khi phát hiện có dấu hiệu xâm phạm quyền đối với hàng hóa mang CDĐL, chủ thể quyền có thể yêu cầu hải quan tạm ngừng làm thủ tục đối với hàng hóa bị nghi ngờ đó để thu thập thông tin, chứng cứ, qua đó làm căn cứ để thực hiện quyền yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm quyền và yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính.
Còn về phía các cam kết của Hiệp định EVFTA, mỗi bên quy định về thực thi bằng biện pháp hành chính thích hợp trong phạm vi được quy định bởi pháp luật nước mình để ngăn cấm một người sản xuất, pha chế, đóng gói, dán nhãn, bán hoặc nhập khẩu hoặc quảng cáo một mặt hàng thực phẩm một cách sai trái, gây nhầm lẫn hoặc có khả năng để tạo ra một ấn tượng sai lầm về nguồn gốc của nó. EVFTA đồng thời cũng nhấn mạnh các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ phải tuân thủ các yêu cầu về chất lượng liên quan theo pháp luật nước sở tại. Có thể nhận thấy, hiệp định cho phép thực thi quyền một cách thỏa đáng theo pháp luật của mỗi bên. Tại Điều 6.5 của Hiệp định, các bên cam kết bảo hộ chỉ dẫn địa ký ở mức cao, mở rộng phạm vi áp dụng cho rượu theo Điều 23 Hiệp định TRIPS sang cho nông nghiệp và thực phẩm. Các bên cam kết ngăn chặn:
Một là, việc sử dụng chỉ dẫn địa lý của bên kia cho các sản phẩm nằm trong nhóm sản phẩm được quy định rõ trong phụ lục khi: Không bắt nguồn từ nước xuất xứ; Bắt nguồn từ nước xuất xứ nhưng không được sản xuất hoặc gia công phù hợp với quy định pháp luật của bên kia khi sản phẩm được tiêu thụ tại bên kia. Ví dụ như: thịt bò muối khô Bresaola della Valtellina của EU và nước mắm Phú Quốc của Việt Nam.
Hai là, chỉ dẫn địa lý được sử dụng kèm theo các cụm từ: “loại”, “kiểu”, “dạng”, “phỏng theo” hoặc ngay cả khi nguồn gốc thực của hàng hóa được chỉ rõ. Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
Ba là, việc sử dụng dưới bất kỳ hình thức nào trên nhãn mác hoặc giới thiệu hàng hóa chỉ rõ hoặc gợi ý rằng hàng hóa đó xuất phát từ khu vực địa lý không phải là nơi sản xuất thực, theo cách thức lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc thực của sản phẩm.
Ba là, có hành vi cấu thành hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Đối với chỉ dẫn địa lý đồng âm: Hai bên thông báo cho nhau về đề xuất của bên thứ ba bảo hộ CDĐL đồng âm để dành cho nhau cơ hội có ý kiến, tuy nhiên phải tính đến sự cần thiết phải đảm bảo sự công bằng giữa các nhà sản xuất liên quan và người tiêu dùng không bị nhầm lẫn. Các bên không có nghĩa vụ bảo hộ CDĐL cho một tên gọi gây sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc thực của sản phẩm trong trường hợp CDĐL đó xung đột với tên của giống cây, giống con.
Kết luận Chương 1
Nhận biết sản phẩm thông qua các dấu hiệu gắn với nơi sản xuất là tập quán thương mại đã có từ lâu đời cả trên thế giới và Việt Nam. Các sản phẩm có chất lượng, danh tiếng và đặc tính phân biệt so với các sản phẩm khác nhờ lợi thế về điều kiện tự nhiên và con người của khu vực địa lý thường mang lại những lợi thế rất lớn trong thương mại. CDĐL được nghiên cứu dưới nhiều góc độ như: văn hóa, xã hội, thương mại, pháp lý,… tùy vào mục đích và phạm vi nghiên cứu. Bên cạnh đó, trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của tiến trình toàn cầu hóa về kinh tế và tự do hóa về thương mại, các quốc gia trên thế giới ngày càng quan tâm hơn tới việc đưa các sản phẩm của mình thâm nhập vào thị trường của các nước khác thông qua việc sử dụng CDĐL. Đúng trước những yêu cầu cấp thiết đó, vấn đề về bảo hộ CDĐL trong pháp luật của từng quốc gia và pháp luật quốc tế cũng ngày càng được quan tâm và không ngừng hoàn thiện để phù hợp với xu thế của thời đại.
Chương 1 luận văn đã phân tích khái niệm về chỉ dẫn địa lý và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp. Trên cơ sở đó, tác giả đã làm rõ nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp. Các nội dung nghiên cứu tại Chương 1 sẽ làm tiền đề “lý thuyết” quan trọng để tác giả tiến hành phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp tại Chương 2. Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Thực tiễn pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp

Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com

Pingback: Luận văn: Giải pháp pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho nông nghiệp