Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực tiễn pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Luận văn: Thực tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Kết quả của hoạt động áp dụng pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp tại Việt Nam
2.1.1 Thực tiễn đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp
Với tiến trình hội nhập sâu rộng hiện nay, nền kinh tế của nước ta phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Trong đó, việc xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của vùng phải đối mặt với sự gia tăng bảo hộ của các nước nhập khẩu như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,… qua các tiêu chuẩn về quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm. Khó khăn lại càng khó khăn khi các sản phẩm này mới chỉ được tổ chức sản xuất ở quy mô nhỏ lẻ, chất lượng nông sản chưa đồng đều, sản phẩm chưa xây dựng thương hiệu, thiếu liên kết chuỗi giá trị, mức độ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế.
Trong thời gian gần đây tại một số địa phương, việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm nông nghiệp gắn với chỉ dẫn nguồn gốc địa lý như: Chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận đã trở thành một định hướng quan trọng nhằm thúc đẩy sức cạnh tranh, giá trị sản phẩm, góp phần tổ chức sản xuất, phát triển thị trường trên cơ sở lợi thế về điều kiện sản xuất, văn hóa bản địa. Thương hiệu cộng đồng đã từng bước khẳng định được vai trò, giá trị trong sản xuất, thương mại sản phẩm nông thôn, góp phần tích cực trong xây dựng nông thôn mới, thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) của Chính phủ.
Phát triển CDĐL thường sẽ gắn liền với hoạt động phát triển thương hiệu của doanh nghiệp, xuất phát từ việc xây dựng một CDĐL đòi hỏi đầu tư về nguồn lực tài chính và điều kiện về sản phẩm. Do đó, chiến lược bảo hộ ở Việt Nam hiện nay đang được tiếp cận theo 2 hướng: một là bảo hộ CDĐL; hai là bảo hộ nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận cho các sản phẩm gắn với tên địa danh.
Việc xây dựng NHCN, NHTT có thể được tiến hành nhanh, mức đầu tư vừa phải, tương đối dễ triển khai trong điều kiện tổ chức sản xuất hiện tại của địa phương (sản xuất vẫn còn khá phân tán, thiếu các liên kết ổn định, việc áp dụng các tiêu chuẩn sản phẩm và quy trình quản lý chất lượng sản phẩm không đồng đều và khá hạn chế, các hiệp hội sản xuất còn ít). Mặt khác, từ quá trình phát triển các loại nhãn hiệu trên sẽ tạo cơ hội cho việc đảm bảo chất lượng các sản phẩm thế mạnh của tỉnh, qua đó nâng cao uy tín của các thương hiệu đó, hơn nữa đây cũng là cách để thúc đẩy các doanh nghiệp của tỉnh tăng cường ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ và tổ chức sản xuất hiệu quả hơn.
Theo số liệu của cục SHTT thì tính đến tháng 6/2022, Cục SHTT đã cấp 497 NHCN và 1457 NHTT, trong đó, chỉ tính riêng tại khu vực tại đồng bằng sông Cửu Long đã có tổng cộng 57 NHCN và 379 NHTT, cụ thể:
Bảng 2.1: Số lượng đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
NHTT có thể được xác lập quyền bởi tập thể tổ chức, điều này dẫn đến hiện trạng khi CDĐL là địa danh được một tổ chức đăng ký dưới dạng nhãn hiệu tập thể, sau khi được cấp văn bằng thì tổ chức này có quyền độc quyền sử dụng và ngăn cản những người khác sử dụng tên địa danh này cho sản phẩm mà họ được bảo hộ. Vì thế số người còn lại đang tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh sản phẩm có tính chất, chất lượng đặc thù tại khu vực có CDĐL đã đăng ký NHTT sẽ không được phép sử dụng tên địa danh này. Khi đó, tài sản chung đã chuyển hóa thành tài sản riêng của một nhóm người, dẫn đến mâu thuẫn cần được giải quyết khi bên bị ngăn cản sử dụng cho rằng tên địa danh là tài sản của địa phương, người sản xuất ra sản phẩm tại khu vực địa lý này có quyền gắn tên địa danh tương ứng lên sản phẩm của họ.
Thực tế hiện nay đã bắt đầu xuất hiện việc tranh chấp quyền sử dụng tên địa danh trên các nông sản đã được bảo hộ dưới góc độ nhãn hiệu tập thể tại tỉnh Bến Tre. Hay ở Tiền Giang 8 nhãn hiệu không còn hiệu lực vì những lý do như vùng nguyên liệu không còn, hợp tác xã bị giải thể, … Nguyên nhân của thực trạng này còn xuất phát từ: mô hình chủ sở hữu chưa phù hợp; vai trò của các tổ chức tập thể còn mờ nhạt; nhận thức của hợp tác xã, doanh nghiệp và người dân còn hạn chế; chưa có sự phối hợp, tham gia tích cực của các cấp, các ngành có liên quan; chưa xây dựng lộ trình phát triển phù hợp cho sản phẩm đặc sản; quản lý chất lượng sản phẩm còn bất cập. Luận văn: Thực tiễn pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
CDĐL, NHCN hay NHTT đã thúc đẩy sự phát triển sản xuất, thương mại và nâng cao giá trị cho sản phẩm nông sản dần chứng minh được tầm quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn có không ít sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam đã mang CDĐL nhưng chưa được đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ ở nước ngoài như: chôm chôm Chợ Lách, bưởi da xanh (Bến Tre), xoài cát Hòa Lộc, xoài Cát Chu (Đồng Tháp), quýt đường (Trà Vinh), hồ tiêu Phú Quốc (Kiên Giang); tại Đồng Tháp, xoài Cát Chu Cao Lãnh và xoài Cao Lãnh là hai sản phẩm được bảo hộ NHCN trong nước và đang xuất khẩu sang nhiều thị trường, kể cả các thị trường khó tính như Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc… nhưng chưa được đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở nước ngoài.
Ngày nay các doanh nghiệp đã ý thức được vai trò cũng như những lợi ích kinh tế mà thương hiệu cộng đồng đem lại do đó đã có được sự quan tâm, chú trọng trong khai thác quyền SHCN này trong hoạt động thương mại. Tuy nhiên, việc phát triển thương hiệu cộng đồng ở phạm vi doanh nghiệp thực chất chỉ dừng lại ở mức độ sử dụng trên bao bì sản phẩm nhằm tăng thêm niềm tin về danh tiếng, chất lượng sản phẩm đối với người tiêu dùng, chưa phát triển và khai thác tương xứng với giá trị của thương hiệu cộng đồng mang lại.
2.1.2. Thực trạng khai thác quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp
Xu hướng chung hiện nay cho thấy thị trường luôn đòi hỏi các sản phẩm phải có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, hàng hóa được bảo hộ. Từ khi Việt Nam ký kết và thực thi các Hiệp định thương mại tự do (FTA), gần đây là Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) thì các doanh nghiệp của Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp tại một số địa phương đã nhận được rất nhiều lợi thế, cơ hội từ hiệp định này mang lại, khi 39 CDĐL được bảo hộ tự động tại Liên minh Châu Âu, đây là thị trường đặc biệt quan trọng. Do đó, các sản phẩm của Việt Nam cần phải được chú trọng hơn nữa việc đăng ký bảo hộ CDĐL để tận dụng triệt để lợi thế hiện nay.
Khai thác CDĐL sẽ góp phần xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm đặc sản địa phương, tạo niềm tin của người tiêu dùng với các sản phẩm mang chỉ dẫn về nguồn gốc địa lý, chất lượng sản phẩm được kiểm soát khi phải tuân thủ quy trình nghiêm ngặt. Đây là khởi điểm để các hoạt động quảng bá được thúc đẩy nhằm gia tăng giá trị sản phẩm và uy tín kinh doanh, có thể kể đến: Nước mắm Phú Quốc tăng từ 30 – 50%, vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim có giá bán tăng 20%, xoài cát Hòa Lộc sau khi được cấp CDĐL đã được xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Canada,…
Để có cơ sở đưa ra nhận định đánh giá tình hình khai thác thương mại CDĐL tại một số địa phương, tác giả sẽ tiến hành phân tích một số sản phẩm nông nghiệp mang CDĐL, những giá trị kinh tế – văn hóa mà các sản phẩm này đem lại cho địa phương và khu vực, đồng thời cũng đưa ra các khó khăn và thách thức mà các DN sản xuất các sản phẩm này đang gặp phải.
- Thứ nhất, Nước mắm Phú Quốc Luận văn: Thực tiễn pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Nói đến các CDĐL tại một số địa phương không thể không nhắc đến CDĐL Phú Quốc cho sản phẩm nước mắm, từ xa xưa nước mắm đã gắn liền với bữa cơm hàng ngày của các gia đình tại Việt Nam, nó không chỉ là một loại gia vị bình thường, nước mắm đã trở thành nét văn hóa truyền thống của người dân Việt Nam trong đời sống thường nhật. Tuy được sản xuất tại nhiều tỉnh thành tại Việt Nam, mỗi vùng miền, địa phương lại sử dụng các loại nguyên liệu khác nhau từ cá cơm, cá thu, cá mực,.. Nhưng chỉ có ở Phú Quốc mới có loại nước mắm đặc biệt, được sản xuất từ nguyên liệu cá cơm, được ngâm ủ trong những thùng gỗ lớn, kéo dài 12 tháng để tạo ra loại nước mắm có mùi vị thơm ngon có độ đạm lên đến 40°N, Nước mắm Phú Quốc với lịch sử 200 năm đã trở thành sản phẩm nổi tiếng, niềm tự hào của người dân Phú Quốc và người dân Việt Nam trên khắp thế giới.
Với những giá trị truyền thống đó, nước mắm Phú Quốc đã được Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ cấp văn bằng quốc gia bảo hộ CDĐL vào năm 2001. Tiếp theo đó, ngày 08/10/2012 nước mắm Phú Quốc đã trở thành sản phẩm đầu tiên của Việt Nam được Ủy ban châu Âu cấp văn bằng bảo hộ tên gọi xuất xứ địa lý, được bảo hộ trên thị trường EU.
Nhằm đảm bảo quản lý và sử dụng CDĐL Phú Quốc thì Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang đã ban hành các chính sách nhằm quản lý chất lượng nước mắm truyền thống, truy xuất nguồn gốc, nhãn hàng hóa mang CDĐL.
- Hình ảnh 2.2 Chỉ dẫn địa lý nước mắm Phú Quốc
Theo số liệu năm 2022 của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Kiên Giang, nước mắm Phú Quốc đã góp phần tạo ra một sản phẩm có giá trị kinh tế cao, là một mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao do có thương hiệu nổi tiếng và được công nhận CDĐL tại Châu Âu. Sản phẩm nước mắm Phú Quốc mang CDĐL có giá trị kinh tế cao, được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa thích và đánh giá cao, trở thành một động lực quan trọng để phát triển kinh tế của địa phương. Hàng năm cung cấp ra thị trường trên 30 triệu lít nước mắm, mang lại doanh thu hơn 600 tỷ đồng, tạo việc làm cho hàng ngàn lao động tại địa phương. Nước mắm mang CDĐL Phú Quốc là sản phẩm đầu tiên đạt CDĐL được EU công nhận. Các nhà thùng sản xuất nước mắm Phú Quốc đăng ký thương hiệu có CDĐL đều phải tuân thủ các quy định trong hoạt động chế biến nước mắm, sản phẩm phải bảo đảm tiêu chuẩn đã được công nhận và đặc biệt là phải được đóng chai tại Phú Quốc. Số lượng bán ra tại thị trường EU trung bình đạt gần 500.000 lít/năm. Không chỉ tăng số lượng, giá bán của sản phẩm cũng tăng từ 30 – 50%. Cũng nhờ đó, doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tăng xuất khẩu sang các thị trường khác như: Hoa Kỳ, Australia, Nhật Bản, Canada.
Tính đến 2020, Phú Quốc hiện còn khoảng 60 nhà thùng (cơ sở sản xuất nước mắm), giảm khoảng 40% so với thời điểm 2011 – 2012, năng lực sản xuất 18 – 20 triệu lít/năm, phần lớn sản lượng nước mắm bán thô cho các nhà sản xuất thành phẩm đóng chai ở Tp. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Rạch Giá…, chỉ có khoảng 20 nhà thùng đóng chai tại Phú Quốc và mỗi nhà thùng lấy tên thương hiệu riêng. Tiếp đến, Phú Quốc hiện có 7 doanh nghiệp đủ điều kiện xuất khẩu nước mắm sang thị trường châu Âu, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản…, số còn lại đủ điều kiện an toàn thực phẩm tiêu thụ trong nước, xuất khẩu ủy thác hoặc qua nhà phân phối. Luận văn: Thực tiễn pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Bên cạnh đó, ngoài giá trị kinh tế, nước mắm Phú Quốc không những có giá trị về văn hóa mà còn là sản phẩm du lịch đặc trưng của địa phương. Nghề làm nước mắm đã thu hút nhiều khách du lịch tham quan, trải nghiệm tại nhà thùng sản xuất, không thể phủ nhận các làng nghề làm nước mắm Phú Quốc còn là một loại hình du lịch hấp dẫn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch của Phú Quốc.
- Thứ hai, Vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim
Vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim được xác định là một trong các chủng loại cây ăn trái đặc sản có lợi thế cạnh tranh của tỉnh Tiền Giang. Sản phẩm nông nghiệp này đã được tỉnh đăng ký nhãn hiệu hàng hóa tập thể và bảo hộ CDĐL từ 2014.
- Hình ảnh 2.3. Chỉ dẫn địa lý Vú sữa lò rèn Vĩnh Kim
Trên địa bàn tỉnh Tiền Giang hiện có trên 1.100 ha vú sữa; trong đó, có khoảng 500 ha vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim đang cho thu hoạch với sản lượng hàng năm đạt khoảng 10.000 tấn quả (chiếm khoảng 28,6% so với sản lượng vú sữa ra thị trường toàn tỉnh gần 35.000 tấn). Thị trường cung cấp chủ lực là thị trường trong nước, Thái Lan, Hàn Quốc, Đức, Nga, Đài Loan, Nhật, Mỹ…Các nhà phân phối trong nước: METRO, CoopMart, Bách hóa xanh, các Chợ đầu mối,…
Những năm trước, vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim thu hoạch vụ sớm, có lúc lên đến 60.000 đồng/quả; một chục (12 quả) có giá đến 600.000 đồng. Nhiều nông dân cải thiện thu nhập, làm giàu nhờ cây trồng đặc sản này sau những vụ mùa bội thu.
Sau 10 năm từ năm 2008 đến 2018, địa phương đã không ngừng nỗ lực cùng các ngành chức năng đàm phán với đối tác Hoa Kỳ để tìm cách mở cửa cho trái vú sữa nói chung, trái vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim, Tiền Giang nói riêng có thể xuất khẩu thành công sáng thị trường khó tính nhưng tiềm năng rất lớn. Cuối cùng đến năm 2018, vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim chính thức được cơ quan Kiểm dịch động thực vật Hoa Kỳ (Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ) cho phép nhập khẩu sang nước này. Lô hàng đầu tiên đã được Công ty TNHH chế biến nông sản Cát Tường xuất sang Hoa Kỳ vào ngày 26/12/2017.
Tuy nhiên, hiện vú sữa Lò Rèn mang CDĐL Vĩnh Kim đang đứng trước nguy cơ suy thoái nghiêm trọng, giảm diện tích và chất lượng, bị sâu bệnh tấn công trên diện rộng. Hiện nay, diện tích toàn tỉnh hiện chỉ còn trên 3.100 ha vú sữa, giảm gần 800 ha so với thời điểm năm 2011.
Vài năm trở lại đây, vú sữa suy kiệt, cằn cỗi, cành nhánh chết khô từ từ, không sinh trưởng được, không thể phục hồi, cùng với sự biến đổi khí hậu, thổ nhưỡng ngày càng khốc liệt tại một số địa phương, buộc người nông dân phải chuyển đổi giống cây trồng nhằm đảm bảo cuộc sống, đòi hỏi phải có những giải pháp, đồng bộ và căn cơ để gìn giữ, bảo tồn và phát triển sản phẩm nông nghiệp đặc trưng này.
2.2. Bất cập trong thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp tại Việt Nam và nguyên nhân Luận văn: Thực tiễn pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
2.2.1 Bất cập trong thực thi quy định về điều kiện bảo hộ
- Thứ nhất, hoạt động xác lập quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với chỉ dẫn địa lý
Để được cấp văn bằng bảo hộ thì người tiến hành đăng ký CDĐL phải làm Đơn đăng ký CDĐL. Theo đó, các yêu cầu liên quan đến hiệu quả sử dụng CDĐL được cấp văn bằng bảo hộ không phải là yếu tố cần có trong hồ sơ yêu cầu. Tuy nhiên, đây mới là nội dung quan trọng đảm bảo hiệu quả pháp lý cũng như hiệu quả kinh tế cho việc đăng ký và sử dụng CDĐL cho các sản vật địa phương.
Bên cạnh đó, cách thức tiến hành xây dựng một CDĐL cũng chưa được luật hóa nên mỗi địa phương phải tự mày mò cách làm và hiệu quả đạt được không cao (trên thực tế cứ có 30 đơn đăng ký thì chỉ có khoảng 10 đơn được chấp nhận cấp bằng). Mâu thuẫn trong việc khoanh vùng bảo hộ thường xuyên xảy ra đối với những sản phẩm mà vùng địa lý được xác định thuộc lãnh thổ của nhiều địa phương. Ví dụ như về việc đăng ký bảo hộ CDĐL cho sâm Ngọc Linh cho thấy điều này. Do bản đồ địa lý xác định, khoanh vùng cho sâm Ngọc Linh nằm trên địa bàn của cả hai tỉnh Kon Tum và Quảng Nam, trong khi pháp luật hiện hành về đăng ký CDĐL không quy định về giải quyết xung đột giữa các chủ thể có quyền đăng ký CDĐL. Cho nên, việc đăng ký bảo hộ CDĐL cho sâm Ngọc Linh hiện được tiến hành từ những năm 2006 nhưng đến tháng 10 năm 2016 mới được cấp văn bằng bảo hộ, điều đó gây ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của các nhà sản xuất tại địa phương, tạo nên một tiền lệ không tốt cho việc bảo vệ các đặc sản.
Ngoài ra, các quy định của pháp luật về việc cấp phép quyền sử dụng CDĐL chưa được cụ thể hóa nên nhiều địa phương sợ rơi vào tình trạng đăng ký nhưng không thể sử dụng. Việc đăng ký một CDĐL không dễ dàng như đối với nhãn hiệu tập thể vì trong đơn đăng ký phải mô tả tính chất đặc thù của sản phẩm gắn CDĐL, bản đồ khu vực địa lý… Vì vậy, các địa phương đã hạn chế việc nộp đơn CDĐL và có xu hướng chuyển sang đăng ký nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận. Điển hình là trường hợp của vú sữa Vĩnh Kim – Lò Rèn với vùng sản xuất đã được xác định, sản phẩm được người tiêu dùng ưa chuộng nhưng hợp tác xã (HTX) Vĩnh Kim, ngay từ đầu, đã không tiến hành đăng ký CDĐL mà chọn hình thức nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm. Một trong những lý do quan trọng khiến doanh nghiệp, địa phương không đăng ký bảo hộ CDĐL là khâu chứng minh mối liên hệ giữa chất lượng sản phẩm với khu vực địa lý. Để chứng minh được mối quan hệ này yêu cầu chủ thể nộp đơn phải thực hiện rất nhiều các nghiên cứu sinh hóa nhằm chỉ ra mối quan hệ giữa dấu hiệu địa lý, sinh thái nông nghiệp và chất lượng đặc thù của sản phẩm. Trong khi quy định của Thông tư số 01/2007/TTBKHCN về các biểu mẫu, chỉ tiêu đánh giá, tiêu chí xác định… để chứng minh được mối quan hệ này lại không rõ ràng.
- Thứ hai, lựa chọn hình thức nhãn hiệu tập thể Luận văn: Thực tiễn pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Nhãn hiệu tập thể có thể được xác lập quyền bởi một nhóm người, điều này dẫn đến hiện trạng khi CDĐL là địa danh được một nhóm người đăng ký dưới dạng nhãn hiệu tập thể, sau khi được cấp bằng thì nhóm người này có quyền độc quyền sử dụng và ngăn cản những người khác sử dụng tên địa danh này cho sản phẩm mà họ được bảo hộ. Vì thế, số người còn lại đang tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh sản phẩm có tính chất, chất lượng đặc thù tại khu vực có CDĐL đã đăng ký nhãn hiệu tập thể sẽ không được phép sử dụng tên địa danh này. Khi đó, tài sản chung đã chuyển hóa thành tài sản riêng của một nhóm người, dẫn đến mâu thuẫn cần được giải quyết khi bên bị ngăn cản sử dụng cho rằng tên địa danh là tài sản của địa phương, người sản xuất ra sản phẩm tại khu vực địa lý này có quyền gắn tên địa danh tương ứng lên sản phẩm của họ. Thực tế hiện nay đã bắt đầu xuất hiện việc tranh chấp quyền sử dụng tên địa danh trên các nông sản đã được bảo hộ dưới góc độ nhãn hiệu tập thể (tỉnh Bến Tre).
Việc đăng ký để cấp văn bằng bảo hộ CDĐL đã khó, nhưng việc quản lý, sử dụng nó hiệu quả để mang lại giá trị gia tăng cho các chủ thể liên quan còn là việc làm quan trọng hơn. Tuy nhiên, gần 20 năm qua (từ năm 2001 khi CDĐL đầu tiên được cấp văn bằng bảo hộ), hiệu quả của việc sử dụng CDĐL của các chủ thể có liên quan không cao. Điển hình như CDĐL nước mắm Phú Quốc: Ngày càng có nhiều người lấy màu pha với nước muối, thêm “hương vị nước mắm” rồi dán nhãn nước mắm Phú Quốc sau đó tung ra thị trường bán với giá rất rẻ. Hay đối với CDĐL chè Shan tuyết Mộc Châu chỉ được sử dụng để đóng bao sản phẩm 35kg khi chuyển đi nơi khác bán chiếm đến 90%. Khi đến tay nhà phân phối, người ta lại mở bao gói sản phẩm này ra để đóng thành gói lẻ bán ra thị trường. Điều này khiến cho sản phẩm khi đến tay người tiêu dùng không còn nguyên vẹn bao bì như ban đầu và việc đóng gói lẻ từ những nhà phân phối sẽ không tránh khỏi việc sản phẩm bị trộn lẫn với những sản phẩm chè được sản xuất từ nơi khác. Tương tự, CDĐL cho cà phê Buôn Ma Thuột cũng không là ngoại lệ, việc sử dụng CDĐL hiện nay rất khó triển khai, gây ảnh hưởng không tốt đến uy tín của CDĐL. Có rất nhiều sản phẩm cà phê thực tế không được sản xuất tại các khu vực được xác định trên bản đồ bảo hộ nhưng khi thực hiện đóng gói tại Buôn Ma Thuột liền được gắn với CDĐL Buôn Ma Thuột mà không bị xử lý.
2.2.2 Bất cập trong thực thi quy định về quản lý chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp Luận văn: Thực tiễn pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
- Thứ nhất, hoạt động sử dụng, khai thác chỉ dẫn địa lý
Một là, không có quy định cụ thể cho việc cấp phép quyền sử dụng CDĐL nên chủ thể quyền và chủ thể có nhu cầu sử dụng CDĐL còn lúng túng trong việc thiết lập hồ sơ xin cấp phép cũng như cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng CDĐL.
Trên thực tế hoạt động quản lý và sử dụng các CDĐL ở Việt Nam không thống nhất và không hiệu quả.
- Bảng 2.4. Mô hình quản lý của một số CDĐL đã được cấp văn bằng bảo hộ
Chính vì vậy, cơ chế kiểm soát đối với chất lượng các sản phẩm được gắn liền với CDĐL không chặt chẽ, rõ ràng.
Hai là, không có căn cứ pháp lý để các chủ thể có nhu cầu sử dụng CDĐL xây dựng hệ thống kiểm soát chất lượng sản phẩm, mà nếu không có hệ thống này thì các chủ thể không thể xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng CDĐL, vì thế họ gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình triển khai.
Pháp luật hiện hành không có bất kỳ quy định nào liên quan từ cấp quyền sử dụng, kiểm soát chất lượng hàng hóa cũng như quy hoạch vùng địa lý bảo hộ…
Cơ chế sử dụng địa lý do các địa phương quản lý tự quyết định, ban hành tùy thuộc vào từng địa phương, dẫn đến sự thiếu thống nhất, hiệu quả thấp.
Ba là, việc kiểm soát các sản phẩm gắn CDĐL không được quy định cụ thể trong luật nên hầu hết các chủ thể có nhu cầu sử dụng CDĐL chỉ tập trung vào việc xây dựng hệ thống kiểm soát chất lượng nội bộ mà không xây dựng hệ thống kiểm soát chất lượng sản phẩm bên ngoài, kể cả công cụ truy xuất nguồn gốc. Vì vậy, khi sản phẩm gắn CDĐL ra khỏi nơi sản xuất thì việc kiểm soát gần như đã chấm dứt. Điều này làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm khi đến tay người tiêu dùng.
Trên thực tế chúng ta không thể kiểm soát được chất lượng của sản phẩm được gắn với CDĐL, đồng thời không có sự phân biệt giữa sản phẩm trong vùng bảo hộ và sản phẩm ngoài vùng bảo hộ. Điều này làm cho giá thành của các sản phẩm có dán tem chứng nhận cũng không có sự khác biệt với sản phẩm không dán tem. Điều đó không thúc đẩy người sản xuất mặn mà với các quy trình và chất lượng của sản phẩm gắn liền với chị dẫn địa lý.
Bốn là, nhận thức về giá trị của loại tài sản SHTT trong đó có CDĐL còn hạn chế (kể cả các chủ thể quyền, kể cả đối với người có quyền sử dụng).
Vì cơ chế sử dụng CDĐL không thực sự hiệu quả trên thực tế, không mang lại sự khác biệt rõ nét, đặc biệt là liên quan đến giá thành của sản phẩm có gắn nhãn CDĐL và các sản phẩm không gắn nhãn nên đã không tạo được động lực thúc đẩy sự đầu tư, quan tâm từ các chủ thể sản xuất. Luận văn: Thực tiễn pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
- Thứ hai, chính sách hỗ trợ của nhà nước, địa phương
Bên cạnh các địa phương như: Quảng Ninh, Sơn La, Bắc Ninh, Bến Tre… có chính sách đầu tư nhằm phát triển thương hiệu cộng đồng thì các địa phương khác còn tồn tại một số vấn đề như: i) tập trung chủ yếu vào nội dung xây dựng hồ sơ đăng ký, hoạt động hỗ trợ quản lý và phát triển còn nhiều hạn chế, dẫn đến các sản phẩm được bảo hộ chưa thực sự phát huy được giá trị như mong đợi; ii) có nhiều nguồn lực hỗ trợ ở các nội dung khác nhau, tập trung ở ba ngành là: Khoa học và Công nghệ, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương, nhưng sự phối hợp và tập trung nguồn lực còn rất hạn chế, dẫn đến nguồn lực bị phân tán, chưa phát huy được hết hiệu quả.
- Thứ ba, xây dựng hồ sơ đăng ký thương hiệu cộng đồng
Việc lựa chọn sản phẩm, hình thức bảo hộ quyền SHTT hiện nay được các địa phương rất quan tâm, tuy nhiên trong quá trình triển khai còn những khó khăn, bất cập, đó là:
Chưa có tiêu chí hoặc phương pháp rõ ràng trong việc lựa chọn hình thức bảo hộ: chỉ dẫn địa lý, NHTT hay NHCN, đặc biệt là đối với các chỉ dẫn địa lý. Cụ thể như, đối với việc đăng ký chỉ dẫn địa lý cần dựa vào điều kiện của sản phẩm như: danh tiếng, chất lượng đặc thù của sản phẩm do điều kiện địa lý quyết định. Tuy nhiên, nhiều sản phẩm lựa chọn dấu hiệu đăng ký chưa được biết đến rộng rãi, không phải là tên gọi truyền thống, đã được sử dụng trong thương mại, như: Cừu Phan Rang hay Cừu Ninh Thuận, Gạo Séng Cù Lào Cai hay gạo Séng Cù Mường Khương, sầu riêng Cái Mơn hay sầu riêng Bến Tre…, dẫn đến những khó khăn trong công tác thẩm định hồ sơ đăng ký cũng như việc sử dụng, phát triển thương hiệu đối với các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh sản phẩm.
Về chủ thể đăng ký bảo hộ SHTT: đối với các NHTT, nhiều địa phương lựa chọn các tổ chức chính trị – xã hội (Hội Nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ), hoặc các Hội làm vườn… làm chủ sở hữu, gây khó khăn trong công tác quản lý, phát triển bởi NHTT không gắn với mục tiêu hoạt động, chức năng, nhiệm vụ được giao của tổ chức. Đối với NHCN thì chủ yếu là các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là Ủy ban nhân dân huyện thị, các phòng chuyên môn, thiếu chức năng và năng lực về chứng nhận sản phẩm, chưa có sự tách biệt giữa quản lý nhà nước và mối quan hệ dân sự theo quy định của Luật SHTT. Đối với các chỉ dẫn địa lý, đây là một đối tượng đặc biệt, yêu cầu cao về chuyên môn SHTT, do đó nhiều địa phương giao cho UBND huyện, Chi cục thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm chủ sở hữu gây khó khăn cho các chủ thể trong hoạt động xây dựng hồ sơ, quy định và tổ chức bộ máy quản lý các CDĐL. Luận văn: Thực tiễn pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Vấn đề lựa chọn sản phẩm để bảo hộ chưa gắn với thực tiễn và yêu cầu sản xuất, kinh doanh ở địa phương cũng như nhu cầu của thị trường. Sản phẩm bảo hộ thường là các sản phẩm nguyên liệu thô, rất ít sản phẩm chế biến, hoặc những sản phẩm không gắn với truyền thống (như tôm nuôi công nghiệp, thâm canh) hay sản phẩm không gắn với giống truyền thống (như dê nhập nội hay dê lai…). Điều này hạn chế gia tăng giá trị cho sản phẩm tương xứng với tiềm năng và danh tiếng của các đặc sản địa phương.
Việc lựa chọn các tiêu chí bảo hộ trong chỉ dẫn địa lý, NHCN hay điều kiện bảo hộ NHTT còn bất cập, đặc biệt là chưa gắn với: i) sử dụng các tiêu chí phổ biến, không phải là các tiêu chí mang đặc trưng, gắn liền với điều kiện địa lý của sản phẩm; ii) tiêu chí chất lượng không có tính khả thi trong kiểm soát (tiêu chí về vi lượng, tiêu chí không sử dụng được bằng phương pháp cảm quan, phải sử dụng phân tích bằng kỹ thuật chuyên sâu – phòng thí nghiệm…); iii) sử dụng các tiêu chí tự nguyện như TCVN, VIETGAP, GLOBALGAP…
Quy trình kỹ thuật, phương pháp sản xuất được lựa chọn mang tính phổ cập, chưa quan tâm đến các yếu tố truyền thống, đặc trưng riêng đối với các sản phẩm. Do đó dẫn đến những khó khăn trong hoạt động kiểm soát, đặc biệt là chưa đáp ứng các yêu cầu để bảo hộ ở nước ngoài như: Nhật Bản, EU…
2.2.3. Nguyên nhân phát sinh vướng mắc, bất cập
- Thứ nhất, quy định của pháp luật chưa phù hợp với thực tiễn
Các phân tích cho thấy quy định của pháp luật Việt Nam về quy trình đăng ký bảo hộ, sử dụng CDĐL chưa phù hợp với thực tiễn và dường như đi ngược với pháp luật ở các nước trên thế giới. Điều này khiến cho hiệu quả thực thi các quy định không cao.
- Thứ hai, quy định của pháp luật tập trung chủ yếu vào hoạt động đăng ký mà chưa chú trọng đến hoạt động quản lý, sử dụng và bảo vệ quyền. Luận văn: Thực tiễn pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Các quy định về CDĐL trong Luật SHTT cũng như các văn bản hướng dẫn chỉ dừng lại ở quy trình đăng ký bảo hộ mà không đề cập đến hoạt động quản lý, sử dụng và bảo vệ CDĐL đã được đăng ký bảo hộ. Do vậy, hầu hết các CDĐL được đăng ký nhưng lại không được cấp quyền sử dụng cho một tổ chức, cá nhân nào để khai thác thương mại dẫn đến tình trạng sử dụng tự do mà không có một cơ chế kiểm soát hiệu quả làm ảnh hưởng đến tính chất, chất lượng của sản phẩm, uy tín của CDĐL.
- Thứ ba, quy định về CDĐL chưa tương thích với chuẩn mực quốc tế
Mặc dù Luật SHTT đã được sửa đổi, bổ sung các năm 2009, 2019 đã có những thay đổi tích cực liên quan đến thủ tục đăng ký xác lập quyền đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp phù hợp hơn với các chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, theo hồ sơ đề nghị xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022 thì các quy định về CDĐL hiện có của Luật SHTT chưa hoàn toàn tương thích với các cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam mới là thành viên. Bên cạnh đó, các quy định về điều kiện bảo hộ CDĐL sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam cũng có nhiều khác biệt so với pháp luật quốc tế. Ví dụ như quy định về điều kiện cần để sản phẩm được đăng ký bảo hộ dưới dạng CDĐL.
- Thứ tư, hoạt động quản lý, sử dụng và bảo vệ CDĐL chưa được quan tâm đúng mức CDĐL là tài sản quốc gia
Đây là yếu tố quan trọng để chúng ta xây dựng được thương hiệu cho mặt hàng sản phẩm nông nghiệp, giúp phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên, với quy định của pháp luật hiện hành, dường như chúng ta chưa thật sự quan tâm đến đối tượng này. Pháp luật chưa tạo được một cơ chế hỗ trợ về chuyên môn cũng như ngân sách cho hoạt động nghiên cứu, bảo hộ CDĐL cho các sản phẩm nông nghiệp địa phương.
Kết luận Chương 2 Luận văn: Thực tiễn pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Trong những năm qua, các quy định về bảo hộ quyền SHTT nói chung và CDĐL nói riêng đã khẳng định được vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam, phát huy được tầm ảnh hưởng, mang lại những lợi ích thiết thực cho nhiều cá nhân, doanh nghiệp, địa phương và đóng góp rất lớn vào sự phát triển chung của nhiều ngành sản xuất, thương mại, dịch vụ có liên quan. Dưới góc nhìn cụ thể hơn, các quy định về bảo hộ CDĐL không chỉ giúp nâng tầm giá trị của nhiều đặc sản địa phương, vùng miền, tăng tính cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, mang lại nhiều lợi ích to lớn về kinh tế-xã hội mà còn góp phần hiệu quả vào việc quản lý toàn diện, giải quyết tranh chấp, bảo vệ các quyền, lợi ích chính chính đáng cho nhiều đối tượng.
Về kỹ thuật lập pháp, Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019, 2022 và các văn bản hướng dẫn liên quan đã quy định về cơ bản đầy đủ và chi tiết những quy định về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên vì nhiều lý do khách quan và chủ quan từ cả mặt lập pháp và hành pháp nên đến hiện tại số lượng đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp trên phạm vi cả nước nói chung vẫn còn ít, chưa xứng với một đất nước truyền thống, nhiều bề dày về văn hóa, ẩm thực và đa dạng các làng nghề truyền thống như ở Việt Nam. Trong quá trình xây dựng và đăng ký chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp, đã nảy sinh nhiều vấn đề bất cập cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng như những biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý của cơ quan nhà nước và tổ chức chủ sở hữu. Vì vậy cần có những biện pháp để nâng cao hiệu quả về lập pháp và hành pháp đối với vấn đề xác lập quyền đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp. Các nghiên cứu tại Chương 2 là cơ sở lý luận và thực tiễn để tác giả đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp tại Chương 3. Luận văn: Thực tiễn pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Giải pháp pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp

Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com
