Khóa luận: Tổng quan về phát triển du lịch tại Bình Định

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Tổng quan về phát triển du lịch tại Bình Định hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: Khai thác các giá trị lịch sử văn hóa để phát triển du lịch tỉnh Bình Định dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1. Giới thiệu chung về Bình Định

Bình Định nằm ở trung tâm của trục Bắc – Nam (trên cả 3 tuyến quốc lộ 1A, đường Sắt xuyên Việt và đường Hàng Không nội địa), là cửa ngõ ra biển gần nhất và thuận lợi nhất của Tây Nguyên, Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và Thái Lan (bằng cảng biển quốc tế Qui Nhơn và quốc lộ 19), với sân bay Phù Cát việc đi lại giữa Bình Định với thành phố Hồ Chí Minh chỉ mất 1 giờ và với Hà Nội chỉ 2 giờ bay. Khóa luận: Tổng quan về phát triển du lịch tại Bình Định

Với vị trí địa lý thuận lợi như vậy. Bình Định còn có nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú cả về tự nhiên và nhân văn. Cùng với cả vùng, Bình Định là tỉnh nằm trong vùng có bờ biển kéo dài trên 1.000 km với nhiều thắng cảnh đẹp nổi tiếng như: Phong 40 Nha Kẻ Bàng, Bạch Mã, Bà Nà, Mỹ Khê, Lăng Cô và vịnh Nha Trang… miền Trung được ví như một dải đất giàu tiềm năng để phát triển du lịch.

Với Bình Định nằm trong khu vực miền Trung – Tây Nguyên có một vị trí đặc biệt quan trọng trong tuyến du lịch đường bộ nối vùng Đông Bắc Thái Lan, Nam Lào với miền Trung – Tây Nguyên. Sự liên kết được thể hiện trong phát triển hệ thống các tuyến đường, các trạm dừng chân trên tuyến, hạ tầng kỹ thuật tại các cửa khẩu quốc tế giữa 3 nước Thái Lan, Lào và Việt Nam; liên kết trong xây dựng chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch và liên kết trong xúc tiến quảng bá du lịch tuyến Hành lang Kinh tế Đông Tây. Để đẩy mạnh sự phát triển của du lịch Miền Trung – Tây Nguyên tương xứng với vị trí và tiềm năng của mình, vai trò của sự liên kết giữa các quốc gia Việt Nam, Thái Lan và Lào là một yếu tố hết sức quan trọng .

Dân cư: Bình Định có diện tích tự nhiên 6022,6 km², dân số 1.486.465 người, mật độ dân số 389 người/km² (số liệu năm 2018).

Dân số ở thành thị chiếm 31,03%, nông thôn chiếm 68,97%, mật độ dân số là 246 người/km² và dân số trong độ tuổi lao động chiếm khoảng chiếm:

58.8% dân số toàn tỉnh. Ngoài dân tộc Kinh, còn có các dân tộc khác nhưng chủ yếu là Chăm, Ba Na và Hrê, bao gồm khoảng 2,5 vạn dân. toàn tỉnh có 9 tôn giáo khác nhau đạt 141.215 người, nhiều nhất là Phật giáo có 93.110 người, tiếp theo là Công giáo có 33.516 người, đạo Cao Đài có 13.118 người, đạo Tin Lành có 1.321 người. Còn lại các tôn giáo khác như Phật giáo Hòa Hảo có 94 người, Baha’i giáo có 26 người, Hồi giáo có 19 người, Bà La Môn có 10 người, 1 người theo Minh Lý đạo.

Văn hóa: Bình Định là mảnh đất có bề dày lịch sử với nền văn hoá Sa

Huỳnh, từng là cố đô của vương quốc Chămpa mà di sản còn lưu giữ là thành Đồ Bàn và các tháp Chàm với nghệ thuật kiến trúc độc đáo. Đây cũng là nơi xuất phát phong trào nông dân khởi nghĩa vào thế kỷ 18 với tên tuổi của anh hùng áo vải Nguyễn Huệ; là quê hương của các danh nhân Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân,Nguyễn Đăng Lâm, Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Ngô Mây, Tăng Bạt Hổ, Diệp Trường Phát…, và các văn thi nhân Nguyễn Diêu, Đào Tấn, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Yến Lan,Quách Tấn, Nguyễn Thành Long, Phạm Hổ, Phạm Văn Ký… Bình Định còn được biết đến với truyền thống thượng võ và có nền văn hoá đa dạng phong phú với các loại hình nghệ thuật như bài chòi, hát bội, nhạc võ Tây Sơn, hò bá trạo của cư dân vùng biển… cùng với các lễ hội như: lễ hội Đống Đa, lễ hội cầu ngư, lễ hội của các dân tộc miền núi…

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Khóa Luận Ngành Du Lịch

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của tỉnh Bình Định Khóa luận: Tổng quan về phát triển du lịch tại Bình Định

Bình Định xưa là đất thuộc Việt Thường Thị và nền văn hóa Sa Huỳnh, sau đó người Chăm đã tới chiếm lĩnh vùng đất này . Đến đời nhà Tần Xứ này là huyện Lâm ấp thuộc Tượng Quân, đời nhà Hán là huyện Tượng Lâm thuộc quân Nhật nam

Đời nhà Tùy (605) dẹp Lâm Ấp đặt tên là Xung Châu. Sau đó lấy tên cũ là Lâm Ấp.

Đời nhà Đường, năm 627 đổi tên là Lâm Châu. Năm 803, nhà Đường bỏ đất này và nước Chiêm Thành của người Chăm ra đời, đất này được đổi tên là Đồ Bàn, Thị Nại.

Đời nhà Lê năm Hồng Đức 2 (1471) vua Lê Thánh Tông đánh phá Chiêm Thành tới núi Thạch Bi chiếm đất này và chia thành 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn của phủ Hoài Nhơn thuộc thừa tuyên Quảng Nam.

Năm 1602 chúa Nguyễn Hoàng cho đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Qui

Nhơn thuộc dinh Quảng Nam.

Năm 1651, chúa Nguyễn Phúc Tần đẫ đổi tên phủ Qui Nhơn thành phủ Quy Ninh.

Năm 1742, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lấy lại tên cũ là Qui Nhơn.

Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát đặt các đạo làm dinh, nhưng cấp phủ vẫn giữ nguyên. Phủ Quy Nhơn vẫn thuộc về dinh Quảng Nam, đặt các chức tuần phủ và khám lý để cai trị. Phủ lỵ dời ra phía Bắc thành Đồ Bàn, đóng tại thông Châu Thành (nay là xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn).

Năm 1725, ở phủ Quy Nhơn đặt các chức quan trông coi: Chánh hộ, Khám lý, Đề đốc, Đề lãnh, Ký lục, Cai phủ, Thư ký, mỗi chức đặt một người; mỗi huyện đặt cai tri, thư ký, mỗi chức một người và 2 viên lục lại; mỗi tổng có cai tổng.

Từ 1773 đến 1797, nhà Tây Sơn chiếm cứ đất này, sau khi lấy lại đất này Nguyễn Ánh đổi tên đất này là dinh Bình Định, sai Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn thủ và đặt quan cai trị gọi là Lưu Thủ, Cai Bộ, Ký Lục.

Năm 1808 đổi dinh Bình Định thành trấn Bình Định. Khóa luận: Tổng quan về phát triển du lịch tại Bình Định 

Năm 1825, đặt tri phủ Quy Nhơn, năm 1831 lại đổi thành phủ Hoài Nhơn.

Năm 1832 tách huyện Tuy Biễn thành hai huyện Tuy Viễn và Tuy Phước, tách huyện Phù Ly thành hai huyện Phù Mỹ và Phù Cát đồng thời Bình Định và Phú Yên thành liên tỉnh Bình Phú, sau đó bỏ liên tỉnh này.

Năm 1888 đặt huyện Bình Khê. Vào năm 1885 Bình Định là một tỉnh lớn ở Trung Kỳ, nhiều vùng đất của Gia Lai – Kom Tum còn thuộc về Bình Định.

Năm 1890, thực dân Pháp sát nhập thêm Phú Yên vào tỉnh Bình Định thành tỉnh Bình Phú, tỉnh lỵ là Quy Nhơn. Nhưng đến năm 1899, Phú Yên tách ta khỏi Bình Phú.

Ngày 4 tháng 7 năm 1905, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh tự trị Pleikou Derr, tỉnh lỵ đặt tại làng Pleikan Derr của dân tộc Gia Lai. Địa bàn tỉnh Pleikou Derr bao gồm các vùng cư trú của đồng bào thiểu số Xơ đăng, Bana, Gialai tách từ tỉnh Bình Định ra.

Ngày 25 tháng 4 năm 1907 xóa bỏ tỉnh Pleikou Derr. Toàn bộ đất đai của tỉnh này dưới sự cai trị của Công sứ Bình Định; một gọi là Đại lý Cheo Reo, cho sát nhập vào tỉnh Phú Yên và đặt dưới sự cai trị của Công sứ Phú Yên.

Năm 1913 thực dân Pháp lại sát nhập Phú Yên vào Bình Định thành tỉnh Bình Phú và thành lập tỉnh Komtum làm tỉnh riêng.

Năm 1921 thực dân Pháp cắt tỉnh Phú Yên ra khỏi tỉnh Bình Định và kéo dài cho đến năm 1945. Thời Việt Nam Cộng hòa đổi các huyện thành quận, tỉnh Bình Định có 11 quận, 1 thị xã, trong đó có 4 quận miền núi. Tháng 2 năm 1976 Chính Phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ra Nghị định về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam theo đó hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định hợp nhất thành tỉnh Nghĩa Bình.

Năm 1989 Bình Định tách ra từ Nghĩa Bình để tái lập lại tỉnh và kéo dài như vậy cho đến nay.

2.1.2. Vị trí địa lý Khóa luận: Tổng quan về phát triển du lịch tại Bình Định

Bình Định là tỉnh duyên hải miền Trung của Tổ quốc Việt Nam. Lãnh thổ của tỉnh trải dài 110km theo hướng Bắc – Nam, có chiều ngang hẹp trung bình 55km (chỗ hẹp nhất 50km, chỗ rộng nhất 60km). Diện tích tự nhiên của toàn tỉnh 6.025km2 .

Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi, có chung đường biên giới 63km từ đèo Bình Đê, điểm cực Bắc với tọa độ: 14o 42′ Bắc, 108o 56′ Đông; phía Nam giáp tỉnh Phú Yên, có chung đường biên giới 59km, điểm cực Nam với tọa độ: 13o 31′ Bắc, 108o 57′ Đông. Phía Tây giáp tỉnh Gia Lai, có chung đường biên giới 130km , điểm cực Tây với tọa độ: 14o 27′ Bắc, 108o 27′ Đông. Phía Đông giáp biển Đông với bờ biển dài 134km, có điểm cực Đông ở xã Nhơn Châu (Cù Lao Xanh), có tọa độ: 13o 36′ Bắc, 109o 21′ Đông.

Bình Định lại ở vào một địa thế khá đặc biệt (khoảng giữa vĩ tuyến 13 và 14): mặt đông là biển cả mênh mông, ba mặt sau là núi non bao bọc tạo thành hình 18 một chiếc ngai rồng, chính giữa là cánh đồng có hai con sông chính là Côn Giang và Lại Giang uốn khúc và hai đường xuyên Việt bộ và sắt chạy xuyên qua, lại thêm Quốc lộ 19 nối dài từ vùng biển đông lên Cao nguyên Pleiku, Kontum, thông sang hạ Lào rất thuận lợi cho việc giao thông cả về ba mặt thủy, bộ và hàng không. Bình Định quả là miền giao địa, một trung tâm kiến quốc và bảo quốc trọng yếu.

Vị trí địa lý tỉnh Bình Định có tầm chiến lược quan trọng, là vùng xung yếu, là tụ điểm các đường giao thông xuyên quốc gia về thủy bộ, hàng không và đường sắt, nằm ở vị trí trung tâm của miền Trung và cả nước; phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi – nơi có khu công nghiệp Dung Quất; phía Nam giáp tỉnh Phú Yên có nhiều tiềm năng phát triển về du lịch dịch vụ; phía Tây giáp Tây Nguyên-giàu tiềm năng thiên nhiên cần được khai thác. Với vị trí địa lý đặc biệt đó nên Bình Định có một vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của vùng kinh tế miền Trung và Tây Nguyên. Hệ thống đường quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt cùng với đường 19 lên Tây Nguyên và cảng biển nước sâu Quy Nhơn – Nhơn Hội tạo thành huyết mạch cho sự phát triển kinh tế – xã hội của Bình Định, miền Trung và Tây Nguyên, cũng như khu vực tiểu vùng sông Mê Kông bởi trục đường hành lang Đông- Tây: Quy Nhơn – Kon Tum – Aptopo – Bắc Xế – Ubon Rat Cha Tha Ni, trục hành lang này có chiều dài khoảng 770km; mặt khác từ Quy Nhơn lên đường 19 đến Kon Tum và theo đường 14 rẽ về phía Nam đến Stung Ố Treng (Campuchia). Với vị trí như trên rất thuận lợi cho việc thu hút khách để phát triển du lịch văn hóa nói riêng và du lịch Bình Định nói chung.

2.1.3. Điều kiện tự nhiên Khóa luận: Tổng quan về phát triển du lịch tại Bình Định

Về địa hình tự nhiên của tỉnh được chia làm ba dạng chủ yếu: Vùng núi trung bình phía Tây tỉnh chiếm 70% diện tích, vùng đồi tiếp giáp giữa miền núi phía Tây và đồng bằng phía Đông chiếm 10% diện tích, còn lại là vùng đồng bằng ven biển chiếm 20% diện tích của tỉnh. Tỉnh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, mùa mưa trùng với mùa bão nên thường xuyên gây ra bão, lụt. Ngược lại mùa nắng kéo dài gây nên hạn hán ở nhiều nơi. Do đó, đòi hỏi phải nghiên cứu, bố 19 trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi và mùa vụ hợp lý nhằm đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp có hiệu quả, tránh những thiệt hại do thiên nhiên gây ra.

Về sông ngòi ở Bình Định không lớn, độ dốc cao, ngắn, hàm lượng phù sa thấp, tổng trữ lượng nước 5,2 tỷ m3, tiềm năng thủy điện 182,4 triệu KW. Bình Định còn có nhiều ao, hồ, nhất là đầm nước lợ rất thuận lợi cho việc phát triển nuôi trồng thủy sản.

Đất nông nghiệp ở Bình Định chiếm 19,5%, đất lâm nghiệp có rừng chiếm 33,4%; đất chưa sử dụng, sông suối, núi đá chiếm 41%. Nhìn chung, đất có khả năng sản xuất nông nghiệp không nhiều. Diện tích đất trồng, đồi trọc còn lớn, chiếm 44% diện tích tự nhiên

Diện tích rừng tự nhiên của Bình Định hiện có 154,033 ha. Ngoài việc đem lại lợi ích kinh tế về khai thác, chế biến gỗ và phòng hộ, rừng Bình Định còn có trên 40 loài cây có giá trị dược liệu.

Biển Bình Định có nguồn lợi lớn về khai thác hải sản, có nhiều loài đặc sản quý như Yến sào, Cua Huỳnh Đế, Sò Điệp, Cá Ngựa, Rong câu chỉ vàng…

Bình Định là tỉnh không giàu về tài nguyên khoáng sản, nhưng có một số khoáng sản đã được xác định là có giá trị trong ngành công nghiệp như: đá xây dựng các loại, có trữ lượng 700 triệu m3. Riêng đá Granite được thị trường thế giới ưu chuộng, có trữ lượng trên 500 triệu m3. Quặng Titan có trữ lượng trên 1,5 triệu tấn. Toàn tỉnh có 3 điểm suối nước khoáng được đánh giá là đảm bảo các tiêu chuẩn đặc hiệu chữa bệnh. Ngoài ra, cao lanh, đất sét, cát, cát trắng… có trữ lượng khá lớn.

2.1.4. Điều kiện kinh tế – xã hội

Những kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta nói chung và Bình Định nói riêng trong những năm đổi mới được thể hiện ở các khía cạnh khác nhau, trong đó rõ nét và đặc trưng nhất là quán triệt đường lối đổi mới của Đại hội VI, căn cứ vào đặc điểm và thực trạng của nền kinh tế tỉnh nhà, bước vào thời kỳ đổi mới, Bình Định đã xác định nhiệm vụ: tập trung sức người, sức của nhằm thực hiện ba chương trình kinh tế lớn về lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, tạo 36 tiền đề phát triển lực lượng sản xuất, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp. Theo phương hướng đó, nhân dân Bình Định đã nỗ lực phấn đấu, khắc phục những yếu kém, nhất là trong lĩnh vực quản lý kinh tế, tập trung đẩy mạnh sản xuất hàng hóa nông – công nghiệp, phát triển thương mại và du lịch theo hướng toàn diện. Theo phân ngành kinh tế ở nước ta cơ cấu kinh tế được chia làm ba nhóm ngành lớn: Nông nghiệp – Công nghiệp – Dịch vụ. Cơ cấu kinh tế phân theo ngành kinh tế của Bình Định trong những năm qua đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng hàng năm. Khóa luận: Tổng quan về phát triển du lịch tại Bình Định

Đánh giá chung: Giai đoạn 2005 – 2009 tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 15%. Các hoạt động dịch vụ thương mại phát triển nhanh và đa dạng, đáp ứng được yêu cầu của kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập, nhất là hoạt động du lịch và các ngành dịch vụ phục vụ sản xuất đời sống.

Trong những năm qua, đặc biệt từ năm 2005 trở lại đây nhờ có chính sách đổi mới và sự quan tâm, đầu tư đúng mức của các cấp, các ngành liên quan, du lịch Bình Định có sự khởi sắc đáng kể, hoạt động kinh doanh du lịch Bình Định trong giai đoạn 2005 – 2009 đạt tốc độ phát triển khá cao so với giai đoạn trước, là một trong 10 tỉnh đứng đầu cả nước về các chỉ tiêu phát triển du lịch với tốc độ tăng bình quân hàng năm của chỉ tiêu lượt khách là 22,1%/năm, tốc độ tăng trưởng bình quân doanh thu du lịch là 24,0%/năm. Năm 2005 toàn ngành Du lịch Bình Định đã đón được 380.000 lượt khách, phục vụ 646.000 ngày khách, doanh thu đạt 90.000 triệu đồng. Đến năm 2009, toàn ngành đã đón được 776.000 lượt khách du lịch, tăng gấp 2 lần so với năm 2005; doanh thu đạt 214.000 triệu đồng, cũng tăng gấp 2 lần so với năm 2005, ước tính tổng doanh thu trong du lịch đến năm 2010 chiếm tỷ trọng 10,6% trong GDP của cả tỉnh và chiếm tỷ trọng xấp xỉ 3,74% trong GDP của ngành dịch vụ. Riêng ngành dịch vụ khách sạn đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm 2005, giá trị GDP của ngành du lịch Bình Định (bao gồm khách sạn, nhà hàng) đạt 58,3 Tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 7,1% trong GDP của tỉnh và chiếm tỷ trọng 5,3% trong GDP của ngành dịch vụ. Riêng bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế 37 lớn trong năm 2009 đã đẩy kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội khác của nước ta. Ở trong nước, thiên tai dịch bệnh xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước cũng đã gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.

Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo nhạy bén, kịp thời, tập trung và quyết liệt của Đảng, Chỉnh phủ; sự nỗ lực và chủ động khắc phục khó khăn của các Bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và của toàn dân nên kinh tế nước ta nói chung và Bình Định nói riêng đã nhanh chóng thoát khỏi đà suy giảm, càng về cuối năm nâng cao được tốc độ tăng trưởng nên 2009 ngành du lịch tỉnh nhà đón được 776.000 lượt khách, phục vụ 1.480.100 ngày khách, doanh thu đạt 214 tỷ đồng tăng 14,2% so với cùng kỳ năm 2008. Riêng kết quả hoạt động kinh doanh của 10 tháng đầu năm 2010 có tăng, song mức tăng trưởng không cao, nguyên nhân do ảnh hưởng của các yếu tố như: dịch bệnh, thời tiết và hậu quả của khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm chỉ số tiêu dùng giảm xuống.

Mặc dù trong những năm qua du lịch Bình Định đã có tốc độ tăng trưởng khá nhanh song so với sự phát triển du lịch của vùng và cả nước còn rất khiêm tốn, các chỉ tiêu phát triển còn thấp.

2.2. Tiềm năng và sự phát triển du lịch Bình Định

2.2.1. Tài nguyên du lịch nhân văn Khóa luận: Tổng quan về phát triển du lịch tại Bình Định

2.2.1.1. Các di tích lịch sử văn hóa ….

Văn hoá Chăm

Bình Định xưa từng là Cố đô Vijaya (Đồ Bàn) của vương quốc Chămpa xưa, nơi có một lịch sử phát triển lâu đời gắn với nền văn hóa cổ Sa Huỳnh, Bình Định được thừa hưởng rất nhiều di sản quý mà người Chăm xưa để lại như thành quách, đền tháp, công trình điêu khắc, gốm cổ, báu vật…nền văn hóa của một thời vàng son rực rỡ còn hiện diện khá rõ nét, nhất là hệ thống tháp cổ với 8 cụm tháp gồm 14 ngôi tháp độc đáo và bí ẩn. Khác với di tích Chăm ở Quảng Nam rất tập trung, các di tích văn hóa Chăm ở Bình Định lại rải rác khắp nơi. 8 cụm tháp ở nhiều địa phương khác nhau với các tên gọi: tháp Bánh Ít, tháp Dương Long, tháp Đôi, tháp Cánh Tiên, tháp Phú Lốc, tháp Thủ Thiện, tháp Bình Lâm và tháp Hòn Chuông. Hiện nay ở Bình Định có hệ thống các tháp Chàm còn tương đối nguyên vẹn và hết sức phong phú, đa dạng về nét văn hoá Chăm hấp dẫn đối với khách du lịch và chỉ có được ở Bình Định. Những cụm tháp Chàm nổi tiếng là:

Tháp Bánh Ít (Thị Thiện) – Tour d’Argent (tiếng Pháp) được xây dựng vào cuối thể kỷ XI đầu thế kỷ XII tại xã Phước Hiệp, nằm trên một quả đồi cạnh quốc lộ 1A, cách Quy Nhơn 20km. Đây là một quần thể 4 tháp, nhìn từ xa trông giống Bánh Ít. Tháp Bánh Ít là quần thể kiến trúc độc đáo với dáng vẻ đa dạng, trang trí cầu kỳ, tinh xảo, giá trị nghệ thuật cao.

Tháp Cánh Tiên (Tiên Dựt) – Tour de Cuire (tiếng Pháp) được xây dựng từ thế kỷ XII, hiện ở xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn. Tháp mang dáng vẻ độc đáo, thanh thoát với bố cục hợp lý. Tháp cao hơn 20m, có 4 cửa vòm nhọn vút lên mở ra bốn hướng, 4 tầng thu nhỏ về phía trên. Tầng nào cũng có 4 tháp góc 29 trang trí. Mỗi góc có những tầng nhỏ tạo dáng tựa cánh chim đang bay. Đặc biệt, phần phía trong các cột được ốp kín bằng các phiến đá sa thạch màu tím có chạm khắc hoa văn dây xoắn.

Tháp Dương Long (Tháp Ngà) – Tour d’Ivoire (tiếng Pháp) xây dựng vào cuối thế kỷ XII tại xã Tây Bình (Tây Sơn), cách Quy Nhơn khoảng 50km. Đây là khu tháp nổi bật lên không chỉ ở kích thước đồ sộ mà còn ở hình dáng đặc biệt của từng kiến trúc, phần nào để lại dấu ấn nghệ thuật Khmer trong điêu khắc Champa. Gồm 3 tháp, tháp giữa cao 36m, hai tháp hai bên cao 29m. Tháp có kiểu kiến trúc uy nghi, nghệ thuật điêu khắc được chạm trổ tinh vi với những đường nét độc đáo, 21 mang tính hoành tráng lộng lẫy, vừa tinh tế mềm mại với những phù điêu, hoạ tiết trang trí sống động, chân thức mà kỳ bí huyền ảo.

Tháp Đôi (tháp Hưng Thạnh) – Tiếng Pháp gọi là Tour de Khmer được xây dựng vào cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII, nằm ở phường Đống Đa, Quy Nhơn. Tháp gồm hai cánh tháp, tháp chính cao 20m, Tháp phụ cao khoảng 18m, kiến trúc tháp Đôi thuộc vào loại “độc nhất vô nhị” chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ giáo. Cấu trúc tháp gồm hai phần: khối thân vuông và phần đỉnh hình tháp mặt cong. Các góc tháp hiện lên những tượng chim thần Garuda, hai tay nâng cao như muốn nâng đỡ mái tháp.

Ở Bình Định còn có một số tháp có giá trị bao gồm:

Tháp Thủ Thiện (tháp Đồng) – Tour de Bronze, nằm trên xã Bình Nghi – Tây Sơn, cách thành phố Quy Nhơn 35 km về phía Tây Bắc. Tháp có quy mô nhỏ, kiểu dáng trang nhã, thanh thoát, kì bí.

Tháp Phú Lốc (Tháp Vàng) – Tour d’ Ort, ở xã Nhơn Thành – An Nhơn, cách Quy Nhơn 35km về phía Bắc. Tháp có vẻ đẹp ngạo nghễ, đượm buồn, đứng từ chân tháp du khách có thể nhìn khắp bốn phương với những cảnh quan kỹ vĩ xung quanh.

Tháp Bình Lâm nằm trên một gò đất cao thuộc xã Phước Hoà – Tuy Phước, cách Quy Nhơn 22km. Tháp có bình đồ vuông, mỗi cạnh dài khoảng 10m, cao khoảng 20m, được chia làm 3 tầng được trang trí hoa văn tinh tế, kiến trúc hài hoà với những đường nét vừa thanh tú vừa khoẻ khoắn. Khóa luận: Tổng quan về phát triển du lịch tại Bình Định

Quần thể di tích lịch sử thời Tây Sơn – Quang Trung

Với dấu ấn Tây Sơn: Bình Định là quê hương của người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ. Hơn 200 năm đã trôi qua, nhưng dấu ấn về phong trào Tây Sơn Triều đại Tây Sơn vẫn còn in đậm trên nhiều vùng quê và trong lòng mỗi người dân Bình Định.

Nhà Bảo tàng Quang Trung: Bảo tàng Quang Trung được Nhà nước xây dựng năm 1978 kiến trúc theo kiểu cổ, dáng vẻ uy nghiêm, gồm 9 phòng trưng bày các kỷ vật liên quan đến phong trào Tây Sơn và Hoàng đế Quang Trung (1771 – 1789).

Nguyễn Huệ là vị anh hùng dân tộc có công dẹp loạn trong nước và đánh đuổi quân xâm lược. Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung. Hoàng đế Quang Trung thống lĩnh đại quân bằng trận đánh thần tốc, chỉ trong 5 ngày đã đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược, giải phóng Thăng Long (nay là Hà Nội).

Nhà Bảo tàng Quang Trung và tượng đài của ông được dựng năm 1978 ngay trên mảnh đất sinh ra ông thuộc huyện Tây Sơn. Bảo tàng thiết kế quy mô, hoành tráng, theo kiến trúc cổ, uy nghiêm. Năm 1998 khu di tích này đã được tôn tạo lại với quy mô lớn hơn. Nhà Bảo tàng gồm 9 phòng trưng bày các kỷ vật liên quan đến phong trào khởi nghĩa Tây Sơn và Hoàng Đế Quang Trung. Đến Bảo tàng Quang Trung, du khách còn được xem biểu diễn Võ thuật Tây Sơn, trống trận Tây Sơn…

Điện Tây Sơn : Tương truyền, điện Tây Sơn được xây dựng trên nền nhà cũ của 3 thủ lĩnh Tây Sơn, đây cũng chính là Từ đường thờ ông bà Hồ Phi Phúc

Nguyễn Thị Đồng (thân sinh của 3 anh em Nguyễn Nhạc – Nguyễn Huệ – Nguyễn Lữ), cũng là nơi 3 anh em nhà Tây Sơn cất tiếng khóc chào đời và trưởng thành, trở thành những lãnh tụ kiệt xuất của phong trào khởi nghĩa cuối thế kỷ XVIII. Trong khu vườn cũ của gia đình anh em Tây Sơn vẫn còn hai di 31 tích có giá trị là cây me cổ thụ và giếng nước xưa, tương truyền có từ thời ông Hồ Phi Phúc.

Cây me cổ thụ.

Cây đã có hơn 200 năm tuổi, tương truyền cây me do cụ thân sinh của 3 anh em Tây Sơn trồng, nằm ngay cạnh Điện Tây Sơn, cành lá xum xuê che rợp cả một 24 góc vườn, gốc cây có chu vi tới 3,5m. Cây me đã đi vào ký ức dân gian trong một câu ca quen thuộc, trữ tình, đượm màu lịch sử:

“Cây me cũ, bến Trầu xưa

Không nên tình nghĩa thì cũng đón đưa cho trọn niềm”

Giếng nước.

Nằm ở bên phải Điện Tây Sơn, có cùng thời với cây me cổ thụ. Giếng được xây bằng đá ong có đường kính 0,9m; thành giếng cao 0,8m. Đến nay nước giếng vẫn mát trong như ngày xưa.

Thành Hoàng Đế: Thành Hoàng Đế được dựng năm 1775 thuộc xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, cách thành phố Quy Nhơn 27 km về phía Tây Bắc trên cơ sở thành Đồ Bàn được xây dựng từ thế kỷ X. Thành được xây dựng từ thành Vijaya (thành Đồ Bàn) từ thế kỷ X – XIII, thành Đồ Bàn giữ chức năng là một trung tâm tôn giáo trong lịch sử. Kiến trúc thành Hoàng Đế là tổng thể hình chữ nhật, gồm ba vòng thành: thành Ngoại, thành Nội và Tử Cấm Thành. Thành Ngoại có chu vi 7.400 m. Thành Nội gọi là Hoàng Thành có hình chữ nhật với chiều dài 430m, chiều rộng 370m. Tử Cấm Thành nằm bên trong thành Nội có chiều dài 174m, chiều rộng 126m.

Căn cứ địa nghĩa quân Tây Sơn: Điểm di tích này nằm ở xã Vĩnh Sơn – huyện Vĩnh Thạnh và đã được Bộ Văn hoá – Thông tin xếp hạng di tích lịch sử.

Ngoài các di tích trên, các di tích khác như : di tích Gò Đá đen, Di tích Bến Trường Trầu, Bãi Nhạn – núi Tam Tòa,… cũng là những di tích lịch sử gắn liền với phong trào khởi nghĩa Tây Sơn, gắn liền với niềm tự hào trong mỗi người dân Bình Định.

Các di tích lịch sử cách mạng, di tích danh nhân Khóa luận: Tổng quan về phát triển du lịch tại Bình Định

Đã từ lâu địa danh Bình Định luôn gợi lên tâm trí mỗi người dân Việt Nam niềm xúc cảm sâu sắc về một vùng đất với hồn thiêng sông núi hun đúc nên khí chất anh hùng của những người con ưu tú làm rạng danh non sông đất Việt , những người anh hùng áo vải, cờ đào, đã viết nên những trang chói lọi trong pho sử vàng của dân tộc.

Đất nước bước vào thời kỳ lịch sử Cận đại với máu và nước mắt. Người dân Bình Định cũng chịu bao cảnh tủi hờn dưới ách cai trị của thực dân Pháp. Từ trong đau thương và căm uất, vùng đất giàu truyền thống thượng võ này đã sản sinh ra biết bao người con ưu tú, đem tài trí xả thân vì nước mà tiêu biểu là những anh hùng như Mai Xuân Thưởng, Tăng Bạt Hổ… Nơi đây cũng đã từng một thời là trung tâm của phong trào chống thuế ở Trung kì.

Cách mạng tháng Tám thành công, rồi sau đó là cuộc kháng chiến chín năm thần thánh, Bình Định trở thành một hậu phương lớn và luôn là nỗi kinh hoàng của các đơn vị viễn chinh Pháp mỗi khi chúng dám đặt chân đến. Chưa được hưởng trọn niềm vui của kháng chiến thắng lợi, Bình Định lại ngút trời khói lửa. Do có vị trí chiến lược quan trọng và nhân dân có tinh thần đấu tranh bất khuất, Bình Định đã nhiều lần bị chà xát bằng những cuộc hành binh tàn bạo để lại nhiều di tích diễn ra vụ thảm xác đẫm máu như: ở Nho Lâm (Phước Hưng -Tuy Phước), Gò Dài (Tây Vinh – Tây Sơn), Bình An, Vinh Quang, Tân Giảng, chiến thắng lịch sử Đèo Nhông (Phù Mỹ), Phế tích thành Chánh Mẫn (Cát Nhơn, Phù Cát), …

Cùng với truyền thống kiên cường bất khuất, anh hùng, nghĩa hiệp, Bình Định còn là nơi sản sinh ra những con người kiệt xuất, những danh nhân văn hoá lừng lẫy tiếng tăm như Đào Duy Từ, nghệ sĩ, nhà soạn tuồng Đào Tấn …là nơi nuôi dưỡng tài năng và tạo nguồn xúc cảm cho những thi nhân mà tên tuổi và tác phẩm của họ đã trở thành những mốc son trong lịch sử thi ca như Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Yến Lan, Chế Lan Viên…Nước non Bình Định đã dung dưỡng tâm hồn các danh nhân và những gì gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của họ đã trở thành di tích lịch sử

2.2.1.2. Các di tích lịch sử tôn giáo

Thập Tháp Di Đà Tự (chùa Thập Tháp): Được xây dựng vào thế kỷ XVII trên một gò đồi tương đối rộng hình mai rùa có chu vi gần 1km. Ngôi chùa nằm ở Đông Bắc thành Đồ Bàn thuộc địa phận thôn Vạn Thuận, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn. Trải qua lịch sử trên 300 năm tồn tại, từ một thảo am đơn sơ, Thập Tháp Di Đà Tự ngày nay đã trở thành một công trình kiến trúc Phật Giáo có quy mô hoành tráng. Chùa được bao quanh bằng lớp tường thành, cổng tam quan có hai trụ cao và to. Bên trong kiến trúc kiểu chữ khẩu gồm 4 khu vực: khu chính điện, khu phượng trượng, khu Tây đường và khu Đông đường. Hiện chùa vẫn còn lưu trữ 22 nhiều di vật quý như bộ tượng Thập bát La Hán, Cửu thiên Huyền nữ, Thập điện Diêm vương, đôi câu liễn ghi bài ngự đề của chúa Nguyễn Phúc Chu cao 2,5m cùng nhiều bản kinh Phật được khắc trên gỗ và in giấy.

Chùa Long Khánh: Nằm ở thành phố Qui Nhơn được xây dựng vào khoảng năm 1715. Chùa Long Khánh là một trong những trung tâm phật giáo lớn của Bình Định, là nơi sinh hoạt tôn giáo của tăng ni phật tử và là điểm tham quan du lịch của du khách gần xa.

Chùa Linh Phong: Được xây dựng năm 1702 trên lưng chừng một ngọn đồi nằm ở phía Nam Núi Bà, thuộc xã Cát Tiến, huyện Phù Cát, cách thành phố Qui Nhơn khoảng 30km về hướng Bắc. Chùa có lưng dựa vào núi cao, mặt trông ra biển, xung quanh có sông nước uốn lượn, phong cảnh thanh tao, kỳ vĩ, không gian tĩnh mịch với tên ban đầu là Dũng Tuyền, đến năm 1733 chúa Nguyễn Phúc Chu xuống chiếu cho xây lại chùa và đổi tên là Linh Phong, ban cho nhà sư trụ trì (Ông Núi) pháp hiệu “Tinh giác Thiện Trì Đại lão Thiền Sư”.

Chùa Sơn Long (chùa Hàm Long): Chùa Sơn Long nguyên là Giang Long Thiền Thất, tọa lạc trên sườn núi Trường Úc. Sau đó, chùa được tái thiết trên một khu đất hình thang sát chân núi, cách cầu Trường Úc khoảng 700m về hướng đông, nay thuộc phường Nhơn Bình, thành phố Quy Nhơn.

Chùa Nhạn Sơn: Chùa Nhạn Sơn ở xã Nhơn Hậu (An Nhơn) cách Qui Nhơn khoảng 25km về hướng Tây Bắc, lúc đầu chỉ là một ngôi chùa nhỏ do dân làng địa phương góp công sức xây lên để thờ ông Đỏ, ông Đen. Đến thế kỷ XVI, Hòa thượng Thích Chí Mẫn đã đại trùng tu lại ngôi chùa và đặt tên là chùa Nhạn Sơn (do phía trước chùa có cánh đồng giống như hình con chim Nhạn, phía sau chùa là ngọn núi).

Nhà thờ Chánh Tòa: Nằm giữa trung tâm thành phố Qui Nhơn trên đường Trần Hưng Đạo (đối diện đường Lê Thánh Tôn nối ra biển), nhà thờ Chánh Tòa được xây dựng vào năm 1938 theo lối kiến trúc Pháp kết hợp với Gô tích Châu Âu. Ngày nay, ngôi Giáo đường này không chỉ là công trình tôn giáo gắn liền với đời sống tâm linh của và con giáo dân tại Bình Định, mà còn là một địa điểm hấp dẫn nhiều du khách.

2.2.1.3. Các lễ hội. Khóa luận: Tổng quan về phát triển du lịch tại Bình Định

Bình Định là nơi có các dân tộc thiểu số sinh sống như Bana, Chăm, Hrê.

Hầu hết các dân tộc này đều có những sinh hoạt văn hoá dân tộc của mình như lễ hội và ca múa nhạc. Tuy ở Bình Định số lượng các dân tộc này chỉ chiếm một phần ít ỏi, song có thể phục hồi phát triển các hình thức lễ hội như những sản phẩm du lịch đặc sắc của địa phương.

Đối với người Việt, ngoài các lễ hội chung của cả nước như tết cổ truyền, các lễ hội truyền thống trong năm, vùng Bình Định còn có một số lễ hội quan trọng

Hiện nay toàn tỉnh có 99 lễ hội, trong đó có 71 lễ hội dân gian, 5 lễ hội tôn giáo, 8 lễ hội lịch sử cách mạng và 15 lễ hội khác.

Lễ hội chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa: Là một trong những lễ hội lớn nhất ở Bình Định tổ chức hàng năm vào mùng 5 tháng Giêng âm lịch tại thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn. Chính hội là mùng 5 tết nhưng thường được tổ chức từ ngày 4 và kéo dài vài ngày sau. Đây là lễ hội tưởng nhớ các thủ lĩnh Tây Sơn, đặc biệt là vua Quang Trung và kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa. Ngoài những lễ nghi truyền thống, lễ hội có nhiều hoạt động văn hóa dân gian, phần chính là các cuộc thi võ thể hiện tinh thần thượng võ ủa đất Bình Định và trống trận Tây Sơn…

Lễ hội chiến thắng Đồi Mười: ở Xã Hoài Châu Bắc, huyện Hoài Nhơn, được tổ chức để kỷ niệm chiến thắng Đồi Mười của quân dân Bình Định trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ vào mùng 5 tháng Giêng âm lịch hàng năm.

Lễ hội Đèo Nhông – Dương Liễu: Tổ chức vào mùng 5 tháng giêng Âm lịch hàng năm tại Đèo Nhông nằm trên trục đường quốc lộ 1 thuộc xã Mỹ Phong và Mỹ 27 Trinh, huyện Phù Mỹ để kỷ niệm chiến thắng Đèo Nhông – Dương Liễu (năm 1965) vang dội của lực lượng vũ trang quân khu V và bộ đội địa phương Bình Định.

Lễ hội Cầu Ngư: Là một hình thức sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng lâu đời của dân biển Bình Định, được tổ chức thường xuyên vào mùa xuân hàng năm để cúng cá Ông (Cá Voi) và cầu được mùa hải sản (theo truyền thuyết cá Ông thường giúp thuyền và người mỗi khi gặp sóng to gió lớn). Ngoài nghi thức cúng lễ, người dự lễ còn được nghe hát Bả Trạo, hát Tuồng, tham gia nhiều trò chơi dân gian…

Hội Xuân chợ Gò: Hội xuân có nhiều tiết mục đặc sắc như hát Bài chòi, biểu diễn võ thuật, thi múa lân, bán các loại trái cây, đồ chơi trẻ em dân dã… Hội mang ý nghĩa cầu tài lộc được tổ chức vào mùng 1 Tết âm lịch cổ truyền tại thôn Phong Thạch, thị trấn Tuy Phước.

Lễ hội làng rèn Phương Danh (Thị trấn Đập Đá – An Nhơn): Là lễ hội truyền thống nhằm tưởng nhớ đến vị Tổ sư nghề rèn Đào Dã Tượng, được tổ chức vào 12 – 2 âm lịch hàng năm. Ngoài các nghi thức lễ chính, lễ hội còn có các tiết mục chọi gà, biểu diễn võ thuật và các trò chơi dân gian. Khóa luận: Tổng quan về phát triển du lịch tại Bình Định

Lễ hội văn hoá các dân tộc miền núi và vùng biển: được tổ chức 2 năm một lần với sự tham gia của các dân tộc miền núi và vùng biển tỉnh Bình Định.

Lễ hội có nhiều tiết mục văn hoá đặc sắc như múa cồng chiêng, hát bả trạo, đua thuyền, bắn tên, phóng lao…

Lễ hội Vía Bà ở Nhơn Phong: Hằng năm, vào ngày 17.1 (âm lịch), tại thôn Liêm Định, xã Nhơn Phong (An Nhơn) diễn ra Lễ hội Vía Bà, nhằm tưởng nhớ công ơn đức độ bà Đỗ Thị Tân.

Lễ hội làng đúc đồng Bằng Châu (thị trấn Đập Đá, An Nhơn) được tổ chức ngày 17/3 âm lịch..

Lễ hội Chùa Bà (Phước Quang, Tuy Phước) được tổ chức ngày 2/2 âm lịch.

Lễ hội đỗ giàn: Diễn ra từ ngày rằm đến 16 và 17 tháng 7 âm lịch (4 năm tổ chức một lần) tại làng An Thái xã Nhơn Phúc (An Nhơn), nơi đây từng nổi tiếng là cái nôi võ Bình Định.

Lễ hội cầu mưa người chăm – Vân Canh: Lễ hội cầu mưa người Chăm hay lễ mừng mưa tiếng Chăm oai lơ cau chăhơzan là một lễ hội của người đồng bào Chăm H’roi, Vân Canh, Bình Định.

Lễ cúng cá ông: Ở các xã ven biển tỉnh Bình Đinh hàng năm thường mở hội cúng Cá Ông vào ngày 15 tháng 3 âm lịch tại các đền thờ cá Ông. Theo truyền thuyết, Cá Ông thường cứu giúp thuyền và người bị nạn trên biển. Cũng với các nghi lễ truyền thống, dịp này còn có múa hát bả trạo, hát bội.

2.2.1.4. Các lảng nghề truyền thống.

Bình Định là một trong những tỉnh có nhiều làng nghề đa dạng và phong phú. Toàn tỉnh có 54 làng nghề truyền thống trong đó có 38 làng nghề truyền thống đã được đưa vào danh mục quy hoạch phát triển đến năm 2020 và 5 làng nghề được tỉnh chú trọng phát triển du lịch; đó là làng Rượu Bàu Đá ở xã Nhơn Lộc, huyện An Nhơn, làng Tiện gỗ mỹ nghệ Nhạn Tháp ở xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, làng rèn Phương Danh ở thị trấn Đập Đá, huyện An Nhơn, làng nón ngựa Phú Gia ở xã Cát Tường, huyện Phù Cát và làng dệt thổ cẩm Hà Ri ở xã Vĩnh Hiệp, huyện Vĩnh Thạnh.

Vùng Nhơn Hậu (An Nhơn) nằm trong khu vực của quần thể di tích Chăm là vùng tập trung nhiều làng nghề nhất. Trong đó phải kể đến làng nghề nổi tiếng nhất là làm đồ gỗ thủ công mỹ nghệ (tiện, chạm khắc gỗ)và nghề làm Rượu Bầu Đá là một đặc sản nổi tiếng của tỉnh Bình Định. Rượu Bầu Đá được các gia đình trong vùng chưng cất từ gạo như một nghề gia truyền, chính bàu nước trong vùng, nơi hội tụ của những mạch nước ngầm chảy làm nên bàu rượu ngon lành, ngoài ra còn có 33 thêm nghề làm gốm gia dụng, có thể qui hoạch làm nơi sản xuất những sản phẩm lưu niệm du lịch hoặc làm nơi tham quan cho du khách.

Xã Cát Tường, huyện Phù Cát có nghề làm nón – trong đó sản phẩm Nón Ngựa Gò Găng rất độc đáo và nổi tiếng xa gần.

Làng dệt Thổ Cẩm Hà Ri cách Qui Nhơn khoảng 80km, Hà Ri là nơi tập trung nhiều đồng bào dân tộc Ba Na nhất Bình Định nên vẫn còn lưu giữ được những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc, đặc biệt là nghề dệt thổ cẩm. Việc dệt được tấm vải thổ cẩm là cả một quá trình. Váy, áo… dệt mất 30 -35 ngày có thể còn lâu hơn tùy thuộc vào số lượng hoa văn trên vải nhiều hay ít và người dệt có khéo tay hay không.

Làng Gốm Vân Sơn: xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn cách thành phố Qui Nhơn 30km. Đất làm gốm là đất sét trắng ngà không lẫn sạn mà chỉ vùng này mới có. Gốm Vân Sơn có đủ loại: chum, vò, ang, chậu, thạp, bộng giếng, ấm…

2.2.1.5. Văn hóa ẩm thực. Khóa luận: Tổng quan về phát triển du lịch tại Bình Định

Các đặc sản, ẩm thực truyền thống.

Bình Định là quê hương của nhiều sản vật đặc sắc từ sản vật biển đến sản vật rừng như: Yến sào; Dừa; Rượu Bàu Đá; Nem chợ Huyện; Bún cá Quy Nhơn; Bánh tráng; Bún song thằn; Bánh ít lá gai…

Yến sào Bình Định là loại đặc sản quý hiếm, đặc biệt là yến sào huyết được du khách trong và ngoài nước ưa dùng để bổ dưỡng sức lực.

Dừa Bình Định vốn nổi tiếng từ xưa và nhiều loại hoa quả khác nhau rất phong phú.

  • Rượu Bàu Đá được chưng cất ở vùng An Nhơn có hương vị đặc thù. Dùng món nem chợ Huyện với rượu Bàu Đá là nét ẩm thực đặc sắc của quê hương Bình Định.
  • Nem chợ Huyện: miếng nem thơm ngon, chua, cay, ngọt dai và giòn đủ vị. Loại nem này được chế biến quanh vùng chợ huyện Tuy Phước nên có tên là nem chợ Huyện.
  • Bánh Tráng là món không thể thiếu được trong các bữa ăn thường đến các buổi tiệc, liên hoan, cưới hỏi… là món khai vị đặc biệt của ẩm thực Bình Định. Tương truyền Bánh Tráng là món lương khô chiến lược được ra đời cùng với bước 34 chân thần tốc của đội quân Tây Sơn đánh đuổi ngoại xâm. Bánh Tráng có nhiều loại như Bánh Tráng gạo, Bánh Tráng mè… và nổi bật là Bánh Tráng nước dừa ở vùng Hoài Nhơn – Bình Định.
  • Bún Song Thằng là loại bún có giá trị dinh dưỡng cao, làm bằng Đậu Xanh có hương vị thơm ngon đặc trưng, là sản phẩm của vùng An Thái (Nhơn Phúc – An Nhơn). Khi làm Bún, thường bắt Bún thành từng đôi một nên gọi là Bún Song Thằng – cũng thường được gọi là Bún “Sông Thần” vì tương truyền rằng vua triều Nguyễn triệu thợ ra kinh đô Huế để chế biến nhưng không làm được vì không có nước sông Côn – Bình Định.
  • Bánh ít Lá Gai được làm bằng bột nếp tươi, giã nhuyễn với lá gai, đường cát, nhân bánh làm bằng đậu xanh hoặc cơm dừa. Bánh Ít đậm đà hương vị quê hương gắn liền với câu ca:

“Muốn ăn Bánh Ít Lá Gai

Lấy chồng Bình Định cho dài đường đi”.

Đến Bình Định, du khách còn được thưởng thức các món hải sản như Tôm Hùm, Tôm Sú, Cua Huỳnh Đế; Mực Ống, Cá Chua, Cá Ngừ Đại Dương…Ngoài ra còn có nhiều món ngon khác như: Bún Tôm Châu Trúc, Bánh Bò, Bánh Canh, Bánh Hồng, Bánh In, Bánh Xèo…

Trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế của Bình Định đã dần đi vào ổn định, công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, nền kinh tế nhiều thành phần phát triển với tốc độ nhanh.

2.2.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên. Khóa luận: Tổng quan về phát triển du lịch tại Bình Định

Trong các loại TNDL của tỉnh hiện nay, ưu thế nổi trội có thể nói đến là vùng biển đảo.Là 1 trong số 28 tỉnh thành của cả nước tiếp giáp biển, Bình Định có 134 km bờ biển,được thiên nhiên ban tặng nhiều thắng cảnh và bãi biển đẹp. Hiện nay, tiềm năng du lịch biển ở Bình Định mới chỉ bắt đầu được khai thác, sự tác động của con người vào cảnhquan tự nhiên chưa nhiều, nên môi trường và cảnh quan tự nhiên vẫn còn trong lành,hoang sơ. Tận dụng tốt lợi thế này, Bình Định có thể tạo nên một thương hiệu du lịchđộc đáo. Sự đa dạng của nguồn TNDL tự nhiên được thể hiện cụ thể dưới đây:

Các bãi biển: Với 134 km đường bờ biển, ven bờ biển Bình Định hiện có trên 10 bãitắm với qui mô khác nhau, trong đó có những bãi tắm lớn mà chiều dài từ 2-5km vànhiều bãi tắm nhỏ có chiều dài dưới 1km, các bãi biển đều khá bằng phẳng, cát trắng,nước trong xanh, tương đối lặng sóng, ngập tràn ánh nắng, không khí trong lành và cócảnh quan đẹp đủ điều kiện thuận lợi để khai thác phục vụ các hoạt động du lịch biển(tắm biển, du lịch sinh thái biển, vui chơi, giải trí, nghỉ dưỡng…) như: Lộ Diêu, TânPhụng, Cát Tiến, Tân Thanh, Vĩnh Hội, Trung Lương, Nhơn Lý, Hải Giang, Quy Nhơn,Hoàng Hậu, Quy Hòa, Bãi Dài, Bãi Xép. Những bãi tắm đẹp phân bố nhiều nhất là ở đầu tư xâydựng thành các cụm, tuyến du lịch biển tập trung, liên hoàn, có sức cạnh tranh cao trong vùng, cả nước, có thể khai thác nhiều loại hình du lịch hấp dẫn.

Các vịnh, đầm: Do có điều kiện tự nhiên thuận lợi nên các vịnh và đầm ven biển Bình Định cũng có tính hấp dẫn cao trong việc tạo ra SPDL biển (tham quan, nghỉ dưỡng,sinh thái). Các vịnh và đầm có giá trị khai thác du lịch biển ở Bình Định như: Vịnh Quy Nhơn, đầm Thị Nại, đầm Trà Ổ, đầm Đề Gi.

Hệ thống đảo, bán đảo, đèo, mũi đá: Cùng với bờ biển dài, vùng biển Bình Định còncó hệ thống đảo, bán đảo, mũi đá với nhiều hình thù và cảnh quan đặc thù. Dọc ven bờ tỉnh Bình Định tồn tại 32 hải đảo lớn nhỏ, trong đó có giá trị cho khai thác du lịch là đảo Cù Lao Xanh, đảo Hòn Khô, đảo Hòn Đất, đảo Hòn Tranh và đảo Hòn Rùa. Vùng ven biển Bình Định có bán đảo Phương Mai – Núi Bà (Phù Mỹ – Quy Nhơn) đã được quy hoạch thành khu du lịch quốc gia, mũi đá từ đèo Bình Đê (giáp ranh với bãi biển Sa Huỳnh của tỉnh Quảng Ngãi), mũi Rồng – Tân Phụng (huyện Phù Mỹ), Ghềnh Ráng, đèo Cù Mông (TP.Quy Nhơn). Các đảo, bán đảo, mũi đá tạo ra những cảnh quan đẹp, có thể phục vụ ngắm cảnh, vui chơi giải trí…

Khí hậu: Bình Định nằm trong vùng Duyên hải Nam Trung Bộ thuộc khu vực gió mùa , với vị trí là điểm giao nhau giữa khí hậu miền Bắc và khí hậu miền Namnhưng tính hai mùa tương đối rõ nét. Sự tác động mang tính mùa của yếu tố khí hậu -thời tiết đối với hoạt động du lịch nói chung, du lịch biển đảo nói riêng ở Bình Định là không quá lớn (có thể khai thác từ tháng 3 đến tháng 10). Tóm lại, khí hậu – thời tiết trong tỉnh khá thuận lợi cho hoạt động du lịch, nhất là khai thác các SPDL biển.

Tài nguyên sinh vật : Tài nguyên sinh vật phục vụ phát triển SPDL biển đảo của Bình Định khá đa dạng với các loài động vật nổi, động vật đáy và một số hải sản quí khác cả ở khu hệ sinh vật các lưu vực nước nội địa, ven biển và vùng biển (chình Mun, cá ngừ, cá mú, tôm sú, tôm hùm, mực ống, mực lá, cua huỳnh đế, ghẹ, các loại ốc…). Trên một số đảo còn có tổ yến. Ngoài ra, Bình Định còn có hệ sinh thái rừng ngập mặn ở các đầm (rừng ngập mặn – Cồn Chim) và các rạn san hô ở các đảo ven bờ (Hòn Khô, Kỳ Co…)Chúng tạo nên một bức tranh nhiều màu sắc sinh động và hài hòa.Tính đa dạng của tài nguyên sinh vật tạo ra tính đa dạng sinh học, có thể khai thác phát triển du lịch sinh thái, du lịch tham quan, thưởng thức ẩm thực biển.

Cảnh quan thiên nhiên: Bình Định với một bên là núi non trùng điệp, một bên là biển rộng bao la. Gạch nối giữa núi và biển là hệ thống đầm nước mặn, những dải đồng bằng trú phú bát ngát màu xanh của cây lúa, hoa màu và những rặng dừa ven biển. Do sự giao hòa của cảnh quan sơn thủy hữu tình cùng với sự tô điểm của các công trình kiến trúc nghệ thuật đã tạo ra cho mảnh đất này một vẻ nên thơ, nhất là thành phố biển Quy Nhơn. Đây là yếu tố thuận lợi trong việc khai thác thế mạnh của nguồn TNDL cho mục đích phát triển các loại hình du lịch tham quan, nghỉ dưỡng, sinh thái biển. Khóa luận: Tổng quan về phát triển du lịch tại Bình Định

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY

===>>> Khóa luận: Thực trạng giá trị văn hóa lễ hội ở Bình Định

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464