Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Khóa luận: Thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Tình hình giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội
TP Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước, thuộc vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng Bắc Bộ. Với vị trí và tầm quan trọng của mình, TP Hà Nội luôn giành được sự quan tâm của Nhà nước trên nhiều lĩnh vực, trong đó có tăng trưởng kinh tế. Trong những năm gần đây, nền kinh tế TP Hà Nội đã những bước phát triển mới, được đánh giá là một trong những vùng kinh tế có môi trường đầu tư hấp dẫn nhất cả nước. Vì vậy, TP Hà Nội luôn thu hút, tập trung đông đảo nhân dân trong cả nước đến lao động và làm việc.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay, Hà Nội là thành phố có nhiều công ty, doanh nghiệp, xí nghiệp được thành lập và hoạt động. Trong năm 2023 (tính đến ngày 31/04/2023), TP Hà Nội đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho 9.995 doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 89.273 (so với năm 2022 số lượng doanh nghiệp tăng 7,3% về và số vốn đăng ký giảm 30%), có 4.063 doanh nghiệp hoạt động trở lại và hiện nay, tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập và hoạt động trên địa bàn TP Hà Nội lên đến 359.351 doanh nghiệp [25]. Số lượng công ty, doanh nghiệp lớn như vậy đồng nghĩa với lực lượng lao động cũng lớn, đồng thời với tốc độ tăng trưởng ngày càng cao của TP Hà Nội sẽ dẫn đến tăng sức ép việc làm và việc xảy ra tranh chấp lao động là không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, mà số lượng tranh chấp lao động diễn ra trên địa bàn TP Hà Nội tương đối nhiều và có xu hướng gia tăng đặc biệt là vào năm 2022, sau đại dịch Covid-19.
Thứ nhất, về số lượng tranh chấp lao động đã thụ lý và giải quyết tại Toà án nhân dân TP Hà Nội.
Theo số liệu thống kê của Toà án nhân dân TP Hà Nội, trong 05 năm từ năm 2019 đến năm 2023 Toà án nhân dân hai cấp của TP Hà Nội đã thụ lý được 1.076 vụ tranh chấp lao động, số liệu cụ thể của từng năm như sau: Khóa luận: Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.
Bảng 2.2.1. Tổng số vụ tranh chấp lao động Toà án nhân dân hai cấp Thành phố Hà Nội đã thụ lý từ năm 2019 đến năm 2023
Năm | Tổng số vụ tranh chấp lao động đã thụ lý | Tổng | ||
TAND cấp huyện | TAND TP Hà Nội | |||
Sơ thẩm | Phúc thẩm | |||
2019 | 130 | 6 | 32 | 168 |
2020 | 142 | 4 | 21 | 167 |
2021 | 82 | 5 | 49 | 136 |
2022 | 353 | 16 | 16 | 385 |
2023 | 173 | 14 | 33 | 220 |
Tổng số | 880 | 196 | 1076 |
(Nguồn: Toà án nhân dân TP Hà Nội).
Qua bảng 2.2.1, nhận thấy trong 05 năm từ năm 2019 đến năm 2023, Toà án nhân dân cấp huyện của TP Hà Nội thụ lý 880 vụ tranh chấp lao động và Toà án nhân dân TP Hà Nội thụ lý 196 vụ tranh chấp lao động. Cụ thể:
Năm 2019, Toà án nhân dân hai cấp TP Hà Nội thụ lý 168 vụ tranh chấp lao động. Năm 2020, Toà án nhân dân hai cấp TP Hà Nội thụ lý 167 vụ tranh chấp lao động, giảm 01 vụ so với năm 2019. Năm 2021, Toà án nhân dân hai cấp TP Hà Nội thụ lý 136 vụ tranh chấp lao động, giảm 31 vụ so với năm 2020. Nhưng đến năm 2022 và 2023 số lượng vụ tranh chấp lao động thụ lý có xu hướng tăng lên, lần lượt là 385 vụ và 220 vụ. Đặc biệt trong năm 2022 số lượng vụ tranh chấp lao động thụ lý có biến đột mạnh, tăng đột ngột. Cụ thể, năm 2022 số lượng vụ tranh chấp lao động mà Toà án nhân dân hai cấp TP Hà Nội thụ lý tăng lên 249 vụ so với năm 2021, và số lượng vụ tranh chấp lao động thụ lý của năm 2022 bằng tổng số vụ tranh chấp lao động thụ lý của 03 năm 2019, 2020, 2021. Sở dĩ có sự tăng đột ngột như vậy bởi đây là năm sau đại dịch Covid-19, tình hình kinh tế của các công ty, doanh nghiệp trở lên khó khăn, dẫn đến cắt giảm nhân sự, lương thưởng của nhân viên, do đó mà tranh chấp lao động xảy ra giữa Người lao động và Người sử dụng lao động xảy ra càng nhiều. Theo đó, nếu lấy năm 2019 làm gốc thì năm 2020, số vụ tranh chấp lao động Toà án nhân dân hai cấp TP Hà Nội thụ lý giảm khoảng 1%, năm 2021 giảm khoảng 19%, năm 2022 tăng lên khoảng 129,2% và năm 2023 tăng lên khoảng 32,5%. Có thể thấy, số lượng các vụ tranh chấp lao động đã thụ lý tại Toà án nhân dân hai cấp TP Hà Nội (TAND cấp huyện và Toà án nhân dân TP Hà Nội) có xu hướng tăng lên trong 02 năm liên tiếp là 2022 và 2023. Khóa luận: Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.
Như vậy, số vụ tranh chấp lao động Toà án nhân dân TP Hà Nội thụ lý trong 05 năm qua là 45 vụ tranh chấp lao động sơ thẩm và 151 vụ tranh chấp lao động phúc thẩm, chiếm tỉ lệ khoảng 18,2% so với tổng số vụ án tranh chấp lao động mà Toà án nhân dân hai cấp TP Hà Nội thụ lý.
Theo thống kê của Toà án nhân dân Hà Nội, từ năm 2019 đến năm 2023, Toà án nhân dân TP Hà Nội đã thụ lý số vụ tranh chấp lao động sơ thẩm và phúc thẩm như sau:
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
Bảng 2.2.2. Tổng số vụ tranh chấp lao động Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội đã thụ lý từ năm 2019 đến năm 2023
Năm |
Tổng số vụ tranh chấp lao động đã thụ lý |
||||||||
Sơ thẩm | Phúc thẩm | ||||||||
Cũ còn lại | Mới thụ lý | Chuyển hồ sơ | Tổng | Cũ còn lại | Mới thụ lý | Tổng | |||
Kháng cáo | Kháng nghị | Kháng cáo | Kháng nghị | ||||||
2019 | 4 | 2 | 0 | 6 | 4 | 0 | 28 | 0 | 32 |
2020 | 2 | 2 | 0 | 4 | 10 | 0 | 11 | 0 | 21 |
2021 | 0 | 6 | 1 | 5 | 0 | 0 | 49 | 0 | 49 |
2022 | 3 | 13 | 0 | 16 | 3 | 0 | 13 | 0 | 16 |
2023 | 13 | 1 | 0 | 14 | 0 | 0 | 33 | 0 | 33 |
Tổng số | 45 | 151 | 196 |
(Nguồn: Toà án nhân dân TP Hà Nội).
Từ bảng số liệu trên có thể thấy, từ năm 2019 đến năm 2023 Toà án nhân dân TP Hà Nội đã thụ lý 45 vụ tranh chấp lao động sơ thẩm, chiếm tỷ lệ khoảng 23%. Số vụ tranh chấp lao động sơ thẩm có xu hướng tăng theo từng năm, trong đó năm 2022, 2023 là hai năm có số vụ tranh chấp lao động sơ thẩm được thụ lý nhiều nhất lần lượt là 16 và 14 vụ.
Năm 2019, Toà án nhân dân TP Hà Nội thụ lý 6 vụ tranh chấp lao động sơ thẩm; năm 2020, thụ lý 4 vụ tranh chấp lao động sơ thẩm, giảm 2 vụ so với năm 2019; năm 2021, thụ lý 5 vụ tranh chấp lao động sơ thẩm, tăng 01 vụ so với năm 2020. Tuy nhiên, đến năm 2022 số vụ tranh chấp lao động sơ thẩm lại tăng mạnh gấp hơn 3 lần so với năm 2021, cụ thể tăng lên 11 vụ và năm 2023 lại giảm 02 vụ so với năm 2022. Theo đó, nếu lấy năm 2019 làm gốc (100%) thì số vụ tranh chấp lao động sơ thẩm Toà án nhân dân TP Hà Nội thụ lý trong năm 2020, 2021 giảm lần lượt là 33,3% và 16,6%; trong năm 2022, 2023 tăng lần lượt là 166,6% và 133,3%. Khóa luận: Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.
Bên cạnh đó, Toà án nhân dân Hà Nội đã thụ lý 151 vụ tranh chấp lao động phúc thẩm, chiếm tỷ lệ khoảng 77%. Cụ thể, trong năm 2019 Toà án nhân dân TP Hà Nội đã thụ lý 32 vụ tranh chấp lao động phúc thẩm. Năm 2020, Toà án nhân dân TP Hà Nội đã thụ lý 21 vụ tranh chấp lao động phúc thẩm, giảm 11 vụ so với năm 2019. Năm 2021, Toà án nhân dân TP Hà Nội đã thụ lý 49 vụ tranh chấp lao động phúc thẩm, tăng 28 vụ so với năm 2020 và đây cũng là năm có số vụ tranh chấp lao động phúc thẩm nhiều nhất. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc vụ tranh chấp lao động của năm 2021 tăng mạnh là do có nhiều vụ tranh chấp lao động được giải quyết sơ thẩm bị kháng cáo. Tuy nhiên, năm 2022, số vụ tranh chấp lao động phúc thẩm lại có xu hướng giảm, so với năm 2021 giảm 33 vụ. Năm 2023, số vụ tranh chấp lao động phúc thẩm tăng lên 17 vụ. Do đó, nếu lấy năm 2019 làm gốc (100%) thì số vụ tranh chấp lao động phúc thẩm được Toà án nhân dân TP Hà Nội thụ lý năm 2020 giảm 60,7%, năm 2021 tăng 75%, năm 2022 giảm 53,6% và năm 2023 tăng 17,9%. Số vụ tranh chấp lao động phúc thẩm không tăng đều hoặc giảm đều theo từng năm mà có năm tăng, có năm lại giảm tuỳ thuộc vào chất lượng giải quyết sơ thẩm các vụ tranh chấp lao động. Nếu chất lượng giải quyết sơ thẩm các vụ tranh chấp lao động được tăng lên thì số vụ tranh chấp lao động phúc thẩm được thụ lý sẽ giảm đi rõ rệt và ngược lại.
Theo thống kê của Toà án nhân dân TP Hà Nội trong 05 năm từ năm 2019 đến năm 2023 tổng vụ tranh chấp lao động đã thụ lý và giải quyết cụ thể như sau:
Bảng 2.2.3. Tổng số vụ tranh chấp lao động Toà án nhân dân Thành phố Nội đã thụ lý và giải quyết từ năm 2019 đến năm 2023
Năm | Tổng số vụ tranh chấp lao động đã thụ lý và giải quyết | |||||||
Sơ thẩm | Phúc thẩm | |||||||
Thụ lý | Giải quyết | Còn lại | Thụ lý | Giải quyết | Còn lại | |||
Đình chỉ | Xét xử | Đình chỉ | Xét xử | |||||
2019 | 6 | 2 | 2 | 2 | 32 | 0 | 22 | 10 |
2020 | 4 | 1 | 3 | 0 | 21 | 1 | 20 | 0 |
2021 | 5 | 1 | 1 | 3 | 49 | 3 | 43 | 3 |
2022 | 16 | 0 | 3 | 13 | 16 | 1 | 15 | 0 |
2023 | 14 | 0 | 13 | 1 | 33 | 4 | 29 | 0 |
Tổng số | 45 | 4 | 22 | 19 | 151 | 9 | 129 | 13 |
(Nguồn: Toà án nhân dân TP Hà Nội). Khóa luận: Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.
Thông qua bảng số liệu 2.2.3, có thể thấy giai đoạn từ năm 2019 đến năm 2023 số lượng vụ tranh chấp lao động đã thụ lý và giải quyết có xu hướng tăng nhưng đều trong tất cả các năm. Trong 05 năm Toà án nhân dân TP Hà Nội đã giải quyết được 26 vụ tranh chấp lao động thụ lý sơ thẩm, trong đó có 4 vụ bị đình chỉ do người khởi kiện có yêu cầu rút đơn khởi kiện; giải quyết được 138 vụ tranh chấp lao động thụ lý phúc thẩm, trong đó có 9 vụ bị đình chỉ do người có yêu cầu kháng cáo rút đơn kháng cáo và một số lý do khác. Số lượng tranh chấp được giải quyết phúc thẩm lớn hơn gấp 05 lần so với giải quyết sơ thẩm. Cụ thể:
Năm 2019, giải quyết được 04 vụ tranh chấp lao động thụ lý sơ thẩm: đình chỉ 02 vụ và xét xử sơ thẩm 02 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết khoảng 66,7%; giải quyết phúc thẩm (xét xử) 22 vụ tranh chấp lao động, đạt tỷ lệ giải quyết khoảng 69%.
Năm 2020, giải quyết được 04 vụ tranh chấp lao động sơ thẩm: đình chỉ 01 vụ và xét xử 03 vụ; giải quyết được 21 vụ tranh chấp lao động phúc thẩm: đình chỉ 01 vụ và xét xử phúc thẩm 20 vụ. Trong năm này, tỷ lệ giải quyết sơ thẩm và phúc thẩm tranh chấp lao động đạt tỷ lệ 100%.
Năm 2021, giải quyết được 02 vụ tranh chấp lao động sơ thẩm: đình chỉ 01 vụ, xét xử 01 vụ và giảm 02 vụ so với năm 2020 và đạt tỷ giải quyết khoảng 40%; giải quyết được 46 vụ tranh chấp lao động phúc thẩm: đình chỉ 03 vụ và xét xử 43 vụ, tăng 25 vụ so với năm 2020, đạt tỷ lệ giải quyết khoảng 94%.
Năm 2022, giải quyết được 03 vụ tranh chấp lao động sơ thẩm: không có vụ nào bị đình chỉ và xét xử 03 vụ và tăng 01 vụ so với năm 2021, đạt tỷ lệ giải quyết khoảng 19%; giải quyết được 16 vụ tranh chấp lao động phúc thẩm: đình chỉ 01 vụ và xét xử 15 vụ, giảm 31 vụ so với năm 2021, đạt tỷ lệ giải quyết 100%.
Năm 2023, giải quyết được 13 vụ tranh chấp lao động sơ thẩm: không có vụ nào bị đình chỉ và xét xử 13 vụ, tăng 10 vụ so với năm 2022, đạt tỷ lệ giải quyết khoảng 93% và giải quyết được 33 vụ tranh chấp lao động phúc thẩm: 04 vụ bị đình chỉ và xét xử 29 vụ, tăng 17 vụ so với năm 2022, đạt tỷ lệ giải quyết 100%.
Ngoài ra, vẫn còn một số vụ tranh chấp lao động Toà án nhân dân TP Hà Nội đã thụ lý nhưng chưa giải quyết được bởi nhiều nguyên nhân khác nhau như: người khởi kiện không tiến hành đóng án phí; quá thời hạn kháng cáo, kháng nghị; người bị kiện và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đi khỏi địa phương,….Trong đó, năm 2019, còn 02 vụ tranh chấp lao động sơ thẩm và 10 vụ tranh chấp lao động phúc thẩm chưa được giải quyết. Năm 2020, tất cả các vụ tranh chấp lao động đã thụ lý đều được giải quyết hoàn toàn và năm 2021, còn lại 03 vụ tranh chấp lao động sơ thẩm và 03 vụ tranh chấp lao động phúc thẩm chưa được giải quyết. Năm 2022, còn 13 vụ tranh chấp lao động sơ thẩm chưa được giải quyết; tranh chấp lao động phúc thẩm không còn vụ nào. Năm 2023, còn lại 01 vụ tranh chấp lao động sơ thẩm chưa được giải quyết. Từ năm 2019 – 2023, tổng số vụ tranh chấp lao động Toà án nhân dân TP Hà Nội chưa giải quyết được là 32 vụ: 19 vụ tranh chấp lao động sơ thẩm và 13 vụ tranh chấp lao động phúc thẩm. Có thể thấy, số lượng vụ án tranh chấp lao động mà Toà án nhân dân TP Hà Nội chưa giải quyết chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 16% trên tổng vụ đã thụ lý, một con số tương đối nhỏ. Khóa luận: Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.
Bên cạnh đó, theo bảng số liệu này, trong 05 năm Toà án nhân dân TP Hà Nội đã giải quyết sơ thẩm được 26 vụ tranh chấp lao động trên tổng số 45 vụ đã thụ lý, đạt tỷ lệ giải quyết khoảng 57,7%; giải quyết phúc thẩm được 138 vụ tranh chấp lao động trên tổng số 151 vụ đã thụ lý, đạt tỷ lệ khoảng 91,4%. Tổng số vụ tranh chấp lao động được giải quyết tại Toà án nhân dân TP Hà Nội trong 05 năm là 164 trên tổng số 196 vụ tranh chấp lao động đã thụ lý, đạt tỷ lệ giải quyết là 83,7%. Qua đây, có thể thấy chất lượng giải quyết nói chung và chất lượng xét xử nói riêng đối các vụ tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân TP Hà Nội khá cao, các vụ tranh chấp gần như được giải quyết một cách triệt để, góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Người lao động.
Qua số liệu thống kê của Toà án nhân dân tối cao về bản án và quyết định, có thể thấy các loại tranh chấp lao động mà Toà án nhân dân TP Hà Nội giải quyết chủ yếu như tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động bằng hình thức sa thải; tranh chấp về đòi tiền lương; tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động; tranh chấp về bảo hiểm xã hội,… Các vụ tranh chấp lao động ngày càng diễn biến phức tạp với nhiều tình tiết mà hội đồng xét xử sơ thẩm khi giải quyết không thể nghiên cứu và đánh giá hết được dẫn đến bị đương sự kháng cáo và xét xử phúc thẩm lại bản án sơ thẩm. Điển hình như vụ tranh chấp về xử lý kỷ luật theo hình thức sa thải của Ông Trần H và Công ty cổ phần BM TM được Toà án nhân dân TP Hà Nội thụ lý phúc thẩm số 14/2023/TLPT-LĐ ngày 02/08/2023 [34]. Sau khi giải quyết sơ thẩm tại Toà án nhân dân quận Cầu Giấy với bản án sơ thẩm số 02/2023/LĐST ngày 31/05/2023, ông Trần H đã có yêu cầu kháng cáo và đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm tại Toà án nhân dân TP Hà Nội. Sau khi nhận được yêu cầu kháng cáo, Toà án nhân dân TP Hà Nội đã tiến hành thụ lý vụ án. Trong giai đoạn này các thành viên của Hội đồng xét xử phải cùng nhau tiến hành phân tích và đánh giá các tài liệu, chứng cứ của các đương sự và yêu cầu kháng cáo của Ông Trần H một cách khách quan và minh bạch theo đúng quy định của pháp luật để có thể đưa ra quyết định cuối cùng đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án.
Trên đây là tình hình giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân TP Hà Nội nói riêng và trên địa bàn TP Hà Nội nói chung từ năm 2019 đến năm 2023. Những con số này đã phần nào phản ánh được thực trạng xảy ra tranh chấp lao động hiện nay trên địa bàn TP Hà Nội trong 05 năm vừa qua. Qua đó, có thể thấy được tình trạng tranh chấp lao động ngày càng xảy ra nhiều, đặc biệt là trong hai năm 2022 và 2023 ngay sau đại dịch Covid-19, thị trường lao động bị ảnh hưởng rất nhiều. Bên cạnh đó, qua tỷ lệ vụ tranh chấp lao động đã được giải quyết trên tổng số vụ đã thụ lý và số bản án xét xử sơ thẩm bị huỷ có thể thấy được chất lượng giải quyết, xét xử của Toà án nhân dân TP Hà Nội ngày càng được nâng cao góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Người lao động. Khóa luận: Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.
Thứ hai, về nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân TP Hà Nội.
Qua số lượng vụ tranh chấp lao động đã được giải quyết, nhìn chung Toà án nhân dân TP Hà Nội luôn đảm bảo và nâng cao chất lượng thi hành quy định pháp luật về nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động theo Bộ luật lao động năm 2019. Trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động nếu các bên đương sự thoả thuận được thông qua thương lượng, hoà giải Toà án nhân dân TP Hà Nội sẽ tiến hành ghi biên bản hoà giải theo đúng nguyện vọng của hai bên và ban hành quyết định công nhận thoả thuận của các đương sự. Toà án nhân dân TP Hà Nội luôn tôn trọng quyết định của các bên đương sự khi tiến hành hoà giải tại toà. Bên cạnh đó, Toà án nhân dân TP Hà Nội cũng luôn coi trọng thủ tục hoà giải tiền tố tụng, bởi việc hoà giải thành các vụ tranh chấp lao động góp phần duy trì ổn định quan hệ lao động.
Khi tiến hành giải quyết các vụ tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân TP Hà Nội, các bên đương sự đều bình đẳng trước pháp luật. Trong quá trình tố tụng, các bên đương sự sẽ được cán bộ Toà án giải thích rõ ràng và đầy đủ về quyền, nghĩa vụ của mình để đảm bảo thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
TAND TP Hà Nội cũng tiến hành đẩy mạnh quá trình ứng dụng công nghệ thông tin trong việc công khai bản án, quyết định đã giải quyết trên Trang thông tin điện tử Toà án nhân dân TP Hà Nội để người dân có thể tiếp cận một cách dễ dàng. Những bản án, quyết định được đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Toà án nhân dân TP Hà Nội luôn được cơ quan rà soát chi tiết để đảm bảo chính xác và minh bạch. Việc ứng dụng công nghệ thông tin tại Toà án nhân dân TP Hà Nội nói riêng và ngành Toà án nói chung là một trong những thành tựu đáng được ghi nhận, bởi khi các bản án, quyết định được công khai trên các Trang thông tin điện tử chính thống người dân có thể theo dõi hoạt động giải quyết của Toà án nhân dân, có ý kiến đóng góp nếu bản án, quyết định đó có vi phạm góp phần nâng cao chất lượng giải quyết của Toà án nhân dân TP Hà Nội, giảm thiểu sai phạm trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động. Ngoài ra, các vụ án tranh chấp lao động cũng luôn được Toà án nhân dân TP Hà Nội giải quyết một cách kịp thời, khách quan và đúng theo quy định pháp luật. Qua đó, có thể thấy việc giải quyết các vụ tranh chấp lao động công khai, minh bạch, khách quan, kịp thời và đúng quy định pháp luật của Toà án nhân dân TP Hà Nội cũng góp phần tuyên truyền pháp luật cho người dân, đặc biệt là Người lao động về quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ lao động. Khóa luận: Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.
Ngoài ra, trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân TP Hà Nội sự tham gia của đại diện, tổ chức đại diện cho các bên chủ thể tranh chấp đều được đảm bảo. Các vụ tranh chấp lao động mà Người lao động có tổ chức đại diện là Công đoàn cơ sở, thì Toà án nhân dân TP Hà Nội luôn khuyến khích các cơ quan này đại diện cho Người lao động trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động, bởi họ là cơ quan bảo vệ quyền và lợi ích cho Người lao động. Đồng thời, Toà án nhân dân TP Hà Nội luôn tạo điều kiện để các đại diện, tổ chức đại diện cho các bên chủ thể sẽ tham gia vào quá trình giải quyết theo đúng tư cách mà pháp luật quy định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chủ thể của mình.
Các tranh chấp lao động khi có yêu cầu khởi kiện của một trong hai bên chủ thể tranh chấp lao động hoặc theo đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và được các bên tranh chấp đồng ý thì Toà án nhân dân TP Hà Nội sẽ tiến hành thụ lý và giải quyết theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Khi các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đề nghị giải quyết tranh chấp lao động mà các bên chủ thể chưa đồng ý thì Toà án nhân dân TP Hà Nội cũng không tiến hành thụ lý và giải quyết. Việc thực hiện tốt các nguyên tắc giải quyết tranh lao động theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo giải quyết hiệu quả các tranh chấp lao động góp phần bảo vệ quyền và lợi ích cho Người lao động, NSDLĐ và duy trì ổn định quan hệ lao động.
Thứ ba, về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân TP Hà Nội.
Có thể thấy, các vụ tranh chấp lao động được thụ lý và giải quyết tại Toà án nhân dân TP Hà Nội được đảm bảo thi hành theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Nhờ đó, mà việc giải quyết các tranh chấp lao động luôn đạt hiệu quả, đúng thời hạn theo quy định, tránh tình trạng các vụ tranh chấp bị kéo dài, ảnh hưởng đến trực tiếp đến cuộc sống của Người lao động. Đồng thời, cũng giảm thiểu tình trạng thiếu sót tài liệu, chứng cứ hoặc sai phạm trong quá trình giải quyết dẫn đến bản án, quyết định bị huỷ bỏ.
TAND TP Hà Nội luôn đảm bảo thụ lý các vụ tranh chấp lao động trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày người khởi kiện nộp đơn khi đúng thẩm quyền giải quyết, không có vụ nào để quá thời hạn, đảm bảo giải quyết kịp thời các vụ tranh chấp lao động, tránh kéo dài ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của Người sử dụng lao động.
Sau khi tiến hành thụ lý vụ tranh chấp lao động, Toà án nhân dân TP Hà Nội đều sẽ tiến hành triển khai công tác hoà giải (hoà giải tiền tố tụng) một cách minh bạch theo đúng quy định của pháp luật. Đây được coi là một giai đoạn quan trọng luôn được Toà án nhân dân TP Hà Nội thực hiện một cách nghiêm chỉnh, đầy đủ nhằm đạt tỷ lệ hoà giải thành số lượng vụ tranh chấp lao động một cách cao nhất có thể. Việc hoà giải thành các tranh chấp lao động góp phần bảo đảm quan hệ lao động luôn được duy trì ổn định dù đã xảy ra tranh chấp lao động trước đó. Khóa luận: Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.
Trong quá trình xét xử các vụ tranh chấp lao động, các thủ tục tại phiên toà đều được thi hành đúng quy định pháp luật một cách nghiêm chỉnh và công khai. Do đó, quyền và lợi ích của các đương sự trong suốt quá trình xét xử luôn được đảm bảo và các đương sự có quyền tự quyết định việc thực hiện các quyền tố tụng của mình theo quy định của pháp luật.
Điển hình như vụ tranh chấp lao động về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải giữa ông T.Đ.Kiên và Công ty cổ phần dịch vụ xuất bản giáo dục Hà Nội (HEPS) xét xử phúc thẩm tại Toà án nhân dân TP Hà Nội vào ngày 22/12/2022 [33]. Thành phần hội đồng xét xử của vụ án bao gồm có 03 Thẩm phán là ông Phan Quyết Thắng – Chủ toạ phiên toà và ông Hoành Chí Nguyện, bà Bùi Thị Thu Thắng; 01 Thư ký Toà án là bà Nguyễn Hồng Nhung. Ngoài ra, còn có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP Hà Nội là bà Nguyễn Thị Kim Thanh – Kiểm sát viên. Những người tham gia tố tụng bao gồm: nguyên đơn là Ông T.Đ. Kiên (có mặt), bị đơn là Công ty cổ phần dịch vụ xuất bản giáo dục Hà Nội (HEPS) (vắng mặt) và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Bảo hiểm xã hội quận Đống Đa. Trình tự, thủ tục xét xử vụ tranh chấp lao động giữa ông T.Đ.Kiên và Công ty cổ phần dịch vụ xuất bản giáo dục Hà Nội (HEPS) được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật bao gồm:
Một, thủ tục bắt đầu phiên toà phúc thẩm. Sau khi kết thúc thủ tục này Chủ toạ phiên toà – Thẩm phán Phan Quyết Thắng đã công bố nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung kháng cáo của nguyên đơn Ông T.Đ.Kiên.
Hai, thủ tục hỏi tại phiên toà. Nguyên đơn Ông T.Đ.Kiên trình bày nội dung kháng cáo, đại diện uỷ quyền của Công ty cổ phần dịch vụ xuất bản giáo dục (HEPS) trình bày ý kiến và đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận đơn khởi kiện và kháng cáo của nguyên đơn.
Ba, tranh luận tại phiên toà. Sau đó, đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP Hà Nội bà Nguyễn Thị Kim Thanh – Kiểm sát viên phát biểu.
Bốn, nghị án và tuyên án. Hội đồng xét xử sau khi xem xét, nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong vụ án và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà phúc thẩm đã ra quyết định không chấp nhận đơn kháng cáo của ông T.Đ. Kiên và giữ nguyên bản án lao động sơ thẩm số 10/2022/LĐ-ST ngày 22/09/2022 của Toà án nhân dân quận Đống Đa.
Vụ tranh chấp lao động này được xét xử phúc thẩm theo đúng thủ tục, trình tự xét xử mà pháp luật đã quy định, đảm bảo công khai, minh bạch. Phiên toà phúc thẩm này được xét xử công khai do đó những người quan tâm đến vụ tranh chấp lao động đều có quyền được đến tham dự phiên toà, chỉ cần tuân theo quy định của phiên toà. Tuy nhiên, Toà án cũng có giới hạn về độ tuổi cho những người tham gia dự phiên toà xét xử công khai phải từ đủ 16 tuổi trở lên, trừ những người được Toà án triệu tập có liên quan đến vụ án. Khóa luận: Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.
Thứ tư, về đội ngũ cán bộ Toà án làm công tác giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân TP Hà Nội.
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ Toà án làm công tác giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân TP Hà Nội ngày càng được nâng cao do đó mà chất lượng giải quyết cũng tăng lên đáng kể. Đội ngũ cán bộ Toà án luôn cố gắng, phấn đấu hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ Toà án nhân dân TP Hà Nội luôn cố gắng giải quyết nhanh chóng các vụ tranh chấp lao động đã thụ lý theo đúng thời hạn pháp luật quy định tránh để quá thời hạn xét xử nhằm bảo đảm kịp thời những quyền và lợi ích của Người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống.
Hằng năm, ngành Toà án nói chung và Toà án nhân dân TP Hà Nội nói riêng đều tổ chức tập huấn, hội nghị chuyên đề để bồi dưỡng năng lực, chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ Toà án. Do đó, chất lượng xử lý, giải quyết các vụ án tranh chấp lao động trong thực tiễn luôn đạt tỷ lệ cao và hiệu quả. Đồng thời, việc tổ chức các toà chuyên trách, mỗi toà sẽ giải quyết một lĩnh vực riêng sẽ đảm bảo giải quyết hiệu quả các vụ việc hơn, bởi các Thẩm phán, Hội thẩm sẽ được đào tạo kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực đó. Trong đó Toà lao động sẽ giải quyết các vụ việc liên quan đến lĩnh vực lao động, các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đều là những người có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực lao động đảm bảo giải quyết hiệu quả các vụ tranh chấp lao động bảo vệ quyền và lợi ích của các bên đương sự.
Ngoài ra, lãnh đạo Toà án nhân dân TP Hà Nội cũng thực hiện tốt công tác tổ chức cán bộ, luôn củng cố về số lượng và chất lượng để đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động hiện nay [28]. Hiện nay, đội ngũ cán bộ tại Toà án nhân dân TP Hà Nội đa số đều là trình độ Thạc sĩ Luật, có một số là trình độ cử nhân Luật. Chính vì vậy mà chất lượng giải quyết tranh chấp lao động luôn đạt hiệu quả.
Như vậy, có thể thấy tình hình giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân TP Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2019 đến năm 2023 đạt được nhiều kết quả rất tốt, điều đó được phản ánh trực tiếp qua số vụ tranh chấp đã thụ lý và giải quyết góp phần làm ổn định và duy trì lành mạnh quan hệ lao động, đảm bảo đời sống cho Người lao động.
2.2. Một số bất cập, hạn chế về quy định pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội Khóa luận: Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.
2.2.1. Bất cập, hạn chế về quy định pháp luật
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân TP Hà Nội, nhận thấy những quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động hiện nay còn một số bất cập, hạn chế cụ thể như sau:
Thứ nhất, quy định về thành phần Hội đồng xét xử.
Thành phần Hội đồng xét xử đối với vụ án lao động sơ thẩm được quy định tại Điều 63 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). Trong đó, có quy định đối với các vụ án lao động tại phiên toà sơ thẩm, phải có Hội thẩm nhân dân là người đã và đang công tác trong tổ chức đại diện tập thể lao động hoặc người có kiến thức pháp luật về luật lao động. Đối với trường hợp Hội thẩm nhân dân là người đã và đang công tác trong tổ chức đại diện tập thể lao động thì có thể dễ dàng xác định được bởi họ đang làm việc tại tổ chức này nhưng đối với trường hợp Hội thẩm nhân dân là người có kiến thức về pháp luật lao động thì làm cách nào để xác định được họ là người có sự hiểu biết và kiến thức pháp luật lao động. Việc không có quy định cụ thể hay văn bản hướng dẫn nào về điều kiện hay tiêu chí xác định một người là người có kiến thức về pháp luật lao động để tham gia phiên toà gây khó khăn cho Toà án khi mời Hội thẩm nhân dân tham gia phiên toà. Bên cạnh đó, việc quy định không cụ thể về người là Hội thẩm nhân dân tham gia phiên toà sơ thẩm giải quyết tranh chấp lao động làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án và quyền, lợi ích hợp pháp của Người lao động.
Thứ hai, quy định về hoà giải tại Toà án nhân dân.
Hiện nay, khi giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân thì việc hoà giải chỉ được tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm (giai đoạn tiền tố tụng), còn xét xử tại phúc thẩm hay giám đốc thẩm, tái thẩm thì không có quy định về việc hoà giải. Trong giai đoạn xét xử, nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp lao động thì Toà án sẽ ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự và không tiến hành hoà giải. Tuy nhiên qua thực tiễn xét xử tại Toà án nhân dân TP Hà Nội cho thấy, trong một số vụ tranh chấp lao động khi Toà án ra quyết định xét xử nhưng các bên đương sự muốn được hoà giải lại không có căn cứ pháp lý để giải quyết được, vì vậy vẫn phải tiến hành giải quyết theo đúng trình tự thủ tục mà pháp luật quy định làm ảnh hưởng đến quan hệ lao động giữa các bên trong vụ tranh chấp lao động.
Thứ tư, quy định về giải quyết vụ án lao động theo thủ tục rút gọn. Khóa luận: Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.
Việc thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động theo thủ tục rút gọn sẽ đảm bảo giải quyết nhanh chóng, đơn giản và tiết kiệm chi phí đối với các bên tranh chấp lao động, đặc biệt là đối với Người lao động. Qua thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động, cho thấy các vụ tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân TP Hà Nội có giá trị cao tranh chấp không nhiều (trừ một số vụ tranh chấp lao động về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế) và việc xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan cũng thuận lợi. Vì vậy nếu các vụ tranh chấp lao động được giải quyết theo thủ tục rút gọn sẽ bảo vệ kịp thời hơn quyền và lợi ích của Người lao động hơn. Tuy nhiên, hiện nay lại chưa có quy định cụ thể hay văn bản nào quy định về việc giải quyết tranh chấp lao động theo thủ tục rút gọn và những loại tranh chấp lao động nào được thi hành giải quyết theo thủ tục đó. Chính vì vậy, mà trong một số vụ tranh chấp lao động quyền và lợi ích của các đương sự không được bảo vệ kịp thời và nhanh chóng, gây ảnh hướng lớn đến quan hệ lao động.
Thứ tư, quy định chung thủ tục tố tụng lao động và thủ tục tố tụng dân sự với nhau.
Trong thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cho thấy việc giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự không đảm bảo được nguyên tắc công khai, minh bạch, khách quan, kịp thời, nhanh chóng và đúng pháp luật trong giải quyết tranh chấp lao động. Bên cạnh đó, việc thi hành pháp luật giải quyết tranh chấp lao động theo thủ tục tố tụng dân sự chưa thật sự nhanh chóng và kịp thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ tranh chấp, đồng thời khả năng duy trì được quan hệ lao động sau khi giải quyết tranh chấp là rất thấp. Cụ thể trong đó là việc quy định về thời hạn giải quyết tranh chấp lao động theo thủ tục tố tụng dân sự không đáp ứng được nguyên tắc và yêu cầu mang tính đặc thù trong giải quyết tranh chấp lao động. Do vậy, cần có một chương cụ thể quy định về thủ tục tố tụng lao động trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), đồng thời quy định lại thời hạn giải quyết cho từng giai đoạn tranh chấp lao động nhằm giải quyết kịp thời các tranh chấp lao động bảo đảm khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị xâm hại trong quan hệ lao động, ổn định thị trường lao động.
2.2.2. Bất cập, hạn chế về thực tiễn thi hành pháp luật Khóa luận: Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.
Bên cạnh những bất cập, hạn chế về quy định thì trong thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cũng có một số bất cập, hạn chế như:
Thứ nhất, việc xác định, đánh giá tài liệu, chứng cứ liên quan và yêu cầu khởi kiện chưa đạt hiệu quả.
Qua tình hình thực tiễn thi hành hành pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác giải quyết vẫn còn tồn tại tình trạng các bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị dẫn đến sửa đổi một phần hoặc toàn bộ bản án thậm chí là huỷ bỏ hoàn toàn. Từ đó, thấy được hạn chế của Toà án nhân dân TP Hà Nội nói riêng và Toà án nhân dân hai cấp TP Hà Nội nói chung trong việc thi hành pháp luật về xác định các chứng cứ, tài liệu liên quan và yêu cầu khởi kiện chưa đảm bảo đầy đủ. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này một phần là do Người lao động không cung cấp được đầy đủ, tài liệu chứng cứ liên quan đến vụ án dẫn đến việc xác định, đánh giá tài liệu chứng cứ còn gặp khó khăn, thiếu tính khách quan và chưa được toàn diện về mọi mặt. Do đó, khi tiến hành giải quyết ở cấp sơ thẩm xong, người khởi kiện đều có yêu cầu kháng cáo, kháng nghị yêu cầu giải quyết ở cấp phúc thẩm vì bản án sơ thẩm chưa đảm bảo được hết quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Thứ hai, năng lực và trình độ chuyên môn của một số cán bộ Toà án còn hạn chế.
Năng lực và trình độ chuyên môn của các cán bộ Toà án luôn được bồi dưỡng và nâng cao hàng năm. Tuy nhiên, trong thực tế một số cán bộ Toà án, đặc biệt là cán bộ mới được tuyển dụng hoặc bổ nhiệm chưa có kinh nghiệm trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động, do đó mà việc thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động chưa được hiệu quả, vẫn còn tình trạng bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Bên cạnh đó, một số cán bộ Toà án khi ban hành các bản án, quyết định vẫn mắc phải những sai sót không đáng có dẫn đến các bản án, quyết định đó phải làm thông báo sửa chữa hoặc yêu cầu giải thích bản án.
Ngoài ra, một số vụ tranh chấp lao động trong quá trình giải quyết vẫn còn có những sai sót khi thi hành các quy định pháp luật về tố tụng. Do đó, tình trạng các vụ tranh chấp lao động đã được Toà án nhân dân TP Hà Nội thụ lý nhưng vẫn chưa giải quyết được và quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ tranh chấp không được đảm bảo kịp thời. Cụ thể như năm 2022, Toà án nhân dân TP Hà Nội đã thụ lý 16 vụ tranh chấp lao động sơ thẩm nhưng chỉ giải quyết được 3 vụ, còn lại 13 vụ chưa được giải quyết.
Thứ ba, việc hiểu biết pháp luật về lao động của các bên chủ thể tham gia tranh chấp lao động còn hạn chế, đặc biệt là phía Người lao động. Khóa luận: Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.
Thành phố Hà Nội là trung tâm kinh tế – văn hoá, chính trị của cả nước và là thủ đô của Việt Nam, trình độ dân trí trên địa bàn cũng khá cao so với các khu vực lân cận. Tuy nhiên, trình độ hiểu biết về pháp luật lao động vẫn còn khá hạn chế, đặc biệt là về phía Người lao động. Tình trạng kiến thức pháp luật lao động còn hạn chế không chỉ riêng tại TP Hà Nội mà hầu như phần lớn Người lao động ở Việt Nam đều hạn chế trong vấn đề này. Chính vì sự thiếu hiểu biết về pháp luật lao động nên nhiều Người lao động khi tham gia quan hệ lao động không giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản mà chỉ thỏa thuận bằng lời nói và đến khi xảy ra tình trạng tranh chấp lao động (bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, không trả tiền lương,….) muốn được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nhưng Người lao động lại không có tài liệu, chứng cứ chứng minh quan hệ lao động đó để khởi kiện. Đã có một số vụ tranh chấp lao động mà Người lao động nộp đơn khởi kiện NSDLD về việc không trả lương nhưng khi xem xét đơn khởi kiện, Toà án đã bác bỏ yêu cầu khởi kiện và thông báo trả lại đơn khởi kiện do không có tài liệu, chứng cứ chứng minh quan hệ lao động giữa Người lao động và Người sử dụng lao động.
Bên cạnh đó, do sự hiểu biết về pháp luật lao động của Người lao động còn hạn chế mà trong một số trường hợp sau khi nộp đơn khởi kiện tại Toà án nhân dân TP Hà Nội hoặc sau khi thụ lý vụ án, Người lao động còn gặp khó khăn trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bởi họ thường không lưu lại các tài liệu, chứng cứ này. Do đó, cũng gây khó khăn cho cán bộ Toà án khi tiến hành thụ lý và giải quyết tranh chấp lao động dẫn đến việc các vụ tranh chấp lao động đã thụ lý mà chưa giải quyết được, kéo dài thời gian giải quyết.
Thứ tư, sự tham gia của các tổ chức Công đoàn cơ sở trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân TP Hà Nội còn hạn chế.
Hiện nay, Công đoàn cơ sở là tổ chức đại diện cho Người lao động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ, đặc biệt là khi xảy ra tranh chấp lao động. Bởi vậy, khi xảy ra tranh chấp lao động trong công ty, doanh nghiệp Người lao động sẽ tìm đến đây đầu tiên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, qua thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân TP Hà Nội cho thấy sự tham gia của tổ chức Công đoàn cơ sở đại diện cho Người lao động trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động còn rất hạn chế. Bên cạnh đó, tại một số công ty, doanh nghiệp trên địa bàn TP Hà Nội, đặc biệt là các công ty, doanh nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài thì Công đoàn cơ sở chỉ chủ yếu giúp họ thoả thuận các thoả ước lao động và chính sách lao động. Qua đó, thấy rằng các tổ chức Công đoàn cơ sở vẫn chưa đảm bảo thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Người lao động. Vì vậy, mà khi xảy ra các tranh chấp lao động tại công ty, doanh nghiệp Người lao động không tin tưởng để uỷ quyền cho tổ chức Công đoàn công sở tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án. Khóa luận: Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.
2.3. Nguyên nhân chủ yếu của bất cập, hạn chế về quy định pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội
Những bất cập, hạn chế về quy định và trong thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân TP Hà Nội xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu như sau:
Thứ nhất, do công tác lãnh đạo, quản lý tại Toà án nhân dân TP Hà Nội còn hạn chế, chưa có sự tích cực trong công tác kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở đối với đội ngũ cán bộ Toà án trong công tác thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động nói riêng và giải quyết vụ việc khác nói chung. Ngoài ra, tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ Toà án, Thẩm phán chưa được nêu cao đặc biệt khi gặp các vụ tranh chấp lao động với nhiều tình tiết phức tạp.
Thứ hai, do công tác bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ, chuyên môn và kiến thức pháp luật chưa thực sự đạt hiệu quả cao, còn mang tính hình thức nên việc thi hành các quy định về pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động vẫn còn sai phạm. Bên cạnh đó, kỹ năng hoà giải tiền tố tụng của cán bộ, Thẩm phán Toà án nhân dân TP Hà Nội vẫn còn hạn chế. Điều này được thể hiện rõ qua số lượng các vụ hoà giải thành trên tổng số vụ đã thụ lý. Trong 05 năm từ năm 2019 đến năm 2023, Toà án nhân dân TP Hà Nội không hoà giải thành vụ tranh chấp lao động nào.
Thứ ba, số lượng các vụ tranh chấp lao động ngày càng có xu hướng tăng lên và tính chất các vụ tranh chấp cũng diễn biến phức tạp hơn, trong khi các quy định pháp luật về lao động hiện nay vẫn còn một số bất cập, hạn chế mà chưa được sửa đổi, bổ sung nên việc thi hành pháp luật cũng gặp những khó khăn nhất định.
Thứ tư, sở dĩ trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động sự tham gia của tổ chức Công đoàn cơ sở còn hạn chế bởi đa phần cán bộ Công đoàn cơ sở đều là chức danh kiêm nhiệm của họ, không phải chuyên môn. Ngoài ra, sự hiểu biết về pháp luật lao động của cán bộ Công đoàn cơ sở còn hạn chế do không được đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ thường xuyên và dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của Người lao động không được đảm bảo. Khóa luận: Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.
Thứ năm, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không tiến hành các biện pháp xử lý nghiêm hành vi vi phạm pháp luật lao động của các công ty, doanh nghiệp, xí nghiệp. Bên cạnh đó, các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước cũng không thường xuyên tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về lao động tại các công ty, doanh nghiệp có bảo đảm quyền và lợi ích của Người lao động hay không. Do đó, nhiều công ty, doanh nghiệp vẫn còn tình trạng không ký kết hợp đồng lao động với Người lao động, không bảo đảm các điều kiện an toàn cho Người lao động làm việc.
Thứ sáu, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về lao động hiện nay còn hạn chế và khi thực hiện còn mang tính hình thức, chưa thực sự đạt được hiệu quả. Do đó mà tại một số cơ quan, công ty, doanh nghiệp Người lao động vẫn còn sự hạn chế về sự hiểu biết pháp luật lao động. Dẫn đến tình trạng khi xảy ra tranh chấp lao động quyền và lợi ích của Người lao động không được bảo vệ.
Kết luận Chương 2
Trên cơ sở phân tích, làm rõ những nội dung của Chương 2, khóa luận đã phân tích tình hình giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân TP Hà Nội trong giai đoạn 05 năm từ năm 2019 đến năm 2023 thông qua những số liệu thống kê trên thực tiễn, đồng thời đưa ra những nhận xét, đánh giá về tình hình thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động của Toà án nhân dân TP Hà Nội. Từ đó, khoá luận đã chỉ ra một số bất cập, hạn chế về quy định pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân TP Hà Nội và nguyên nhân của một số bất cập, hạn chế đó. Kết quả nghiên cứu tại Chương 2 là cơ sở để khoá luận đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án nhân dân TP Hà Nội tại Chương 3. Khóa luận: Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Khóa luận: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động
Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com