Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học phổ thông văn hiến, quận Hoàn Kiếm, Thành Phố Hà Nội dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Khái quát về Giáo dục và Đào đào thành phố Hà Nội
Nếu như cách đây gần 1000 năm, Thăng Long đã có Văn Miếu – Quốc Tử Giám, trường đại học đầu tiên của nước ta, thì nay Hà Nội là nơi tập trung 44 trường đại học và cao đẳng của đất nước, với hơn 330 nghìn HS sinh viên. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, tất cả các trường ở Việt Nam đều dùng tiếng Việt.
Bên cạnh đó là 25 trường trung học chuyên nghiệp với 15 nghìn học viên, tăng gấp 13 lần năm học sau giải phóng. Tính bình quân cứ 3 người Hà Nội có một người đang đi học. Hà Nội còn là địa phương đầu tiên trong cả nước được công nhận phổ cập xong cấp trung học cơ sở, có một số trường đặc biệt dạy trẻ em khuyết tật.
Hiện nay, Hà Nội là địa phương có tỷ lệ GV đạt chuẩn và trên chuẩn cao nhất cả nước và cũng là địa phương có nhiều sáng tạo và đạt hiệu quả cao trong việc thực hiện các chương trình cải cách và đổi mới.
Chất lượng giáo dục Thủ đô ngày càng được nâng cao và là một trong những địa phương dẫn đầu về số HS đạt giải trong các kỳ thi chọn HS giỏi quốc gia, quốc tế. Giáo dục đại trà được coi trọng với việc hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học (1990), đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở (1999), duy trì tốt công tác phổ cập đúng độ tuổi và đang phấn đấu để phổ cập giáo dục trung học, trở thành đơn vị dẫn đầu cả nước trong lĩnh vực này. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Xứng tầm với vị thế thủ đô trong thời kỳ hội nhập, Hà Nội luôn tiên phong trong việc đổi mới phương pháp giáo dục, tạo bước đột phá về ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động giảng dạy, học tập cùng với việc hoàn thành kết nối internet tới gần 100% trường học. Công tác kiên cố hoá trường lớp được đặc biệt quan tâm với các dự án cải tạo và xây dựng phòng học, nâng tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia lên 20,2% (449 trường).
Trong chặng đường phát triển đã qua ngành GD&ĐT, thành phố Hà Nội đạt được những thành tựu to lớn cả về quy mô phát triển, chất lượng và hiệu quả…, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp giáo dục của đất nước và công cuộc phát triển KT – XH của địa phương, góp phần xây dựng Thủ đô ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, như ý nguyện thiêng liêng của Bác Hồ.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục
2.1.2. Khái quát về giáo dục Trung học Phổ thông ngoài công lập, thành phố Hà Nội
Quá trình phát triển của giáo dục Trung học Phổ thông ngoài công lập Hà Nội
Phát triển số lượng: Từ trường THPT dân lập đầu tiên của Hà Nội ra đời năm học 1998 – 1989 với hơn 200 HS, sau 10 năm đến năm học 1998 – 1999 toàn thành phố đã có 47 trường THPT ngoài công lập với trên 20 nghìn
Năm học 2001 – 2002 có số trường ngoài công lập bậc trung học là 64 trường và sau đó một số trường không tuyển sinh được phải giải thể nên số trường giảm dần đến năm học 2004 – 2005 Hà Nội có 55 trường THPT ngoài công lập (có 5 trường bán công, 50 trường dân lập; 5 trường có cả 2 cấp THCS và THPT) và đến năm 2011 có tổng số 92 trường ngoài công lập với 36.894 HS (có 8.476 HS cấp THCS). Nếu xét về số trường thì cấp THPT năm 2005 có số trường ngoài công lập là 134 trường, song số HS chỉ chiếm 27,5% tổng số HS; số này không kể các HS học hệ B ở các trường THPT ngoài công lập; nếu tính cả số này thì HS ngoài công lập ở Hà Nội chiếm khoảng 58,5% còn cấp THCS các trường ngoài công lập chỉ chiếm 4,6% tổng số HS. Tuy vậy kể từ sau khi địa giới hành chính của thành phố Hà Nội được mở rộng, tình hình kinh tế -chính trị – xã hội có nhiều biến động trong đó có ngành giáo dục nói chung và giáo dục THPT ngoài công lập nói riêng, nên tỉ lệ HS giảm, nguyên nhân bởi nhiều vùng miền của Hà Tây cũ kinh tế còn thấp, đời sống của người dân còn khó khăn, điều kiện học tập ít. Để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu học được nhiều, thành phố đã tăng số lượng lớp học và số lượng tuyển vào trường THPT công lập và giảm tỉ lệ lớp, HS vào các trường THPT ngoài công lập. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Phân bổ mạng lưới và quy mô: Sự phân bổ mạng lưới các trường ngoài công lập trên địa bàn thành phố có sự chênh lệch lớn vì nhiều lý do (một phần do cơ chế cung cầu, một phần do các “Chủ trường” không thể tìm thuê được địa điểm những nơi có nhu cầu…). Nơi có mật độ trường đông nhất là quận Đống Đa, tiếp đến Cầu Giấy, Thanh Xuân, tập trung ít ở Thanh Trì, Tây Hồ, Hoàn Kiếm. Có huyện chưa có trường ngoài công lập như Đan Phượng. Quy mô của các trường cho thấy tỷ lệ trường có quy mô quá nhỏ (không đủ 9 lớp) chiếm 45,5%, trong đó có một số trường quá nhỏ nhiều năm liền chỉ có 2 – 3 lớp (Tây Sơn, Hoàng Long, Lam Hồng, Tô Hiến Thành, Anbe Anhxtanh, Nguyễn Văn Huyên); số trường có quy mô khá (trên 1.000 HS) chỉ có 12/92 trường (chiếm tỷ lệ 10,9%). Quy mô của trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song vấn đề quy hoạch có vai trò quan trọng; ví dụ trên địa bàn quận Đống Đa có tới 13 trường trung học ngoài công lập thì có tới 7 trường quá nhỏ (từ 3 đến 8 lớp). Đối với trường ngoài công lập, quy mô có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giáo dục của nhà trường. Trường có quy mô quá nhỏ rất khó khăn về kinh phí, nên không thu hút được thầy giỏi, không trang bị được CSVC tối thiểu, việc thực hiện quy chế chuyên môn cũng rất khó khăn (chưa nói gì đến các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp), do đó chất lượng giáo dục không cải thiện được, cũng vì thế mà ngày càng khó thu hút HS vào học… vòng luẩn quẩn này làm cho một số trường không thể phát triển được (nếu không có giải pháp đột phá). Nguyên nhân của những hạn chế về mặt phân bố địa bàn và quy mô có nhiều, song một nguyên nhân quan trọng là thành phố chưa có chiến lược rõ ràng, cụ thể về việc phát triển mạng lưới các trường ngoài công lập cùng với các cơ chế, chính sách cụ thể nên nhiều khi sự phát triển còn mang tính tự phát, cảm tính của những người “Chủ trường”.
Xu thế phát triển của giáo dục THPT ngoài công lập trong thời gian tới: Các trường trung học ngoài công lập ở Hà Nội sẽ tiếp tục phát triển toàn diện và đa dạng vì các lý do: Sự mất cân đối giữa nhu cầu học tập của người dân với sự cung ứng của hệ thống trường chất lượng vẫn còn tiếp tục tồn tại lâu dài (hiện ngân sách Thành phố chỉ đủ cấp theo định mức cho 40% hệ thống có nhu cầu học THPT); Nhu cầu học tập của người dân ngày càng đa dạng (đặc biệt là yêu cầu cao về chất lượng), trong khi các trường chất lượng chưa thể đáp ứng đầy đủ; Quá trình mở cửa, hội nhập, đặc biệt là khi nước ta ra nhập WTO, vấn đề mở cửa cho nước ngoài đầu tư vào phát triển dịch vụ giáo dục là điều tất yếu.
Về chất lượng của các trường hiện có sẽ có sự phân hóa ngày càng rõ: những trường có chiến lược phát triển và đầu tư tốt sẽ có chất lượng giáo dục ngày càng cao, do đó nhanh chóng khẳng định được “thương hiệu” của mình và sẽ ngày một phát triển; ngược lại, những trường không có chiến lược phát triển rõ ràng cùng với sự đầu tư phù hợp thì chất lượng sẽ thấp và sẽ dần đi đến giải thể (từ năm 1999 đến năm 2004 đã có 19 trường tự xin giải thể hoặc tạm nghỉ).
Về số lượng: Hiện nay trường ngoài công lập theo mô hình truyền thống đã “bão hòa” do đó về số lượng loại trường này sẽ giảm đi (những trường chất lượng yếu sẽ tự giải thể); tuy vậy, với xu thế mở cửa hội nhập, sẽ xuất hiện thêm một số mô hình mới với nội dung và phương thức hoạt động mới theo hướng chất lượng cao, do đó các loại cơ sở này sẽ tăng trong những năm tới.
2.1.3. Khái quát về trường Trung học Phổ thông Văn Hiến Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Trường THPT Văn Hiến nằm ở khu vực nội đô của Thủ đô Hà Nội. Đây là một trong những ngôi trường THPT dân lập còn có nhiều khó khăn thuộc quận Hoàn Kiếm, với số lượng HS không nhiều, đa phần là con em lao động, buôn bán nhỏ trình độ dân trí chưa đồng đều, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn và sự quan tâm chăm sóc con cái chưa nhiều, đầu vào thấp chủ yếu là các em trượt trong kì thi vào các trường THPT công lập trên địa bàn hai quận Hoàn Kiếm và Hai Bà Trưng. Song trong những năm qua với sự nỗ lực cố gắng của tập thể GV và HS nhà trường ngày càng giành được sự tin tưởng của CMHS, tỉ lệ xét tốt nghiệp THPT hàng năm luôn đạt 97% đến 100%; tỉ lệ HS thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp 60 % trong tổng số HS ra trường.
- Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên:
Tổng số cán bộ GV, nhân viên: 52 người trong đó bao gồm 12 nam, 40 nữ.
- Trình độ: 42 GV đạt chuẩn (trình độ đại học), 10GV trên chuẩn (trình độ thạc sĩ và tiến sĩ).
- Độ tuổi:
- Trên 50: 15 GV chiếm 28.9 %
- Từ 30 đến 49: 25 GV chiếm 48.1 %
- Dưới 30: 12 GV chiếm 23 %
Thực hiện tốt nghị quyết ngành giáo dục, chống bệnh thành tích, chống gian lận trong thi cử.
Không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy, đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy, thực hiện nghiêm chỉnh dạy theo phân phối chương trình và văn bản chỉ đạo giảm tải.
Phong trào hội giảng, hội giảng chuyên đề, dự giờ thăm lớp, thanh tra định kỳ được duy trì làm tốt; tổng số tiết dự giờ của BGH năm học 2015 – 2016 là 142 tiết, số tiết dự giờ của GV là 640 tiết trong đó tiết dạy loại giỏi chiếm trên 64.8%.
Thực hiện các tiêu chí của nhà trường trong việc phấn đấu “nhà giáo mẫu mực”. GV thực hiện tốt qui dịnh hành nghề của sở, phòng GD&ĐT.
- Đội ngũ học sinh: Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Tổng số HS:542 trong đó số HS nữ là 222 em, HS nam là 320 em
Tổng số lớp: 13 trong đó khối 10 là 4 lớp, khối 11 là 5 lớp, khối 12 là 4 lớp.
Hàng năm số HS tốt nghiệp ra trường là 98%, đỗ vào các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp 60 %.
Kết quả xếp loại học lực và hạnh kiểm của HS những năm học gần đây được thể hiện trong bảng 2.1:
- Hoạt động giáo dục tư tưởng:
Công tác giáo dục tư tưởng, chính trị luôn được quan tâm, coi trọng. Chi bộ nghiêm túc, nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, đặc biệt là nghị quyết 29 Hội nghị trung ương lần thứ 8 về đổi mới căn bản toàn diện GD&ĐT. Nghị quyết đại hội đảng bộ thành phố XIV, chỉ thị nghị quyết của ngành giáo dục. Tổ chức tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nhờ vậy mà đội ngũ GV thêm kiên định, lập trường, tư tưởng vững vàng, phẩm chất đạo đức được nâng cao.
- Cơ sở vật chất:
Tổng diện tích nhà trường: 585 m2
Số phòng học: 10 phòng, đảm bảo ánh sáng, bàn ghế, bảng chống lóa. Thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập (máy chiếu, máy vi tính, máy quét, máy in, tivi, đầu đĩa, cassette, đàn organ, tủ lưu trữ…).
- Đánh giá chung về thuận lợi và khó khăn: Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
BGH và tập thể sư phạm đoàn kết cùng nhau xây dựng nhà trường.
Nền nếp làm việc ngày càng đi vào ổn định, có kế hoạch, đại bộ phận GV có nhận thức đúng đắn về yêu cầu bức thiết việc đổi mới phong cách làm việc và giảng dạy.
Được sự quan tâm thiết thực, hiệu quả của các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền địa phương.
Bên cạnh đó, những khó khăn bao gồm: Điều kiện dạy học chưa được đảm bảo, thiếu tất cả các phòng học bộ môn, sân bãi phòng tập. Do địa điểm còn đi thuê nên các hoạt động tập thể đều đi thuê để tổ chức trang trọng và độc lập hơn tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Số HS trong trường không nhiều. Đại bộ phận cha mẹ HS làm nghề tự do, buôn bán nhỏ, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, chưa quan tâm nhiều đến việc học tập của con cái.
2.2. Thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học Phổ thông Văn Hiến
2.2.1. Thực trạng đạo đức của học sinh
- Về nhận thức:
Để tìm hiểu về nhận thức của HS về phẩm chất đạo đức cần được giáo dục này tác giả đã tiến hành điều tra đối với 250 em HS trường THPT Văn Hiến với câu hỏi: “Em hãy cho biết ý kiến của mình về các phẩm chất đạo đức cần được giáo dục cho HS hiện nay?”. Kết quả thu được được thể hiện cụ thể bằng bảng 2.2:
Nhìn vào bảng số liệu 2.2 cho thấy, nhận thức của HS về các phẩm chất đạo đức cần được giáo dục HS hiện nay. Trong các phẩm chất đạo đức đó, phần lớn các em đều cho rằng rất quan trọng. Hầu hết các phẩm chất được đánh giá ở mức quan trọng với điểm TB cao hầu hết là trên 2.00. Như vậy các em HS có nhu cầu lớn trong quá trình giáo dục đạo đức ở nhà trường.
Trong đó những phảm chất “Tính tự lập, cần cù, vượt khó”, “Động cơ học tập đúng đắn” và “Lòng hiếu thảo với cha mẹ, ông bà, thầy cô, tôn trọng bạn bè” được các em quan tâm hàng đầu. Với mức điểm TB từ 2.7 trở lên.
Tuy nhiên những phẩm chất như “Ý thức bảo vệ tài sản, bảo vệ môi trường”, “Ý thức tiết kiệm thời gian, tiền của”, Ý thức tổ chức kỷ luật, tổ chức kỷ luật, thực hiện nội quy trường lớp”, “ “Ý thức tự phê bình và phê bình” để tiến bộ thì HS ít quan tâm hơn với mức điểm TB dưới 2.4. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Từ kết quả của khảo sát trên cho thấy nhà trường đã chú trọng đến việc giáo dục cho HS những phẩm chất cần thiết cho một công dân, nhưng chưa toàn diện, đặc biệt là những phẩm chất có liên quan đến thái độ của mình đối với cuộc sống, đối với xã hội, đối với con người, đối với công việc tập thể.
- Về thái độ:
Khi tìm hiểu thái độ của HS đối với các quan niệm về đạo đức, tác giả đã điều tra bằng phiếu 250 em HS trường THPT Văn Hiến. Câu hỏi đặt ra là: “Em hãy cho biết ý kiến của mình với các quan niệm dưới đây?”. Kết quả thu được được thể hiện cụ thể bằng bảng 2.3:
Nhìn vào bảng số liệu 2.3 cho thấy kết quả đánh giá về thái độ của HS về một số quan niệm đạo đức, qua đó tác giả nhận thấy đa số HS có thái độ đồng tình với nhiều quan niệm đúng như: “Đạo đức của mỗi người là do mỗi người quyết định” với mức điểm TB là 2,89. “Đạo đức do xã hội quyết định” với điểm TB là 2,56. “Tôn trọng lễ phép với người lớn tuổi” với điểm TB là 2.76. “Ở hiền gặp lành” với điểm TB là 2.64. Điều này có nghĩa là, đa số các em có thái độ đúng đắn với những quan niệm về đạo đức chuẩn mức, có thái độ nghiêm túc, rõ ràng với những những quan niệm sống đề cao đạo đức.
Bên cạnh đó, các em không đồng tình với một số quan niệm như: “Đạt được mục đích bằng mọi giá” với mức điểm TB là 1,74 hay như “Tài năng quan trọng hơn đạo đức” với mức điểm TB là 1,34, hoặc “Ai có thân người ấy lo” với mức điểm TB là 1.84. Điều đó có nghĩa là các em không đồng tình với quan niệm sống vì tiền, sống ích kỷ, thủ đoạn… Tuy nhiên, vẫn còn một số em có thái độ cá nhân vị kỷ, thực dụng thề hiện với những ý kiến đồng ý với các quan niệm sống vị kỉ.
Như vậy, bên cạnh việc cần phải đẩy mạnh giáo dục đạo đức, nhà trường cần có những biện pháp cần thiết để giáo dục HS vươn tới lẽ sống cao đẹp hơn tránh xa lối sống ích kỷ, hưởng thụ tầm thường.
- Về hành vi:
Để tìm hiểu thực chất hành vi thể hiện những yếu kém về đạo đức của HS của nhà trường, tác giả tiến hành lấy số liệu báo cáo từ BGH của nhà trường THPT Văn Hiến, cơ quan công an phụ trách địa bàn và qua trao đổi với GV chủ nhiệm, CBQL của nhà trường và thu được số liệu về các hành vi phạm đạo đức tại trường THPT Văn Hiến trong hai năm học gần đây được thể hiện trong bảng 2.4.dưới đây Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Nhìn vào bảng số liệu 2.4 cho thấy số HS vi phạm đạo đức ngày càng tăng theo năm. Năm học 2015 – 2016 nhiều hơn năm học 2014 – 2015 là 7 vụ (tăng thêm 4,68%). Đây là điều đáng lo ngại, năm học 2014-2015 có 53 em vi phạm chiếm 12.36% tổng số HS trong trường, năm học 2015- 2016 con số HS vi phạm đã tăng lên 66 HS chiếm 16.04%.
Số HS vi phạm kỷ luật nhiều nhất là nói tục chửi bậy. Năm học 2014 – 2015 là 14 hành vi bị phát hiện. Năm học 2015 – 2016 là 16 hành vi bị phát hiện. Đây là biểu hiện thường rơi vào những HS chưa có ý thức học tập, thiếu sự quan tâm của gia đình, học yếu, ham chơi, hay bị các bạn bè xấu ngoài trường lôi kéo dẫn đến vi phạm nội quy.
Điều đáng lo ngại hiện nay là tình trạng HS gây gổ đánh nhau ngày càng tăng, không chỉ có HS nam mà cả HS nữ. Năm học 2015 – 2016 tăng thêm 2 vụ so với năm học 2014 – 2015. Nguyên nhân chủ yếu là do xích mích trong tình bạn, tình thương mến khác giới dẫn đến kết bè kết nhóm, đón đường trả thù nhau. Vấn đề ở đây là các em lựa chọn cách ứng xử, cách làm theo cách nghĩ chủ quan. Chính vì vậy nhà trường tăng cường giáo dục ý thức, động cơ học tập đúng đắn, giáo dục tình bạn, tình đoàn kết chan hòa để HS gắn bó thông cảm giúp đỡ nhau trong học tập.
Số HS vi phạm nội quy trường lớp trong trường học tuy không nhiều nhưng ảnh hưởng đến môi trường sư phạm trong sạch. Phần lỗi này do một số gia đình quá nuông chiều các em hoặc một số gia đình cha mẹ không quan tâm tới việc rèn luyện của con. Do các em muốn được thể hiện mình là người lớn nên bắt chước nhiều thói hư tật xấu dẫn đến hành vi vi phạm đạo đức.
Qua số liệu điều tra cho thấy số HS thiếu tôn trọng thầy cô giáo là những HS chưa ngoan, khó giáo dục và thường bỏ học sớm. Tuy nhiên những cử chỉ vô lễ, những tật xấu của những HS đó làm ảnh hưởng đến tập thể HS nhà trường.
Qua trao đổi với một số GV chủ nhiệm lớp 12 của trường THPT Văn Hiến được biết thêm, những hành vi vi phạm này thường rơi vào các em học sinh cá biệt, yếu kém về đạo đức thường có những biểu hiện kém phát triển về thức tổ chức kỷ luật hoặc trở nên vô ý thức trong quan hệ cộng đồng, với người khác, nhận thức về xã hội lệch lạc hoặc thiếu niềm tin, hoài nghi cuộc sống, trong quan hệ với mọi người, ngay cả với người thân, ngại thổ lộ bộc bạch tâm tính, những nét riêng tư. Một số em có dấu hiệu bị tổn thương về tình cảm gia đình, tình cảm bạn bè, thầy trò, có những em không yêu quý cả với người ruột thịt của mình. Một số em sống thiếu tình cảm, mồ côi cha mẹ, khao khát muốn được sống trong tình cảm nhưng không được bù đắp thỏa đáng cũng làm cho các em tiêu cực, mất thăng bằng trong tình cảm, dễ bị kích động hoặc trở nên nhu nhược, yếu thế. Một số em tỏ ra kém ý chí không tự kiềm chế hành tiêu cực của mình hoặc tỏ ra yếu đuối, nhu nhược, dễ bị lôi cuốn, cám dỗ, ngại làm những việc cần phải khắc phục khó khăn trong học tập, lao động và những công việc cụ thể. HS yếu kém về đạo đức thường có biểu hiện vi phạm nội quy trường lớp, kỷ cương nền nếp, vi phạm kỷ luật: bỏ tiết, bỏ học, thường xuyên đi học muộn, đi học không có sách vở, đi học không đủ dụng cụ học tập, ý thức học tập yếu, trong giờ học thường mất trật tự, không ghi chép bài, học bài, làm bài, quay cóp, gian lận trong kiểm tra thi cử. Đôi khi có những hành vi tự do, vô tổ chức, trêu chọc người khác, vô lễ với thầy cô giáo, với người lớn tuổi, hay nói tục chửi bậy, bắt nạt bạn bè, một số em tuy học giỏi nhưng tỏ ra kiêu ngạo, ích kỷ, thiếu lòng nhân ái, sự chia sẻ. Một số em tập những thói quen xấu, tự do phóng túng, ăn mặc không theo quy định, hút thuốc lá và đặc biệt một số em có hành vi vi phạm pháp luật như: trộm cắp, trấn lột tiền, đánh hoặc thuê người khác đánh bạn, phá hoại tài sản của nhà trường, yêu đương quá sớm. Những HS yếu kém về đạo đức, đặc biệt là không có nhu cầu lành mạnh, sống thiếu niềm tin, kém ý chí… thông thường rơi vào tình trạng học tập yếu kém. Cùng với thời gian theo các bậc học, với tác động của gia đình và môi trường xã hội, từ chỗ tập nhiễm những yếu tố tiêu cực, dần dần trở thành đặc điểm tính cách của trẻ em thiếu giáo dục.
- Về nguyên nhân: Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Số HS yếu kém về đạo đức so với tổng số HS của nhà trường không phải là nhiều nhưng nó ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng. Để tìm nguyên nhân trên, tác giả tiến hành phỏng vấn lấy ý kiến của GV chủ nhiệm, GV bộ môn, tổng phụ trách, cha mẹ HS, cho thấy có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm các chuẩn mực đạo đức của HS. Nhìn chung có thể chia làm năm loại nguyên nhân chủ yếu:
Nguyên nhân từ phía gia đình: Gia đình là cái nôi của sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ thơ. Trình độ văn hóa, lối sống, phương pháp giáo dục gia đình có ảnh hưởng lớn đến nhân cách của trẻ. Kết quả điều tra cho thấy, phần lớn những HS vi phạm đạo đức thường là con cái của các gia đình có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế dẫn đến bố mẹ không có điều kiện quan tâm đến việc học hành của con cái hoặc có điều kiện kinh tế dư giả, do đó nuông chiều con cái quá mức. Bố mẹ lặn lội làm giàu giao phó việc dạy dỗ con cái cho nhà trường. Hay gia đình không hạnh phúc, các mối quan hệ và hành vi trong gia đình thiếu chuẩn mực. Bố, mẹ thiếu hiểu biết về tâm sinh lý lứa tuổi, thiếu kiến thức về giáo dục và chăm sóc con…
Nguyên nhân từ phía nhà trường: BGH chưa nắm bắt kịp thời các hiện tượng vi phạm đạo đức của HS để có biện pháp giáo dục phù hợp, năng lực sư phạm của một bộ phận GV còn hạn chế: chưa sâu sát HS để nắm bắt hoàn cảnh riêng của từng HS, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của HS; một số GV bộ môn chưa chú trọng việc thông qua “dạy chữ để dạy người”, đôi lúc còn coi giáo dục đạo đức cho HS là việc của GVCN, một số GV đôi lúc đôi nơi còn thiếu gương mẫu trong đạo đức, lối sống, chưa thực sự là “tấm gương sáng” để HS noi theo; việc áp dụng các phương pháp giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng còn cứng nhắc, thậm chí áp dụng sai nguyên tắc. Xem nhẹ yếu tố thuyết phục thường áp đặt ý kiến của người lớn hay thiếu tôn trọng nhân cách HS, thô bạo trong cách đối xử với HS. Chưa kết hợp được giáo dục những HS vi phạm chuẩn mực đạo đức với việc giáo dục cho cả tập thể HS… Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Nguyên nhân từ phía xã hội: Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương xây dựng một xã hội học tập trong đó quyền và nghĩa vụ của người học được gắn bó một cách hữu cơ. Tuy nhiên hiện nay một bộ phận HS chối bỏ quyền được học của mình, bởi thực tế quyền lợi của một số người học hành đến nơi đến chốn chưa được quan tâm bảo vệ một cách đầy đủ.(Có bằng đại học loại giỏi nhưng vẫn không tìm được việc). Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển mình. Cơ chế thị trường len lỏi vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội làm cho nhiều giá trị đạo đức truyền thống ngày càng bị xói mòn. Cùng với những thành quả đạt được về xây dựng kinh tế thì chúng ta cũng phải đối mặt với mặt trái của cơ chế thị trường đã làm xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc…trước những cám dỗ của đồng tiền đã làm không ít HS sa ngã, ảnh hưởng không tốt đến việc giáo dục đạo đức. Do buông lỏng trong quản lý của các cấp, các ngành về các hoạt động dịch vụ văn hóa đã làm xuất hiện ngày càng nhiều tụ điểm văn hóa không lành mạnh gần các trường học đã lôi kéo một bộ phận HS vào các trò giải trí như: internet, game… đây cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiện tượng HS trốn học, gây gổ đánh nhau thậm chí vi phạm pháp luật.
Nguyên nhân chủ quan từ phía HS: đó là những biến đổi tâm sinh lý lứa tuổi HS THPT, sự phát dục, cơ thể biến đổi nhanh chóng làm thay đổi nhận thức, thái độ của các em về bản thân. Ở giai đoạn này tình cảm của các em chưa bền vững không ổn định, khả năng làm chủ bản thân, sức đề kháng kém, bản lĩnh còn yếu trước những tác động tiêu cực từ môi trường bên ngoài… cho nên dễ phát sinh mặc cảm, sự bồng bột, cả tin…điều này tạo cơ hội cho những hiện tượng tiêu cực trong xã hội thâm nhập vào đời sống tinh thần của các em.
Nguyên nhân từ việc quản lý, phối hợp các lực lượng giáo dục: Các tổ chức chính trị xã hội nói chung Đoàn TNCS HCM nói riêng trong một số hoạt động chưa đạt hiệu quả cao, sự phối kết hợp các lực lượng trong nhà trường trong giáo dục đạo đức cho HS chưa tốt. Sự phối hợp giữa nhà trường và công an, chính quyền địa phương chưa thường xuyên. Như vậy để hoạt động giáo dục đạo đức đạt hiệu quả, người quản lý trường THPT phải xây dựng được mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường, xã hội. Giáo dục cho HS sự tự nhận thức, định hướng khả năng làm chủ, bản lĩnh.
Từ kết quả khảo sát trên cũng thấy nhà trường đã chú trọng đến việc giáo dục đạo đức cho HS những phẩm chất cần thiết cho con người mới, nhưng chưa toàn diện, đặc biệt là những phẩm chất có liên quan đến thái độ của mình đối với cuộc sống, đối với xã hội, đối với con người, với công việc, tập thể.
2.2.2. Thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Nhận thức của học sinh về vai trò của giáo dục đạo đức:
Để hiểu được suy nghĩ của HS về giáo dục đạo đức, tác giả đã trưng cầu ý kiến của 250 HS trong trường THPT Văn Hiến và có kết quả qua bảng 2.5 như sau:
Qua bảng thống kê 2.5 cho thấy, đại đa số các em HS đều đánh giá cao về vai trò giáo dục đạo đức trong nhà trường, nơi mà các em gắn bó suốt quãng đời học sinh của mình. Có thể mô tả nhận thức của học sinh về vai trò của giáo dục đạo đức bằng biểu đồ 2.1. sau đây:
Biểu đồ 2.1. Nhận thức của học sinh về vai trò của giáo dục đạo đức
Qua biểu đồ 2.1 cho thấy có tới 195 em HS trong số 250 em được hỏi cho rằng giáo dục đạo đức là điều rất cần thiết trong trường học, chiếm 78,0% và 38 HS trong số 250 em được hỏi cho rằng giáo dục đạo đức là cần thiết chiếm 15.2% Điều đó chứng tỏ các em mong muốn được giáo dục đạo đức để hoàn thiện nhân cách của mình. Do vậy chúng ta cần phải đặc biệt quan tâm đến giáo dục đạo đức cho HS trường THPT một cách thiết thực và phù hợp với lứa tuổi.
Bên cạnh đó vẫn có 6,8% ý kiến còn lại là những HS coi nhẹ vấn đề giáo dục đạo đức, cho rằng đây không cần thiết trong nhà trường. Như vậy, đây là con số không hề nhỏ, còn tồn tại cần được nhà trường nghiên cứu và sớm khắc phục.
- Nhận thức của giáo viên về vai trò của giáo dục đạo đức:
Để có cơ sở đánh giá quá trình nhận thức của GV về việc giáo dục đạo đức cho HS THPT tác giả khảo sát 45 GV trong trường THPT Văn Hiến và thu được kết quả thu được qua bảng 2.6:
Kết quả khảo sát cho thấy, lực lượng GV rất coi trọng công tác giáo dục đạo đức cho HS. Hầu hết các GV đều đánh giá các hoạt động giáo dục đạo đức cho HS ở mức độ cao, với điểm TB là trên 2.5. Tuy nhiên giữa các hoạt động giáo dục đạo đức cho HS có sự khác nhau nhất định.
Trong đó, hoạt động “Thực hiện bài giảng giáo dục đạo đức thông qua giờ sinh hoạt lớp” được đánh giá cao nhất với điểm TB tuyệt đối là 3.00. Điều đó cho thấy hoạt động này diễn ra rất thường xuyên và rất cần thiết trong việc giáo dục cho HS trường THPT Văn Hiến. Hoạt động “Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp” thấp nhất là 2.5. Tuy nhiên đây vẫn được đánh giá là hoạt động cần thiết đối với giáo dục đạo đức cho HS nhà trường.
Đối với hoạt động khác thì qua trao đổi với GV chủ nhiệm, tác giả nhận thấy họ rất ngần ngại đối tượng HS chưa ngoan trong lớp, chính đối tượng này làm ảnh hưởng đến phong trào thi đua, lôi kéo các thành viên trong lớp. Nhưng hầu hết GV chủ nhiệm đều lúng túng vì mỗi một HS chưa ngoan có những biểu hiện khác nhau và hiệu quả giáo dục cũng khác nhau, đôi khi hoạt động này chưa hiệu quả lắm. Tuy nhiên, việc phối hợp với các lực lượng bên ngoài lại không được GV chủ nhiệm quan tâm cũng như việc để HS tự quản và tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp song chưa có sự hướng dẫn cụ thể. Đây cũng là một quan điểm cần quan tâm khắc phục. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Bên cạnh đó, khi tiến hành phỏng vấn GV bộ môn chúng tôi nhận thấy việc giáo dục đạo đức thông qua bài giảng được đa số GV coi là mối quan tâm hàng đầu bên cạnh đó việc phối hợp GV chủ nhiệm, BGH, GV bộ môn để tìm biện pháp giáo dục HS chưa ngoan cũng được GV bộ môn coi trọng. Đây là nhận thức hết sức xác đáng. Tuy nhiên từ nhận thức đến hành động chưa thật sự nhất quán.
Qua trao đổi với HS, các em chỉ ra rằng giáo dục đạo đức là của GV chủ nhiệm. Bên cạnh đó giáo dục đạo đức thông qua bài giảng cũng được GV bộ môn chú trọng, nhưng việc này chủ yếu được thực hiện ở các môn khoa học xã hội còn các môn khoa học tự nhiên thì ít được quan tâm. Nhận thức giáo dục đạo đức thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp ít được GV bộ môn quan tâm, có lẽ vì đa số cho rằng đó là hoạt động chuyên trách của GV chủ nhiệm, hoặc đây là hoạt động ít được tổ chức, tốn nhiều thời gian mà hiệu quả thấp. Đây là nhận thức chưa đúng về hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, loại hình giáo dục mang tính giáo dục đạo đức rất cao mà hiện đang được triển khai đại trà.
- Thực trạng thực hiện mục tiêu và nội dung giáo dục đạo đức:
Để có cơ sở tìm hiểu về việc thực hiện mục tiêu và nội dung giáo dục đạo đức, tác giả khảo sát 45 CBQL và GV về mức độ thực hiện các mục tiêu và nội dung giáo dục đạo đức cho HS trường THPT Văn Hiến, kết quả được thể hiện qua bảng số liệu 2.7 dưới đây:
Kết quả bảng số liệu 2.7 cho thấy, các mục tiêu và nội dung giáo dục đạo đức chủ yếu được nhà trường quan tâm giáo dục và đã được đánh giá ở mức khá cao. Hầu hết các tiêu chí đều có điểm TB trên 2.31 trở lên.
Trong số các mục tiêu và nội dung dược đánh giá đạt mức độ ở mức cao là giáo dục tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, giáo dục ý thức phấn đấu trong học tập. Giáo dục ý thức chấp hành qui định của pháp luật, nội quy của nhà trường đề ra.
Tuy nhiên việc giáo dục tình bạn tình yêu lại không được đánh giá tốt, việc giáo dục tình bạn tình yêu cho tuổi mới lớn là rất cần thiết, việc phát triển tâm sinh lý là điều hết sức tự nhiên. Chúng ta hướng các em đi đúng hướng là việc làm giúp các em bớt đi sai lầm, đồng thời tăng tính giáo dục toàn diện hơn. Bên cạnh đó mục tiêu giáo dục HS tự giác thực hiện những chuẩn mực đạo đức của xã hội cũng bị đánh giá thấp.
- Việc thực hiện phương pháp và các hình thức giáo dục đạo đức:
- Về thực hiện phương pháp giáo dục:
Để có cơ sở tìm hiểu về việc thực hiện phương pháp giáo dục đạo đức, tác giả khảo sát 45 CBQL và GV về mức độ thực hiện phương pháp giáo dục đạo đức cho HS trường THPT Văn Hiến, kết quả được thể hiện qua bảng số liệu 2.8.
Qua bảng điều tra 2.8, cho thấy thực trạng thực hiện phương pháp giáo dục đạo đức của GV cho HS trường THPT Văn Hiến được thực hiện khá tốt. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Các phương pháp giáo dục đạo đức được GV sử dụng thường xuyên nhất là: “Nhắc nhở động viên”; “Phát động thi đua, khen thưởng kỷ luật”; “Phê phán những hiện tượng tiêu cực” với điểm TB từ 2.89 điểm trở lên. Điều đó cho đây là những phương pháp được GV sử dụng có hiệu quả, nên mới được GV sử dụng thường xuyên.
Các phương pháp giáo dục đạo đức it được sử dụng (và hiệu quả không được đánh giá cao) là “Tổ chức các hình thức sinh hoạt tập thể để thực hiện các nội dung giáo dục”; “Nói chuyện, hội thảo về đạo đức”; “Tổ chức tự quản cho HS”… Điểm TB của các phương pháp này thấp dưới 2.5. Các phương pháp giáo dục này được nhìn nhận và đánh giá lại rất khác nhau giữa các đối tượng khảo sát, chẳng hạn CBQL đánh giá cao phương pháp “Nói chuyện, hội thảo về đạo đức”, thì GV lại đánh giá thấp. Gv đánh giá cao phương pháp “Tổ chức các hình thức sinh hoạt tập thể để thể hiện nội dung giáo dục” thì CBQL cho rằng sử dụng phương pháp này là nhiều là đủ. Rõ ràng đây là điều cần lưu khi sử dụng và lựa chọn các phương pháp giáo dục cho phù hợp với lứa tuổi HS THPT, cũng như nhận thức của của GV và CBQL.
Đặ biệt là qua trao đổi với một số GV được biết “Việc nhắc nhở, động viên” và “Phát động thi đua khen thưởng, kỉ luật” là các phương pháp giáo dục đạo đức chủ yếu hiện nay, nhưng để đạt mức độ giáo dục toàn diện, cần quan tâm đến việc tổ chức các hình thức sinh hoạt tập thể, đặc biệt là công tác tự quản cho HS. Đây là thực trạng đáng quan tâm và có hướng khắc phục sớm để công tác giáo dục đạo đức đạt hiệu quả hơn.
- Về hình thức giáo dục đạo đức:
Để có cơ sở tìm hiểu về việc thực hiện hình thức giáo dục đạo đức, tác giả khảo sát 45 CBQL và GV về mức độ thực hiện các hình thức giáo dục đạo đức cho HS trường THPT Văn Hiến, kết quả được thể hiện qua bảng số liệu 2.9 :
Từ kết quả của bảng 2.9 trên nhận thấy công tác giáo dục đạo đức cho HS THPT chủ yếu qua các hình thức “Giáo dục đạo đức thông qua bài giảng của các bộ môn”; “Giáo dục đạo đức thông qua bài giảng môn giáo dục công dân”, “Đầu năm học tập nội quy nhà trường, lớp”. Điểm TB lần lượt là 3.00, và 2.98. Điều đó cho thấy đây là các hình thức giáo dục chủ yếu và được giáo viên thường xuyên sử dụng.
Có một số hình thức được cả GV và HS đánh giá cao như: Thông qua bài giảng, sinh hoạt lớp, Đoàn, hoạt động văn nghệ, học nội quy trường lớp… Còn một số hình thức giáo dục đạo đức GV đánh giá cao nhưng HS ngược lại như: Các hoạt động thời sự chính trị. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Thực tế trường THPT Văn Hiến, đã có nhiều cố gắng trong công tác giáo dục đạo đức, nhưng các hình thức giáo dục đạo đức còn nặng về hình thức, chưa thực sự thu hút HS tự tham gia để rèn luyện mình và để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức.
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường Trung học Phổ thông Văn Hiến
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và cách tiếp cận các chức năng quản lý thì thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường THPT Văn Hiến được thể hiện với 4 nội dung cụ thể là:
2.3.1. Thực trạng xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục đạo đức
Để có cơ sở tìm hiểu về việc thực trạng xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục đạo đức, tác giả khảo sát 45 CBQL và GV trường THPT Văn Hiến, kết quả được thể hiện qua bảng số liệu 2.10 dưới đây:
Kết quả bảng 2.10 cho thấy trường THPT Văn Hiến đã chủ động xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức cho HS trong cả năm học, cho các hoạt động kỷ niệm những ngày lễ lớn, cho thời gian dài, còn kế hoạch tuần, tháng ít được sử dụng. Mặc dù trên thực tế các kế hoạch giáo dục đạo đức chủ yếu được lồng ghép trong kế hoạch công tác, nói chung vẫn còn sơ sài, biện pháp và hình thức chưa đủ sinh động, chưa chú trọng đến cơ chế phối hợp.
Qua nghiên cứu thực tế thấy rằng, trong quản lý giáo dục nói chung nhà trường đã quan tâm đến xây dựng kế hoạch. Và đối với giáo dục đạo đức cho HS, nhà trường cũng đã tiến hành xây dựng kế hoạch để tổ chức thực hiện được thuận lợi. Việc xây dựng kế hoạch ở một khía cạnh nào đó được tiến hành thường xuyên theo định kì hàng tuần, hàng tháng và cho từng năm học. Tuy nhiên xem xét về mặt chất lượng của kế hoạch và yêu cầu về tính khoa học, toàn diện, đồng bộ, cụ thể, chi tiết của kế hoạch xây dựng cho một hoạt động rất quan trọng và phức tạp như hoạt động giáo dục đạo đức cho HS thì còn nhiều điểm cần được tiếp tục quan tâm, nghiên cứu để giải quyết. Từ thực tế nghiên cứu ta có thể đánh giá việc xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức cho HS của nhà trường chưa thực sự được quan tâm và đầu tư thỏa đáng.
Trong các ý kiến được hỏi thì có nhiều ý kiến cho rằng không có kế hoạch giáo dục đạo đức “Được xây dựng riêng cho công tác giáo dục đạo đức cả năm học”, xếp thứ 7/9 với mức điểm TB là 1.8.
Kế hoạch giáo dục đạo đức cụ thể cho từng tuần để trực tiếp tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục cho HS cũng như kế hoạch giáo dục riêng cho những tập thể và cá nhân “chậm tiến” cũng ít được quan tâm, chỉ có mức điểm TB lần lượt là 1.88 và 1.94. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Đa phần các ý kiến cho rằng kế hoạch giáo dục đạo đức cho HS được “Lồng ghép với kế hoạch tổng thể hàng năm, hàng tháng và nhiệm vụ công tác tuần” cũng như “Được lồng ghép với Nghị quyết lãnh đạo nhà trường” trong nghị quyết lãnh đạo nhà trường, đơn vị. Và trong các kế hoạch hoạt động của một số ngày lễ kỷ niệm, ngày truyền thống cũng có lồng ghép nội dung giáo dục tư tưởng, đạo đức cho HS.
Như vậy, ta có thể thấy từ việc chưa thực sự quan tâm đến công tác xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức, trong đó kế hoạch chủ yếu được lồng ghép với các kế hoạch khác, ít có kế hoạch riêng, nên chất lượng kế hoạch không cao, thiếu tính khoa học, toàn diện, đồng bộ, cụ thể, chi tiết. Chính điều này đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục đạo đức cho HS của nhà trường. Do đó đòi hỏi cần nâng cao nhận thức của đội ngũ lãnh đạo các cấp về vị trí, vai trò của công tác kế hoạch, cách thức xây dựng một bản kế hoạch để các hoạt động nói chung của nhà trường trong đó có xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục đạo đức cho HS nhằm nâng dần tính “chuyên nghiệp”, góp phần nâng cao chất lượng công tác của nhà trường.
2.3.2. Thực trạng về tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động giáo dục đạo đức
Để có cơ sở tìm hiểu về tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động giáo dục đạo đức, tác giả khảo sát 45 CBQL và GV trường THPT Văn Hiến, kết quả được thể hiện qua bảng số liệu 2.11 dưới đây:
Qua bảng số liệu 2.11 cho thấy việc triển khai kế hoạch công tác giáo dục đạo đức ở trường THPT Văn Hiến còn nhiều hạn chế. Có thể nói việc chưa thực sự quan tâm đến công tác kế hoạch cho hoạt động giáo dục đạo đức cũng chính là nguyên nhân của việc còn có những hạn chế trong triển khai kế hoạch. Mặc dù kế hoạch được triển khai “Đúng kế hoạch”, xếp thứ 3, nhưng có tới 84% (điểm TB = 1,68) ý kiến tán thành kế hoạch được triển khai “Máy móc theo kế hoạch đã định” và 78,4% (điểm TB = 1,84) ý kiến cho rằng kế hoạch còn “chung chung” và 58,4% (điểm TB = 1,78) tán thành “Không chú trọng bằng triển khai kế hoạch chuyên môn”. Tính thiết thực, cụ thể, đồng bộ trong triển khai kế hoạch cũng bị đánh giá thấp. Điều này cho thấy việc triển khai kế hoạch giáo dục đạo đức cho HS của nhà trường còn có những lúng túng nhất định đòi hỏi nhà trường cần phải quan tâm hơn để nâng cao không những việc xây dựng kế hoạch mà còn cả tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch.
Về hình thức triển khai kế hoạch giáo dục đạo đức, tác giả khảo sát 45 CBQL và GV trường THPT Văn Hiến, kết quả được thể hiện qua bảng số liệu 2.12: Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Từ kết quả bảng 2.12 ta thấy, hình thức mà nhà trường thường tiến hành khi triển khai kế hoạch giáo dục đạo đức cho HS là “Tập trung nghe phổ biến” (Điểm TB = 1,86), tiếp đến là “Triển khai qua hệ thống bảng tin, loa truyền thanh” (Điểm TB = 1,75), “Phát bản kế hoạch” (Điểm TB = 1,62) và cuối cùng là “Kết hợp cả ba hình thức trên” (Điểm TB = 1,52).
Như vậy, có thể nói với việc lựa chọn chủ yếu hình thức “tập trung nghe phổ biến” mà ít quan tâm đến việc phối hợp các hình thức tuyên truyền, phổ biến kế hoạch sẽ làm cho kế hoạch quán triệt thiếu sự thấu đáo, khó thấm sâu vào nhận thức của từng CBQL, GV, nhân viên và HS nhà trường. Dó đó sẽ ảnh hưởng không tốt tới chất lượng thực hiện kế hoạch và cũng chính là làm cho chất lượng đạo đức HS của nhà trường không đạt được mục tiêu mà kế hoạch nêu ra, không đạt được kì vọng của lãnh đạo nhà trường cũng như mong muốn của xã hội
2.3.3. Thực trạng về chỉ đạo hoạt động giáo dục đạo đức
Để có cơ sở tìm hiểu về chỉ đạo thực hiện kế hoạch hoạt động giáo dục đạo đức, tác giả khảo sát 45 CBQL và GV trường THPT Văn Hiến, kết quả được thể hiện qua bảng số liệu 2.13 dưới đây:
Qua bảng số liệu 2.13 cho thấy một số vấn đề như sau: Việc chỉ đạo các hoạt động giáo dục đạo đức cho HS còn nhiều bất cập. Điểm TB của các tiêu chí đều thấp. Hầu hết các hoạt động nêu trên đều được các CBQL thường xuyên làm trong công tác quản lý của mình. Song vấn đề mà GV “kêu ca” nhiều nhất đó là sự động viên, kích thích, uốn nắn từ phía CBQL không thường xuyên, việc phân công tác đôi lúc còn mang tính một chiều, hay kế hoạch giáo dục đạo đức cho HS được đưa ra trong các cuộc họp song chưa hướng dẫn chi tiết để mọi người cùng triển khai cho hiệu quả.
Hơn nữa, việc thực hiện phong trào “Nhà trường văn hoá, nhà giáo mẫu mực, HS thanh lịch” và cuộc vận động “Không vi phạm đạo đức nhà giáo” còn mang tính hình thức, không đưa ra được biện pháp hiệu quả để CBQL, GV, HS thực sự ủng hộ, rất ít các nhà trường tổ chức đánh giá việc thực hiện các cuộc vận động trên.
Nhiều GV khi được hỏi “Thầy/ Cô có biện pháp xử lý những HS hay vi phạm kỉ luật trong trường, trong lớp không?”, có nhiều ý kiến cho rằng việc dạy kiến thức trên lớp đã mất hết thời gian, làm sao có thể quan tâm hết đến những HS “cá biệt” đó được, một số ý kiến khác lại cho rằng khi HS vi phạm lỗi thì ghi tên vào sổ Ghi đầu bài để GV chủ nhiệm xử lý. Có những GV khi gặp phải bất cứ tình huống HS hư nào gây chuyện trong lớp đều phải gọi BGH lên giải quyết.
Khi GV được hỏi về việc đánh HS khi HS mắc lỗi, đa số GV đều cho rằng họ cảm thấy bất lực, không thể kiềm chế sự nóng giận khi HS liên tục mắc lỗi, không chịu cố gắng. Một số GV cho rằng HS bây giờ được cho quá nhiều “quyền” nên không biết nể sợ GV, cần phải có những biện pháp mạnh để “điều trị” những đứa trẻ ngỗ ngược như vậy.
Còn với câu hỏi “Thầy/ Cô cảm thấy như thế nào khi tham gia các hoạt động ngoại khóa với HS?” thì có GV thẳng thắn nói rằng họ không thích. Tìm hiểu nguyên nhân mới thấy một số người bận việc riêng, một số cảm thấy nhàm chán, một số cho là không có ích lợi gì. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Tìm hiểu thêm về GV thông qua các kênh phản biện khác như HS, phụ huynh HS, nhân dân quanh khu vực trường học, chúng tôi thấy còn một số vấn đề nổi cộm đó là: việc ra vào lớp của GV đôi khi không đúng giờ, cách ăn mặc, đầu tóc chưa thật phù hợp với việc lên lớp, việc sử dụng đồ dùng khi giảng dạy chỉ được thực hiện trong các tiết học có người dự giờ. Các đồng chí CBQL trong các nhà trường đều nhận thấy ý thức, thái độ của GV, nhân viên của mình trong giảng dạy cũng như trong công tác giáo dục đạo đức cho HS song đa số chỉ nhắc nhở nhẹ nhàng, chưa bao giờ có một hình thức kỷ luật nào đối với việc vi phạm của GV.
Vấn đề đặt ra là cần phải tăng cường tác động vào nhận thức của CBQL, GV, nhân viên về vấn đề giáo dục đạo đức cho HS đồng thời định hướng lại cho GV về tầm quan trọng của người GV trong vai trò một mẫu nhân cách, đạo đức, lối sống cho HS noi theo.
2.3.4. Thực trạng kiểm tra – đánh giá kết quả hoạt động giáo dục đạo đức
Để có cơ sở tìm hiểu về kiểm tra – đánh giá kết quả hoạt động giáo dục đạo đức, tác giả khảo sát 45 CBQL và GV trường THPT Văn Hiến, kết quả được thể hiện qua bảng số liệu 2.14 dưới đây:
Qua số liệu thể hiện trên bảng 2.14 trên thì thấy: Việc kiểm tra đánh giá các hoạt động giáo dục đạo đức của CBQL các trường THPT Văn Hiến diễn ra khá thường xuyên, song việc khen thưởng, động viên, phê bình, nhắc nhở chưa được kịp thời. Cho dù là GV hay HS, việc khen chê hợp lý, kịp thời sẽ động viên được người tham gia các hoạt động giáo dục đạo đức rất nhiều. Cần phải xem xét biện pháp này để thúc đẩy hơn nữa hiệu quả của việc tổ chức các hoạt động giáo dục đạo đức giáo dục đạo đức cho HS.
Công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục đạo đức cho HS đã được nhà trường quan tâm và tổ chức thực hiện. Trong hoạt động giáo dục đạo đức, công tác kiểm tra, đánh giá có ảnh hưởng khá lớn, tác động thuận chiều với chất lượng đạo đức HS. Ngoài ra qua điều tra thêm cho biết kết quả là có 97,6% ý kiến cho rằng công tác kiểm tra, đánh giá của nhà trường đối với hoạt động giáo dục đạo đức ảnh hưởng tới hoạt động này, và có 69,6% cho rằng có ảnh hưởng nhiều. Về tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, đánh giá thời gian qua, nhà trường chủ yếu tập trung vào mặt định lượng như việc lập kế hoạch giáo dục đạo đức, tổ chức, triển khai, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện kế hoạch, hồ sơ, sổ sách công tác QL giáo dục đạo đức, việc chấp hành kỉ luật, kết quản phân loại rèn luyện HS…. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Tuy nhiên, việc kiểm tra chưa được thường xuyên, các vấn đề phức tạp mang tính định tính ít được chú ý đến như vấn đề trách nhiệm của CBQL, GV, nhân viên và nhất là GV chủ nhiệm đối với hoạt động giáo dục đạo đức cho HS; nhận thức của CBQL GV về vị trí, vai trò của giáo dục đạo đức HS, sự gương mẫu của CBQL, GV, nhân viên nhà trường,… Còn với hình thức kiểm tra, nhà trường chưa quan tâm đổi mới và vận dụng linh hoạt mà thường tiến hành tiến hành theo định kì, đồng loạt, có thông báo trước; chỉ tập trung vào kiểm tra hồ sơ, sổ sách, nghe báo cáo kết quả của các đơn vị chức năng. Các căn cứ đánh giá mức độ rèn luyện của HS theo Quyết định số 08/2007/QĐ-BCA(X14) ngày 02 tháng 01 năm 2007 có những nội dung chung chung, khó định lượng, khó kiểm tra, đánh giá mức độ chính xác của việc phân loại rèn luyện HS ở các lớp học. Do đó việc đánh giá ít nhiều sẽ bị ảnh hưởng bởi nhân tố chủ quan của những người có trách nhiệm đánh giá xếp loại (nhất là những người có ảnh hưởng cao như GV chủ nhiệm, Phòng Công tác HS, SV).
2.3.5. Những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường Trung học Phổ thông Văn Hiến
Để tìm hiểu nguyên nhân của những hạn chế trong việc quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS tác giả khảo sát 45 CBQL và GV trường THPT Văn Hiến, kết quả được thể hiện qua bảng số liệu dưới đây:
Với kết quả bảng 2.15 trên cho thấy có hai nhóm nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến tính hiệu quả của việc quản lý giáo dục đạo đức cho HS.
- Nhóm nguyên nhân khách quan:
Do sự chỉ đạo thiếu đồng bộ từ trên xuống và do thiếu các tài liệu văn bản pháp quy hướng dẫn. Trên thực tế nhà trường chưa có các văn bản hướng dẫn cụ thể về việc đánh giá đạo đức, hạnh kiểm của HS, dẫn đến tình trạng không ít GV chủ nhiệm trẻ lúng túng trong việc xếp loại hạnh kiểm HS.
- Nhóm nguyên nhân chủ quan: Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Do nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng của hoạt động giáo dục đạo đức. Vì nhận thức còn hạn chế nên nhiều CBQL, GV chưa thật nhiệt tình tham gia quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS, có GV chủ nhiệm buông lỏng công tác giáo dục đạo đức cho HS, chưa xây dựng được màng lưới tổ chức quản lý, công tác thanh tra, kiểm tra chưa thường xuyên, chặt chẽ. Sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa các lực lượng giáo dục.
Công tác đánh giá khen thưởng chưa động viên kịp thời, chưa động viên được phong trào thi đua của GV và HS. Nguyên nhân chủ quan rất cốt lõi là số GV chủ nhiệm tâm huyết với nghề, yêu trẻ và có nhiều kinh nghiệm trong công tác giáo dục đạo đức cho HS chưa nhiều, những GV trẻ mới ra trường nên chưa có nhiều kinh nghiệm sống và công tác giảng dạy cũng như công tác chủ nhiệm. Chính vì vậy cần thiết phải bồi dưỡng đội ngũ GVCN là lực lượng nòng cốt giáo dục đạo đức cho HS.
2.4. Đánh giá chung về thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường Trung học Phổ thông Văn Hiến
2.4.1. Mặt tích cực
Trong nhưng năm học qua, các thầy cô giáo trường THPT Văn Hiến với sự nỗ lực của mình đã trau dồi phẩm chất và năng lực, thể hiện tấm gương sáng cho HS noi theo. Ngày càng xuất hiện nhiều hơn những tấm gương tiêu biểu trong công tác giảng dạy, học tập và rèn luyện.
Việc phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường đã có tác dụng tích cực trong công tác phòng chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào học đường, giữ được môi trường sư phạm lành mạnh, đây là những điều kiện cần thiết trong công tác giáo dục đạo đức hình thành nhân cách HS.
Công tác GVCN được nhà trường chú trọng về lực lượng, coi đây là cầu nối giữa nhà trường với tập thể lớp, với từng HS và cũng là đường dây liên lạc hiệu quả nhất để truyền và thu nhận thông tin từ hai phía nhằm điều khiển, điều chỉnh kịp thời công tác chỉ đạo của Hiệu trưởng. Đồng thời đội ngũ GVCN cũng giữ được mối liên lạc với CMHS, nắm bắt cụ thể hoàn cảnh từng gia đình HS để vận dụng các biện pháp giáo dục phù hợp, và thực sự có hiệu quả.
Công tác giáo dục ngoài giờ lên lớp, mặc dù mới được triển khai nhưng trường THPT Văn Hiến đã có nhiều các hoạt động phong phú như: giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, tham quan du lịch… đã thực sự đem lại tính thiết thực trong suy nghĩ và hành động của HS.
Về phía HS đại đa số các em có nhận thức đúng đắn về những giá trị chuẩn mực, luôn vâng lời thầy cô giáo, ra sức phấn đấu tu dưỡng rèn luyện phẩm chất của mình để trở thành con ngoan trò giỏi.
Ưu điểm cơ bản nhất đó chính là đội ngũ. GV nhà trường đều có ý thức quan tâm đến công tác giáo dục đạo đức, nhiều cá nhân đã cố gắng cao trong cương vị công tác của bản thân để thực hiện tốt công tác này.
2.4.2. Mặt hạn chế Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
BGH chưa quan tâm đúng mức đến công tác quản lý công tác giáo dục đạo đức cho HS, điều này thể hiện ở việc chưa có kế hoạch chuyên đề về giáo dục đạo đức hành năm, hàng tháng, nội dung giáo dục đạo đức cho HS chưa thiết thực, chưa thật phù hợp với tình hình cụ thể của nhà trường, hình thức giáo dục đạo đức cho HS đề ra trong kế hoạch chung còn chưa phong phú, hấp dẫn, nội dung giáo dục đạo đức chưa thiết thực, còn mang tính bề nổi, thiếu bề sâu.
Quy trình quản lý công tác giáo dục đạo đức chưa rõ ràng, chưa xây dựng được cơ chế phối hợp đồng bộ giữa GVCN, GVBM và các tổ chức khác trong nhà trường để thực hiện công tác giáo dục đạo đức cho HS. Việc phối hợp với các lực lượng giáo dục ở ngoài nhà trường còn thiếu chủ động, chưa tập trung vào các mục tiêu giáo dục đạo đức.
Chưa có các biện pháp chủ động phát hiện sớm, phân công quản lý các HS có biểu hiện chưa ngoan để có phương pháp giáo dục hiệu quả ngày tử khi những HS này còn ở mức độ vi phạm chưa có hệ thống hoặc ở mức độ nhẹ… Chính vì đơn giản và quá thụ động nên dễ làm HS quá nhàm chán, nhất là đối tượng HS chưa ngoan về đạo đức thì chưa tạo được tình cảm mãnh liệt cần giúp các em nhận thức và điều chỉnh.
Việc kiểm tra đánh giá chưa tập trung vào các hoạt động giáo dục đạo đức của các tổ chức cá nhân trong nhà trường, chưa thường xuyên coi trọng đúng mức kiểm tra đánh giá chuyên sâu về các hoạt động giáo dục đạo đức và chưa gắn chặt các hoạt động này với công tác khen thưởng, kỷ luật cán bộ, GV và HS.Chủ yếu sơ kết, tổng kết chỉ thông qua sinh hoạt động dưới cờ, sinh hoạt động bằng những khen, chê theo vụ việc. Ngoài ra kế hoạch và triển khai thực hiện kế hoạch của nhà trường cũng chưa hợp lý và chưa kịp thời đúng lúc. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Bên cạnh đó cần nhấn mạnh một số mặt cụ thể như sau: Vẫn còn một số bộ phận nhỏ CBQL, GV chưa có nhận thức đúng và chưa thực sự quan tâm đến công tác giáo dục đạo đức cho HS, khi chưa có nhận thức đúng đắn thì hiển nhiên hành động sẽ bị sai lệch, giáo dục đạo đức chủ yếu quan tâm đến mặt nhận thức (lý luận) mà chưa chú trọng đến việc rèn luyện ý chí, thái độ hành vi cho HS. Các hình thức tổ chức giáo dục tuy có đa dạng, nhưng nội dung còn nghèo nàn, dập khuôn, chưa đổi mới, phương pháp chưa phù hợp nên chưa uốn nắn kịp thời những hành vi sai lệch của HS. Tuy dạy lồng ghép trong các môn học thông qua “dạy chữ” để “dạy người” chưa đồng bộ chưa đưa vào tiêu chí đánh giá giờ dạy, môn giáo dục CD chưa được chú trọng, bị xem là môn phụ. Công tác phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong qua trình giáo dục đạo đức cho HS chưa tạo được sự đa dạng các hình thức phối kết hợp chặt chẽ. CSVC, tài chính hỗ trợ cho các hoạt động của Đoàn, Hội còn nghèo nàn, quá eo hẹp do vậy khó khăn thu hút đông đảo HS tham gia công tác giáo dục đạo đức đạt hiệu quả cao.
Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động quản lý giáo dục đạo đức cho HS trường THPT Văn Hiến thấy rằng: Công tác giáo dục đạo đức cho HS đã được mọi cấp, ban ngành quan tâm, nhà trường đã chú trọng và đã đạt được kết quả nhất định, song chưa đáp ứng tốt được yêu cầu của xã hội.
Để giải quyết được vấn đề này, trước tiên phải tạo được sự chuyển biến về nhận thức và hành động, của CBQL, GVCN, GVBM, CMHS…Làm được điều này cần xác lập các biện pháp quản lý của hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho HS trường THPT Văn Hiến được đề cập trong chương 3 của luận văn.
Kết luận chương 2
Công tác giáo dục đạo đức cho HS ở trường THPT Văn Hiến quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội đã tạo được những bước chuyển biến đáng kể. BGH và đội ngũ CBQL, GV đã luôn nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt các hoạt động giáo dục trong nhà trường. Nhà trường đã chỉ đạo công tác giáo dục đạo đức theo đúng quy trình quản lý như: thành lập ban chỉ đạo, xây dựng kế hoạch hoạt động, tổ chức triển khai, giao nhiệm vụ cụ thể tới từng bộ phận, từng cá nhân trong nhà trường.
Chính vì vậy đại đa số HS có ý thức tu dưỡng đạo đức, chăm chỉ học tập, trở thành con ngoan, trò giỏi. Tuy nhiên vẫn còn những trường hợp HS chưa ngoan, vi phạm đạo đức. Nguyên nhân cơ bản là do công tác quản lý giáo dục đạo đức cho HS còn hạn chế, các biện pháp quản lý giáo dục đạo đức chưa thiết thực, mang nặng tính hình thức. Để khắc phục vấn đề này, đòi hỏi cán bộ làm công tác quản lý phải tìm tòi nghiên cứu tìm ra những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho HS. Đó là nội dung chính tác giả trình bày ở chương 3. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh

Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com
Pingback: Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh