Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh tại trường THPT Văn Hiến, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở bất kì thời đại hay chế độ nào, con người với trí tuệ và sức khỏe của mình luôn là chủ thể sáng tạo ra nền văn minh nhân loại. Đảng ta xác định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội, nên chỉ rõ “Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách hàng đầu” [5,6,7] và với: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội; hình thành bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [23].
Đương thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường là một bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của giáo dục trong nhà trường xã hội chủ nghĩa. Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả đức lẫn tài. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc quan trọng” [20] và Người cũng đã khẳng định: người có tài mà không có đức là người vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Qua lời dạy của Người và quan điểm của Đảng chúng ta thấy rằng giáo dục đạo đức là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục con người, và để công tác giáo dục đạo đức đạt kết quả tốt thì việc quản lí giáo dục đạo đức là một trong các nội dung quan trọng của quản lí GD&ĐT con người nói chung.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, đặc biệt khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, tính cạnh tranh của kinh tế thị trường làm xuất hiện một số mặt trái và cùng với các tệ nạn xã hội đã tác động rất lớn đến một bộ phận thế hệ trẻ. Một số thanh niên, HS, sinh viên sa vào lối sống tùy tiện, cẩu thả và thực dụng. Do vậy việc giáo dục đạo đức và quản lí giáo dục đạo đức cho HS trở lên cấp thiết. Nhiệm vụ của giáo dục đạo đức là giúp cho HS nhìn nhận những chuẩn mực đúng và các giá trị đúng vừa phục vụ lợi ích của bản thân và lợi ích của cộng đồng. Đảng và Nhà nước chỉ rõ, trong những năm tới cần “Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác-Lênin …tổ chức cho HS tham gia các hoạt động xã hội, văn hóa thể thao phù hợp với lứa tuổi và yêu cầu giáo dục toàn diện”. [7]
Trường THPT Văn Hiến, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội là một trường THPT dân lập năm ở trung tâm thành phố Hà Nội, có bề dày truyền thống và kinh nghiệm trong dạy học và giáo dục. Trong nhiều năm qua, nhà trường đã thu hút một lượng HS có kết quả thi vào lớp 10 THPT không cao, thường thì các em không đủ điểm đỗ vào các trường THPT công lập theo nguyện vọng đã đăng ký. Có thể nói chính những HS này dễ bị tác động tiêu cực trong đời sống xã hội, dễ bị ảnh hưởng của mặt trái của nền kinh tế thị trường. Vì vậy việc giáo dục đạo đức và quản lý giáo dục đạo đức cho HS của nhà trường là luôn luôn cần thiết và cấp bách. Qua theo dõi rất nhiều phụ huynh khi con họ “Chỉ đỗ vào trường ngoài công lập” thì coi đó như một sự “thất bại”, bởi mục tiêu của phụ huynh là phấn đấu học trường công lập. Từ đó sự quan tâm, sự đầu tư, của phụ huynh nhiều khi không thỏa đáng. Đội ngũ GV của nhà trường ngoài công lập đa số là GV trẻ, nhiệt tình nhưng kinh nghiệm chưa nhiều, và khi có đủ điều kiện họ sẽ phát triển đi dạy ở các trường công lập khác. Do đó việc quản lý hoạt động giáo dục đạo đức càng trở lên cấp thiết và được coi trong hàng đầu. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh tại trường THPT Văn Hiến, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội” để nghiên cứu với mong muốn nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện nói chung và chất lượng giáo dục đạo đức cho HS của nhà trường nói riêng.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động quản lý giáo dục đạo đức cho HS trường THPT dân lập, từ đó đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục dục đạo đức của cho HS ở trường THPT Văn Hiến, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường hiện nay, góp phần giáo dục toàn diện cho HS.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu
Hoạt động giáo dục đạo đức cho HS trường THPT.
- Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS tại trường THPT Văn Hiến, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
- Khảo sát và phân tích, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS tại trường THPT Văn Hiến, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS tại trường THPT Văn Hiến, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội hiện nay Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
5. Câu hỏi nghiên cứu
Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS trường THPT Văn Hiến dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn nào?
Những biện pháp quản lý nào có thể khắc phục những bất cập, khó khăn trong quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS trường THPT Văn Hiến?
6. Giả thuyết khoa học
Trường THPT Văn Hiến, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội là trường THPT dân lập, đạo đức của học sinh trong nhà trường vẫn còn những biểu hiện chưa tốt. Nếu xác định được đúng nguyên nhân và đưa ra được các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS nhà trường một cách khoa học, phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường và địa phương, thì sẽ nâng cao hơn chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường.
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS trường THPT dân lập Văn Hiến.
- Giới hạn về khách thể khảo sát, gồm: 5 CBQL, 45 GV, 250 HS.
- Số liệu khảo sát từ năm 2012 đến 2016.
8. Ý nghĩa của luận văn
- Ý nghĩa về lý luận
Hệ thống hóa lý luận về giáo đục dạo đức, quản lý giáo dục đạo đức cho HS trường THPT dân lập, chỉ ra những điểm mạnh và mặt hạn chế, tồn tại của công tác quản lý, cung cấp cơ sở khoa học để xây dựng một số biện pháp quản lý hoạt động này.
- Ý nghĩa về thực tiễn Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Kết quả nghiên cứu có thể áp dụng cho công tác quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho trường THPT Văn Hiến nói riêng và các trường THPT dân lập nói chung.
9. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Tiến hành phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa và khái quát hóa các văn bản, tài liệu thể hiện quan điểm, đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các công trình nghiên cứu khoa học, báo cáo khoa học về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS tại trường THPT để hình thành cơ sở lý luận của đề tài.
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Tiến hành xây dựng và khảo sát bằng phiếu hỏi đối với CBQL, GV và HS nhằm thu thập thông tin từ đó đánh giá thực trạng về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS tại trường THPT Văn Hiến.
Phương pháp phỏng vấn: Tiến hành phỏng vấn với một số CBQL như lãnh đạo, GV cốt cán nhà trường nhằm thu thập thông tin thêm, bổ sung cho việc đánh giá thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS tại trường THPT Văn Hiến.
Phương pháp chuyên gia: Tiến hành lấy ý kiến của một số chuyên gia am hiểu vấn đề quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS tại trường THPT nhằm làm đánh giá chính xác thực trạng này ở trường THPT Văn Hiến.
- Phương pháp thống kê toán học
Tiến hành sử dụng các phép toán thống kê nhằm xử lý các số liệu đã điều tra được, từ đó thu được các số liệu phù hợp để đánh giá trong quá trình nghiên cứu.
10. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục thì nội dung chính của luận văn được cấu trúc thành 3 chương như sau: Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
- Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
- Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS ở trường THPT Văn Hiến, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
- Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS ở trường THPT Văn Hiến, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội hiện nay.
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển cá nhân và xã hội. Đạo đức được hình thành, phát triển cùng với lịch sử hình thành xã hội loài người và luôn được mọi tầng lớp, giai cấp, mọi thời đại quan tâm, xem nó như động lực tinh thần để hoàn thiện nhân cách con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy định chuẩn mực hướng con người người tới chân, thiện, mỹ chống lại cái giả dối, cái ác cái xấu… Các chuẩn mực đạo đức xuất hiện do nhu cầu của đời sống xã hội, là sản phẩm của lịch sử xã hội, do cơ sở KT – XH quyết định. Bất cứ trong thời đại lịch sử nào, đạo đức con người đều được đánh giá theo khuôn phép chuẩn mực và quy tắc đạo đức chung của xã hội. Đạo đức là sản phẩm của xã hội, cùng với sự phát triển của sản xuất, của các mối quan hệ xã hội, hệ thống các quan hệ đạo đức, thức đạo đức, hành vi đạo đức cũng theo đó ngày càng phát triển, ngày càng nâng cao, phong phú, đa dạng và phức tạp hơn.
Chủ nghĩa Mác – Lênin luôn khẳng định “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội“, có nguồn gốc từ lao động sản xuất và đời sống cộng đồng. Đạo đức là một phạm trù mang tính vĩnh hằng nhưng lại mang những đặc điểm của giai cấp, của dân tộc và thay đổi chuẩn mực trong từng giai đoạn lịch sử.[10]
Đạo đức vừa phản ánh và chịu sự chi phối của tồn tại xã hội được biến đổi theo sự biến đổi của tồn tại xã hội.
Trong quan niệm truyền thống dân tộc Việt Nam, giáo dục đạo đức luôn được coi là vấn đề cơ bản trong quan hệ Đức và Tài của nhân cách con người. Văn hóa hương ước làng quê Việt Nam có nhiều quy định ràng buộc và yêu cầu cao về giáo dục con người sống có đạo đức, thậm chí đề cao đạo đức là cốt cách con người. Ngay từ thuở ấu thơ con trẻ đã được răn dạy “cái nết đánh chết cái đẹp”, “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Cách mạng tháng 8-1945 thành công, chế độ dân chủ nhân dân được thành lập, cùng với chế độ xã hội mới, nền văn hóa mới và nền giáo dục mới được xây dựng. Gắn liền với bản sắc và truyền thống dân tộc, vấn đề giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ và cho mọi tầng lớp nhân dân luôn được Đảng và Nhà nước ta coi trọng. Đường lối phát triển văn hóa giáo dục nhất quán và một hệ thống pháp luật, các thể chế về xây dựng đạo đức xã hội XHCN và giáo dục đạo đức con người mới đã dần từng bước được hoàn thiện và phát huy tích cực với thực tiễn đời sống xã hội, mà trước hết được thể hiện trong chương trình giáo dục, lồng ghép trong nội dung các môn học trong mọi cấp học.
Là người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước ta, Bác Hồ là người đặc biệt quan tâm đến đạo đức và giáo dục đạo đức cho cán bộ, HS. Bác đã chỉ rõ rằng đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng của người cách mạng. Bác luôn căn dặn Đảng ta phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, HS thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng’’ vừa “chuyên”. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi nội dung cơ bản trong quan điểm đạo đức cách mạng là: Trung với nước, hiếu với dân; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; yêu thương con người; tinh thần quốc tế trong sáng.
Ở phương Tây, thời cổ đại, nhà triết học Socrate (469-399 TCN) cho rằng cái gốc của đạo đức là tính thiện. Bản tính con người vốn thiện, nếu tính thiện ấy được lan tỏa thì con người sẽ có hạnh phúc. Muốn xác định được chuẩn mực đạo đức, theo Socrate, phải bằng nhận thức lý tính với phương pháp nhận thức khoa học.[10]
Khổng Tử (551-478 TCN) là nhà hiền triết nổi tiếng của Trung Quốc. Ông xây dựng học thuyết “Nhân – Lễ – Chính danh”, trong đó, “Nhân” – Lòng thương người – là yếu tố hạt nhân, là yếu tố cơ bản nhất của con người. Đứng trên lập trường coi trọng giáo dục đạo đức, Ông có câu nói nổi tiếng truyền lại đến ngày nay “Tiên học lễ, hậu học văn”.[10]
Trong những năm gần đây, nhiều giáo trình đạo đức được biên soạn khá công phu. Tiêu biểu như giáo trình của Trần Hậu Kiểm (Nxb Chính trị Quốc gia, 1997); Phạm Khắc Chương – Hà Nhật Thăng (Nxb Giáo dục, 2001);…
Khi nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức các tác giả đã đề cập đến mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục đạo đức và một số vấn đề về quản lý công tác giáo dục đạo đức.
Về mục tiêu giáo dục đạo đức, tác giả Phạm Minh Hạc đã nêu rõ: “Trang bị cho mọi người những tri thức cần thiết về tư tưởng chính trị, đạo đức nhân văn, kiến thức pháp luật và văn hóa xã hội. Hình thành ở mọi công dân thái độ đúng đắn, tình cảm, niềm tin đạo đức trong sáng đối với bản thân, mọi người, với sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc và với mọi hiện tượng xẩy ra xung quanh. Tổ chức tốt giáo dục giới trẻ; rèn luyện để mọi người tự giác thực hiện những chuẩn mực đạo đức xã hội, có thói quen chấp hành quy định của pháp luật, nỗ lực học tập và rèn luyện, tích cực cống hiến sức lực, trí tuệ vào sự nghiệp CNH- HĐH đất nước” [14, tr 168-170]. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Để nâng cao chất lượng đạo đức trong thời kỳ đổi mới đó có một số nhà khoa học nghiên cứu về quản lý công tác giáo dục đạo đức. Tuy còn ít ỏi nhưng có thể kể đến các công trình sau:
- “Một số vấn đề quản lý giáo dục đạo đức cho HS THPT Thành phố Huế” Phạm Văn Công (Khoa Sư phạm ĐHQGHN, 1999).
- “Biện pháp tổ chức phối hợp giữa gia đình với nhà trường và xã hội trong công tác giáo dục đạo đức cho HS THPT Huyện Mỹ Đức (Hà Tây) hiện nay” Bùi Đức Thảo (Khoa Sư phạm ĐHQG HN, 2008).
- “Các biện pháp quản lý công tác giáo dục của Hiệu trưởng trường THPT tỉnh Hưng Yên” Đỗ Quang Hợp (Khoa Sư phạm ĐHQG HN, 2007).
Nhìn chung các đề tài nghiên cứu trên đi sâu vào việc xác định các nội dung giáo dục đạo đức, định hướng các giá trị đạo đức, các biện pháp giáo dục đạo đức cho HS THPT. Đặc biệt, hiện nay chưa có đề tài nào nghiên cứu về những biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS THPT dân lập nói chung và HS THPT Văn Hiến nói riêng. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS tại trường THPT Văn Hiến, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội” với hy vọng đây là sự kế thừa cần thiết các nghiên cứu đi trước và cùng góp phần thêm công sức và sự vận dụng hệ thống lý luận quản lý giáo dục nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức HS trường THPT Văn Hiến, cũng như các trường THPT dân lập trên địa bàn thành phố Hà Nội.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức
- Đạo đức:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội “Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ con người đối với nhau và đối với xã hội” [26, tr.297].
Theo tác giả Phạm Khắc Chương, Hà Nhật Thăng: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội nhờ đó mà con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích con người và với tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội” [9, tr.4]. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Dưới góc độ Triết học, đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên lý, quy tắc, chuẩn mực điều tiết hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng. Căn cứ vào những quy tắc ấy, người ta đánh giá hành vi, phẩm giá của mỗi người bằng các quan niệm về thiện ác, chính nghĩa và phi nghĩa, nghĩa vụ, danh dự [17, tr.145]. Với góc độ Đạo đức học, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt bao gồm một hệ thống các quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội [17, tr12].
Dưới góc độ Giáo dục học, đạo đức là một mặt của nhân cách, bao gồm một hệ thống các quan niệm về cái thiện, cái ác, cái tốt, cái xấu… trong mối quan hệ của con người với con người [17, tr.170-171].
Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm trù chính trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh bộ mặt nhân cách của một cá nhân đã được xã hội hoá. Đạo đức được biểu hiện ở cuộc sống tinh thần lành mạnh, trong sáng, ở hành động giải quyết hợp lý, có hiệu quả những mâu thuẫn. Khi thừa nhận đạo đức là một hình thái ý thức xã hội thì đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi tầng lớp giai cấp trong xã hội cũng phản ánh ý thức chính trị của họ đối với các vấn đề đang tồn tại [10, tr153-154]. Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu của xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội”[17, tr12 ].
Bản chất đạo đức là những quy tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã hội, nó được hình thành, tồn tại và phát triển trong cuộc sống, được xã hội thừa nhận và tự giác thực hiện. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh những quan hệ xã hội được hình thành trên cơ sở kinh tế, xã hội. Mỗi hình thái kinh tế hay mỗi giai đoạn đều có những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức tương ứng. Vì vậy, đạo đức có tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời đại. Nghĩa là những giá trị đạo đức của ngày hôm qua nhưng lại không phù hợp với ngày hôm nay hoặc có những giá trị đạo đức phù hợp với giai cấp này nhưng lại không phù hợp với giai cấp khác, dân tộc khác. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường và sự hội nhập quốc tế, thì khái niệm đạo đức cũng có thay đổi theo tư duy và nhận thức mới. Tuy nhiên, không có nghĩa là các giá trị đạo đức cũ hoàn toàn mất đi, thay vào đó là các giá trị đạo đức mới. Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, các giá trị đạo đức hiện nay là sự kết hợp sâu sắc truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với xu hướng tiến bộ của thời đại, của nhân loại. Đó là tinh thần cần cù lao động, sáng tạo, tình yêu quê hương đất nước gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có nếp sống văn minh, có tinh thần nhân đạo và tinh thần quốc tế cao cả. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, chịu sự chi phối của điều kiện kinh tế vật chất xã hội, đồng thời nó cũng có quan hệ tương tác với các hình thái ý thức xã hội khác như pháp luật, văn hoá, nghệ thuật, giáo dục, khoa học… Vì vậy trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách có 3 thành tố: Hành vi đạo đức, hành vi pháp luật, hành văn hoá được coi là phẩm đức của con người hoàn thiện gồm hai mặt đức và tài. Trong đó hành vi đạo đức được đánh giá là thành tố quan trọng nhất, tốt đẹp nhất theo triết lý: “Pháp luật là đạo đức tối thiểu. Đạo đức là pháp luật tối đa”.
Theo triết lý pháp luật và đạo đức là hai bậc thang của một hành vi liên quan chặt chẽ với nhau cùng một mục đích làm điều thiện, tránh điều ác. Pháp luật là đạo đức tối thiểu, chung quy lại là không được làm điều ác. Đạo đức là pháp luật tối đa, chung quy lại là không những không làm điều ác mà cần tự nguyện làm điều thiện đem lại lợi ích vật chất hay tinh thần cho người khác.
Xuất phát từ mối liên hệ biện chứng giữa các hình thái ý thức đã trình bày ở trên thì việc giáo dục đạo đức trong nhà trường cần được hiểu theo một khái niệm rộng là bao gồm hành vi đạo đức, hành vi pháp luật và hành vi văn hoá.
- Giáo dục:
Trước hết giáo dục là hoạt động hay quá trình được tổ chức một cách có hệ thống có mục đích với nội dung, phương pháp, phương tiện nhằm tác động đến sự phát triển tinh thần, thể chất của nhóm đối tượng nào đó, làm cho họ dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Giáo dục theo nghĩa hẹp là một trong hai quá trình bộ phận tạo nên quá trình sư phạm tổng thể. Theo cách hiểu này thì hoạt động giáo dục tác động trực tiếp đến hệ thống giá trị, tư tưởng, tình cảm, đạo đức của đối tượng giáo dục.
Như vậy, có thể hiểu: Giáo dục là hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội.
- Giáo dục đạo đức:
Giáo dục đạo đức là tác động có ý thức nhằm hình thành cho con người thức, tình cảm, động cơ và hành vi đạo đức đúng đắn, trên cơ sở giúp họ tiếp thu được các quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản của xã hội và giúp họ thể hiện các quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức trong hoạt động sống (hệ thống hành vi, hành động, thói quen…) của cá nhân. Dựa trên các quan điểm, nguyên tắc ấy con người phân biệt, lựa chọn các quan hệ đạo đức đúng đắn, phê phán những hành vi đạo đức không phù hợp với yêu cầu xã hội.
Giáo dục đạo đức HS là một quá trình được thực hiện trong nhà trường, có tính liên tục về thời gian và không gian, do nhiều lực lượng xã hội tham gia, trong đó nhà trường đóng vai trò then chốt.
Theo giáo sư Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: “Giáo dục đạo đức là quá trình biến các chuẩn mực đạo đức, từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục”. [15]
Giáo dục đạo đức trong trường phổ thông là một bộ phận của của quá trình giáo dục toàn diện có quan hệ biện chứng với các quá trình giáo dục khác như giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động và giáo dục hướng nghiệp nhằm hình thành cho HS niềm tin, thói quen, hành vi, chuẩn mực đạo đức.
Giáo dục đạo đức là tác động có ý thức nhằm hình thành cho con người có ý thức, tình cảm, động cơ và hành vi đạo đức đúng đắn, trên cơ sở giúp họ tiếp thu được các quan điểm nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản của xã hội và giúp họ thể hiện các quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức trong hoạt động sống của cá nhân. Dựa trên các quan điểm, nguyên tắc ấy con người phân biệt, lựa chọn các quan hệ đạo đức đúng đắn, phê phán những hành vi đạo đức không phù hợp với yêu cầu xã hội. Giáo dục đạo đức cho HS bao gồm tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong, là quá trình được thực hiện có tính liên tục về thời gian, không gian, do nhiều lực lượng xã hội tham gia, trong đó nhà trường đóng vai trò then chốt. Có thể hiểu rằng có bao nhiêu mối quan hệ trong nhà trường, gia đình và xã hội mà HS tham gia hoạt động thì có bấy nhiêu yếu tố tác động đến HS. Mỗi lực lượng có tầm quan trọng, có nhiệm vụ, có phương pháp và tính ưu việt riêng:
Gia đình là tế bào xã hội, là nơi lưu giữ và phát triển vững chắc nhất giá trị truyền thống. Từ gia đình có thể giáo dục tất cả các lứa tuổi lòng kính yêu cha mẹ, người thân trong gia đình, yêu thương đồng loại. Gia đình hạnh phúc dựa trên nguyên tắc cơ bản là mọi người đều phải yêu thương quý mến nhau, giúp đỡ nhau trong công việc và là chỗ dựa tinh thần cho mỗi thành viên.
Nhà trường là một tổ chức xã hội đặc thù với cấu trúc tổ chức chặt chẽ, có nhiệm vụ chuyên biệt là giáo dục, đào tạo nhân cách trẻ em theo những định hướng của xã hội.Quá trình thể hiện các chức năng trên là quá trình tổ chức các hoạt động dạy học, hoạt động giáo dục,… theo hệ thống chương trình, nội dung được tổ chức một cách chặt chẽ, có kế hoạch.
- Nhà trường là cơ quan thuộc sự quản lý của Nhà nước, được sự lãnh đạo trực tiếp và chặt chẽ của Đảng, nắm vững quan điểm và đường lối giáo dục xã hội chủ nghĩa. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
- Nhà trường có chức năng thực hiện mục tiêu GD&ĐT nhân cách.
- Nhà trường có nội dung giáo dục và phương pháp giáo dục được chọn lọc và tổ chức chặt chẽ.
- Nhà trường có lực lượng giáo dục mang tính chuyên nghiệp.
- Môi trường giáo dục trong nhà trường có tính sư phạm, có tác dụng tích cực trong quá trình giáo dục đạo đức.
- Các lực lượng xã hội bao gồm: Các cơ quan, các tổ chức chính trị, xã hội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức đoàn thể quần chúng, các cơ quan chức năng,… [9,tr.7]. Trong các lực lượng giáo dục nhà trường có vai trò chủ đạo, là trung tâm tổ chức phối hợp và dẫn dắt công tác giáo dục.
1.2.2. Quản lý, quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
- Quản lý:
Quản lý là một dạng lao động xã hội mang tính đặc thù, gắn liền và phát triển cùng với lịch sử phát triển của loài người. Từ khi có sự phân công lao động trong xã hội đã xuất hiện một dạng lao động đặc biệt, đó là tổ chức, điều khiển các hoạt động lao động theo những yêu cầu nhất định. Dạng lao động mang tính đặc thù đó còn được gọi là hoạt động quản lý.
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý theo những cách tiếp cận khác nhau như:
- “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể quản lý (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế, bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các giải pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng”. [8, tr7]
- “Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được những mục đích của tổ chức”.[18, tr8]
- “Quản lý là bảo đảm sự hoạt động của hệ thống trong điều kiện có sự biến đổi liên tục của hệ thống và môi trường, là chuyển hệ thống tới trạng thái mới thích ứng với hoàn cảnh mới”. [12, tr8]
Theo Fredenck, W.Taylor, tác giả của học thuật quản lý theo khoa học thì:
“Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Theo thuyết quản lý hành chính của Henry Fayol thì: “Quản lý hành chính là dự báo và lập kế hoạch, tổ chức và điều khiển, phối hợp và kiểm tra”.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý như đã dẫn ở trên, nhưng chúng ta có thể nhận thấy điểm chung của quản lý mà các khái niệm đó đã đề cập là:
- Quản lý bao giờ cũng có mục tiêu. Hoạt động quản lý được thực hiện với một tổ chức hay một nhóm xã hội. Đây là điểm hội tụ cho những hoạt động cùng nhau của nhiều người.
- Quản lý là thực hiện những tác động hướng đích từ chủ thể đến đối tượng. Yếu tố con người, trong đó người quản lý và người bị quản lý, giữ vai trò trung tâm trong hoạt động quản lý.
- Quản lý không chỉ thể hiện ý chí của chủ thể mà còn là sự nhận thức và thực hiện hoạt động theo quy luật khách quan. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội loài người tồn tại, vận hành và phát triển.
Từ những dấu hiệu đặc trưng nêu trên, có thể hiểu: Quản lý là sự tác động hợp quy luật của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý bằng tổ hợp những cách thức, những phương pháp nhằm khai thác và sử dụng tối đa các tiềm năng, các cơ hội của cá nhân cũng như của tổ chức, để đạt được những mục tiêu đã đề ra.
- Quản lý giáo dục:
Quản lý giáo dục được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau. Một số tác giả cho rằng: Bản chất của quản lý giáo dục là quản lý sư phạm: quản lý mục tiêu, nội dung Giáo dục, phương pháp Giáo dục – Dạy học, Quản lý con người, quản lý các công cụ giáo dục; quản lý giáo dục nhằm phối hợp các ngành, các lực lượng xã hội, tiến hành công tác xã hội hóa giáo dục, huy động các nguồn lực và hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực GD&ĐT. quản lý giáo dục tiến hành những nhiệm vụ này thông qua việc thực hiện bốn chức năng của quản lý: Kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Nếu tiếp cận quản lý giáo dục ở cấp độ vĩ mô (quản lý hệ thống giáo dục) thì: Quản lý giáo dục là những tác động tự giác, có ý thức, có mục đích, có hệ thống và quy luật của chủ thể quản lý giáo dục các cấp đến tất cả các mắt xích của hệ thống Giáo dục nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả tổ chức, huy động, điều phối, giám sát và điều chỉnh các nguồn lực Giáo dục, để hệ thống giáo dục vận hành đạt được mục tiêu phát triển giáo dục [18].
Nếu tiếp cận quản lý giáo dục ở cấp độ vi mô (quản lý một cơ sở giáo dục) thì: Quản lý giáo dục là những tác động tự giác, có ý thức, có mục đích, có hệ thống và hợp quy luật của chủ thể quản lý một cơ sở Giáo dục đến tập thể GV, công nhân viên, tập thể người học và các lượng tham gia giáo dục khác trong và ngoài cơ sở giáo dục đó, nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả hoạt đông giáo dục và dạy học nhằm làm cho cơ sở giáo dục vận hành luôn ổn định và phát triển để đạt tới mục tiêu đào tạo của cơ sở Giáo dục đó [18]. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có kế hoạch và có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu, các bộ phận của hệ thống nhằm đảm bảo các cơ quan trong hệ thống giáo dục vận hành tối ưu, đảm bảo sự phát triển cả về mặt số lượng cũng như chất lượng để đạt được mục tiêu giáo dục”.[1,tr16]
Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “Quản lý giáo dục là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng HS”. [13,tr58]
Trong luận văn này tác giả đề cập đến quản lý giáo dục theo nghĩa hẹp, quản lý một trường học: “Quản lý giáo dục là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng HS” [8,tr18]
- Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức:
Trong nhà trường, hoạt động quản lý bao gồm nhiều nội dung, trong đó quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS là một nội dung quan trọng. Từ các khái niệm về quản lý và giáo dục đạo đức có thể đi đến khái niệm về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức như sau: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức là hệ thống những tác động có kế hoạch, có hướng đích của chủ thể quản lý đến tất cả các khâu các bộ phận nhằm giúp nhà trường sử dụng tối ưu các tiềm năng, các cơ hội để thực hiện hiệu quả các mục tiêu quản lý giáo dục đạo đức cho HS.
Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS là một lĩnh vực quản lý rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi người quản lý phải có năng lực quản lý vững vàng, toàn diện, khả năng vận dụng các biện pháp quản lý linh hoạt và phải luôn là tấm gương sáng về đạo đức nhà giáo trước CB, GV và HS. Đó là một quá trình, bao gồm nhiều cấp độ và nhiều phạm vi:
Về cấp độ: Có hai cấp độ cơ bản bao gồm: Quản lý công tác giáo dục đạo đức cấp hệ thống giáo dục quốc gia, đây chính là công tác giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, với tư cách một nhiệm vụ giáo dục cơ bản nhằm thực hiện mục đích giáo dục toàn diện nhân cách. Ở cấp độ này, quản lý công tác giáo dục đạo đức là công tác quản lý hệ thống xã hội, mà nòng cốt là hệ thống nhà trường, các bậc học, các cấp học, thuộc các cấp quản lý vĩ mô (Quốc hội, Chính phủ, các đoàn thể, các cơ quan quản lý NN về GDĐT…). Quản lý công tác giáo dục đạo đức HS cấp cơ sở giáo dục – đào tạo (các nhà trường) là quản lý các hoạt động giáo dục đạo đức tác động trực tiếp đến sự hình thành các phẩm chất của nhân cách người học. Đây cũng là phạm vi mà luận văn tập trung nghiên cứu.
Về phạm vi: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức HS được xác định chính là một nội dung quan trọng đặc biệt trong công tác quản lý nhà trường của CBQL. Điều đó cũng đồng nghĩa đề tài chỉ giới hạn phạm vi bàn về hoạt động giáo dục đạo đức và một số nội dung cơ bản của quản lý hoạt động này:
- Mục tiêu quản lý công tác giáo dục đạo đức HS.
- Nội dung cơ bản của quản lý giáo dục đạo đức HS.
- Các phương pháp, phương tiện quản lý giáo dục đạo đức HS.
- Quản lý GV.
- Quản lý HS.
- Quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục đạo đức.
- Quản lý đa dạng các hình thức phối kết hợp giữa gia đình – nhà trường – Xã hội trong giáo dục đạo đức.
1.3. Hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường Trung học Phổ thông Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Hệ thống giáo dục quốc dân của các nước trên thế giới đều có sự phân chia thành các bậc học khác nhau. Mỗi bậc học có đặc điểm riêng, một phương thức riêng; mỗi bậc học có mục tiêu giáo dục, có nội dung và phương pháp tổ chức giáo dục đặc thù phù hợp với đặc điểm tâm – sinh lí HS và yêu cầu của xã hội đối với mỗi bậc học đó. Ở nước ta bậc THPT là bậc phổ thông cuối cùng trong hệ thống giáo dục phổ thông. Bậc THPT có vị trí rất quan trọng trong hệ thống giáo dục. Đây là bậc học tạo nguồn, chuẩn bị cho HS vào đại học, học nghề hoặc tham gia lao động sản xuất ngành nghề. Hiện nay trong hệ thống giáo dục của chúng ta tồn tại hai mô hình trường THPT: Công lập và ngoài công lập. Các trường THPT ngoài công lập (gồm các loại hình bán công, dân lập, tư thục) cũng thuộc hệ thống các trường THPT. Trong đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu về loại hình trường THPT dân lập.
1.3.1. Đặc điểm của trường Trung học Phổ thông trong hệ thống giáo dục quốc dân
Từ điều 26 đến điều 31 mục 2 chương II của Luật Giáo dục năm 2005 đã khẳng định rõ vị trí của trường THPT nói chung như sau:
“Giáo dục THPT được thực hiện trong ba năm học, từ lớp mười đến lớp mười hai. HS vào lớp mười phải có bằng trung học cơ sở và có tuổi là mười năm tuổi. Giáo dục THPT nhằm giúp HS củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động” [23]
Bên cạnh đó Luật Giáo dục năm 2005 cũng khẳng định các nhà trường THPT nói chung phải củng cố, phát triển những nội dung giáo dục cho HS ở cấp trung học cơ sở, hoàn thành nội dung giáo dục phổ thông, tăng cường giáo dục đạo đức, hướng nghiệp cho HS, thực hiện đầy đủ các chương trình giáo dục do Bộ GD&ĐT xây dựng và ban hành.
Đối với các trường THPT dân lập thì theo quyết định số 39/2001/QĐ-BGDĐT ban hành về Quy chế tổ chức, hoạt động các trường dân lập có quy định như sau: Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Về nhiệm vụ và quyền hạn: “Trường ngoài công lập bình đẳng với trường công lập về nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường, của GV, giảng viên, nhân viên và HS, sinh viên trong việc thực hiện mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục – đào tạo và các quy định liên quan đến tuyển sinh, dạy và học, thi, kiểm tra công nhận tốt nghiệp, cấp văn bằng, chứng chỉ.” [23]
Việc thực hiện chương trình giáo dục – đào tạo và kế hoạch dạy học được quy định như sau: “Trường ngoài công lập thực hiện chương trình giáo dục – đào tạo và kế hoạch dạy học theo quy định của Điều lệ nhà trường tương ứng. Trường ngoài công lập bảo đảm việc dạy đủ và đúng tiến độ chương trình quy định cho cấp học, lớp học; thực hiện đầy đủ các hoạt động giáo dục toàn diện cho HS...”[23]
Như vậy, khi so sánh với trường THPT dân lập cũng có những điểm như trường THPT công lập ở những điểm như sau:
- Cùng thuộc hệ thống giáo dục quốc dân do nhà nước quản lý.
- Cùng thực hiện chung về mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục cho HS.
- Cùng có những yêu cầu về kết quả dạy học và giáo dục HS
Ngoài những điểm chung giống trường THPT công lập, trường THPT dân lập là thực hiện chủ trương “Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục” và đa dạng hóa các loại hình trường lớp thúc đẩy phát triển sự nghiệp giáo dục của Đảng và Nhà nước nên có những điểm khác như sau:
- Đa số các trường ngoài công lập tuyển sinh theo hình thức xét tuyển HS, chỉ trừ một số ít các trường dân lập chất lượng cao là tổ chức thi tuyển.
- CSVC do nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng.
- Đội ngũ GV gồm 2 đối tượng: GV cơ hữu và GV thỉnh giảng. Tất cả
- Có thể có hoặc không có hội đồng quản trị.
- Huy động các nguồn vốn của xã hội để phát triển nhà trường.
- Tự chủ một phần hoặc hoàn toàn về tài chính.
Như vậy so với các trường công lập, ngoại trừ một số ít các trừ các trường chất lượng cao tập trung ở các thành phố lớn, còn lại các trường dân lập khác có những điểm mạnh và yếu so với trường công lập là:
- Điểm mạnh: Chủ động hơn về mặt tài chính, chủ động hơn về tuyển dụng GV; Cơ chế để huy động các nguồn lực mở hơn; Tính tự chủ tự chịu trách nhiệm của nhà trường được đề cao hơn.
- Điểm yếu: Chất lượng đầu vào HS kém hơn các trường công lập. Tính ổn định trong tuyển sinh không cao. GV chưa yên tâm công tác. Mức đóng học phí của HS thường là cao hơn.
Nhiệm vụ của nhà quản lý phải phát huy những điểm mạnh để xây dựng thương hiệu nhà trường, phải xây dựng nhà trường thành địa chỉ giáo dục đáng tin cậy của cha mẹ học sinh, của HS và toàn xã hội.
1.3.2. Các thành tố của hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường Trung học Phổ thông Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Giáo dục đạo đức ở trường THPT dân lập là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến HS nhằm giúp cho nhân cách mỗi HS được phát triển đúng đắn, các em có hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ: cá nhân với xã hội, cá nhân với lao động, với mọi người xung quanh và với cả chính mình. Giáo dục đạo đức trong trường THPT dân lập cũng là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, có quan hệ biện chứng với các quá trình bộ phận khác như giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động kĩ thuật tổng hợp – hướng nghiệp và dạy nghề, giáo dục tư tưởng chính trị và pháp luật giúp HS hình thành và phát triển nhân cách toàn diện. giáo dục đạo đức cho HS là giáo dục lòng trung thành với Đảng, hiếu với dân, yêu quê hương đất nước, có lòng vị tha, nhân ái, cần cù…
- Mục tiêu của giáo dục đạo đức:
Mục tiêu của giáo dục đạo đức là giúp mỗi cá nhân nhận thức đúng các giá trị đạo đức, biết hành động theo lẽ phải, công bằng và nhân đạo, biết sống vì mọi người, vì gia đình, vì sự tiến bộ và phồn vinh của đất nước. Trong đó, mục đích quan trọng nhất của giáo dục đạo đức là tạo lập những thói quen, hành vi đạo đức. Mục tiêu trên đã được thể hiện trong Điều 2 Luật giáo dục: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc“. [23]
Cụ thể là:
Về mặt nhận thức: Hiểu bản chất của đạo đức, các nguyên tắc, nội dung, chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam trong thời kỳ mới phù hợp với mức độ yêu cầu của lứa tuổi, đồng thời hiểu sự cần thiết phải tự rèn luyện mình theo các yêu cầu của chuẩn đạo đức để trở thành những công dân có lối sống tốt, có tình cảm đẹp, xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước. Nâng cao nhận thức chính trị, hiểu được tính tất yếu và những mặt trái của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; nắm vững những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề phát triển con người toàn diện, gắn liền với sự nghiệp đổi mới của nước nhà, có quan điểm rõ ràng về lối sống thích ứng với những yêu cầu của giai đoạn mới.
Về thái độ tình cảm: Có thái độ tình cảm đạo đức đúng đắn, trong sáng trong các mối quan hệ xã hội. Có tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc đối với thế hệ cha anh đã hi sinh xương máu vì độc lập tự do của Tổ quốc. Có thái độ rõ ràng đối với các hiện tượng đạo đức chính trị trong xã hội.
Về kỹ năng và hành vi: Tích cực học tập và rèn luyện trong lao động, hoạt động tập thể, hoạt động trong xã hội; có thói quen thường xuyên rèn luyện hành vi đạo đức, trong ứng xử, trong hoạt động; tự giác thực hiện những chuẩn mực đạo đức, luật pháp, văn hoá; có thói quen chấp hành pháp luật; biết sống lành mạnh, trong sáng, thể hiện được tư cách của người HS; tích cực đấu tranh với những biểu hiện của lối sống sa đọa, đồi trụy, chỉ biết hưởng thụ, chạy theo đồng tiền, theo chủ nghĩa thực dụng, thờ ơ với các vấn đề của cuộc sống, không nghĩ đến sự hy sinh, mất mát của thế hệ cha anh; thường xuyên tích cực rèn luyện trong học tập, nghiên cứu khoa học, lao động sản xuất, hoạt động xã hội để chuẩn bị cho ngày mai lập nghiệp.
- Nhiệm vụ giáo dục đạo đức: Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Bao gồm các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Giáo dục hành vi thói quen đạo đức: Là giáo dục cho người học có được những hành vi đạo đức trở thành nề nếp thường ngày trong học tập, lao động, trong sinh hoạt và trong cuộc sống nhằm có thói quen đạo đức bền vững, hành vi đúng đắn.
- Giáo dục tình cảm đạo đức: Là khơi dậy ở người học những rung động, những xúc cảm đối với hiện thực xung quanh, biết yêu ghét rõ ràng và có tình cảm, thái độ đúng đắn đối với cuộc sống.
- Giáo dục ý thức đạo đức: Cung cấp cho người học những tri thức cơ bản về các phẩm chất đạo đức và các chuẩn mực đạo đức trên cơ sở đó giúp họ hình thành niềm tin đạo đức.
Nội dung giáo dục đạo đức:
Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII đã cụ thể hoá nội dung giáo dục đạo đức là: “Xây dựng hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới, phù hợp với truyền thống, bản sắc của dân tộc và yêu cầu của thời đại” bao gồm:
“Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung.
Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh cần kiệm trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỉ cương, phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ, cải thiện môi trường sinh thái.
Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kĩ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực”. [4]
Theo Phạm Minh Hạc thì chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam thời kì CNH – HĐH có thể xác định tương đối thành 4 nhóm phản ánh các quan hệ chính mà con người phải giải quyết: [14]
- Nhóm chuẩn mực đạo đức thể hiện nhận thức tư tưởng chính trị như: Có lí tưởng XHCN, yêu quê hương đất nước, tự cường, tự hào dân tộc, tin tưởng vào Đảng và nhà nước.
- Nhóm chuẩn mực đạo đức hướng vào sự hoàn thiện bản thân: tự trọng, tự tin, tự lập, giản dị, tiết kiệm, trung thành, siêng năng, biết kiềm chế, biết hối hận.
- Nhóm chuẩn mực đạo đức thể hiện quan hệ với mọi người và dân tộc khác: Nhân nghĩa, hiếu thảo, khoan dung, vị tha, hợp tác, bình đẳng, lễ độ, tôn trọng mọi người, thuỷ chung, giữ chữ tín.
- Nhóm chuẩn mực đạo đức liên quan đến xây dựng môi trường sống như: Xây dựng hạnh phúc gia đình, giữ gìn và bảo vệ tài nguyên, môi trường tự nhiên, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, bình đẳng, có ý thức chống lại những hành vi gây tác hại đến con người, đến môi trường, bảo vệ hoà bình, phát huy, giữ gìn truyền thống và di sản văn hoá của dân tộc và của nhân loại.
Từ những phân tích trên, ta có thể tổng hợp nội dung giáo dục đạo đức là tăng cường giáo dục thế giới quan khoa học, giáo dục tư tưởng cách mạng XHCN cho HS. Nâng cao lòng yêu nước XHCN, ý thức về thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước, ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ công dân thể hiện trong cuộc sống, học tập, lao động và hoạt động chính trị xã hội, giáo dục kỉ luật và pháp luật, giáo dục lòng yêu thương con người và hành vi ứng xử có văn hoá.
- Phương pháp giáo dục đạo đức:
Phương pháp giáo dục đạo đức là cách thức tác động của nhà giáo dục lên đối tượng giáo dục để hình thành cho đối tượng giáo dục những chuẩn mực cần thiết, phù hợp với nền đạo đức xã hội. Người ta chia các phương pháp giáo dục đạo đức thành 3 nhóm chính:
- Nhóm phương pháp thuyết phục: Là nhóm phương pháp tác động vào mặt nhận thức và tình cảm của con người để hình thành cho họ ý thức, thái độ tốt đẹp với cuộc sống. Nhóm này bao gồm: Khuyên giải, tranh luận, nêu gương.
- Nhóm phương pháp tổ chức hoạt động: giáo dục đạo đức không có gì hiệu quả hơn là đưa con người vào hoạt động thực tiễn, tập dượt, rèn luyện tạo nên những hành vi và thói quen đạo đức.
- Nhóm các phương pháp kích thích hành vi: Đây là nhóm phương pháp tác động vào mặt tình cảm của đối tượng giáo dục nhằm tạo ra phẩm chất, thúc đẩy, tích cực hoạt động; đồng thời giúp cho đối tượng nhận ra và khắc phục, sửa chữa những sai lầm. Nhóm này gồm các phương pháp: khen thưởng, trách phạt, thi đua.
Với lứa tuổi HS bậc THPT, vì nhận thức của các em, chưa toàn diện; các em đang ở thời kì phát triển nhân cách, muốn tìm hiểu, khám phá, thích được thể hiện “cái tôi” bản thân nên việc áp dụng các phương pháp trên nếu được vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp với từng tình huống cụ thể sẽ đạt hiệu quả giáo dục rất cao.
Muốn các phương pháp giáo dục đạo đức được sử dụng có hiệu quả cần quan tâm đến cơ chế hình thành giá trị, niềm tin đạo đức tức là HS phải được đặt vào các tình huống cụ thể để các em lựa chọn và trải nghiệm, nhờ đó các em mới thực sự nhận thức rõ và tin vào những giá trị có ý nghĩa đối với bản thân. Niềm tin đó sẽ định hướng động cơ và hành vi đạo đức của các em. Nếu tổ chức giáo dục đạo đức chỉ dựa trên sự áp đặt các giá trị, chuẩn mực đạo đức buộc các em phải chấp nhận và làm theo thì sẽ không tạo ra niềm tin đạo đức- nền móng của các hành vi đạo đức.
Giáo dục đạo đức hiện nay gặp khó khăn nhất trong việc thay đổi những hành vi tiêu cực, thói quen xấu của HS. Để thay đổi hành vi, thói quen không thể chỉ dùng các phương pháp làm thay đổi nhận thức mà cần sử dụng các phương pháp tiếp cận làm thay đổi hành vi – đó là cách tiếp cận kĩ năng sống.
- Hình thức giáo dục đạo đức: Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Hiện nay có nhiều hình thức giáo dục đạo đức cho HS ở trường THPT được sử dụng, nhưng nhìn chung có thể chia làm 2 loại:
- Giáo dục đạo đức thông qua các môn học, đặc biệt là môn Giáo dục công dân nhằm giúp các em có nhận thức đúng đắn về một số giá trị đạo đức cơ bản, về một số quyền và nghĩa vụ công dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, về tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, về trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện các quyền của công dân.
- Giáo dục đạo đức thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp:
Giúp củng cố, mở rộng và khơi sâu các hiểu biết về chuẩn mực đạo đức, hình thành những kinh nghiệm đạo đức, rèn luyện kỹ năng và thói quen đạo đức thông qua nhiều hình thức tổ chức đa dạng: Giao lưu, hái hoa dân chủ; hội diễn văn nghệ; thi làm báo tường; thi kể chuyện; trò chơi…
1.4. Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường Trung học Phổ thông
1.4.1. Vai trò của các chủ thể trong quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh tại trường Trung học Phổ thông
Người Hiệu trưởng quản lý và lãnh đạo nhà trường là chủ thể quản lý và lãnh đạo toàn diện: các hoạt động giáo dục trong nhà trường; phát triển đội ngũ GV, nhân viên giáo dục; tổ chức bộ máy; tổ chức, chỉ đạo hoạt động học tập, rèn luyện của HS; phát triển, sử dụng, bảo quản, nâng cấp CSVC, thiết bị giáo dục của nhà trường; quản lý sử dụng ngân sách giáo dục;…
Tuy nhiên, quản lý hoạt động giáo dục phải là công tác trọng tâm của Hiệu trưởng và CBQL trong nhà trường (trong quá trình giáo dục tổng thể có quá trình dạy học và quá trình giáo dục). Người Hiệu trưởng trong nhà trường vừa là người lãnh đạo, vừa là người quản lý trường học, là tâm điểm và linh hồn của tập thể sư phạm. Hiệu trưởng có vai trò tạo lập, triển khai, giám sát, điều chỉnh mọi hoạt động của nhà trường. Và trong hoạt động giáo dục đạo đức cho HS, người Hiệu trưởng có vai trò hết sức quan trọng, quyết định đến chất lượng đạo đức của các em. Đặc biệt đối với lứa tuổi HS THPT đang có sự phát triển mạnh mẽ để hoàn thiện bản thân, chuẩn bị tham gia vào nguồn nhân lực cho đất nước cũng như tham gia vào mọi mặt đời sống xã hội thì công tác quản lý giáo dục đạo đức cho HS của người Hiệu trưởng lại càng quan trọng hơn bao giờ hết, đòi hỏi người Hiệu trưởng phải có sự hiểu biết sâu sắc về những diễn biến phức tạp của quá trình hình thành và phát triển nhân cách, những biểu hiện phong phú của đạo đức và những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tu dưỡng, rèn luyện, giáo dục đạo đức. Đồng thời nó đòi hỏi ở người Hiệu trưởng một nhân cách mẫu mực, năng lực quản lý vững vàng và nghệ thuật quản lý tài tình, luôn chủ động, sáng tạo phát huy vai trò của người định hướng, tổ chức, điều khiển, đánh giá công tác giáo dục đạo đức cho HS
Hiệu trưởng có vai trò quan trọng trong hoạt động giáo dục đạo đức HS THPT, là người trực tiếp lập kế hoạch quản lý tổ chức chỉ đạo hoạt động giáo dục đạo đức. Hiệu trưởng chủ động tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để giáo dục đạo đức cho HS. Hiệu trưởng phải thường xuyên kiểm tra đánh giá quá trình giáo dục đạo đức cho HS và trực tiếp giáo dục HS, đặc biệt giáo dục HS cá biệt. Uxinxiki đã viết trong cuốn “trái tim tôi hiến dâng cho trẻ”, nếu Hiệu trưởng chỉ dạy cách giáo dục giáo dục mà không trực tiếp tiếp xúc với HS thì ông ta không còn là nhà giáo dục nữa, thiếu sự tác động trực tiếp tới HS, Hiệu trưởng sẽ mất đi phẩm chất quan trong nhất của nhà sư phạm và năng lực tiếp xúc với thế giới tâm hồn trẻ.
1.4.2. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Theo cách tiếp cận các chức năng quản lý giáo dục của quản lý, nội dung quản lý giáo dục đạo đức cho HS tại trường THPT gồm có: Lập kế hoạch quản lý giáo dục đạo đức HS của nhà trường; Tổ chức nhân sự, bộ máy quản lý giáo dục đạo đức HS; Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hoạt động giáo dục đạo đức HS; Kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục đạo đức HS.
- Lập kế hoạch quản lý giáo dục đạo đức học sinh:
Lập kế hoạch công tác giáo dục đạo đức cho HS là nội dung quản lý được thực hiện đầu tiên trong quá trình quản lý giáo dục đạo đức và giữ vị trí quan trọng trong suốt quá trình giáo dục đạo đức.
Kế hoạch là công cụ quản lý giáo dục đạo đức cho HS một cách có hiệu quả, tránh sự tùy tiện, kinh nghiệm chủ nghĩa đồng thời giúp nhà quản lý chủ động và hành động đúng hướng. Mục đích cuối cùng của kế hoạch hóa là đạt được mục tiêu quản lý, đưa công tác quản lý giáo dục đạo đức cho HS đạt hiệu quả, chất lượng ngày càng cao.
Người Hiệu trưởng và CBQL là chủ thể lập kế hoạch quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh, vừa là để thực hiện đúng chức năng quản lý, vừa là để thực hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng trong lãnh đạo quản lý một nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu GD&ĐT. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Lập kế hoạch quản lý giáo dục đạo đức trong nhà trường THPT bao gồm việc xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức trong nhà trường, đảm bảo sao cho kế hoạch phải vừa bao quát, vừa cụ thể phù hợp với từng đối tượng HS khác nhau, kế hoạch đưa ra phải có tính khả thi, phù hợp với điều kiện của nhà trường THPT.
Lập kế hoạch trong công tác quản lý hoạt động giáo dục đạo đức bao gồm các yếu tố cơ bản sau: Xác định thực trạng đạo đức, đưa ra diễn biến về đạo đức HS; xác định mục tiêu, phương hướng cụ thể cần đạt tới; xác định nội dung giáo dục đạo đức; xác định phương pháp, biện pháp giáo dục đạo đức; lên phương án thích hợp, xác định các lực lượng tham gia, phân công, phân nhiệm vụ cụ thể; xác định các điều kiện phục vụ công tác giáo dục đạo đức.
Đồng thời, Hiệu trưởng và CBQL cần thiết kế các bước đi (quy trình cụ thể, chi tiết) trong công tác quản lý giáo dục đạo đức HS của nhà trường để đạt được những mục tiêu đã xác định thông qua sử dụng tối ưu những nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực và nguồn lực thông tin) đã có và sẽ khai thác.
Hiệu trưởng và CBQL cần làm cho mọi người biết nhiệm vụ của mình đối với hoạt động giáo dục đạo đức cho HS, biết phương pháp hoạt động nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu của tổ chức.
Như vậy, lập kế hoạch quản lý giáo dục đạo đức HS của nhà trường kế bao gồm việc xây dựng mục tiêu, chương trình hành động, xác định từng bước đi, những điều kiện, phương tiện cần thiết trong một thời gian nhất định của cả hệ thống quản lý và được quản lý.
- Tổ chức thực hiện kế hoạch hóa giáo dục đạo đức học sinh:
Để thực hiện kế hoạch quản lý giáo dục đạo đức cho HS của nhà trường, công việc tiếp theo người Hiệu trưởng và CBQL trường THPT cần phải tiến hành đó là tổ chức nhân sự, bộ máy quản lý với những vai trò, nhiệm vụ, chức năng rõ ràng, logic, phù hợp với mục tiêu GD&ĐT của nhà trường, phù hợp với phương thức hoạt động, quyền hạn của từng bộ phận. Từ đó giúp cho GV và HS trong nhà trường cùng làm việc, cùng phối hợp một cách nhịp nhàng, đồng bộ, đạt hiệu quả cao.
Trên cơ sở các kế hoạch và bộ máy quản lý đã có, người Hiệu trưởng và CBQL trong nhà trường THPT thực hiện các công việc cụ thể chỉ ra những nhiệm vụ chức năng của từng thành viên, thiết lập các mối quan hệ trong mọi hoạt động, đồng thời ra có các quyết định giao việc cho các bộ phận và cá nhân thực hiện các nội dung cụ thể như: Tổ chức các hoạt động theo các kế hoạch đã định, phối hợp các lực lượng giáo dục khác trong việc giáo dục đạo đức cho HS; Thực hiện việc hướng dẫn GV chủ nhiệm lớp, Cố vấn Đoàn và chi Đoàn thanh niên từng lớp tiến hành các hoạt động ở đơn vị mình có hiệu quả; Xây dựng củng cố đội ngũ GV chủ nhiệm thành lực lượng giáo dục đạo đức nòng cốt; Khai thác các lượng ngoài xã hội tham gia công tác giáo dục đạo đức học sinh. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
- Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hoạt động giáo dục đạo đức học sinh:
Để mục tiêu của kế hoạch quản lý giáo dục đạo đức cho HS trở thành hiện thực thì bước quan trọng tiếp theo mà người Hiệu trưởng và CBQL trong nhà trường phải thực hiện đó là lãnh đạo, chỉ đạo toàn thể nhà trường hoạt động theo kế hoạch đã đề ra.
Đây là quá trình sử dụng phạm vi quyền lực quản lý của Hiệu trưởng và CBQL tác động đến các đối tượng liên quan (đối tượng được QL) một cách có chủ đích nhằm phát huy hết tiềm năng của họ hướng vào việc đạt mục tiêu giáo dục đạo đức HS của nhà trường. Điều này đòi hỏi người Hiệu trưởng và CBQL phải có tri thức, có kĩ năng ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định.
Trong chỉ đạo thực hiện kế hoạch hóa giáo dục đạo đức học sinh thì Hiệu trưởng và CBQL trong nhà trường THPT cần chỉ đạo tổ chức triển khai việc thực hiện kế hoạch theo đúng nội dung yêu cầu đề ra về tiến độ thời gian; thường xuyên kiểm tra, uốn nắn những sai lệch, bổ sung và điều chỉnh nội dung giáo dục đạo đức cho phù hợp với tình hình cụ thể.
Trong việc chỉ đạo các hoạt động giáo dục đạo đức ở trường THPT thì chủ thể quản lý là Hiệu trưởng và CBQL phải vận dụng linh hoạt các phương pháp quản lý như: Phương pháp tổ chức hành chính; các phương pháp kinh tế; các phương pháp tâm lý – xã hội để tác động vào các lực lượng tham gia giáo dục đạo đức nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Phương pháp tổ chức hành chính là các phương pháp mà chủ thể quản lý (hiệu trưởng, các cán bộ được hiệu trưởng ủy quyền, giao quyền) tác động trực tiếp lên đối tượng quản lý bằng mệnh lệnh, chỉ thị, quyết định quản lý công tác giáo dục đạo đức. Ở trường THPT, phương pháp tổ chức hành chính thường thể hiện qua các nghị quyết của Hội đồng giáo dục, Hội đồng sư phạm, Đoàn thanh niên, Công đoàn nhà trường, … các quyết định của Hiệu trưởng, các quy định, quy chế, nội quy của nhà trường mang tính chất bắt buộc yêu cầu GV và HS phải thực hiện. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Phương pháp kinh tế là sự tác động một cách gián tiếp của người quản lý bằng cơ chế kích thích lao động thông qua lợi ích vật chất để người bị quản lý tích cực tham gia công việc chung và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Trong trường THPT, thực chất của phương pháp kinh tế là dựa trên sự kết hợp giữa việc thực hiện trách nhiệm nghĩa vụ cơ bản của GV, HS ghi trong điều lệ nhà trường, quy chế chuyên môn… với những kích thích có tính đòn bẩy trong trường. Kích thích việc hoàn thành nhiệm vụ bằng lợi ích kinh tế có ý nghĩa to lớn đối với tính tích cực lao động của con người.
Phương pháp tâm lý xã hội là phương pháp mà chủ thể quản lý là Hiệu trưởng và CBQL tác động vào đối tượng công tác giáo dục đạo đức, bằng các biện pháp logic và tâm lý nhằm biến yêu cầu của người lãnh đạo đề ra thành nghĩa vụ tự giác bên trong, thành nhu cầu của người thực hiện công tác giáo dục đạo đức. Nhiệm vụ của phương pháp này là động viên tinh thần chủ động tích cực tự giác của mọi người, đồng thời tạo ra bầu không khí cởi mở, tin cậy lẫn nhau, giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ.
Ngoài ra việc chỉ đạo hoạt động giáo giáo dục đạo đức cho HS ở trường THPT dân lập thì người Hiệu trưởng và CBQL cần yêu cầu các bộ phận, cá nhân phải thực hiện đúng các nguyên tắc của giáo dục đạo đức. Đó là các nguyên tắc: Phải bảo đảm tính mục đích, tính thống nhất trong toàn bộ hoạt động giáo dục; Phải thông qua hoạt động thực tiễn; phải phù hợp với lứa tuổi giới tính và đặc điểm riêng của HS THPT dân lập; phải phát huy tính tích cực, khắc phục thiếu sót; giáo dục trong tập thể và bằng tập thể; giáo dục gắn với thực tiễn của địa phương; tôn trọng nhân cách và yêu cầu hợp lí đối với HS trường THPT dân lập.
- Kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục đạo đức học sinh:
Để hoạt động quản lý giáo dục đạo đức đạt hiệu quả cao người Hiệu trưởng và CBQL phải tiến hành thường xuyên công tác kiểm tra trong suốt quá trình quản lý, nhằm xem xét hoạt động của các cá nhân, các tổ chức trong nhà trường có phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho HS đã được đề ra hay không; xem xét tính phù hợp của công tác giáo dục đạo đức cho HS nhà trường, những ưu điểm, thiếu sót và những nguyên nhân tương ứng để kịp thời điều chỉnh các quyết định QL; phát hiện những nhân tố mới giúp cho việc điều chỉnh kế hoạch, những khả năng tiềm tàng, sáng tạo của cấp dưới để kịp thời bồi dưỡng, điều chỉnh về mặt nhân sự để hoạt động giáo dục đạo đức HS của nhà trường đạt được mục tiêu đề ra.
Không những thế Hiệu trưởng và CBQL của nhà trường cần có những tổng kết, đánh giá, khen thưởng, trách phạt kịp thời, nhằm động viên cán bộ, giáo viên, nhân viên, Ban đại diện cha mẹ HS…làm tốt công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường. Thường thì trong nhà trường, nội dung quản lý giáo dục đạo đức cụ thể được Hiệu trưởng, CBQL nhà trường cùng với Ban thi đua nhà trường, khối chủ nhiệm lựa chọn tùy theo mục tiêu đề ra và được thực hiện theo kế hoạch đã định.
1.5. Các yếu tố tác động đến quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh tại trường Trung học Phổ thông
1.5.1 Yếu tố chủ quan Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
- Năng lực sư phạm của đội ngũ giáo viên:
Đội ngũ GV là lực lượng có tác động lớn đến đạo đức HS. Do vậy chất lượng đội ngũ cán bộ GV quyết định chất lượng đạo đức HS. Đối với công tác giáo dục đạo đức, chất lượng đôi ngũ thể hiện ở phẩm chất đạo đức, năng lực công tác và hiệu quả công tác của mỗi cán bộ GV. Để hoàn thành nhiệm vụ giáo dục HS, mỗi cán bộ GV phải là những tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức, về lối sống, về kiến thức và năng lực công tác, đồng thời phải tận tâm, tâm huyết với nghề nghiệp, nắm vững mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục, có uy tín với HS, được HS mến phục. Chính vì lẽ đó mà nhà quản lý phải thường xuyên kiểm tra đánh giá chất lượng đội ngũ và coi đó là một trong những biện pháp hiệu quả trong quản lý công tác giáo dục nói chung và công tác giáo dục đạo đức nói riêng.
- Sự tích cực, hưởng ứng và yếu tố tự giáo dục của học sịnh:
Để biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục cần phải chú trọng phát triển đặc điểm tự ý thức, tự giáo dục của lứa tuổi HS THPT. Mặc dù đặc điểm tự ý thức được phát triển mạnh mẽ ở HS THPT, tạo cho HS khả năng độc lập sáng tạo nhiều hơn nhưng HS cũng dễ mắc sai lầm trong nhận thức và hành vi, dễ có những suy nghĩ, hành động bồng bột, nông nổi nhất thời. Vì vậy cần phải thực hiện các biện pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức thật chặt chẽ và khoa học. Các nhà quản lý và các nhà giáo dục phải xây dựng được chương trình giáo dục đạo đức phù hợp với trình độ nhận thức, tâm lý lứa tuổi, có sự chỉ đạo thống nhất đồng bộ, vận dụng linh hoạt các phương pháp giáo dục, phát huy khả năng tự ý thức, tự giáo dục của HS một cách đúng đắn nhằm đạt mục tiêu giáo dục đạo đức trong nhà trường.
HS THPT lứa tuổi “bùng nổ” có nhiều thay đổi về tâm, sinh lý muốn được mọi người nhìn nhận mình như người trưởng thành, bắt đầu tự ý thức và có nhu cầu tự giáo dục. Vì vậy đây là yếu tố chi phối việc quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho HS THPT. Trong quá trình hình thành nhân cách HS phải tự tu dưỡng giáo dục bản thân. Sự hình thành phát triển đạo đức của mỗi con người là một quá trình phức tạp lâu dài cũng phải trải qua bao khó khăn, thử thách trong cuộc sống mới dẫn dến thành công. Vì vậy người HS từ chỗ là đối tượng của giáo dục dần thành chủ thể giáo dục tu dưỡng, rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách đạo đức của mình.
1.5.2. Yếu tố khách quan
- Các tác động từ gia đình: Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Gia đình là môi trường cơ sở, đầu tiên có vị trí quan trọng và ý nghĩa lớn lao đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người. Trong đó có thể nói rằng cha mẹ là người thầy đầu tiên giáo dục cho con cái mình những phẩm chất nhân cách cơ bản làm nền tảng cho quá trình phát triển toàn diện về đạo đức, trí lực, thể lực, thẩm mĩ, lao động theo yêu cầu của xã hội. Khi bước vào học tập trong nhà trường Trung học Phổ thông, HS đã trải qua trên nhiều năm giáo dục của gia đình, của nhà trường cấp học dưới, lứa tuổi HS THPT bước vào giai đoạn chuyển từ sự chín muồi về thể lực sang trưởng thành về phương diện tâm lý xã hội, là giai đoạn hình thành và ổn định tính cách. Mặc dù HS THPT đã có nhiều hoạt động rời xa sự kiểm soát của cha mẹ, của những người thân trong gia đình song giáo dục gia đình vẫn có ảnh hưởng hết sức quan trọng, chi phối việc giữ gìn và rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức của HS. Việc coi trọng liên hệ chặt chẽ giữa gia đình với nhà trường trong giáo dục đạo đức HS sẽ đem lại hiệu quả hết sức quan trọng trong thực hiện mục tiêu giáo dục đạo đức cho HS của nhà trường.
- Các tác động từ xã hội:
Giáo dục xã hội tác động đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách HS thường qua hai hình thức tự phát và tự giác. Những ảnh hưởng tự phát bao gồm những yếu tố tích cực và tiêu cực của đời sống xã hội vô cùng phức tạp do cá nhân tự lựa chọn theo nhu cầu, hứng thú, trình độ tự giáo dục của mình. Những ảnh hưởng tự giác là những tổ hợp tác động trực tiếp hay gián tiếp có hướng đích, có nội dung, phương pháp bằng nhiều hình thức của các tổ chức, cơ quan, đoàn thể xã hội đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của HS. Môi trường xã hội có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến cuộc sống của mọi cá nhân.
HS không chỉ sống trong môi trường gia đình và nhà trường mà còn có một phần khá lớn thời gian sống trong môi trường xã hội. Đặc biệt với lứa tuổi HS bậc THPT, đây là thời kì có nhiều biến động mạnh mẽ về động cơ, về thang giá trị xã hội, bắt đầu dấn thân thể nghiệm mình trong mọi lĩnh vực của đời sống thì ảnh hưởng của xã hội đối với công tác quản lý hoạt động giáo dục đạo đức càng được thể hiện rõ nét.
Do đó trong quản lý giáo dục đạo đức cho HS của nhà trường, người Hiệu trưởng cần tính đến những tác động cả về mặt tích cực và tiêu cực đối với công tác giáo dục của nhà trường. Nhà trường cần phải biết tận dụng và phát huy những yếu tố tạo ra tác động tích cực, giúp cho hoạt động giáo dục đạo đức HS đạt được mục tiêu nhanh chóng, ít tốn công sức. Đồng thời cũng lường trước và có những biện pháp đối phó nhằm ngăn chặn những tác động tiêu cực tới hoạt động giáo dục đạo đức cho HS của nhà trường.
- Điều kiện cơ sở vật chất, tài chính nhà trường:
CSVC và thiết bị dạy học là phương tiện lao động sư phạm của các nhà giáo dục và HS. Nguồn lực tài chính dùng để mua sắm cở sơ vật chất thiết bị, huy động nguồn nhân lực tham gia các hoạt động giáo dục.
Nếu thiếu kinh phí, CSVC, thiết bị dạy học, giáo dục thì các hoạt động giáo dục trong nhà trường sẽ gặp nhiều khó khăn hoặc không thể thực hiện được. Trang thiết bị hiện đại phù hợp với thực tiễn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả các hoạt động giáo dục.
Kết luận chương 1 Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Trong nhà trường THPT dân lập, hoạt động quản lý bao gồm nhiều nội dung, trong đó quản lý giáo dục đạo đức cho HS là một nội dung quan trọng. Quản lý giáo dục đạo đức là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý (Hiệu trưởng và CBQL) tới đối tượng quản lý (HS) nhằm hình thành và phát triển ý thức, tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen đạo đức cho HS, giúp cho HS biết ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội, cá nhân với lao động, cá nhân với tự nhiên, với mọi người xung quanh và với chính mình, góp phần quan trọng trong quá trình hình thành, phát triển nhân cách của HS. Quản lý giáo dục đạo đức cho HS là quá trình chủ thể quản lý xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch, vạch ra phương hướng, tìm biện pháp, huy động các nguồn lực, triển khai thực hiện, đôn đốc, giám sát, điều chỉnh và đưa ra những quyết định sáng suốt, kịp thời nhằm thực hiện được các mục tiêu, đáp ứng được các nhu cầu của xã hội về chất lượng đạo đức HS.
Trên đây là các cơ sở lý luận và từ góc độ lý luận quản lý giáo dục và góc độ lý luận giáo dục đạo đức HS trong nhà trường phổ thông. Các khái niệm và các khái quát hóa lý luận đã cố gắng hình thành một khung lý thuyết đảm bảo cho việc khảo sát và phân tích thực trạng quản lý công tác giáo dục đạo đức và đảm bảo cơ sở lý luận khoa học cho việc đề xuất các biện pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức HS ở trường THPT Văn Hiến. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh

Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com
Pingback: Luận văn: Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh