Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên chủ nhiệm ở trường THCS xã Trịnh Xá, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam trong bối cảnh đổi mới giáo dục dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong mỗi cơ quan, đơn vị thì đội ngũ đóng vai trò quyết định tới chất lượng, hiệu quả công việc. Trong trường phổ thông, GVCN lớp là người tổ chức, quản lý trực tiếp và sâu sát nhất về mọi mặt đối với HS và thực hiện GD đạo đức, lối sống, phát triển nhân cách cho từng HS. Vì thế, đội ngũ GVCN lớp giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng và duy trì nền nếp, góp phần nâng cao chất lượng GD toàn diện HS. Đồng thời, GVCN lớp là “cầu nối” giữa nhà trường và gia đình HS, góp phần thực hiện tốt mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Tuy nhiên, việc thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng GD toàn diện HS, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập và tồn tại. Một trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là nhận thức chưa đầy đủ về vai trò, trách nhiệm của đội ngũ GVCN trong việc GD toàn diện cho HS ở các trường phổ thông; sự thiết lập và duy trì mối quan hệ giữa GVCN lớp với GV bộ môn, các đoàn thể xã hội và gia đình HS. Mặt khác, biện pháp quản lý của hiệu trưởng đối với đội ngũ GVCN lớp chưa thật hợp lý trong nền kinh tế thị trường. Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng và thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản của sự phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Đây là yêu cầu cấp bách đối với toàn xã hội nói chung, và ngành giáo dục nói riêng.
Đại hội XI đã chỉ rõ: “Phải đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”.
Như vậy, phát triển GD&ĐT đã trở thành mục tiêu chiến lược của công cuộc đổi mới đất nước, được xem là cuộc cách mạng mang tính thời đại sâu sắc. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD là lực lượng cách mạng quan trọng, quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi mới giáo dục, góp phần phát triển đất nước.
Trong những năm gần đây, dư luận xã hội rất bức xúc khi chứng kiến nhiều vụ bạo lực học đường xảy ra, hoặc một số HS mắc vào các tai tệ nạn xã hội. Nguyên nhân do HS thiếu hiểu biết, thiếu kĩ năng sống đã dẫn đến lối sống lệch lạc trong một bộ phận học sinh. Điều đó làm cho hình ảnh nhà trường xấu đi trong cách nhìn nhận của xã hội. Một trong những nguyên nhân không nhỏ là do các nhà trường chưa dành sự quan tâm thoả đáng đến hoạt động của đội ngũ GVCN lớp, những người có vai trò quan trọng, trực tiếp đến việc hình thành và phát triển nhân cách cho các em học sinh.
Vấn đề quản lý đội ngũ GVCN ở trường phổ thông chưa được quan tâm đúng mức để nâng cao chất lượng GD toàn diện. Để đạt được các mục tiêu giáo dục đề ra, vấn đề cấp thiết đặt ra là phải “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học”, đồng thời đổi mới hoạt động quản lý, trong đó có quản lý đội ngũ GVCN.
Việc nghiên cứu thực trạng đội ngũ GVCN và quản lý đội ngũ GVCN trường THCS Trịnh Xá, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam để đưa ra các biện pháp quản lý đồng bộ, phù hợp với thực tế của địa phương nhằm tăng cường vai trò của đội ngũ GVCN, góp phần thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng GD toàn diện HS là vấn đề cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Quản lý đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam trong bối cảnh đổi mới giáo dục”.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Quản Lý Giáo Dục
2. Mục đích nghiên cứu Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
Tìm ra biện pháp quản lý đội ngũ GVCN ở trường THCS, nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh trường Trung học cơ sở nói chung và nâng cao chất lượng của công tác chủ nhiệm lớp nói riêng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề lý luận của quản lý, quản lý giáo dục, trong đó có hoạt động quản lý đội ngũ GVCN.
Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng đội ngũ GVCN và các biện pháp quản lý đội ngũ GVCN ở trường THCS Trịnh Xá, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Đề xuất biện pháp quản lý đội ngũ GVCN nhằm nâng cao hiệu quả ho ạt động chủ nhiệm lớp ở trường THCS Trịnh Xá, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam trong bối cảnh đổi mới giáo dục.
4. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Đội ngũ GVCN ở trường THCS.
Đối tượng nghiên cứu: Quản lý đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
5. Câu hỏi nghiên cứu
Quản lý đội ngũ GVCN ở trường phổ thông dựa trên cơ sở lý luận nào?
Thực trạng đội ngũ GVCN và công tác quản lý đội ngũ GVCN ở trường THCS Trịnh Xá hiện nay như thế nào?
Biện pháp nào có thể sử dụng để quản lý đội ngũ GVCN trường THCS Trịnh Xá trong bối cảnh đổi mới giáo dục?
6. Giả thuyết khoa học
Hiệu quả của hoạt động chủ nhiệm lớp và chất lượng giáo dục toàn diện học sinh trường THCS Trịnh Xá sẽ được nâng cao nếu Hiệu trưởng có những biện pháp quản lý đội ngũ GVCN một cách khoa học và phù hợp với thực tiễn của địa phương.
7. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung trọng tâm: Quản lý đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Thời gian nghiên cứu: Năm học 2013-2014; 2014-2015.
Không gian thực hiện nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
8. Phương pháp nghiên cứu Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
8.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập và đọc các tài liệu lý luận, các văn bản pháp quy, các công trình nghiên cứu khoa học về Quản lý giáo dục, quản lý đội ngũ GVCN. Từ đó, phân tích và tổng hợp các vấn đề lý luận liên quan đến luận văn.
Phân tích và tổng hợp các quan niệm về QLGD, quản lý đội ngũ GVCN ở trường THCS.
8.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát: Tiếp cận, xem xét, thu thập dữ liệu từ thực tiễn đội ngũ GVCN và quản lý đội ngũ GVCN ở trường THCS Trịnh Xá, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp trò chuyện: Trao đổi các GVCN để hiểu thêm về nhu cầu, điều kiện của GVCN. Trao đổi cán bộ quản lý các trường nhằm thu thập những thông tin cần thiết bổ sung cho phương pháp điều tra khảo sát.
- Phương pháp điều tra bằng bảng phiếu: Xây dựng các phiếu điều tra để khảo sát các đối tượng liên quan đến nội dung nghiên cứu.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục: Tiến hành nghiên cứu, tiếp thu các kinh nghiệm quản lý đội ngũ GVCN ở các trường.
8.3. Phương pháp xử lý số liệu
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để tổng hợp kết quả, xử lý và phân tích các số liệu từ các phiếu hỏi thu thập được.
Minh họa bằng biểu đồ.
9. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận: Làm sáng tỏ hơn các khái niệm cơ bản, phát hiện thực trạng quản lý đội ngũ GVCN ở trường THCS Trịnh Xá, TP Phủ Lý, Hà Nam.
Về mặt thực tiễn:
- Đề xuất biện pháp quản lý đội ngũ GVCN của Hiệu trưởng ở trường THCS Trịnh Xá, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
- Góp phần vào việc phổ biến kinh nghiệm quản lý đội ngũ GVCN của Hiệu trưởng trong các trường THCS.
10. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý đội ngũ GVCN ở trường phổ thông.
- Chương 2: Thực trạng quản lý đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
- Chương 3: Biện pháp quản lý đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1. Một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
1.1.1. Nghiên cứu quản lý đội ngũ giáo viên chủ nhiệm trên thế giới
Ngay từ khi bắt tay vào xây dựng nhà nước XHCN, V.I. Lê-nin đã rất coi trọng việc xây dựng đội ngũ giáo viên. Người viết: “Chúng ta phải làm cho giáo viên ở nước ta có một địa vị mà trước đây họ chưa từng có, hiện nay vẫn không có và không thể có được trong xã hội tư sản”.
Trong báo cáo (1996) với nhan đề “Học tập: Một kho báu tiềm ẩn” của UNESCO đã xem xét vấn đề GD suốt đời như là việc học tập dựa trên bốn trụ cột lớn: “Học để biết; Học để làm; Học để cùng chung sống; Học để cùng tồn tại”. Đây chính là định hướng cốt lõi cho GD học sinh trong các trường phổ thông. Vấn đề GD để làm gì? GD cái gì? và GD như thế nào?
Trong tác phẩm “Phương pháp công tác chủ nhiệm lớp” (NXB Giáo dục Matxcơva, 1984), Bôn-đư-rép đã trình bày những phương pháp cơ bản về cách thức thực hiện công tác chủ nhiệm lớp ở các trường phổ thông. [12].
Từ định hướng trên, các nước phát triển đã chỉ ra những nội dung GD cho HS trung học mà có liên quan đến công tác chủ nhiệm lớp. Những nội dung GD học sinh như: GD kĩ năng sống, GD những giá trị sống, GD hướng nghiệp, … Theo quan điểm của UNESCO đã cho rằng GD trung học là giai đoạn mà thế hệ trẻ lựa chọn cho mình những giá trị cần thiết cho cuộc sống cũng như con đường chuẩn bị bước vào hoạt động nghề nghiệp và cuộc sống sau này. Đặc biệt, cuốn tài liệu tập huấn kĩ năng cơ bản trong tham vấn (Unicef 2005) cũng đưa ra những cách thức tham vấn cho HS lứa tuổi thanh niên. Như vậy, GV cần tổ chức các hoạt động khác nhau để HS có thể tham gia được dễ dàng và học được rất nhiều thứ từ đó.
Tài liệu dịch từ thành tựu nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về lĩnh vực này có cuốn Công tác chủ nhiệm lớp của tác giả Lê Khánh Bằng – Thư viện Đại học Sư phạm Hà Nội.
1.1.2. Nghiên cứu quản lý đội ngũ GVCN ở Việt Nam
Vấn đề phát triển đội ngũ giáo viên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nếu không có thày giáo thì không có giáo dục” [29].
Nhiều Hội thảo khoa học về chủ đề đội ngũ giáo viên dưới góc độ quản lý giáo dục theo ngành, bậc học đã được thực hiện. Có thể kể đến một số nghiên cứu loại này của các tác giả: Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Nguyễn Thành Hoàn, Trần Bá Hoành, … Việc xây dựng đội ngũ giáo viên cũng đã được một số công trình nghiên cứu, đề cập. Tại Hội thảo khoa học “Chất lượng giáo dục và vấn đề đào tạo giáo viên” do Khoa Sư phạm- Đại học quốc gia Hà Nội tổ chức, nhiều báo cáo tham luận của các tác giả như Trần Bá Hoành, Mai Trọng Nhuận, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Khánh Bằng, Đặng Xuân Hải,… cũng đã đề cập đến việc đào tạo đội ngũ giáo viên trước nhiệm vụ mới của Giáo dục – Đào tạo.
Các báo cáo tham luận hội thảo cũng bước đầu xác định những dấu hiệu để nhận biết GVCN bao gồm: là chuyên gia sư phạm, là chuyên gia về khoa học sáng tạo, là chuyên gia hướng dẫn, tư vấn. Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
Có nhiều nhà khoa học cũng quan tâm đến công tác chủ nhiệm lớp với các công trình như: Nguyễn Dục Quang, Lê Thanh Sử, Nguyễn Thị Kỷ, “Những tình huống giáo dục HS của người GVCN”, NXB ĐHQG Hà Nội, 2000; Hà Nhật Thăng (chủ biên), “Phương pháp công tác của người GVCN trường Phổ thông”, NXB ĐHQG Hà Nội, 2001; Hà Nhật Thăng, Nguyễn Dục Quang, Nguyễn Thị Kỷ, “Công tác GVCN ở trường phổ thông”, NXBGD, 1998; Bộ Giáo dục và Đào tạo, “Kỷ yếu hội thảo Công tác GVCN ở trường phổ thông”, NXBGD, 2010.
Nguyễn Thị Kim Dung: Công tác chủ nhiệm lớp- Nội dung quan trọng trong Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên. Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Nâng cao chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên các trường Đại học sư phạm, năm 2010.
Lưu Xuân Mới: Cải tiến việc quản lý đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng trường phổ thông (Đề tài cấp trường). Trường cán bộ quản lý giáo dục, Bộ GD- ĐT, Hà Nội 12/1998.
Nội dung về công tác chủ nhiệm cũng được nghiên cứu qua các luận văn thạc sỹ chuyên ngành quản lý giáo dục như:
Nghiên cứu của tác giả Đinh Thị Hà với đề tài Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng công tác chủ nhiệm lớp cho sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Gia Lai năm 2003.
Nghiên cứu của tác giả Ngô Thị Chuyên với đề tài Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm lớp tại trường Phổ thông Mạc Đĩnh Chi, quận Dương Kinh năm 2009.
Tác giả Vi Thúy Hoa với luận văn Quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp trường Trung học phổ thông Lộc Bình, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn năm 2013.
Tác giả Nguyễn Xuân Tuyên với luận văn Biện pháp quản lý công tác GVCN lớp của hiệu trưởng trường THPT ở tỉnh Yên Bái trong giai đoạn hiện nay năm 2006.
Hiện chưa có công trình nghiên cứu nào được thực hiện ở trường THCS Trịnh Xá, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam về quản lý đội ngũ GVCN.
1.2. Những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
1.2.1. Giáo viên, GVCN, đội ngũ GVCN
1.2.1.1. Giáo viên
Theo Điều 70, Luật Giáo dục nước Cộng hòa XHCN Việt Nam: “Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác”, “Nhà giáo ở các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên”.
Như vậy, giáo viên là tên gọi chỉ nhà giáo thực hiện hoạt động của giáo dục tại các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề [33].
Theo đó, giáo viên thực hiện lao động nghề nghiệp của mình tại các trường THCS được gọi là giáo viên THCS.
1.2.1.2. Giáo viên chủ nhiệm
Trong hệ thống tổ chức của các trường phổ thông, đơn vị cơ bản được tổ chức để giảng dạy và giáo dục học sinh là lớp học. Hình thức tổ chức dạy học, giáo dục theo lớp được hình thành từ thế kỉ XVI do nhà giáo dục Tiệp Khắc – Comenxki đề xướng. Để quản lý lớp học, nhà trường cử ra một trong những giáo viên đang giảng dạy làm chủ nhiệm lớp. GVCN lớp được Hiệu trưởng lựa chọn từ những GV có kinh nghiệm giáo dục, có uy tín trong học sinh, phân công chủ nhiệm các lớp học xác định để thực hiện mục tiêu giáo dục. Như vậy, khi nói đến người GVCN là đề cập đến vị trí, vai trò, chức năng của người làm công tác chủ nhiệm lớp.
GVCN là thành viên của tập thể sư phạm và hội đồng sư phạm, là người thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ HS quản lý và chịu trách nhiệm về chất lượng giáo dục toàn diện học sinh lớp mình phụ trách, tổ chức thực hiện chủ trương, kế hoạch của nhà trường ở lớp.
1.2.1.3. Đội ngũ GVCN
Tập hợp các giáo viên là đội ngũ GVCN của trường làm công tác chủ nhiệm của nhà trường chính đó.
1.2.2. Cơ sở lý luận về Quản lý giáo dục Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
1.2.2.1. Quản lý
Quản lý là một loại hình lao động của con người trong cộng đồng nhằm thực hiện các mục tiêu mà tổ chức hoặc xã hội đặt ra. Loài người đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển với nhiều hình thái xã hội khác nhau nên cũng trải qua nhiều hình thức quản lý khác nhau. Quản lý là một phạm trù tồn tại khách quan và là một tất yếu của lịch sử.
Theo C. Mác: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng [28, tr 105].
Theo tác giả Frederich William Taylor (1856-1915) người Mỹ: “QL là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ tiền nhất”.
Khi nói về vai trò của quản lý trong xã hội, Paul Herscy và Ken Blanc Heard trong cuốn “Quản lý nguồn nhân lực”: “Quản lý là một quá trình cùng làm việc giữa nhà quản lý và người bị quản lý nhằm thông qua hoạt động cá nhân của nhóm huy động các nguồn lực khác để đạt mục tiêu của tổ chức” [31].
Theo Nguyễn Quốc Chí – Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý “người quản lý” đến khách thể quản lý “người bị quản lý” trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [14].
Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt cho rằng: “Quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định”.
Từ các định nghĩa trên có thể rút ra một số điểm chung:
- Quản lý là hoạt động lao động, hoạt động này để điều khiển lao động, hoạt động khác.
- Yếu tố con người giữ vai trò trung tâm của hoạt động quản lý.
- Trong quản lý, bao giờ cũng có chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, quan hệ với nhau bằng những tác động quản lý. Những tác động quản lý chính là những quyết định quản lý, là những nội dung chủ thể quản lý yêu cầu đối với đối tượng quản lý.
Quản lý là một thuộc tính bất biến nội tại của một quá trình lao động xã hội. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng làm cho xã hội loài người tồn tại, vận hành và phát triển. Quản lý là một hệ thống xã hội trên nhiều phương diện. Điều đó cũng xác lập rằng quản lý phải có một cấu trúc và vận hành trong một môi trường xác định.
Sơ đồ 1.1. Cấu trúc của một hệ thống quản lý
Hiện nay quản lý được định nghĩa rõ hơn: Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng của các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
1.2.2.2. Các chức năng của quản lý Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
Chức năng kế hoạch hóa: Là quá trình xác định mục tiêu và quyết định những biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó. Thực chất của kế hoạch hóa là đưa toàn bộ những hoạt động vào công tác kế hoạch hóa với mục đích, biện pháp rõ ràng và ấn định tường minh các điều kiện cung ứng cho việc thực hiện mục tiêu.
Kế hoạch hóa là một chức năng quan trọng vì trên cơ sở phân tích các thông tin quản lý, căn cứ vào những tiềm năng đã có và những khả năng sẽ có mà xác định rõ hệ thống mục tiêu, nội dung hoạt động, các biện pháp cần thiết để chỉ rõ trạng thái mong muốn của nhà trường khi kết thúc các hoạt động. Kế hoạch hóa có vai trò to lớn như vậy vì có những chức năng cơ bản cụ thể sau:
Chức năng chẩn đoán: Bao gồm việc xác định trạng thái xuất phát và những phân tích về trạng thái đó.
- Chức năng dự báo: Bao gồm việc xác định nhu cầu và các mục tiêu trên cơ sở phân tích và căn cứ vào hướng dẫn của cấp trên về nhiệm vụ của năm học mới để suy ra những hướng phát triển cơ bản của nhà trường.
- Chức năng dự đoán: Bao gồm việc phác thảo các phương án chọn lựa có tính tiềm năng của nguồn lực dự trữ và những mong muốn chủ quan.
- Chức năng tổ chức: Nhờ chức năng tổ chức mà hệ thống quản lý trở nên có hiệu quả, cho phép các cá nhân đóng góp phần tốt nhất vào mục tiêu chung. Tổ chức được coi là điều kiện của quản lý. Thực chất của tổ chức là thiết lập mối quan hệ bền vững giữa con người, giữa các bộ phận trong hệ thống quản lý. Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn các động lực, tổ chức không tốt sẽ làm triệt tiêu động lực và giảm sút hiệu quả quản lý.
Tổ chức là một thuật ngữ có tính đa nghĩa, được sử dụng rất linh hoạt. Thứ nhất, tổ chức là một hệ thống gồm nhiều người cùng hoạt động vì mục đích chung. Thứ hai, tổ chức là quá trình triển khai các kế hoạch, bao gồm xây dựng những hình thức cơ cấu tổ chức, chỉ đạo thực hiện kế hoạch và kiểm tra đối với kế hoạch. Thứ ba, tổ chức là một chức năng của quá trình quản lý. Đó là các hoạt động được tiến hành sau khi kế hoạch đã được xây dựng nhằm thực hiện kế hoạch đã đề ra. Chức năng tổ chức là hoạt động quản lý nhằm thiết lập một hệ thống các vị trí cho mỗi cá nhân và bộ phận sao cho các cá nhân và bộ phận đó có thể phối hợp với nhau một cách tốt nhất để thực hiện mục tiêu của tổ chức.
Vai trò của chức năng tổ chức: Chức năng tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt, tổ chức là nhân tố sinh thành ra hệ toàn vẹn, tạo ra cái gọi là “hiệu ứng tổ chức” như Lê-nin nói: “Tổ chức sẽ nhân sức mạnh lên gấp mười lần”. Thành tựu của khâu tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và phong cách của chủ thể quản lý. Nhờ tổ chức có hiệu quả mà người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các nguồn lực. Nhờ có tổ chức mà kỷ cương, nề nếp, tác phong làm việc khoa học, sự đoàn kết nhất trí trong tổ chức được đảm bảo; năng lực, sở trường của mỗi người và mỗi bộ phận được phát huy.
Nội dung chủ yếu của chức năng tổ chức: Về bản chất, nội dung tổ chức là việc thực hiện phân công lao động một cách khoa học, là cơ sở để tạo ra năng suất lao động cao.
Yêu cầu của công tác tổ chức: Đảm bảo tính khoa học, hiệu quả; Phân cấp rõ ràng, phối hợp nhịp nhàng; Chỉ rõ nhiệm vụ và quyền hạn, kết hợp trách nhiệm, quyền hạn và quyền lợi; Cụ thể và sáng tạo; Đảm bảo lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài v.v…
Chức năng chỉ đạo: Chỉ đạo là quá trình tác động ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến hành vi và thái độ của những người khác nhằm các mục tiêu đã đề ra. Chỉ đạo thể hiện quá trình ảnh hưởng qua lại giữa chủ thể quản lý và mọi thành viên trong tổ chức nhằm góp phần thực hiện hóa các mục tiêu đã đặt ra.
Chức năng chỉ đạo, xét cho cùng là sự tác động lên con người, khơi dậy động lực của nhân tố con người trong hệ thống quản lý, thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người và quá trình giải quyết những mối quan hệ đó để họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu. Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
Một số học giả gọi chức năng này là chức năng điều khiển. Điều khiển tổ chức là quá trình chủ thể sử dụng quyền lực quản lý của mình để tác động lên hành vi của các phần tử trong tổ chức một cách có chủ đích để tổ chức đi đến mục tiêu.
Nhiều học giả gọi chức năng này là chức năng lãnh đạo, chỉ đạo. Theo nghĩa này, chức năng lãnh đạo, chỉ đạo được hiểu như sau: Lãnh đạo là quá trình tác động đến con người sao cho họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu để đạt được các mục tiêu của tổ chức, bao gồm các hoạt động chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn, phối hợp của người quản lý đối với các cá nhân, bộ phận thừa hành trong tổ chức; Chỉ đạo là quá trình tập hợp, liên kết các thành viên trong tổ chức theo sát hoạt động của bộ máy, hướng dẫn, điều chỉnh công việc nhịp nhàng, động viên, khuyến khích, khen thưởng người lao động nhằm đạt mục tiêu của tổ chức.
Nội dung chủ yếu của chức năng: Để thực hiện chức năng này, người quản lý phải ra quyết định. Muốn thực hiện tốt chức năng này, người quản lý phải: Hiểu rõ con người trong tổ chức; Đưa ra các quyết định lãnh đạo thích hợp; Xây dựng nhóm làm việc và làm việc với nhóm; Dự kiến các tình huống và tìm cách xử lý tốt các tình huống xảy ra; Giao tiếp và đàm phán tốt.
Chức năng kiểm tra: Sau khi xác định các mục tiêu, quyết định những biện pháp tốt nhất để đạt tới các mục tiêu và triển khai các chức năng tổ chức, chỉ đạo để thực hiện hóa các mục tiêu đó cần phải tiến hành hoạt động kiểm tra để xem xét việc triển khai các quyết định trong thực tiễn, từ đó có những điều chỉnh cần thiết trong các hoạt động để góp phần đạt tới mục tiêu đã xác định.
Kiểm tra là việc giúp nhà QL phát hiện các sai sót trong quá trình hoạt động để có giải pháp xử lý, điều chỉnh. Kiểm tra trong QL là quá trình theo dõi giám sát, đo lường, đánh giá diễn biến và kết quả đạt được của các hoạt động, đồng thời tiến hành các biện pháp sửa chữa, uốn nắn, khắc phục những sai lệch cần thiết. Đó cũng là quá trình tự điều chỉnh của tổ chức. Nếu tiếp cận theo góc độ lý thuyết thông tin thì kiểm tra là quá trình thiết lập mối liên hệ ngược giữa người quản lý và đối tượng quản lý. Kiểm tra là hệ thống phản hồi về kết quả của các hoạt động và là hệ thống phản hồi dự báo trước những kết quả có thể xảy ra.
Kiểm tra có vai trò quan trọng trong quá trình QL, là nhu cầu cơ bản để hoàn thành các quyết định QL. Kiểm tra còn giúp hoàn thiện các quyết định QL về nhiều mặt, khẳng định sự đúng sai của đường lối, chính sách, mục tiêu, cơ cấu, cơ chế của tổ chức. Có thể nói rằng “không có kiểm tra là không có QL”.
Nội dung chủ yếu của chức năng kiểm tra: Nhiệm vụ của kiểm tra trong các tổ chức là xác định, sửa chữa được những sai lệch trong hoạt động của tổ chức so với mục tiêu, kế hoạch và tìm kiếm các cơ hội, tiềm năng có thể để khai thác, hoàn thiện, cải tiến, đổi mới không ngừng hệ thống.
Tóm lại: Sự phân công và chuyên môn hóa trong hoạt động quản lý đã hình thành nên các chức năng quản lý, đó là chức năng kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra. Các chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Sơ đồ 1.2. Sơ đồ thể hiện mối quan hệ giữa các chức năng quản lý
1.2.2.3. Quản lý giáo dục Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
Khái niệm giáo dục:
Theo “Từ điển Giáo dục” – NXB Từ điển bách khoa: “Giáo dục là hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội” [41, tr.105].
Theo Nguyễn Sinh Huy, Nguyễn Văn Lê:
- Nghĩa rộng: “Giáo dục là sự hình thành có mục đích và tổ chức những sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, hình thành thế giới quan, bộ mặt đạo đức và thị hiếu thẩm mỹ cho con người”.
Nghĩa hẹp: “Giáo dục bao gồm quá trình hoạt động nhằm tạo ra cơ sở khoa học của thế giới quan, lý tưởng đạo đức, thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực của con người, kể cả việc phát triển nâng cao thể lực. Quá trình này xem như một bộ phận của giáo dục tổng thể”.
Khái niệm quản lý giáo dục:
Nhà nước quản lý mọi hoạt động của xã hội trong đó có hoạt động giáo dục. Nhà nước quản lý giáo dục thông qua tập hợp các tác động hợp quy luật được thể chế hóa bằng pháp luật của chủ thể quản lý, nhằm tác động đến các phân hệ quản lý để thực hiện mục tiêu giáo dục mà kết quả cuối cùng là chất lượng, hiệu quả đào tạo thế hệ trẻ.
Đã có nhiều nghiên cứu về quản lý nói chung cho nên cũng có nhiều quan niệm khác nhau về QLGD.
QLGD theo nghĩa tổng quát là: “Hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội”.
Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi người; tuy nhiên trọng tâm vẫn là giáo dục thế hệ trẻ cho nên QLGD được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân.
QLGD là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục theo yêu cầu phát triển xã hội.
Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “QLGD là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể QL nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”.
Như vậy, quản lý giáo dục là tổng hợp các biện pháp tổ chức, kế hoạch hóa nhằm bảo đảm sự vận hành bình thường các cơ quan trong hệ thống giáo dục.
QLGD là quá trình vận dụng nguyên lý, khái niệm, phương pháp chung nhất của khoa học quản lý vào lĩnh vực giáo dục. QLGD là sự tác động có chủ đích của chủ thể QL đến đối tượng QL trong lĩnh vực GD nhằm đạt mục tiêu xác định.
1.2.2.4. Quản lý đội ngũ GVCN Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
QL đội ngũ GVCN là quá trình tác động có mục đích, kế hoạch của cán bộ QL nhà trường đến đội ngũ GVCN nhằm đạt được mục tiêu giáo dục toàn diện.
Quản lý đội ngũ GVCN là hoạt động có mục đích, định hướng với các biện pháp quản lý của Hiệu trưởng đến tập thể GVCN nhằm phát huy một cách có hiệu quả nguồn nhân lực vào việc tổ chức thực hiện công tác chủ nhiệm nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho HS.
1.2.3. Trường phổ thông, trường THCS
Giáo dục phổ thông là hình thức giáo dục chính quy, thực hiện theo chương trình giáo dục phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trường phổ thông là cơ sở GD phổ thông, bảo đảm đủ các điều kiện về cán bộ QL, GV dạy các môn học, nhân viên hành chính, …; có cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập; có đủ những điều kiện về tài chính theo quy định của Bộ Tài chính. Trường phổ thông nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của nhà nước; thực hiện chương trình GD phổ thông và kế hoạch giảng dạy do Bộ GD&ĐT quy định.
Giáo dục phổ thông gồm 2 bậc Tiểu học và Trung học. Bậc Tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5; bậc Trung học gồm: bậc THCS từ lớp 6 đến lớp 9 và bậc THPT từ lớp 10 đến lớp 12. Trường phổ thông gồm có trường Tiểu học, trường THCS và trường THPT.
- Trường THCS là cơ sở giáo dục của cấp Trung học, nối tiếp bậc học Tiểu học của hệ thống giáo dục quốc dân. Trường THCS có từ lớp 6 đến lớp 9, có tư cách pháp nhân và con dấu riêng.
- Trường THPT là cơ sở giáo dục của cấp Trung học nhằm hoàn chỉnh học vấn phổ thông. Trường THPT có từ lớp 10 đến lớp 12, có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng.
1.2.4. Bối cảnh đổi mới giáo dục Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
1.2.4.1. Sự cần thiết phải đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo:
Qua ba lần cải cách và quá trình đổi mới những năm gần đây, giáo dục Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào thắng lợi của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, giáo dục đã bộc lộ những yếu kém, bất cập, trong đó có những vấn đề gây bức xúc xã hội kéo dài. Nhiều chính sách, cơ chế, giải pháp về giáo dục có hiệu quả trong giai đoạn vừa qua, nay đã không còn phù hợp, cần được điều chỉnh.
Yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đặc biệt là yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chất lượng, hiệu quả, có sức cạnh tranh cao đòi hỏi giáo dục phải đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của người dân, nhanh chóng góp phần tạo ra đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Nếu không đổi mới căn bản và toàn diện GD&ĐT tạo thì nhân lực sẽ là yếu tố cản trở sự phát triển của đất nước.
Nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, khoa học GD và sự cạnh tranh quyết liệt trên nhiều lĩnh vực giữa các quốc gia đòi hỏi GD phải đổi mới. Thực chất cạnh tranh giữa các quốc gia hiện nay là cạnh tranh về nguồn nhân lực và về khoa học và công nghệ. Xu thế chung của thế giới khi bước vào thế kỷ XXI là các nước tiến hành đổi mới mạnh mẽ hay cải cách GD.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định “Đổi mới căn bản, toàn diện nền GD theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” và “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền GD quốc dân”.
1.2.4.2. Bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo
Thuận lợi
- Đất nước ổn định về chính trị, thành tựu phát triển kinh tế – xã hội trong 10 năm qua, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 với yêu cầu tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng, cùng với Chiến lược và Quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011 – 2020 là những tiền đề cơ bản để thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam.
- Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đặc biệt quan tâm, chăm lo phát triển GD&ĐT, mong muốn đổi mới căn bản, toàn diện nền GD, tận dụng cơ hội phát triển đất nước trong giai đoạn “cơ cấu dân số vàng” và hội nhập quốc tế mạnh mẽ.
- Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông phát triển mạnh làm biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để đổi mới giáo dục. Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
- Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng tạo cơ hội thuận lợi để nước ta tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo dục và quản lý giáo dục hiện đại và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát triển giáo dục.
- Nhân dân ta với truyền thống hiếu học và chăm lo cho giáo dục, sẽ tiếp tục dành sự quan tâm và đầu tư cao cho giáo dục và đào tạo.
Thách thức
- Nguồn lực Nhà nước và khả năng của phần đông gia đình đầu tư cho giáo dục và đào tạo, nhất là về tài chính còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu đảm bảo chất lượng giáo dục trong khi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, sự phát triển không đều giữa các địa phương vẫn là nguyên nhân của sự bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận giáo dục và sự chênh lệch chất lượng giáo dục giữa các đối tượng người học và các vùng miền.
- Tư duy bao cấp, sức ỳ trong nhận thức, tác phong quan liêu trong ứng xử với giáo dục của nhiều cấp, nhiều ngành, của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục cũng như tư duy bao cấp và tâm lý khoa bảng của người dân còn lớn, không theo kịp sự phát triển nhanh của kinh tế, xã hội và khoa học công nghệ.
- Khoảng cách phát triển về kinh tế – xã hội, khoa học và công nghệ giữa nước ta và các nước tiên tiến có xu hướng gia tăng. Hội nhập quốc tế và hiện tượng thương mại hóa giáo dục đang làm nảy sinh nhiều nguy cơ tiềm ẩn như sự thâm nhập lối sống không lành mạnh, xói mòn bản sắc văn hoá dân tộc; sự thâm nhập của các loại dịch vụ giáo dục kém chất lượng, lạm dụng dạy thêm, học thêm, chạy trường, chạy điểm, v.v…
1.2.4.3. Quan điểm chỉ đạo đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ tư duy, quan điểm đến mục tiêu, hệ thống, chương trình giáo dục, các chính sách, cơ chế và các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục; đổi mới ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo, ở cả Trung ương và địa phương, ở mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Đổi mới để tạo ra chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả giáo dục, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhu cầu học tập của nhân dân.
Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, có tầm nhìn dài hạn, các giải pháp đồng bộ, khả thi, có cơ sở khoa học.
Đổi mới căn bản và toàn diện không có nghĩa là làm lại tất cả, từ đầu mà cần vừa củng cố, phát huy các thành tựu và điển hình đổi mới, vừa kiên quyết chấn chỉnh những lệch lạc, những việc làm trái quy luật, phát triển những nhân tố tích cực mới; đổi mới có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình phù hợp với thực tế đất nước, địa phương. Những hạn chế, thách thức của giáo dục phải được nhận thức sâu sắc, có giải pháp hữu hiệu và lộ trình để khắc phục, vượt qua để đưa sự nghiệp giáo dục lên tầm cao mới.
1.2.5. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của GVCN Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
1.2.5.1. Vị trí của GVCN
GVCN là thành viên của Hội đồng sư phạm, là người thay mặt Hiệu trưởng QL và chịu trách nhiệm về chất lượng GD toàn diện HS lớp mình phụ trách, tổ chức thực hiện chủ trương, kế hoạch của nhà trường ở đơn vị lớp.
GVCN là cầu nối giữa hiệu trưởng, các tổ chức trong nhà trường, các giáo viên bộ môn với tập thể học sinh. Nói cách khác, GVCN là người đại diện hai phía, một mặt đại điện cho Hội đồng sư phạm, mặt khác lại đại diện cho tập thể học sinh trong quá trình thực hiện công tác chủ nhiệm lớp.
1.2.5.2. Vai trò của GVCN
GVCN là người thay mặt hiệu trưởng QL lớp học. Vai trò QL đó được thể hiện trong việc xây dựng kế hoạch GD; tổ chức các hoạt động GD; hướng dẫn việc thực hiện các hoạt động GD theo kế hoạch; kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, tu dưỡng của HS. GVCN chịu trách nhiệm về kết quả học tập và rèn luyện của HS trong lớp. Do đó, có thể nói trách nhiệm của GVCN lớp rất nặng nề. Đồng thời, GVCN là linh hồn của tập thể lớp, là người tập hợp HS thành một khối đoàn kết. GVCN sẽ để lại trong lòng HS những ấn tượng sâu sắc, tốt đẹp nhất. Tình cảm của lớp càng bền chặt, tinh thần trách nhiệm và uy tín của GVCN càng cao thì chất lượng giáo dục càng tốt. Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
Trong quá trình làm việc, GVCN là người tổ chức các hoạt động GD học sinh trong lớp. Vai trò tổ chức của GVCN được thể hiện trong các việc: Thành lập bộ máy tự quản của lớp; phân công trách nhiệm cho từng cá nhân và cho các tổ, nhóm; tổ chức các hoạt động của lớp theo mục tiêu GD đã được xây dựng; các hoạt động của lớp thực hiện theo năm mặt toàn diện. Chất lượng học tập và tu dưỡng đạo đức của HS trong lớp phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tổ chức GD của GVCN.
GVCN là người cố vấn đắc lực của Chi đội Thiếu niên tiền phong trong việc tổ chức sinh hoạt tập thể nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục chung.
Trong quan hệ với các lực lượng giáo dục khác trong và ngoài nhà trường, GVCN là nhân vật trung tâm để hình thành, phát triển nhân cách học sinh và là cầu nối giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
GVCN vừa đưa ra những định hướng, mục tiêu phát triển, giáo dục HS vừa phải tổ chức phối hợp với các lực lượng xã hội có liên quan nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của lớp chủ nhiệm, giáo dục HS hiệu quả.
GVCN cũng là người triển khai những yêu cầu giáo dục của nhà trường đến với gia đình học sinh, đồng thời cũng là người tiếp nhận các thông tin phản hồi từ học sinh, gia đình học sinh, các dư luận xã hội về học sinh trở lại với nhà trường để giúp lãnh đạo nhà trường có giải pháp quản lý, phối hợp hiệu quả, đồng thời tạo lập mối liên hệ thông tin đa chiều giữa nhà trường – gia đình học sinh – xã hội.
GVCN giữ vai trò chủ động trong việc phối hợp các lực lượng GD: Gia đình, nhà trường, xã hội là ba lực lượng GD, trong đó nhà trường là lực lượng GD có tính chất chuyên nghiệp. GVCN liên hệ chặt chẽ với giáo viên các bộ môn, với Hội đồng nhà trường, với Ban Giám hiệu. GVCN là người giữ vai trò chủ động trong việc phối hợp các lực lượng GD. Do vậy, GVCN phải là người đứng ra điều phối và kết hợp cùng các lực lượng GD để tổ chức các hoạt động GD một cách có hiệu quả nhất.
Năng lực chuyên môn, đạo đức, uy tín và kinh nghiệm công tác của GVCN là điều kiện quan trọng nhất cho việc tổ chức, phối hợp thành công các hoạt động GD học sinh của lớp.
1.2.5.3. Chức năng của GVCN Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
Chức năng quản lý:
GVCN phải biết tổ chức, quản lý học sinh. Như trên đã nêu, lớp là một tập thể, là một tế bào của tập thể nhà trường. Vì vậy, bộ máy quản lý lớp nằm trong bộ máy quản lý chung của nhà trường. GVCN là người thay mặt Hiệu trưởng, chịu trách nhiệm phụ trách công tác quản lý trong phạm vi lớp mình làm chủ nhiệm. Ở đây, GVCN phải:
- Thiết kế được kế hoạch xây dựng và phát triển tập thể học sinh.
- Phát huy được ý thức tự quản của học sinh, xây dựng được bộ máy của lớp có đủ năng lực và uy tín điều hành các hoạt động chung.
- Cố vấn cho bộ máy này hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra.
- Tổ chức kiểm tra, đánh gia hoạt động của lớp, của từng học sinh.
- Báo cáo Hiệu trưởng theo chế độ đã quy định.
Cuối cùng chức năng QL, GD của GVCN còn được thể hiện ở chỗ tổ chức tập hợp, khai thác sức mạnh tổng hợp của các lực lượng GD trong và ngoài nhà trường nhằm thúc đẩy sự phát triển nhân cách toàn diện của từng thành viên.
Chức năng giáo dục:
GVCN quan tâm đến sự phát triển toàn diện của mọi học sinh trong tập thể lớp, phải nắm vững được những đặc điểm chung của lớp, của từng học sinh; có mục tiêu, nội dung, hình thức giáo dục thích hợp, có những tác động sư phạm hợp quy luật, mang lại hiệu quả; chú ý giáo dục cá biệt, cá nhân hóa giáo dục; đánh giá kết quả học tập, tu dưỡng toàn diện của lớp, của từng học sinh.
Chức năng đại diện:
GVCN là người đại diện cho Hiệu trưởng truyền đạt những yêu cầu đối với học sinh với phương pháp thuyết phục, thái độ nghiêm túc để mỗi học sinh và tập thể lớp ý thức được đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm của mình. Đồng thời GVCN cũng là người trực tiếp phản ánh tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đề xuất của tập thể học sinh lớp mình lên lãnh đạo nhà trường.
1.2.5.4. Nhiệm vụ của GVCN
GVCN trước hết phải là GV giảng dạy bộ môn. Nhiệm vụ của GV được quy định tại Khoản 1, điều 31, Điều lệ trường THCS, trường Phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học ban hành kèm theo Thông tư 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3/2011 của Bộ GD-ĐT [10]:
- Dạy học và giáo dục theo chương trình, kế hoạch giáo dục, kế hoạch dạy học của nhà trường theo chế độ làm việc của giáo viên do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định; quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục do nhà trường tổ chức; tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn; chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả giáo dục; tham gia nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng; Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
- Tham gia công tác phổ cập giáo dục ở địa phương;
- Rèn luyện đạo đức, học tập văn hoá, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục; vận dụng các phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo, rèn luyện phương pháp tự học của học sinh;
- Thực hiện Điều lệ nhà trường; thực hiện quyết định của Hiệu trưởng, chịu sự kiểm tra, đánh giá của Hiệu trưởng và các cấp quản lý giáo dục;
- Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo, gương mẫu trước học sinh; thương yêu, tôn trọng học sinh, đối xử công bằng với học sinh, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của học sinh; đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp; tạo dựng môi trường học tập và làm việc dân chủ, thân thiện, hợp tác, an toàn và lành mạnh;
- Phối hợp với GVCN, các giáo viên khác, gia đình học sinh, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh trong dạy học và giáo dục học sinh;
Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ của GVCN được quy định tại Khoản 2, Điều 31- Điều lệ trường THCS, trường THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học [10]: GVCN, ngoài các nhiệm vụ quy định đối với giáo viên bộ môn như trên, còn có những nhiệm vụ sau đây:
Xây dựng kế hoạch các hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học sinh, với hoàn cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của từng học sinh;
- Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng;
- Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các giáo viên bộ môn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có liên quan trong việc hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp của học sinh lớp mình chủ nhiệm và góp phần huy động các nguồn lực trong cộng đồng phát triển nhà trường;
- Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học; đề nghị khen thưởng và kỷ luật học sinh; đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp; hoàn chỉnh việc ghi sổ điểm và học bạ học sinh;
Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng.
1.2.6. Các yêu cầu đối với GVCN hiện nay Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
1.2.6.1. Về đạo đức nghề nghiệp:
Nếu như giáo viên dạy các môn học quan tâm nhiều hơn đến kết quả nắm kiến thức và khả năng vận dụng kiến thức thì giáo viên chủ nhiệm thực sự là nhà giáo dục, ảnh hưởng của họ đến nhân cách học sinh, đến hiệu quả giáo dục còn lớn hơn cả người Hiệu trưởng. Chính vì vậy, mức độ phát triển nhân cách, đạo đức nghề nghiệp của giáo viên chủ nhiệm rất quan trọng, đặc thù của nghề này là nhân cách, đạo đức giáo viên cũng trở thành phương tiện giáo dục.
Những yêu cầu về nhân cách, đạo đức người giáo viên đã được đề cập ở nhiều văn bản pháp quy từ Luật cho đến những văn bản dưới luật.
Người GVCN tối thiểu cũng phải đảm bảo những yêu cầu về đạo đức, nhân cách đã được quy định trong các văn bản. Cụ thể là:
Luật Giáo dục 2005: Điều 72, nhiệm vụ của nhà giáo; Điều 70, những tiêu chuẩn của nhà giáo; Điều 75, các hành vi nhà giáo không được làm [33].
Quy định đạo đức nhà giáo năm 2008 của Bộ GD&ĐT cũng thể hiện rõ vấn đề này tại các Điều: Điều 3 phẩm chất chính trị; Điều 4 đạo đức nghề nghiệp; Điều 5 lối sống, tác phong; Điều 6 giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo.
Quy định Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở, giáo viên trung học phổ thông Ban hành kèm theo Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thể hiện tại Điều 4, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống [8].
1.2.6.2. Về chuyên môn nghiệp vụ:
Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT quy định: Điều 5, Năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục; Điều 6, Năng lực dạy học, Điều 7,
Năng lực giáo dục, Điều 8, Năng lực hoạt động chính trị, xã hội, Điều 9, Năng lực phát triển nghề nghiệp.
GVCN phải biết thu thập và xử lý thông tin đa dạng về lớp chủ nhiệm. Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học đã yêu cầu phải “có năng lực tìm hiểu đối tượng, có phương pháp thu thập và xử lý thông tin thường xuyên về nhu cầu và đặc điểm của từng học sinh, sử dụng các thông tin thu được vào dạy học, giáo dục” (tiêu chí 6) [8].
GVCN phải biết lập kế hoạch năm học và các kế hoạch giáo dục ngắn hạn khác để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu giáo dục. Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học yêu cầu: “kế hoạch các hoạt động giáo dục được xây dựng thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục đảm bảo tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học sinh, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế, thể hiện khả năng hợp tác, cộng tác với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường” (tiêu chí 16) [8]. Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
Xây dựng tập thể học sinh lớp chủ nhiệm:
Đây là chức năng đặc trưng và cũng là yêu cầu đối với GVCN mà các giáo viên bộ môn không thể thay thế. Để giáo dục và phát triển toàn diện từng học sinh, GVCN tất yếu phải xây dựng và phát triển tập thể lớp. Nhiệm vụ của người GVCN đưa tập thể lớp từ trạng thái này đến trạng thái phát triển cao hơn.
GVCN phải có năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục với hình thức đa dạng. Bên cạnh việc sử dụng hệ thống các mối quan hệ và các giá trị, truyền thống trong tập thể để giáo dục học sinh, GVCN còn phải tổ chức giờ sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp theo chủ đề và các loại hình hoạt động giáo dục đa dạng khác phù hợp với mục tiêu giáo dục của hoạt động. Thông qua tổ chức các loại hình hoạt động phong phú, đa dạng để giáo dục hành vi, thói quen ứng xử, văn hóa cho học sinh về các mặt: Đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, … đồng thời, qua đó phát triển tập thể lớp và từng HS.
GVCN phải phát hiện kịp thời và ngăn ngừa những xung đột trong lớp: Sự bất hòa và những xung đột nảy sinh là điều khó tránh trong các mối quan hệ giữa các thành viên của tập thể. Do đó GVCN cần lưu tâm ngăn ngừa và giải quyết kịp thời những mâu thuẫn có thể trong tập thể lớp chủ nhiệm.
Đánh giá kết quả tu dưỡng, học tập và sự tiến bộ của học sinh về các mặt giáo dục phải công bằng, chính xác.
Theo quan điểm đánh giá để phát triển học sinh, GVCN cần thường xuyên thu thập và xử lý thông tin để khích lệ học sinh vươn lên hoặc điều chỉnh kịp thời những hành vi không mong đợi ở các em. Ngoài yêu cầu đánh giá khách quan, công bằng, đánh giá học sinh còn cần hướng đến làm tăng lòng tự tin, muốn tự hoàn thiện của các em. GVCN cần nhìn học sinh theo quan điểm động và phát triển. Chuẩn nghề nghiệp GVTrH đã yêu cầu “đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức của học sinh một cách chính xác, khách quan, công bằng và có tác dụng thúc đẩy sự phấn đấu vươn lên của học sinh” (Tiêu chí 21) [8].
GVCN phải phối hợp thường xuyên với các lực lượng GD trong và ngoài nhà trường xây dựng môi trường GD, tổ chức giáo dục và đánh giá HS.
GVCN thường xuyên cần kết hợp với giáo viên để giáo dục và tổ chức hoạt động tự học nhằm không ngừng nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. GVCN cũng phải phối hợp với tổ chức đoàn thể khác để giáo dục đạo đức, nề nếp lối sống cho học sinh, tổ chức và đưa học sinh vào hoạt động xã hội. Đặc biệt, GVCN cần phối hợp với cha mẹ học sinh để xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, dựa trên tình cảm quan hệ huyết thống, tác động giáo dục đến con em theo mục tiêu giáo dục, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học sinh.
Tóm lại, GVCN phải có phẩm chất đạo đức tốt, vững về chuyên môn, nghiệp vụ để có biện pháp giáo dục học sinh đạt kết quả như mong muốn.
1.3. Nội dung cơ bản của quản lý đội ngũ GVCN Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
1.3.1. Tuyển dụng
Dựa trên quy hoạch phát triển đội ngũ giáo viên của nhà trường sau khi có kế hoạch tuyển dụng tiến hành lựa chọn giáo viên cho phù hợp với yêu cầu của nhà trường. Tuyển chọn là một khâu quan trọng nhằm đảm bảo cơ cấu hợp lý và chất lượng cao. Nhiệm vụ của tuyển dụng là xúc tiến các hoạt động nhằm thu hút các ứng viên thích hợp cho nhà trường. Đó là quá trình sử dụng các phương pháp nhằm xem xét, đánh giá, lựa chọn quyết định trong số những người được tuyển dụng, ai là người đủ tiêu chuẩn.
Các yêu cầu về công bằng và dân chủ trong việc lựa chọn giáo viên cần được chú trọng. Công tác tuyển dụng phải tuân thủ một số yêu cầu sau:
- Việc tuyển dụng phải tuân thủ chặt chẽ, nghiêm túc quá trình quản lý nhân sự.
- Giáo viên được tuyển chọn phải nằm trong kế hoạch biên chế.
- Cần có cơ chế, chính sách đãi ngộ để thu hút những giáo viên giỏi.
- GV dự tuyển vào phải được cấp có thẩm quyền duyệt: Phẩm chất đạo đức; Trình độ (chuyên ngành gì, trường nào đào tạo, kết quả quá trình học tập ra sao, có đảm bảo theo quy định không?); năng lực công tác (qua kiểm tra, sát hạch, thử việc); sức khỏe; …
Việc lựa chọn GVCN thường dựa vào các tiêu chí sau:
- Có phẩm chất đạo đức tốt. Nhiệt tình, tâm huyết với công việc.
- Có năng lực chuyên môn vững vàng. Nhanh nhẹn, hoạt bát, biết cách tổ chức, giải quyết các tình huống giáo dục.
1.3.2. Bố trí, sử dụng Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
Việc bố trí, sử dụng đội ngũ GVCN có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến việc phát huy vai trò của đội ngũ GVCN. Bố trí (phân công nhiệm vụ) có mục đích cụ thể, rõ ràng và trong thời gian nhất định. Việc phân công GVCN hợp lý, đúng khả năng chuyên môn, nghiệp vụ là điều kiện thuận lợi để GVCN phát huy được tính tích cực, sáng tạo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình. Bố trí công việc “đúng người, đúng việc, đúng lúc, đúng chỗ” là rất quan trọng khi tuyển chọn và bố trí GVCN.
Trong bố trí, sử dụng đội ngũ GVCN cần coi trọng năng lực sáng tạo thực sự, phê phán quan điểm cho rằng cứ có bằng cấp cao thì làm việc gì cũng được. Việc bố trí công việc không chỉ đáp ứng yêu cầu hiện tại mà còn đáp ứng nhu cầu phát triển của nhà trường trong tương lai.
1.3.3. Kiểm tra, đánh giá
Kiểm tra, đánh giá nhằm theo dõi, giám sát các thành quả của các hoạt động so với mục tiêu đề ra và tiến hành những hoạt động sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết; tạo động lực cho mọi người thực hiện. Người kiểm tra luôn song hành với đối tượng được kiểm tra để hỗ trợ giúp đỡ. Kiểm tra, đánh giá mang tính quyết định hiệu quả quản lý. Kiểm tra, đánh giá phải dựa trên tiêu chí, tiêu chuẩn. Sau khi đối chiếu đo lường kết quả đạt được với tiêu chuẩn đã đề ra thì tiến hành điều chỉnh sai lệch, tăng thêm nguồn lực hoặc sửa lại chuẩn nếu cần.
GVCN trong nhà trường, ngoài các nhiệm vụ chung của một giáo viên là giảng dạy, còn nhiệm vụ của công tác chủ nhiệm lớp. Hoạt động này có những đặc điểm riêng, khác với hoạt động bình thường của giáo viên bộ môn khác.
Bản lĩnh và uy tín của GVCN được coi là một trong những thước đo quan trọng khi đánh giá giáo viên.
Ngoài quản lý hoạt động giảng dạy, đối với công tác QL đội ngũ GVCN cần phải quan tâm các hoạt động khác: Việc rèn luyện tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức; học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; tham gia các hoạt động đoàn thể trong nhà trường, hoạt động xã hội mang tính cộng đồng, tham gia các công tác đột xuất khác khi được lãnh đạo phân công, …
1.3.4. Đào tạo, bồi dưỡng Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
Đào tạo và bồi dưỡng là hai quá trình tác động đến con người nhằm trang bị hoặc là trang bị thêm kiến thức, kỹ năng cho mỗi người với mục đích hoàn thiện, nâng cao khả năng hoạt động nghề nghiệp giúp con người lao động thực hiện tốt hơn các công việc hiện tại.
Đào tạo là một nội dung quan trọng trong QL đội ngũ GV. Đào tạo GV mới do các trường Sư phạm đảm nhiệm. Do đó, cần có sự liên hệ giữa nhu cầu nhà trường cần tuyển dụng với trường Sư phạm để phù hợp yêu cầu thực tế.
Bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho GVCN là một trong những yêu cầu cơ bản, thường xuyên của công tác quản lý nhà trường. Trong quá trình phát triển của nhà trường, các giáo viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế.
Nội dung của bồi dưỡng thường xuyên là:
Bồi dưỡng về chính trị, tư tưởng giúp đội ngũ giáo viên nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách, về tình hình phát triển kinh tế – xã hội, về xu thế phát triển của xã hội, đặc biệt về lĩnh vực giáo dục – đào tạo. Từ đó xác đinh tư tưởng mới trong giai đoạn mới.
Bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ: GVCN phải luôn có ý thức tự học, tự bồi dưỡng thông qua tài liệu tham khảo, tham dự đầy đủ các lớp bồi dưỡng được cấp trên tổ chức để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình.
Tổ chức hội thảo chuyên đề:
Giới thiệu các chuyên đề mới và khó nhằm bổ sung cập nhật kiến thức cho GVCN. Bồi dưỡng về các kỹ năng, nghiệp vụ làm công tác chủ nhiệm.
1.3.5. Tạo môi trường và điều kiện làm việc
Để người GVCN yên tâm làm việc và sẵn sàng cống hiến hết mình cho sự nghiệp giáo dục thì nhà trường và xã hội cần phải tạo cho họ môi trường và điều kiện làm việc tốt. Môi trường ở đây bao gồm các yếu tố: Những điều kiện, cơ chế, chính sách, các chế độ, quy định đảm bảo điều kiện sống, sinh hoạt và làm việc cho GVCN.
Môi trường ở đây còn được hiểu là môi trường sư phạm, trong đó nghề giáo viên được sống trong một môi trường văn hoá, sống trong tình cảm ấm áp, chân tình cởi mở của đồng nghiệp, trong tình cảm gắn bó của mối quan hệ thày trò.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý đội ngũ GVCN Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
1.4.1. Yếu tố chủ quan
1.4.1.1. Trình độ, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý
Quản lý ngày nay là một nghề, do đó cán bộ quản lý giáo dục ngày nay phải là những con người toàn năng, vừa có tầm nhìn chiến lược, vừa thành thạo kỹ năng quản lý nhà trường, nghiệp vụ tổ chức sư phạm, vừa biết xử lý các tình huống gay cấn của cấp quản lý. Trong đó, kỹ năng công tác, kế hoạch, tổ chức, kiểm tra, xử lý thông tin cần theo kịp với sự phát triển của nhà trường trước bối cảnh hội nhập quốc tế.
Một Hiệu trưởng giỏi không phải là người có tham vọng tìm cách giỏi hơn mọi giáo viên, mà là người biết dùng giáo viên giỏi.
Do đó, quản lý đội ngũ GVCN là cả một nghệ thuật. Việc đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hoá đội ngũ cán bộ QLGD là một yêu cầu bắt buộc, bên cạnh đó bản thân đội ngũ cán bộ QLGD cũng phải luôn luôn biết học hỏi.
1.4.1.2. Sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của GVCN Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
Đất nước đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, do đó rất cần nguồn nhân lực có trình độ cao. Từ đó, đòi hỏi đội ngũ GVCN phải đáp ứng các yêu cầu về trình độ, năng lực, phẩm chất.
Quản lý đội ngũ GVCN là làm cho đội ngũ này luôn luôn vận động, tự làm mới mình bằng con đường biết “học – hỏi – hiểu – hành”. Đây là phương châm hành xử của con người hiện đại. Người quản lý nhà trường phải tạo ra được phương châm hành xử này cho từng người và cho tập thể.
1.4.2. Yếu tố khách quan
1.4.2.1. Quan điểm, chủ trương về quản lý giáo viên, GVCN
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục và đào tạo, coi đây là “quốc sách hàng đầu”, từ đó có những định hướng, những Nghị quyết, Chỉ thị về phát triển nhà giáo và cán bộ QLGD. Đây là căn cứ để các cấp QLGD quán triệt và cụ thể hóa bằng các văn bản hướng dẫn thực hiện. Đây cũng là cơ sở để Hiệu trưởng hoạch định chiến lược, xây dựng kế hoạch về phát triển đội ngũ giáo viên cho phù hợp với yêu cầu phát triển trong bối cảnh đổi mới.
1.4.2.2. Các điều kiện hỗ trợ Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
Để công tác quản lý đội ngũ GVCN mang lại hiệu quả cao, thì phải gắn liền với các điều kiện đảm bảo cho hoạt động này về nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo về cơ sở vật chất, trang thiết bị, hệ thống thông tin phục vụ cho việc triển khai kế hoạch về các nguồn lực được huy động để thực hiện các biện pháp quản lý đội ngũ GVCN, …
Trong quản lý đội ngũ GVCN có thể coi các yếu tố chủ quan như là nội lực, các yếu tố khách quan là ngoại lực. Như vậy, nội lực là nhân tố quyết định còn ngoại lực là điều kiện hỗ trợ; song chúng không hề tách rời mà luôn tác động qua lại và bổ sung cho nhau.
Tiểu kết chương 1
Từ những nội dung đã trình bày trong Chương 1, có thể rút ra những kết luận như sau:
Nâng cao năng lực của đội ngũ GVCN và chất lượng hoạt động chủ nhiệm lớp là yêu cầu thiết thực, cấp bách trong giai đoạn hiện nay nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo.
QLGD, quản lý nhà trường, đặc biệt là quản lý trường THCS trong đó có quản lý đội ngũ GVCN lớp vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, đòi hỏi người lãnh đạo mỗi nhà trường phải nắm vững những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý nói chung, quản lý giáo dục nói riêng, nắm vững các nội dung nguyên tắc quản lý nhà trường. Trên cơ sở đó, lãnh đạo nhà trường vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo trong quá trình quản lý tổ chức các hoạt động của nhà trường theo quy trình khoa học, đúng quy luật khách quan, thực hiện mục tiêu giáo dục đã đề ra.
Vì vậy, có thể nói rằng chương 1 của luận văn là những nội dung cơ bản, giúp người nghiên cứu có cơ sở để tìm hiểu, sử dụng trong quá trình quản lý đội ngũ GVCN, đề ra biện pháp quản lý phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đội ngũ GVCN ở trường THCS Trịnh Xá nói riêng và trong các trường THCS nói chung nhằm đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện học sinh. Luận văn: Quản lý giáo viên chủ nhiệm trường THCS xã Trịnh Xá
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Khái quát về giáo viên trường THCS Trịnh Xá

Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com
Pingback: Luận văn: Biện pháp quản lý GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá