Luận văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây đến Việt Nam

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây đến Việt Nam hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Luận văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây Âu đến Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Cùng với sự phát triển của kinh tế – xã hội thì nhu cầu của con người, trong đó có nhu cầu đi du lịch ngày càng tăng. Không nằm ngoài xu thế, ngành du lịch Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong thời gian qua.

Năm 2019 du lịch Việt Nam đã có sự tăng trưởng vượt bậc với trên 18 triệu lượt khách quốc tế và 85 triệu lượt khách nội địa. Tổng thu từ khách du lịch đạt 760 nghìn tỷ đồng và đóng góp 9,2% GDP của cả nước [22]. Bên cạnh khách du lịch trong nước thì lượng khách du lịch đến từ các quốc gia khác cũng tăng dần đều qua các năm. Việc hội nhập kinh tế thế giới đi kèm với nó là một số chính sách của Nhà nước về du lịch cũng là yếu tố góp phần đưa du khách quốc tế đến Việt Nam ngày một nhiều hơn. Đặc biệt, ngày 16/01/2017 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Quan điểm của Nghị quyết nêu rõ “Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn là định hướng chiến lược quan trọng để phát triển đất nước, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác” [7]. Điều này cho thấy, Đảng và Nhà nước rất coi trọng việc phát triển du lịch nước nhà.

Với sự khác biệt lớn về thiên nhiên, văn hóa, lối sống và ẩm thực, Việt Nam đang thu hút nhiều khách du lịch Tây Âu đến khám phá, trải nghiệm. Bên cạnh đó, với đường bờ biển dài 3.260 km không kể các đảo, Việt Nam có nhiều khu nghỉ dưỡng, khách sạn và các bãi biển đẹp trải dài từ bắc vào nam và đây cũng  là một trong những sản phẩm ưa thích của khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch Tây Âu. Đây là đối tượng khách nằm trong châu lục phát triển nhất thế giới, có nhiều điểm tương đồng về ngoại hình, tâm lý cũng như có mức sống thuộc loại cao trên thế giới. Khách du lịch Tây Âu cũng là một trong những thị trường truyền thống và thị trường xa quan trọng của Việt Nam. Hơn nữa, theo Nghị quyết số 54/NQ-CP của chính phủ [9] kể từ ngày 01/7/2018 thì công dân 5 nước Tây Âu gồm Vương quốc Anh, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức, Vương quốc Tây Ban Nha và Cộng hòa I-tali-a mang hộ chiếu phổ thông đi du lịch Việt Nam tiếp tục được miễn thị thực 15 ngày với thời hạn là 3 năm thay vì 1 năm như trước đây. Điều này càng tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch Tây Âu đến Việt Nam ngày càng đông.    Nghiên cứu thị trường nguồn khách du lịch quốc tế đến Việt Nam không phải là đề tài mới. Tuy nhiên, cho đến nay, các nghiên cứu chủ yếu được thực hiện ở góc độ thị trường gắn với một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ như thị trường Anh, Pháp, Nhật Bản, Nga, Đức,… hoặc cũng có nghiên cứu làm về khu vực Bắc Âu nhưng vẫn chưa có đề tài nào làm về khu vực Tây Âu. Ngoài ra, việc thu hút khách du lịch từ thị trường này đến Việt Nam đến nay vẫn còn chưa thực sự hiệu quả, dẫn đến mất cân đối về cơ cấu trong tăng trưởng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam tại một số địa phương trong những năm gần đây.

Trước tình hình nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây Âu đến Việt Nam” để nghiên cứu một cách tổng quát về thị trường khách du lịch Tây Âu và khách du lịch Tây Âu đến Việt Nam, từ đó đưa ra một số kiến nghị cho việc tăng cường thu hút khách Tây Âu đến Việt Nam nhằm phục vụ cho việc phát triển du lịch nước nhà một cách bền vững.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Du Lịch

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Cho đến nay, tại Việt Nam hiện mới chỉ có các công trình nghiên cứu về một số thị trường khách như “Nghiên cứu thị trường khách du lịch Bắc Âu đến Việt Nam” của tác giả Trần Phú Cường năm 2008 [1]; “Một số giải pháp nhằm thu hút thị trường khách du lịch Đức tới Việt Nam” của Nguyễn Bình Minh năm 2018 [6]; và một số thị trường khách khác. Đề án “Nghiên cứu thị trường nguồn khách du lịch quốc tế đến Việt Nam” năm 2015 cũng đã nghiên cứu cụ thể 11 thị trường nguồn khách du lịch quốc tế đến Việt Nam ở khắp các châu lục như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Anh, Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Úc, Nga. Tuy nhiên, việc tiếp cận nghiên cứu các thị trường này được thực hiện một cách độc lập, riêng rẽ với các thông tin, phân tích cũng như giải pháp cụ thể cho từng thị trường. Với việc lựa chọn đề tài nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây Âu đến Việt Nam, luận văn sẽ kế thừa và làm mới các nghiên cứu trước ở một số điểm như sau:

Kế thừa cách tiếp cận nghiên cứu thị trường từ các nghiên cứu trước đây, cụ thể đi sâu phân tích các đặc điểm thị trường như cơ cấu, hành vi và thói quen tiêu dùng của khách du lịch tại thị trường đó. Trên cơ sở đó, luận văn sẽ đưa ra các giải pháp để thu hút thị trường đến Việt Nam Luận văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây đến Việt Nam.

Việc nghiên cứu thị trường gắn với khu vực địa lý, chính trị như khu vực Tây Âu với nhiều quốc gia và các quốc gia có nhiều đặc điểm tương đồng về văn hóa, kinh tế, điều kiện sống và thói quen tiêu dùng là một cách tiếp cận mới trong nghiên cứu thị trường. Cách tiếp cận này cho phép thực hiện việc nghiên cứu thị trường ở một quy mô rộng hơn, bao quát hơn, hỗ trợ tốt hơn công tác quản lý và xúc tiến du lịch tại các thị trường này.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

  • Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây Âu đến Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

  • Về không gian: luận văn giới hạn nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây Âu đến Việt Nam
  • Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây Âu, tập trung chủ yếu vào khách đến từ 5 nước gồm Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha và I-ta-li-a.
  • Về thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2019.

4. Mục đích và nội dung nghiên cứu 

4.1. Mục đích nghiên cứu        

  • Nhằm đẩy mạnh thu hút khách du lịch Tây Âu đến Việt Nam.

4.2. Nội dung nghiên cứu

  • Nghiên cứu các đặc điểm của thị trường khách 5 nước Tây Âu là Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha và I-ta-li-a.
  • Đề xuất một số giải pháp và khuyến nghị nhằm đẩy mạnh thu hút thị trường nguồn này.

5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây đến Việt Nam.

Phương pháp thu thập thông tin và xử lý số liệu thứ cấp: Tác giả tiến hành thu thập các thông tin, dữ liệu từ các nguồn như các trang báo mạng về chuyên ngành uy tín, sách báo, tạp chí chuyên ngành và các ngành liên quan, các dự án, các đề án, các quy hoạch du lịch, các thông tư, nghị quyết, báo cáo của các cơ quan quản lý cấp Trung ương như: Tổng cục Du lịch, Tổng cục Thống kê, Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch…

Phương pháp chuyên gia: Phỏng vấn chuyên gia và phỏng vấn lãnh đạo một số doanh nghiệp du lịch tại Việt Nam: Đối với từng vấn đề cụ thể, điểm đến cụ thể, tác giả đi thực tế và xin phỏng vấn trực tiếp các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch cho các vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu để từ đó có các kiến thức, cách nhìn đúng đắn nhất, khách quan nhất cho đề tài của mình.

Phương pháp phân tích, tổng hợp: Thông qua các số liệu thống kê về lượng khách du lịch Tây Âu đến Việt Nam, tác giả xử lý số liệu và hệ thống hóa các số liệu, các bảng phân tích nhằm làm rõ thực trạng phát triển của nguồn khách du lịch Tây Âu đến Việt Nam, đưa ra các phân tích, đánh giá và nhận định về thị trường.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:

  • Chương 1- Cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường khách du lịch
  • Chương 2 – Thị trường khách du lịch Tây Âu và hiện trạng khách du lịch Tây Âu đến Việt Nam
  • Chương 3 – Một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường thu hút khách du lịch Tây Âu đến Việt Nam

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỊ TRƯỜNG KHÁCH DU LỊCH

1.1. Tổng quan lý thuyết về thị trường du lịch

1.1.1. Một số khái niệm về thị trường

Hiện nay có nhiều nghiên cứu về thị trường và các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về thị trường. Theo tác giả Nguyễn Văn Lưu (2009), “sản xuất hàng hóa xuất hiện và tồn tại do việc phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội càng cao thì sản xuất hàng hóa càng phát triển, ngày một đi vào chuyên môn hóa” [3]. Thị trường xuất hiện khi có sự phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hóa. Thị trường chính là nơi trao đổi hàng hóa và dịch vụ, là khâu trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng và có vai trò rất quan trọng là dẫn dắt và định hướng nhu cầu cho sản xuất. Thị trường giúp cho việc kích thích sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển.   Qua quá trình phát triển của sản xuất hàng hóa và phân công lao động xã hội, thị trường cũng phát triển tương ứng cả về tính chất, phạm vi, trình độ và quy mô. Ngày nay, khái niệm thị trường đã mang một ý nghĩa sâu rộng hơn trước rất nhiều, không chỉ đơn thuần là thị trường hàng hóa, dịch vụ mà còn là thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán,…

Theo Kinh tế chính trị Mác-Lênin, với nghĩa hẹp, thị trường là nơi diễn ra sự trao đổi và mua bán hàng hóa. Còn ở nghĩa rộng, thị trường là tổng thể tất cả các mối quan hệ cạnh tranh, cung – cầu, giá cả, giá trị… mà trong đó giá cả và sản lượng hàng hóa tiêu thụ được xác định.

Nói tóm lại, Kinh tế chính trị học có một định nghĩa chung về thị trường như sau: “Thị trường là phạm trù của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa, phản ánh toàn bộ quan hệ giữa người mua và người bán, giữa cung và cầu và toàn bộ các mối quan hệ, thông tin kinh tế, kỹ thuật gắn với các mối quan hệ đó.” [3]

1.1.2. Thị trường du lịch và cung cầu trong du lịch Luận văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây đến Việt Nam.

1.1.2.1. Khái niệm thị trường du lịch

Có thể nói thị trường du lịch được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của ngành lữ hành khi con người đi du lịch và chi tiêu cho chuyến đi của mình. Để phục vụ cho nhu cầu du lịch ngày càng phổ biến của con người thì nhiều dịch vụ và sản phẩm ra đời và từ đó tạo ra thị trường du lịch. Như vậy, có thể nói hàng hóa trên thị trường du lịch chính là sản phẩm du lịch. Theo Điều 3 của Luật Du lịch (2017), “sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ trên cơ sở khai thác giá trị tài nguyên du lịch để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch.” [12]

Theo quan điểm của kinh tế chính trị học, “thị trường du lịch là bộ phận của thị trường chung, một phạm trù của sản xuất và lưu thông hàng hóa, dịch vụ du lịch, phản ánh toàn bộ quan hệ trao đổi giữa người mua và người bán, giữa cung và cầu và toàn bộ các mối quan hệ, thông tin kinh tế, kỹ thuật gắn với mối quan hệ đó trong lĩnh vực du lịch” [3].

Theo quan điểm của marketing du lịch, thì thị trường du lịch theo nghĩa rộng “là tập hợp người mua, người bán sản phẩm hiện tại và tiềm năng. Người mua với tư cách là người tạo ra thị trường du lịch và người bán với tư cách là người tạo ra ngành du lịch.”[5]; theo nghĩa hẹp “thị trường du lịch là nhóm người mua có nhu cầu và mong muốn về một sản phẩm du lịch hay một dãy sản phẩm du lịch cụ thể được đáp ứng hoặc chưa được đáp ứng.”[5]

Tuy nhiên, bên cạnh những đặc điểm chung như thị trường ở các lĩnh vực khác, theo tác giả Nguyễn Văn Lưu (2009) [3], thị trường du lịch có những đặc trưng riêng như sau: Luận văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây đến Việt Nam.

Thị trường du lịch xuất hiện muộn hơn so với một số thị trường hàng hóa thông thường vì thị trường hàng hóa ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cũng như các nhu cầu thiết yếu của con người, nhưng thị trường du lịch chỉ xuất hiện khi con người phát sinh nhu cầu được đi khỏi nơi cư trú của mình nhằm tìm hiểu, khám phá hay nghỉ ngơi,…

Trong tiêu dùng du lịch không có sự di chuyển của hàng hóa vật chất và dịch vụ từ nơi sản xuất đến nơi thường trú của khách du lịch vì sản phẩm du lịch là một loại hàng hóa đặc biệt, khách du lịch phải đến tận nơi để cảm nhận và sử dụng.

Trên thị trường du lịch, cung – cầu chủ yếu về dịch vụ vì sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ.

Đối tượng mua bán trên thị trường du lịch không hiện hữu trước người mua vì sản phẩm du lịch mang tính vô hình.

Trên thị trường du lịch, các khâu chào giá, lựa chọn, cân nhắc, trả giá, quyết định mua, bán phải thông qua phương tiện quảng bá và kinh nghiệm, khác hẳn với việc mua bán trên thị trường hàng hóa thông thường.

Trên thị trường du lịch, khách du lịch không sở hữu hàng hóa mình đã mua theo nghĩa đen của từ này vì sản phẩm du lịch về cơ bản là không tồn tại dưới dạng vật thể.

Đối tượng mua, bán trên thị trường du lịch rất đa dạng từ mọi quốc tịch, lứa tuổi, ngành nghề cũng như hành vi tiêu dùng khác nhau.

Quan hệ giữa người mua và người bán trên thị trường du lịch dài hơn so với các thị trường khác, nhất là so với thị trường hàng hóa vật chất vì từ lúc tham khảo thông tin, chọn lựa sản phẩm du lịch đến khi tiêu dùng là cả một khoảng thời gian khá dài, thêm nữa sau khi sử dụng xong khách du lịch mới có thể đánh giá được sản phẩm mình đã mua.

Các sản phẩm du lịch nếu không được tiêu thụ sẽ không có giá trị và không thể lưu kho bởi thành phần chính của sản phẩm du lịch là dịch vụ, hàng hóa chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ.

Việc mua, bán, tiêu dùng du lịch được gắn với không gian nhất định và thời gian cụ thể vì sản phẩm du lịch phụ thuộc vào mỗi địa điểm và thời điểm khác nhau.

Thị trường du lịch mang tính thời vụ rõ rệt nên vào mùa cao điểm trong năm khách đi du lịch nhiều nên giá cả sẽ cao hơn mùa thấp điểm. Luận văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây đến Việt Nam.

1.1.2.2. Chức năng của thị trường du lịch

Cũng theo tác giả Nguyễn Văn Lưu (2009) [3], thị trường du lịch là một bộ phận của thị trường hàng hóa nên cũng có các chức năng sau:

Chức năng công nhận và thực hiện: Các doanh nghiệp du lịch phải bỏ ra một số chi phí (từ khâu khảo sát, thiết kế đến quảng cáo) để tạo ra các sản phẩm du lịch phục vụ khách hàng. Tổng các chi phí này tạo thành giá trị của sản phẩm du lịch và chỉ được công nhận là chi phí xã hội cần thiết khi hành vi mua và bán được tiến hành và kết thúc trên thị trường du lịch. Nếu doanh nghiệp nào đó bán một chương trình du lịch với giá cả không hợp lý như quá cao so với mặt bằng nói chung thì sẽ không bán được hàng.

Chức năng thông tin: Vì đặc thù của sản phẩm du lịch là tính vô hình, quan hệ mua – bán thường là quan hệ gián tiếp nên chức năng thông tin của thị trường du lịch cực kỳ quan trọng. Đối với người bán, thị trường cung cấp thông tin về cầu và cung du lịch để quyết định tổ chức hoạt động kinh doanh một cách phù hợp và hiệu quả. Thông tin mà thị trường cung cấp có giá trị quyết định đối với người mua và được người mua cân nhắc kỹ hơn so với các loại hàng hóa khác vì khách hàng không thể xem trực tiếp sản phẩm trước khi mua.

Chức năng điều tiết: Có ba đối tượng chịu tác động của thị trường du lịch đó là người sản xuất, người môi giới trung gian và người tiêu dùng du lịch. Người sản xuất phải tạo ra những sản phẩm du lịch càng ngày càng chất lượng với giá cả hợp lý thỏa mãn yêu cầu của du khách và đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Người tiêu dùng du lịch phải tạo nguồn kinh phí để mua các sản phẩm du lịch đã có trên thị trường, đồng thời khiến cho năng suất của người lao động ở các ngành khác được nâng cao để kiếm tiền đi du lịch. Để mua và bán được sản phẩm du lịch, người môi giới trung gian phải tiếp cận cả cung và cầu du lịch.

1.1.2.3. Quan hệ cung và cầu trong du lịch

Nói đến thị trường du lịch là nói tới cung du lịch, cầu du lịch và mối quan hệ giữa chúng trên thị trường du lịch.

Cầu về du lịch được hình thành và phát triển trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Cầu trong du lịch là nhu cầu xã hội về sử dụng các dịch vụ như dịch vụ vận chuyển, lưu trú, ăn uống,… và hàng hóa du lịch. Cầu trong du lịch hết sức đa dạng và phong phú bởi nó phụ thuộc vào tâm lý, nhận thức, văn hóa,… của mỗi du khách.

Theo tác giả Nguyễn Văn Lưu (2009), cầu du lịch “là một bộ phận nhu cầu của xã hội có khả năng thanh toán về hàng hóa, vật chất và dịch vụ du lịch đảm bảo sự đi lại, lưu trú tạm thời, giải trí của con người ngoài nơi ở thường xuyên của họ, nhằm mục đích nghỉ ngơi, giải trí, tìm hiểu văn hóa, chữa bệnh, tham gia vào các chương trình đặc biệt và các mục đích khác” [3].  Còn theo Nguyễn Văn Mạnh và Nguyễn Đình Hòa (2015) [5], cầu trong du lịch biểu hiện ở hai dạng cầu sơ cấp (khách du lịch) và cầu thứ cấp (người mua sản phẩm du lịch để kinh doanh) và có các đặc trưng sau:

  • Cầu chủ yếu về dịch vụ
  • Đa dạng, phong phú
  • Tính linh hoạt cao
  • Cách xa cung về không gian, phân tán
  • Mang tính chu kỳ Luận văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây đến Việt Nam.

Cung ra đời cùng với sự xuất hiện của cầu về du lịch. Cung du lịch là khả năng cung cấp các dịch vụ và hàng hóa du lịch để thỏa mãn nhu cầu du lịch của con người. Cầu trong du lịch chủ yếu là cầu về dịch vụ nên cung du lịch phần lớn chỉ tồn tại một cách vô hình. Cung du lịch có đặc tính không lưu kho được, tính tiêu thụ tại chỗ, tính không thể chia tách được của các sản phẩm du lịch. [3]

Theo Nguyễn Văn Lưu (2009), “cung du lịch là khả năng cung cấp hàng hóa du lịch, nhằm đáp ứng cầu du lịch (cả hàng hóa vật chất phục vụ du lịch và dịch vụ du lịch) được đưa ra trên thị trường để bán với các mức giá khác nhau mà người bán chấp nhận trong một thời gian và không gian nhất định” [3].

Cung và cầu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Xuất phát từ nhu cầu du lịch gồm nhu cầu thiết yếu, nhu cầu đặc trưng đến nhu cầu bổ sung của khách du lịch đã tạo nên các lĩnh vực kinh doanh du lịch. Các nhà kinh doanh du lịch sẽ liên kết với các nhà cung cấp dịch vụ để khai thác các tài nguyên du lịch nhằm phục vụ khách hàng của mình – những người đến từ khắp nơi trong nước và trên thế giới.

1.1.3. Phân đoạn thị trường du lịch

1.1.3.1. Khái niệm phân đoạn thị trường du lịch

Theo tác giả Nguyễn Văn Mạnh và Nguyễn Đình Hòa (2015), “Đoạn thị trường là một nhóm người mua có phản ứng tương đối giống nhau trước cùng một tập hợp các kích thích marketing. Phân đoạn thị trường là quá trình phân chia người mua thành từng nhóm trên cơ sở những khác biệt về nhu cầu, mong muốn, hành vi hoặc tính cách” [5].

Mục đích của việc phân đoạn thị trường là “giúp các doanh nghiệp du  lịch lựa chọn ra một hay những đoạn thị trường mục tiêu làm đối tượng ưu tiên cho các chiến lược marketing của mình” [5].

1.1.3.2. Tiêu chí phân đoạn thị trường

Cũng theo Nguyễn Văn Mạnh và Nguyễn Đình Hòa (2015) [5], trong du lịch, người ta thường sử dụng một số tiêu chí phổ biến sau làm cơ sở để phân đoạn thị trường: Luận văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây đến Việt Nam.

Phân đoạn thị trường du lịch theo tiêu thức địa lý là hướng tiếp cận phân đoạn trên cơ sở chia thị trường thành các nhóm khách hàng có cùng một vị trí địa lý (quốc gia, khu vực, thành phố, nông thôn…). Ví dụ: các doanh nghiệp du lịch Việt Nam có thể phân đoạn thị trường theo khu vực địa lý lớn như thị trường Đông Nam Á, thị trường Bắc Á, thị trường Bắc Âu, thị trường Tây Âu, thị trường Bắc Mỹ v.v… Phân đoạn thị trường theo vủng địa lý thường được sử dụng phổ biến nhất bởi vì các vùng địa lý đã được phân định rõ ràng tạo điều kiện cho việc xác định các đoạn thị trường rất dễ dàng. Yếu tố địa lý có ảnh hưởng rất lớn đến những thói quen, mức sống, quan niệm, phong tục tập quán và từ đó tới những nhu cầu đòi hỏi của những người dân sống ở đó vì trong cùng một khu vực địa lý thì cư dân ở đó sẽ có những thói quen tiêu dùng khá tương đồng với nhau.

Phân đoạn thị trường du lịch theo tiêu thức nhân khẩu học là cơ sở tiếp cận thường được sử dụng. Việc phân đoạn này dựa trên những thông tin điều tra dân số, được thống kê về: độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, thu nhập bình quân, quy mô gia đình, nghề nghiệp, tôn giáo, dân tộc và một số yếu tố khác.

Phân đoạn thị trường du lịch theo tiêu chí tâm lý – xã hội thì thị trường sẽ được phân chia dựa trên cơ sở các yếu tố tâm lý của du khách. Phân đoạn thị trường này dựa vào các tiêu chí như đặc điểm nhân cách, lối sống, giai tầng xã hội của du khách để phân chia thành các đoạn thị trường. – Phân đoạn thị trường du lịch theo hành vi tiêu dùng của khách du lịch thành các nhóm đồng nhất về các đặc tính như sau: mục đích của chuyến đi, những lợi ích khách hàng quan tâm, tình trạng sử dụng dịch vụ du lịch, tần suất tiêu dùng du lịch, mức độ sẵn sàng mua sản phẩm du lịch, sự trung thành của khách hàng đối với dịch vụ của doanh nghiệp du lịch.

Phân đoạn theo mục đích của chuyến đi sẽ giúp cho doanh nghiệp du lịch cung ứng các dịch vụ phù hợp với yêu cầu để đạt được mục đích chuyến đi của khách. Ví dụ như nhu cầu và mong muốn của khách du lịch công vụ và khách du lịch thuần túy hoàn toàn khác nhau.

Phân đoạn theo những lợi ích khách hàng quan tâm là phát hiện ra lợi ích chính mà khách đang tìm kiếm. Ví dụ như lợi ích chính của chuyến đi là hưởng thụ hay khám phá,…

Tình trạng sử dụng dịch vụ du lịch được phân chia thành các đoạn thị trường như là khách không đi du lịch, khách đã đi du lịch, khách sẽ đi du lịch, khách thường xuyên đi du lịch.

Tần suất tiêu dùng du lịch gồm các nhóm người đi du lịch ít, trung bình và nhiều lần trong năm.

Với mức độ sẵn sàng mua sản phẩm du lịch, thị trường được phân thành nhóm người hiểu tường tận về sản phẩm du lịch, nhóm người mới biết được thông tin, nhóm người hoàn toàn không biết thông tin, nhóm đang tìm kiếm lợi ích, nhóm muốn mua và nhóm sẵn sàng mua sản phẩm du lịch.

Sự trung thành của khách hàng đối với dịch vụ của doanh nghiệp du lịch được chia theo các mức độ: trung thành tương đối, trung thành không cố định và không trung thành.

Thái độ của khách hàng đối với sản phẩm du lịch theo từng giai đoạn như: yêu thích, thờ ơ, ghét bỏ.

1.1.4. Ý nghĩa của việc phân đoạn thị trường du lịch Luận văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây đến Việt Nam.

Theo Nguyễn Văn Mạnh và Nguyễn Đình Hòa (2015) [5], việc phân đoạn thị trường có những ý nghĩa sau đây:

Giúp các doanh nghiệp du lịch đưa ra và đo lường dễ dàng quy mô và tỷ trọng của mỗi đoạn thị trường nhỏ của mình để từ đó đưa ra các chính sách phù hợp nhất đối với từng thị trường.

Giúp các doanh nghiệp du lịch nhận diện chính xác các đối thủ cạnh tranh, nhờ đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp du lịch có khả năng phân tích các lợi thế cạnh tranh, chỉ ra các điểm mạnh, điểm yếu của mình và của các đối thủ mà từ đó có chiến lược cạnh tranh hiệu quả.

Là biện pháp hữu hiệu làm tăng doanh thu, tối đa hóa lợi nhuận và tăng hiệu quả kinh tế cho các doanh nghiệp du lịch.

Giúp các doanh nghiệp du lịch đưa ra các chính sách quản trị nhân lực hợp lý.

Giúp các doanh nghiệp có chiến lược đầu tư cho hoạt động marketing và sử dụng ngân sách marketing của mình một cách hiệu quả hơn.

1.2. Nghiên cứu thị trường khách du lịch Luận văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây đến Việt Nam.

1.2.1. Khái niệm và mục tiêu của nghiên cứu thị trường khách du lịch

Nghiên cứu thị trường du lịch theo nghĩa rộng là quá trình phân tích, giả thiết để tìm ra các hành vi tiêu dùng của khách hàng (mô hình hành vi). Các cách ứng phó của đối thủ cạnh tranh, của bạn hàng. Các biến động của khoa học công nghệ có tác động đến cấu trúc sản phẩm của điểm đến và của doanh nghiệp. Các chính sách cơ chế quản lý vĩ mô trong và ngoài nước có ảnh hưởng đến cung và cầu du lịch.”[5]

Nghiên cứu thị trường du lịch theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm nghiên cứu người tiêu dùng du lịch và các mô hình hành vi tiêu dùng của họ.” [5]

Trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ nghiên cứu theo nghĩa hẹp, đó là nghiên cứu khách du lịch Tây Âu và hành vi tiêu dùng của họ dựa trên những tài liệu thứ cấp và thông qua việc phỏng vấn các chuyên gia là lãnh đạo của các doanh nghiệp lữ hành quốc tế trên cả nước.

Mục tiêu của nghiên cứu thị trường theo nghĩa hẹp gắn liền với việc tìm hiểu các vấn đề sau [5]:

  • Đối tượng khách hàng của doanh nghiệp.
  • Đặc điểm khách hàng của doanh nghiệp.
  • Khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp.
  • Phản ứng của khách hàng đối với sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp.
  • Sự thay đổi về nhu cầu của khách hàng.

1.2.2. Các giai đoạn nghiên cứu thị trường khách du lịch

Có thể nói, để thu hút khách du lịch thì cần phải nghiên cứu thị trường khách. Có ba giai đoạn trong hoạt động nghiên cứu thị trường [5]: Luận văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây đến Việt Nam.

Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn nghiên cứu tiềm năng được thực hiện với các nhiệm vụ cụ thể sau:

  • Đánh giá tiềm năng thị trường giúp các nhà cung cấp dịch vụ du lịch thấy được cơ hội trong việc cung ứng các dịch vụ của mình bằng cách thu thập thông tin của khách hàng về sự hấp dẫn của chương trình du lịch và hình ảnh về doanh nghiệp.
  • Nghiên cứu hành vi mua của khách hàng là nghiên cứu về động cơ và thói quen tiêu dùng của khách hàng để biết được những nhân tố nào ảnh hưởng đến quyết định mua sản phẩm du lịch của khách hàng tiềm năng.
  • Nghiên cứu sự sẵn sàng đi du lịch để nắm được việc sử dụng thời gian rỗi cho việc đi du lịch của khách hàng tiềm năng.

Giai đoạn tiếp theo là là giai đoạn nghiên cứu hiện tại bao gồm những nội dung sau:

  • Hành vi tham gia của du khách và những trao đổi thông tin cá nhân cho thấy những đặc điểm của khách hàng về nhu cầu và cách mà họ muốn có được dịch vụ.
  • Hành vi của khách hàng với tư cách là khách du lịch chính là nghiên cứu hành vi của du khách trong quá trình thực hiện chương trình du lịch từ việc sử dụng các dịch vụ cho đến việc chi tiêu cũng như việc phân bổ thời gian trong chuyến đi.
  • Sự hài lòng của du khách được thể hiện qua sự thỏa mãn đối với các dịch vụ du lịch sau khi khách trải nghiệm sản phẩm du lịch đã mua.

Giai đoạn cuối cùng là là giai đoạn nghiên cứu kết quả tập trung vào các nội dung như sự hài lòng của khách hàng về chuyến đi; những thông tin từ thống kê về các chi tiêu của khách hàng trong chuyến đi; tỷ lệ đăng ký mua dịch vụ cho lần đi du lịch sau.

1.3. Kinh nghiệm nghiên cứu, khai thác thị trường khách du lịch Tây Âu của Thái Lan và bài học vận dụng cho Việt Nam

1.3.1. Kinh nghiệm nghiên cứu, khai thác thị trường khách du lịch Tây Âu của Thái Lan

Theo thống kê của Tổng cục Du lịch tổng hợp dựa trên số liệu của Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO), Thái Lan xếp thứ 9 trong 10 thị trường dẫn đầu về lượng khách quốc tế đến trên thế giới năm 2018 với 38,2 triệu lượt khách và đứng dầu về khách du lịch quốc tế đến các nước ASEAN năm 2019 với 39,8 triệu lượt khách. Thái Lan cũng là nước đứng thứ tư trong 11 thị trường dẫn đầu về tổng thu từ khách du lịch quốc tế đến. Theo số liệu từ Hiệp hội Du lịch Châu Á – Thái Bình Dương (PATA), Thái Lan dẫn đầu về lượng khách đến từ các thị trường nguồn lớn, có chất lượng như Nhật Bản, Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Đức [22]. Điều này cho thấy, Thái Lan là điểm đến hấp dẫn nhất ASEAN. Vậy, chính phủ và ngành du lịch Thái Lan đã làm gì để thu hút khách du lịch, đặc biệt là khách Tây Âu? Luận văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây đến Việt Nam.

Về địa lý, Thái Lan nằm ở trung tâm của Đông Nam Á có diện tích là 513.520km2, lớn thứ hai trong khu vực ASEAN, sau Indonesia. Phía Đông, đông bắc giáp Lào; phía Tây giáp Myanmar, phía Nam giáp Malaysia, đông nam giáp Campuchia [18].

Thái Lan là nước theo chế độ quân chủ lập hiến, đứng đầu là nhà vua. Người Thái Lan rất kính trọng đức vua của họ. Dân số của Thái Lan năm 2018 là 69.428.520 người [36] với hơn 94% người theo đạo Phật [18]. Người Thái Lan giản dị, lịch sự, ân cần, cởi mở và hiếu khách. Chính sự cởi mở, hiếu khách của người dân đã làm cho Thái Lan được mệnh danh là “đất nước của những nụ cười”.

Tổng cục Du lịch Thái Lan (TAT) được thành lập năm 1960, là cơ quan trực thuộc Chính phủ. Năm 2002, TAT trực thuộc Bộ Du lịch và Thể thao, đảm nhiệm công tác marketing, tuyên truyền quảng bá du lịch. Sau giai đoạn phát triển du lịch ồ ạt ban đầu, Du lịch Thái Lan tập trung vào chính sách phát triển du lịch bền vững với 3 yếu tố trọng tâm là: (1) bảo vệ môi trường, tài nguyên tự nhiên, (2) Giáo dục, tuyên truyền cho người dân, khách du lịch nhận thức đúng về du lịch, (3) Phát triển nguồn nhân lực du lịch [18].  Để thu hút khách du lịch, kích thích sức mua của khách du lịch và kéo dài thời gian lưu trú của khách, TAT đã tạo ra những sản phẩm du lịch đa dạng, đặc sắc bằng việc xây dựng sản phẩm du lịch theo các chủ đề, với khẩu hiệu “Seven Amazing Wonders”: (1)Thainess: các sản phẩm liên quan đến nghệ thuật, truyền thống, phong cách và văn hóa Thái, (2) Treaure: di sản và lịch sử, các di sản thế giới, các di tích lịch sử, đền chùa và bảo tàng, (3) Beaches: Các khu du lịch biển nổi tiếng của Thái Lan, (4) Nature: Các sản phẩm du lịch sinh thái, mạo hiểm, vườn Quốc gia, (5) Health and Wellness: du lịch chữa bệnh, các khu nghỉ dưỡng và làm đẹp, (6) Trends: các khách sạn phong cách riêng, các trung tâm mua sắm, cuộc sống về đêm, (7) Festivals: các sự kiện và lễ hội trong nước và quốc tế [18].

Trong chính sách marketing du lịch, Thái Lan chú trọng đến các thị trường khách có khả năng chi tiêu cao như Anh, Đức, Mỹ, Trung Đông và các thị trường gần. Các thị trường trọng điểm được Thái Lan xúc tiến du lịch mạnh mẽ là Bắc Á, Đông Nam Á, Nam Á, Nam Thái Bình Dương, Châu Âu, Châu Mỹ [18]. Hiện nay, Tổng cục Du lịch Thái Lan đã thành lập 29 văn phòng đại diện ở hầu hết các các thị trường trọng điểm tại các khu vực như: ASEAN, Nam Á, Nam Thái Bình Dương, Đông Á, Bắc Mỹ, Châu Âu và Trung Đông. Riêng tại Tây Âu đã có 4 văn phòng đại diện cho du lịch Thái Lan ở 4 nước khác nhau [40]. Việc này tạo điều kiện cho khách Tây Âu có thể nắm bắt thông tin và làm việc trực tiếp một cách dễ dàng hơn cũng như giúp Thái Lan quảng bá mạnh mẽ hơn hình ảnh của đất nước. Thái Lan đã dành nhiều kinh phí cho việc quảng bá, xúc tiến du lịch. Hàng năm, Tổng cục Du lịch Thái Lan được Chính phủ cấp khoảng 80 triệu đô la Mỹ cho các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch. Nguồn kinh phí này được sử dụng chủ yếu để thực hiện các chiến dịch marketing, tuyên truyền quảng bá du lịch Thái Lan ở các thị trường trọng điểm của Thái Lan [18]. Công tác nghiên cứu thị trường được tiến hành thường xuyên, sản phẩm du lịch liên tục được đổi mới nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách. Bên cạnh việc tiến hành quảng cáo trực tuyến về đất nước của họ, Thái Lan còn tích cực tham gia các Hội chợ du lịch quốc tế lớn ở Tây Âu như Hội chợ ITB ở Berlin (Đức), Hội chợ WTM ở London (Anh), Hội chợ FITUR ở Madrid (Tây Ban Nha)… Luận văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây đến Việt Nam.

Bảng 1.1:  Khách du lịch quốc đến các nước ASEAN

Sau khủng hoảng tài chính năm 1999 trong khu vực, chiến dịch xúc tiến du lịch mới với khẩu hiệu “Thái Lan kỳ diệu” – “Amazing Thailand” đã được ngành Du lịch Thái Lan đã phát động. Với các chủ đề của năm Du lịch đã được lựa chọn, Tổng cục Du lịch Thái Lan thực hiện các chiến dịch truyền thông trong nước, tuyên truyền quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng, khôi phục và tổ chức các lễ hội truyền thống của Thái Lan, đầu tư thiết kế, sản xuất các ấn phẩm quảng bá như sách, tập gấp, bản đồ, băng video, quà lưu niệm. Khách du lịch có thể dễ dàng vào trang thông tin điện tử của du lịch Thái Lan để tìm hiểu đất nước này qua các hình ảnh, bài viết, đoạn clip, các ebrochure,… Trong khuôn khổ chiến dịch “Amazing Thailand”, Thái Lan đã có nhiều chiến dịch giảm giá bằng nhiều phương thức khác nhau như tài trợ, tặng phiếu mua sắm và thẻ giảm giá, thiết lập hệ thống thuế VAT và hoàn thuế. Ngoài ra, các hoạt động về quảng bá du lịch ẩm thực, du lịch MICE,… luôn được đẩy mạnh và được sự hỗ trợ của Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại, các Trung tâm thương mại, hãng Hàng không, khách sạn, doanh nghiệp lữ hành,… [18].

Đặc biệt, Thái Lan đã áp dụng e-marketing vào việc quảng bá du lịch khá hiệu quả. Có rất nhiều kênh để Marketing du lịch, một trong số đó chính là thông qua các trang mạng xã hội (social network). Với tài nguyên sẵn có cùng những biện pháp hợp lý trong việc phát triển du lịch, Thái Lan thật sự đã thành công về hoạt động Marketing du lịch thông qua mạng xã hội [25]. Thái Lan có nhiều chiến dịch quốc gia quảng bá du lịch, trong đó có 3 chiến dịch khá nổi bật là “I hate Thailand” (Tôi ghét Thái Lan) (2014), “Thailand Extreme Makeover” (Lột xác cùng Thái Lan) (2014) và “One and Only” (Một lần và duy nhất) (2015). Từ những thành công của những chiến dịch truyền thông phát triển du lịch, Thái Lan đã thông qua chương trình du lịch 2015 với chủ đề “Khám phá Thái Lan” nhằm tăng cường phát triển ngành công nghiệp tiềm năng này, đồng thời cũng nhằm mục tiêu hướng đến 37 thị trường du lịch mới của Thái, đặc biệt là ở châu Âu, châu Mỹ, Trung Đông [28].

Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam [11], năm 2015 Thái Lan đón 29,8 triệu lượt khách quốc tế, tăng 20% so với 2014 và thu về 1,4 nghìn tỷ Bath từ du lịch. Năm 2016, Thái Lan đón lượng khách quốc tế đến thăm nhiều nhất trong lịch sử đạt 32,59 triệu lượt tăng 10% so với 2015, đồng thời ngành du lịch đã thu về cho Thái Lan 71,4 triệu đô la, tăng 11% so với 2015. Năm 2017 đã có hơn 35 triệu khách du lịch đến Thái Lan. Năm 2018, có 38,27 triệu lượt khách quốc tế đến Thái Lan. Năm 2019, Thái Lan đón 39,8 triệu lượt khách du lịch quốc tế và du lịch đóng góp gần 1/5 GDP

Biểu đồ 1.1: Khách du lịch đến Thái Lan (2019) theo khu vực

Nhìn vào biểu đồ 1.1 có thể thấy, năm 2019 khách du lịch châu Âu đến Thái Lan xếp thứ ba với 6.719.114 lượt khách, chỉ sau thị trường khách du lịch đến từ Đông Á (16.633.344 lượt) và ASEAN (10.626.511 lượt).

Ngoài ra, theo Viện Nghiên cứu phát triển Du lịch [27], Thái Lan đã áp dụng “triết lý nền kinh tế vừa đủ (SEP) – ưu tiên hàng đầu lợi ích của con người và môi trường, chứ không phải khai thác tối đa lợi nhuận – vì lợi ích của thế hệ tương lai” trong việc phát triển du lịch. Việt Nam có thể học hỏi Thái Lan triết lý này trong việc phát triển du lịch sinh thái cộng đồng nhằm đa dạng hóa sản phẩm du lịch để thu hút khách du lịch Tây Âu. Triết lý nền kinh tế vừa và đủ nhấn mạnh đến khả năng ra quyết định hợp lý, thiết thực, dễ thực hiện và linh hoạt ứng phó với các hoàn cảnh khác nhau, đồng thời phải đảm bảo yêu cầu không tốn kém và thân thiện với môi trường. [27]

1.3.2. Bài học vận dụng cho Việt Nam Luận văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây đến Việt Nam.

Qua 59 năm phát triển (tính đến năm 2019), ngành Du lịch Thái Lan đã có bước tiến xa với những thành tựu quan trọng. Con số 39,8 triệu lượt khách du lịch quốc tế đến Thái Lan năm 2019 càng khẳng định vị trí dẫn đầu của Du lịch Thái Lan trong khu vực Đông Nam Á. Cách làm du lịch của người Thái Lan cũng là điều đáng hỏi học đối với ngành du lịch Việt Nam nhằm thu hút thị trường khách du lịch Tây Âu. Cùng là quốc gia có khí hậu nhiệt đới và nằm trong khu vực ASEAN nhưng Thái Lan lại thu hút nhiều khách du lịch Tây Âu hơn dù Việt Nam cũng là nước có vị trí địa lý thuận lợi với nhiều bãi biển và cảnh đẹp. Ngoài ra, tính đến tháng 8 năm 2020 Việt Nam có 39 di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và di sản thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận [30]. Vì vậy, từ việc thu hút khách du lịch Tây Âu của Thái Lan, Việt Nam có thể rút ra bài học kinh nghiệm sau:

  • Đề cao tầm quan trọng của việc phát triển du lịch trong sự phát triển chung của đất nước.
  • Có nhiều chính sách cởi mở về du lịch để thu hút khách.
  • Khuyến khích người dân làm du lịch.
  • Đầu tư một phần lớn ngân sách để quảng bá, xây dựng thương hiệu và hình ảnh quốc gia để thu hút khách du lịch.
  • Chú trọng chất lượng hơn số lượng.
  • Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch.
  • Phát triển nhiều loại hình và sản phẩm du lịch mới.
  • Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc.
  • Ứng dụng việc quảng bá du lịch bằng hình thức e-marketing.
  • Đặt văn phòng đại diện ở những thị trường trọng điểm trên thế giới.
  • Tham gia nhiều hội chợ quốc tế về du lịch.
  • Liên kết với các quốc gia lân cận để phát triển du lịch.

Tiểu kết chương 1:

Trong chương 1, tác giả đã tìm hiểu tổng quan lý thuyết về thị trường du lịch và phương pháp nghiên cứu thị trường du lịch. Không như những sản phẩm hàng hóa khác trên thị trường, sản phẩm du lịch mang tính vô hình nên khách hàng phải cân nhắc rất kỹ trước khi quyết định mua sản phẩm. Bởi vậy, việc nghiên cứu thị trường du lịch là vấn đề hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn không những đối với các cơ quan quản lý du lịch của quốc gia mà cả đối với các doanh nghiệp du lịch. Với các cơ quan quản lý du lịch, việc nghiên cứu thị trường du lịch sẽ giúp cho việc quản lý, quy hoạch du lịch cũng như việc xúc tiến, quảng bá hình ảnh du lịch quốc gia có hiệu quả hơn. Riêng đối với các doanh nghiệp du lịch, việc nghiên cứu thị trường du lịch sẽ giúp các doanh nghiệp xác định được thị trường khách mục tiêu và tiềm năng của doanh nghiệp, từ đó có kế hoạch kinh doanh, kế hoạch phát triển sản phẩm cũng như kế hoạch đào tạo nhân viên một cách hợp lý và hiệu quả. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra một ví dụ cụ thể trong khu vực ASEAN mà Việt Nam có thể học hỏi trong việc thu hút khách du lịch Tây Âu. Luận văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây đến Việt Nam.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Luận văn: Thực trạng thu hút khách du lịch Tây Âu đến Việt Nam

One thought on “Luận văn: Nghiên cứu thị trường khách du lịch Tây đến Việt Nam

  1. Pingback: Luận văn: Giải pháp thu hút khách du lịch Tây Âu đến Việt Nam

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464