Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương theo hướng tiếp cận CIPO dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Giáo dục và đào tạo là một trong những lĩnh vực được toàn xã hội quan tâm, đóng một vai trò quan trọng và góp phần trực tiếp trong việc bồi dưỡng và đào tạo con người. Giáo dục đào tạo mang trong mình sứ mạng cao cả là đào tạo nhân tài, phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Lịch sử nhân loại đã chứng minh chân lý: Ở quốc gia nào và ở giai đoạn nào giáo dục và đào tạo được quan tâm đúng đắn thì khi đó xã hội phát triển lành mạnh, bền vững.

Đạo đức là nhân tố cốt lõi trong nhân cách của mỗi con người. Giáo dục đạo đức cho học sinh trong trường trung học cơ sở (THCS) nhằm mục đích hình thành nhân cách cho học sinh, giáo dục đạo đức nhằm cung cấp cho học sinh những tri thức cơ bản về các phẩm chất đạo đức và chuẩn mực đạo đức, hoàn thiện nhân cách con người. Đức và tài là hai mặt cơ bản hợp thành trong một cá nhân. Nhiều quan điểm cho rằng đạo đức là gốc của nhân cách. Giáo dục đạo đức là một phần quan trọng không thể thiếu trong hoạt động giáo dục, như Bác Hồ đã dạy “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” hoặc trong luận ngữ của Khổng Tử khẳng định: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri đạo” (nghĩa là: Viên ngọc không mài dũa thì không thành đồ dùng được, con người không học thì không biết đạo) và nhiều nhà hiền triết đã nhấn mạnh “con người muốn trở thành con người cần phải có giáo dục”. Vì vậy, việc quan tâm tới công tác quản lý và giáo dục đạo đức trong nhà trường là một việc làm cần thiết.

Trong những năm qua, đất nước ta chuyển mình trong công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện, từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vâṇ hành theo cơ chế thi trường có sư ̣quản lý của Nhà nước. Với công cuộc đổi mới, chúng ta có nhiều thành tựu to lớn rất đáng tư ̣hào về phát triển kinh tế – xã hội, văn hóa – giáo dục. Song chúng ta không thể không thừa nhận những nguy cơ và thách thức đối với lĩnh vực giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng. Mặt trái kinh tế thị trường, sự tác động xấu của văn hóa ngoại lai, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Chúng ta đang phải đối diện với tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống; sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm; đáng lo ngại nhất là ở học sinh vấn đề tiêu cực trong học tập, thi cử; vấn đề bạo lực học đường ngày càng gia tăng. Một số học sinh chạy theo lối sống thực dụng, chưa có ý thức trong việc rèn luyện đạo đức, nhiều giá trị đạo đức xã hội bị đảo lộn. Không ít học sinh thiếu tích cực trong học tập và rèn luyện; không chịu phấn đấu; thiếu niềm tin, lý tưởng sống. Thực trạng học sinh mắc vào các tệ nạn xã hội, đánh nhau, bạo lực học đường…đã và đang là mối lo lớn của toàn xã hội. Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

Trước thực trạng trên, cả xã hội đang lo lắng, ngành giáo dục đang trăn trở tìm giải pháp. Đảng và Nhà nước đang chỉ đạo quyết liệt nhằm đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà. Trong đó vai trò của giáo dục phổ thông có tầm quan trọng đặc biệt. Giáo dục phổ thông là vườn ươm để có những con người toàn thiện; là nơi khởi đầu của sự nghiệp đào tạo con người, hình thành nhân cách. Tất cả điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết là đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng đắn vai trò của giáo dục và giáo dục đạo đức (GDĐĐ) cho học sinh, nhất là học sinh THCS. Đây là giai đoạn của sự chuyển tiếp giữa thiếu niên ở tuổi dậy thì và thanh niên, là giai đoạn tạo dựng nền móng nhân cách để trở thành sinh viên, trí thức, người lao động trong tương lai.

Để giáo dục đạo đức cho học sinh đạt hiệu quả cao thì không thể không kể đến vai trò của công tác quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh, nó góp phần phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. Song thực tế, công tác này ở các trường nói chung và các trường trung học cơ sở nói riêng còn nhiều bất cập và chưa thực sự có hiệu quả, đặc biệt là những yếu kém trong quản lý. Các trường chỉ chú trọng đến việc trang bị những kiến thức chuyên môn mà chưa quan tâm đến GDĐĐ cho học sinh đúng như yêu cầu. Có thể thấy, ở các trường học chưa có những giải pháp quản lý nhằm phát huy sự gương mẫu của thầy và ý thức tự rèn luyện của học sinh, chưa phát huy được sự tham gia của các lực lượng xã hội vào công tác quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh. Tuy nhiên trong thực tế việc quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh nói chung và học sinh trung học cơ sở nói riêng chưa được quan tâm đúng mức. Đặc biệt trong bối cảnh thực tế hiện nay, ở thị xã Bến Cát trong thời gian qua trên diễn đàn trẻ em, rất nhiều lãnh đạo phụ trách công tác văn hóa đã tỏ ra lo ngại, đồng thời thẳng thắn chỉ ra rằng “văn hóa học đường đang thực sự có vấn đề”, sự ứng xử của một số học sinh đang “lệch chuẩn” khi môi trường xã hội có nhiều đổi thay “Lối ứng xử nhã nhặn, thanh lịch đang mất dần, thay vào đó là lối nói xô bồ, tục tĩu, kiểu ăn nói “lệch chuẩn”, nhất là ở giới trẻ. Nhiều fan cuồng ồn ào, la hét, quỳ mọp dưới chân thần tượng nhưng lại kiệm lời, không biết nói lời “cám ơn”, “xin lỗi”.

Do điều kiện còn hạn chế nên các trường trung học cơ sở hiện nay chủ yếu vẫn chỉ cung cấp tri thức để hình thành nhận thức, thái độ, chưa coi trọng đúng mức đến việc rèn luyện kỹ năng, trau dồi những cảm xúc, tình cảm, phẩm chất đạo đức, thẩm mỹ. Phạm Minh Hạc đánh giá: “Ngành giáo dục Việt Nam có phần lệch về dạy chữ, ít dạy nghề, không chú trọng dạy người”.Việc dạy người mới thật là cơ bản cho tương lai của dân tộc. Bởi vì không coi trọng “dạy người” sẽ làm cho một bộ phận học sinh giảm sút về đạo đức, nhân cách, bị lôi cuốn vào lối sống thực dụng và các tệ nạn xã hội.

Học sinh THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến trong các mặt giáo dục như các chỉ tiêu về tuyển sinh lớp 10, chỉ tiêu học sinh gỏi, học sinh tiên tiến… nhưng bên cạnh đó hiệu quả công tác giáo dục đạo đức học sinh còn nhiều hạn chế và tồn tại:

  • Giáo dục đạo đức học sinh chưa được tiến hành thường xuyên, chưa được thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc; thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình, các cấp uỷ Đảng chính quyền, các ngành hữu quan, các tổ chức chính trị xã hội và quần chúng nhân dân.
  • Giáo viên lên lớp còn nặng dạy chữ, chưa chú trọng đến vấn đề dạy người, môn giáo dục công dân nhiều giáo viên và học sinh xem là “môn phụ’’, nặng lí luận thiếu sự đầu tư nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên.
  • Có một số cán bộ giáo viên còn né tránh, thậm trí còn làm ngơ trước những hành vi vi phạm đạo đức của học sinh. Đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp còn một bộ phận không nhỏ chưa có nhiều kinh nghiệm, chưa thực sự tâm huyết với học sinh, chưa có sự quan tâm đến công tác giáo dục đạo đức học sinh.
  • Vẫn tồn tại một bộ phận học sinh thường xuyên có biểu hiện vi phạm về đạo đức, có lối sống hưởng thụ, vướng vào các tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật, xúc phạm tới nhân cách nhà giáo.

Để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương lên một bước mới, góp phần tạo bước đột phá trong chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2010 – 2020. Đáp ứng việc nâng cao chất lượng giáo dục trên địa bàn thị xã Bến Cát góp phần đào tạo ra những con người phát triển toàn diện đức, trí, thể, mỹ – nguồn nhân lực chính thúc đẩy sự phát triển của địa phương và đất nước trong giai đoạn Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá.

Vì vậy, Cán bộ quản lý trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát cần phải định hướng tìm tòi các biện pháp quản lí tốt nhất hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.

Với những lý do và thực trạng như trên, việc nghiên cứu đề tài: “Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh ở các trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương theo hướng tiếp cận CIPO” là hết sức cần thiết nhằm làm rõ thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương theo hướng tiếp cận CIPO, qua đó đề xuất một số giải pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương trong bối cảnh đổi mới giáo dục.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>>  Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Quản Lý Giáo Dục

2. Mục đích nghiên cứu Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

Khảo sát thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương, để đề xuất một số biện pháp nhằm cải thiện hoạt động giáo dục đạo đức; nâng cao phẩm chất đạo đức, góp phần hoàn thiện toàn diện nhân cách học sinh, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu

Hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường THCS.

3.2. Đối tượng nghiên cứu

Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương.

4. Giả thuyết khoa học Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

Hệ thống hóa được lý luận về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THCS sẽ xây dựng được cơ sở để khảo sát, đánh giá đúng thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương theo hướng tiếp cận CIPO và sẽ đề xuất được các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương theo hướng tiếp cận CIPO có tính cấp thiết, khả thi nhằm góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương.

5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

Xây dựng hệ thống cơ sở lý luận của công tác quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THCS theo hướng tiếp cận CIPO.

Khảo sát và đánh giá thực trạng hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh và thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương theo hướng tiếp cận CIPO.

Đề xuất một số biện pháp quản lý khả thi nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương.

5.2. Phạm vi nghiên cứu

Giới hạn đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS bao gồm nhiều chủ thể quản lý thuộc trong và ngoài nhà trường. Chủ thể quản lý chính trong luận văn này là hiệu trưởng trường THCS.

Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Hệ thống các trường THCS ở thị xã Bến Cát bao gồm 7 trường THCS và 1 trường THCS tạo nguồn. Với mong muốn đề tài có thể mang đến những giải pháp hiệu quả ngay tại cơ sở giáo dục nên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở 4 trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương từ năm học 2017-2018 và năm học 2018-2019.

Giới hạn khách thể khảo sát: Luận văn tập trung khảo sát các đối tượng sau: học sinh, cha mẹ học sinh, giáo viên và cán bộ quản lý. Cụ thể như sau:

  • 200 học sinh khối 6, 7, 8, 9;
  • 200 cha mẹ học sinh học sinh khối 6, 7, 8, 9;
  • 15 cán bộ quản lý gồm: 03 ban giám hiệu và 12 tổ trưởng;
  • 185 giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn của các trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương.

6. Phương pháp nghiên cứu Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các văn bản, nghị quyết; các tài liệu, sách, báo; các thông tin trên mạng, tham khảo các vấn đề có liên quan đến nội dung quản lí hoạt động giáo dục đạo đức học sinh để làm cơ sở lý luận.

6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

6.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi

Để khảo sát và đánh giá thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương chúng tôi tiến hành sử dụng các mẫu phiếu:

  • Phiếu dành cho giáo viên (GV), cán bộ quản lý (CBQL) nhằm tìm hiểu hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh và công tác quản lý hoạt động giáo dục đạo đức của CBQL.
  • Phiếu dành cho học sinh nhằm tìm hiểu thực trạng đạo đức học sinh, các hoạt động giáo dục đạo đức của GVCN trong lớp, các hoạt động do Đoàn thanh niên, nhà trường tổ chức…
  • Phiếu dành cho cha mẹ học sinh nhằm tìm hiểu thực trạng đạo đức học sinh về tầm quan trọng, nguyên nhân yếu kém các hình thức nhà trường trao đổi với cha mẹ học sinh.

6.2.2. Phương pháp phỏng vấn

Phỏng vấn ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm, giám thị, học sinh, ban đại diện hội phụ huynh học sinh .. về các nội dung liên quan đến đề tài.

6.3. Phương pháp thống kê số liệu

Để phân tích và xử lý các số liệu thu được, tôi tiến hành sử dụng phần mềm thống kê SPSS.

7. Đóng góp mới của Luận văn Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THCS.

Làm rõ thực trạng hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh và quản lý giáo dục đạo đức học sinh ở các trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương theo hướng tiếp cận CIPO.

Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương theo hướng tiếp cận CIPO.

8. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1. Cơ sở lí luận về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THCS.

Chương 2. Thực trạng hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh và quản lý giáo dục đạo đức học sinh ở các trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương theo hướng tiếp cận CIPO.

Chương 3. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương theo hướng tiếp cận CIPO.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ THEO HƯỚNG TIẾP CẬN CIPO

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài

Singapore (trong đó có giáo dục đạo đức) lại tập trung vào việc tự đánh giá với hai nội dung chính là các động lực và kết quả. Động lực giúp các trường nhận biết cách thức để đạt được kết quả và kết quả cho thấy nhà trường đang đạt được những gì. Từ đó, các nhà trường cần xem xét, thiết kế, cách thức hoạt động và sản phẩm đầu ra của giáo dục từ phương diện quá trình và kết quả cuối cùng. Các động lực sẽ chỉ cho lãnh đạo nhà trường biết được cách thức lãnh đạo nhân viên và quản lí hệ thống đạt được kết quả mong muốn. Việc quản lí hoạt động giáo dục tập trung chủ yếu vào các mặt:

  • Lãnh đạo.
  • Lập kế hoạch chiến lược.
  • Quản lí người dạy.
  • Nguồn lực.
  • Các qui trình hướng vào người học.
  • Kết quả hoạt động quản lí.
  • Kết quả của công tác đội ngũ.
  • Đối tác và kết quả về mặt xã hội:
  • Kết quả hoạt động chính.

Còn quản lí giáo dục đạo đức của Nhật Bản hướng vào trọng tâm là nền tảng các giá trị gia đình và văn hoá truyền thống, được thực hiện ưu tiên so với tất cả các môn học khác trong chương trình giáo dục phổ thông. Triết lí giáo dục đạo đức của Nhật Bản được ghi trong chương trình khung quốc gia nhằm đào luyện con người gồm 06 mục tiêu:

  • Tinh thần tôn trọng nhân phẩm và lòng yêu quí cuộc sống.
  • Nhiệt tâm kế thừa, phát triển văn hóa truyền thống và sáng tạo văn hóa giàu tính cá nhân.
  • Nhiệt tâm phát triển một đất nước và xã hội dân chủ.
  • Ý thức đóng góp cho sự phát triển một thế giới hòa bình.
  • Khả năng tự quyết định một cách độc lập.
  • Ý thức đạo đức (Kỉ luật, tự kiềm chế, tinh thần tập thể …).

Đặc trưng giáo dục đạo đức ở Nhật Bản tập trung vào 03 trọng điểm:

  • Lòng tôn trọng cuộc sống.
  • Quan hệ cá nhân và cộng đồng.
  • Ý thức về trật tự dọc (Kỷ luật xã hội). Ý thức về trật tự dọc là tôn ti xã hội nghiêm ngặt và là yếu tố quan trọng tạo nên sự phát triển bền vững về kinh tế
  • xã hội của quốc gia Nhật Bản. Đó là điểm tựa cho công tác quản lí hoạt động này.

Trung Quốc tập trung chủ yếu vào các mặt:

  • Giáo dục lí tưởng xã hội chủ nghĩa (XHCN).
  • Lòng tự cường dân tộc.
  • Tính kỉ luật trong lao động, học tập và hoạt động xã hội. Trung Quốc coi trọng “giáo dục tố chất” nghĩa là tạo ra các điều kiện tiền đề để học sinh phát triển cả về thể chất và tâm hồn. Khiến cho tất cả học sinh đều được phát triển hết tiềm năng của mình từ đó thúc đẩy quá trình chuyển hóa ý thức xã hội bên trong phẩm chất tâm lí của cá thể học sinh.

Đa số những nghiên cứu của Hoa Kì, Canada, Australia tập trung vào phát triển những cách tiếp cận và khung giá trị của giáo dục đạo đức, làm cho hệ thống quản lí quốc gia tương đối mềm mại, tùy theo điều kiện các địa phương. Về mặt quản lí, họ đề cao việc giáo dục các giá trị sống, giáo dục tính cách, giáo dục kĩ năng sống, dạy các kĩ năng xã hội và các giá trị văn hóa xuyên quốc gia, có tính chất quốc tế, tức là các giá trị nhân văn. Theo tiếp cận chung của những quốc gia này, giáo dục đạo đức được quản lí trong tổng thể các chiến lược giáo dục giá trị và giáo dục công dân.

Những tổ chức quốc tế chủ yếu như Unesco, Unicef, Ngân hàng Thế giới (World Bank) v.v… cũng đề cao giáo dục đạo đức và quan tâm nghiên cứu so sánh quốc tế giữa các quốc gia và khu vực. Những nghiên cứu của họ nhấn mạnh kĩ năng sống, giá trị sống, trách nhiệm công dân, phát triển bền vững trên cơ sở giáo dục cho mọi người, phổ cập giáo dục, ngăn ngừa các tệ nạn xã hội, bạo lực trẻ em, lạm dụng lao động và tình dục trẻ em, nạn trẻ em lang thang cơ nhỡ và thiệt thòi về mặt xã hội, chính sách quốc gia bảo đảm công bằng cơ hội tiếp cận giáo dục.

1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

Trong khoảng 20 năm gần đây, các vấn đề quản lí trường học và quản lí những nhiệm vụ cụ thể của trường học đã được quan tâm xem xét trong nhiều đề tài, luận án, luận văn các đề án phát triển giáo dục. Những lĩnh vực quản lí được quan tâm nhiều nhất là quản lí dạy học, quản lí đào tạo, quản lí cơ sở vật chất nhà trường, quản lí đội ngũ giáo viên và những khía cạnh cụ thể khác của quản lí trường học như bồi dưỡng nghiệp vụ đội ngũ giáo viên, quản lí học sinh – sinh viên, xây dựng nề nếp học tập, quản lí các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp v.v…

Phần nào các vấn đề quản lí Hoạt động GDĐĐ trong nhà trường cũng được đề cập, tuy chưa đều giữa các cấp dạy và chưa thường xuyên giữa các địa phương, ví dụ:

  • “Một số biện pháp đổi mới QLHĐGDĐĐ cho học sinh THCS quận 10 thành phố Hồ Chí Minh”. Luận văn thạc sĩ của Trần Thế Hùng, ĐHSP Hà Nội, 2006.
  • “Một số biện pháp tăng cường QLGD đạo đức cho học sinh các trường THPT ngoài công lập của tỉnh Hải Dương”. Luận văn thạc sĩ của Đỗ Văn Thược, ĐHSP Hà Nội, 2006.
  • “Xây dựng mô hình quản lí công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên trong các trường đại học sư phạm trong giai đoạn hiện nay”. Luận án tiến sĩ Quản lí giáo dục của Nguyễn Thị Hoàng Anh, Đại học quốc gia Hà Nội, 2011. Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát
  • “Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở thành phố Hà Nội trong bối cảnh đổi mới giáo dục”. Luận án tiến sĩ Quản lí giáo dục của Nguyễn Thị Thi, Đại học quốc gia Hà Nội, 2017. Bên cạnh những ưu điểm trong công tác quản lý hoạt động giáo dục đạo đức thì luận án vẫn còn tồn tại một số ưu điểm sau: Nguyên nhân thứ nhất: là những nguyên nhân mang tính chủ quan như: Sự biến đổi tâm sinh lý lứa tuổi, đó là sự thiếu ý thức, thiếu tự chủ hay bị cám dỗ lôi kéo từ các phần tử không tiến bộ. Điều này chứng tỏ đa số học sinh trường THCS đang ở lứa tuổi vị thành niên, lứa tuổi mới lớn, thích tìm tòi cái mới lạ nên hay bị sa ngã trước ma lực của những tệ nạn xã hội. Hơn nữa có những học sinh sống trong gia đình chưa được hưởng nền giáo dục tốt tạo cho họ có những thói quen không tốt, không tự giác rèn luyện bản thân; Nguyên nhân thứ hai: là những nguyên nhân mang tính khách quan như: Tác động tiêu cực của cơ chế thị trường và ảnh hưởng của xã hội; sự bùng nổ của thông tin văn hóa; đời sống hiện nay còn nhiều khó khăn,…đã ảnh hưởng đến học sinh rất nhiều. Thực tế, do sự phát triển của xã hội, do quá trình mở cửa và hội nhập, nên có nhiều luồng văn hóa xâm nhập vào nước ta, với tâm lý học sinh là thích cái mới, hay học hỏi đua đòi, vì vậy một bộ phận học sinh chạy theo cái mới một cách mù quáng mà không có nhận thức và sự hướng dẫn nhận thức đúng đắn. Với sự phát triển công nghệ thông tin như hiện nay thì những luồng văn hóa tiêu cực, không lành mạnh sẽ ảnh hưởng đến học sinh một cách dễ dàng. Vì vậy vấn đề đặt ra ở chỗ phải giáo dục ý thức tự giác, biết nhận thức một vấn đề một cách đúng đắn. Vì khi nhận thức đúng thì hành động mới chuẩn xác; Nguyên nhân thứ ba: Là những nguyên nhân thuộc về quản lý xã hội và quản lý giáo dục. Trong các trường THPT hiện nay nói chung và các trường THCS nói riêng, chất lượng GDĐĐ và quản lý GDĐĐ chưa cao, các bộ phận chức năng trong nhà trường hoạt động chưa đồng đều. Bên cạnh đó các lực lượng xã hội cũng chưa dành sự quan tâm đúng mức cho hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các nguyên nhân chủ quan và khách quan. Bởi nếu trong môi trường xã hội và trong trường trung học cơ sở có các giải pháp hữu hiệu thì sẽ có tác động tích cực tới tâm lý của học sinh, giúp cho họ nhận thức đúng đắn cái đúng, ngăn chặn được những tác động tiêu cực của xã hội đồng thời phát huy được những mặt tốt, tích cực trong học sinh”. (Nguyễn Thị Thi, 2017)
  • “Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường tiểu học thành phố Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương”. Luận văn thạc sĩ Quản lí giáo dục của Lê Thị Kim Thúy, Đại học Thủ Dầu Một, 2018.
  • Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các Trường Trung học cơ sở trên địa bàn thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương”. Luận văn thạc sĩ Quản lí giáo dục của Phạm Thị Dạ Thảo, Đại học Thủ Dầu Một, 2018. Bên cạnh những ưu điểm, luận văn còn một số điểm tồn tại như sau: “Kế hoạch giáo dục đạo đức: Các trường chưa thực hiện hiệu quả và thường xuyên việc đưa ra dự báo diễn biến về đạo đức học sinh tại trường; Tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức: Các trường chưa thực hiện hiệu quả và thường xuyên về phổ biến cho giáo viên nắm rõ mục tiêu giáo dục đạo đức, cũng như việc xác định nhu cầu đội ngũ giáo viên tham gia giáo dục đạo đức cho học sinh về số lượng lẫn chất lượng để phân công giảng dạy phù hợp; Chỉ đạo thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức: Việc chỉ đạo giáo viên tích hợp nội dung trong từng bài giảng, các chuyên đề gắn với nhu cầu, thực tiễn địa phương và phù hợp với đối tượng học sinh chưa được thực hiện thường xuyên và chưa mang lại hiệu quả cao; Kiểm tra – đánh giá hoạt động giáo dục đạo đức: Việc thực hiện trong công tác kiểm tra chưa mang lại hiểu quả”. (Phạm Thị Dạ Thảo, 2018)

Các công trình này đã đề cập đến một số vấn đề lí luận về giáo dục đạo đức, quản lí giáo dục, quản lí trường học, quản lí giáo dục đạo đức và đề xuất một số giải pháp phù hợp để quản lí giáo dục đạo đức ở một số địa bàn cụ thể.

Ngoài ra có nhiều đề tài nghiên cứu các cấp ở Trung ương và các đại học sư phạm cũng phần nào đề cập các vấn đề quản lí hoạt động giáo dục đạo đức trong nhà trường và tại cộng đồng, tại các đoàn thể của thanh thiếu niên.

1.2. Các khái niệm cơ bản Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

1.2.1. Quản lý, quản lý nhà trường, quản lý trường trung học cơ sở

1.2.1.1. Quản lý

Quản lý là một trong những hoạt động cơ bản nhất của con người xét trên nhiều phạm vi cá nhân, tập đoàn, quốc gia hoặc nhóm quốc gia. Hoạt động quản lý (QL) xuất hiện khi loài ngừời hình thành hoạt động nhóm. Qua lao động, để duy trì sự sống, đòi hỏi sự phối hợp hoạt động giữa các cá nhân con người. Hoạt động QL là một hiện tượng tất yếu phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người nhằm đoàn kết nhau lại tạo nên sức mạnh tập thể, thống nhất thực hiện một mục đích chung.

Theo Các Mác, Ph.Angghen (1993) thì “Bất cứ một lao động mang tính chất xã hội trực tiếp hay lao động cùng nhau, được thực hiện ở quy mô tương đối lớn, đều cần đến mức độ nhiều hay ít sự quản lý, nhằm thiết lập sự phối hợp giữa những công việc cá nhân và thực hiện những chức năng chung, nảy sinh từ vận động của toàn bộ cơ chế sản xuất, khác với sự vận động của các cơ quan độc lập của nó. Một người chơi vĩ cầm riêng lẻ tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì cần người chỉ huy”. Các Mác đã nói lên được bản chất của quản lý là một hoạt động lao động để điều khiển quá trình lao động, một hoạt động tất yếu của xã hội loài người.

Quản lý là một hiện tượng lịch sử, xã hội. Có nhiều nhà nghiên cứu về quản lý đã nêu lên các khía cạnh khác nhau của khái niệm “quản lý”.

Theo Harold Koontz (1993) thì quản lý là một “Hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi nhà QL là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc và sự bất mãn cá nhân ít nhất”.

Theo Bùi Trọng Tuân – Nguyễn Kì (1984): “Quản lý là chức năng của những hệ thống có tổ chức với những bản chất khác nhau (kỹ thuật, sinh vật, xã hội), thực hiện những chương trình mục đích hoạt động”.

Tác giả Trần Kiểm (1997) cho rằng: “Quản lý nhằm phối hợp sự nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội”.

  • Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả hoạt động của những người cộng sự khác nhau cùng chung tổ chức.
  • Quản lý là những tác động có mục đích đến tập thể người, thành viên của hệ, nhằm làm cho hệ vận hành thuận lợi và đạt tới mục đích dự kiến.

Theo Phạm Viết Vượng (2005) cho rằng: “QL là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức, lựa chọn trong số các tác động có thể có, dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục đích đã định”.

Tóm lại, có thể nói QL là một khái niệm rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, và được hiểu dưới những góc độ, quan điểm khác nhau. Nhưng dù ở lĩnh vực hay góc độ nào đi nữa thì, theo chúng tôi, QL cũng là sự tác động có định hướng, mang tính hệ thống, được thực hiện có ý thức, có tổ chức của chủ thể QL lên đối tượng QL, bằng cách vạch ra mục tiêu của tổ chức đồng thời tìm kiếm các biện pháp, cách thức tác động vào tổ chức nhằm đạt mục tiêu đề ra. QL là sự điều khiển có tổ chức và thoả mãn yêu cầu, mục tiêu đã đề ra, chứ không mang tính áp đặt, cai trị; Nhưng tuỳ theo những trường hợp cụ thể mà có những chính sách, biện pháp QL cứng rắn hay mềm mỏng phù hợp nhất để luôn đạt được kết quả như mong muốn đồng thời phải làm cho tổ chức ngày càng phát triển.

1.2.1.2. Quản lý nhà trường Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

Trong hệ thống giáo dục (GD), nhà trường chiếm giữ một phần quan trọng, chủ yếu. Đa phần các hoạt động GD đều được thực hiện trong nhà trường, thông qua hệ thống nhà trường (phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học). Nhà trường là “tế bào chủ chốt” của hệ thống GD từ trung ương đến cơ sở. Theo đó quan niệm quản lý giáo dục (QLGD) luôn đi kèm với quan niệm QL nhà trường; Các nội dung QLGD luôn gắn liền với QL nhà trường. Quản lý nhà trường có thể được coi như là sự cụ thể hoá công tác QLGD.

Theo Phan Ngọc Liên (2006) cho rằng: “Quản lý nhà trường là hệ thống những tác động có hướng đích của hiệu trưởng (the principal) đến con người (giáo viên, nhân viên và học sinh), đến các nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính, thông tin, v.v..) hợp quy luật (quy luật quản lý, quy luật giáo dục, quy luật tâm lý, quy luật kinh tế, quy luật xã hội, v.v..) nhằm đạt mục tiêu giáo dục”.

Ngày nay nhà trường trong nền kinh tế công nghiệp không chỉ là thiết kế sư phạm đơn thuần. Công việc diễn ra trong nhà trường có mục tiêu cao nhất là hình thành “nhân cách – sức lao động”, phục vụ phát triển cộng đồng làm tăng nguồn vốn con người (Human Capital), vốn tổ chức (Organizational Capital) và cả vốn xã hội (Social Capital).

Theo Nguyễn Ngọc Quang (1989), quản lý nhà trường là: “Tập hợp những tác động tối ưu (cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp…) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và các cán bộ khác, nhằm tận dụng các nguồn dự trữ do Nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp và do lao động xây dựng vốn tự có hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ. Thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới”.

Theo giáo sư Phạm Minh Hạc (1997): “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục. Mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh”.

Quản lý nhà trường là một hoạt động thực hiện trên cơ sở những quy luật chung của quản lý, đồng thời có những nét riêng mang tính đặc thù của giáo dục.

Quản lý nhà trường khác với quản lý xã hội khác, nó được quy định với bản chất lao động sư phạm của người giáo viên, bản chất của quá trình dạy học và quá trình giáo dục, trong đó mọi thành viên của nhà trường vừa là chủ thể sáng tạo chủ động vừa là đối tượng quản lý. Sản phẩm của các hoạt động trong nhà trường là nhân cách người học sinh được hình thành trong quá trình học tập, tu dưỡng và rèn luyện, phát triển theo yêu cầu phát triển của xã hội.

Như vậy, quản lý nhà trường chính là quản lý giáo dục trong một phạm vi xác định đó là đơn vị giáo dục là nhà trường. Do đó quản lý nhà trường là vận dụng tất cả các nguyên lý chung của quản lý giáo dục để đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường theo mục tiêu đào tạo.

Đối tượng của quản lý nhà trường

Dưới góc độ giáo dục học, hoạt động dạy học được xem là hoạt động trung tâm trong bất kỳ một nhà trường nào. Quá trình dạy học của nhà trường là quá trình trong đó diễn ra hai hoạt động cơ bản là dạy và học; Người ta gọi đó là hai mặt của quá trình dạy học. Đó là quá trình hoạt động của cả thầy lẫn trò nhằm thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ dạy học đã đề ra. Đồng thời hai hoạt động này gắn bó và thống nhất với nhau, phản ánh tính chất hai mặt của quá trình dạy học và tạo ra chất lượng dạy học. Trong khi đó quá trình dạy học là quá trình bao hàm nhiều yếu tố như mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học, kết quả dạy học v.v… Do vậy QL nhà trường chính là QL tất cả các mặt, các yếu tố liên quan đến hoạt động dạy học, quá trình dạy học mà chủ yếu là quản lý hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS nhằm tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo, hoàn thiện và phát triển nhân cách thế hệ trẻ một cách khoa học, toàn diện và hiệu quả. Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

Trong thực tế cho thấy đối tượng của QL nhà trường thường gồm: việc xây dựng và thực hiện nội dung dạy học; hoạt động dạy của GV (biên soạn giáo trình, giáo án, chuẩn bị đồ dùng dạy học, lên lớp, giúp đỡ kiểm tra HS học tập); hoạt động học tập của HS (nề nếp, thái độ học tập, kết quả học tập); việc sử dụng CSVC kỹ thuật phục vụ hoạt động dạy học. Nếu tất cả những đối tượng trên được quan tâm, chú ý và thực hiện tốt thì công tác QL nhà trường sẽ thu được kết quả mong muốn.

Mục đích của quản lý nhà trường

Nhiều nhà nghiên cứu về QLGD, QL nhà trường đã đưa ra nhận định, tổng kết về chức năng, mục đích của QL nhà trường. Có thể nêu ra dưới đây nhận xét khái quát như sau:

Theo Trần Kiểm (1997): “QL nhà trường là thực hiện đường lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý GD để tiến tới mục tiêu GD, mục tiêu đào tạo đối với thế hệ trẻ và đối với từng học sinh”; Mục đích của QL nhà trường là nhằm làm cho quá trình giáo dục và đào tạo vận hành một cách tối ưu tới mục tiêu dự kiến

Quản lý nhà trường là quản lý toàn diện mọi hoạt động, mọi nguồn lực của nhà trường. Nhưng vì trong nhà trường, hoạt động dạy học là hoạt động cơ bản, đặc trưng cho trường học, do vậy quản lý nhà trường chính là quản lý hoạt động dạy học của nhà trường nhằm đưa nhà trường đạt được hiệu suất cao nhất, chất lượng cao nhất với mục đích cuối cùng là làm sao đáp ứng cao nhất nhu cầu học tập của nhân dân, đáp ứng yêu cầu phát triển nhân cách toàn diện cho người học mọi cơ sở GD, đào tạo ra những công dân có ích cho xã hội.

2.1.3. Quản lý trường trung học cơ sở

Trong trường THCS, người đứng đầu cao nhất là hiệu trưởng. Hiệu trưởng là thủ trưởng đơn vị, là người quản lý và là người tổng chỉ huy của một trường. Theo Luật Giáo dục sửa đổi bổ sung (2009), tại Điều 54 quy định “Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm hoặc công nhận”; “Hiệu trưởng các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân phải được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý trường học”. Vai trò của hiệu trưởng là vai trò của nhà quản lý, điểu khiển, quyết đoán mọi mặt hoạt động trong nhà trường đồng thời chịu trách nhiệm cao nhất về sự quản lý của mình đối với nhà trường.

Mục tiêu giáo dục chung trường THCS

Mục tiêu giáo dục chung, Điều 2 Luật Giáo dục sửa đổi bổ sung 2009 quy định: “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. (Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, 2009)

Mục tiêu của giáo dục THCS theo Điều 27 là “Nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục TH; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THPT, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”. (Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, 2009)

Như vậy, quản lý trường THCS là quản lý lãnh đạo hoạt động dạy của GV, hoạt động học của HS, hoạt động phục vụ việc dạy và việc học của CB, GV, CNV trong trường THCS… Việc quản lý trường THCS nhằm phấn đấu để đạt mục tiêu giáo dục chung và mục tiêu giáo dục THCS, nhằm giúp HS cũng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học, có trình độ học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THPT, THCN, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động để tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

1.2.2. Đạo đức, Giáo dục đạo đức, Hoạt động giáo dục đạo đức học sinh trung học cơ sở Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

1.2.2.1. Đạo đức

Khái niệm đạo đức được bàn đến từ lâu và rất nhiều trong sách báo khoa học giáo dục và đạo đức học. Nếu không bàn đến những tư tưởng cổ đại, thì trong khoảng vài trăm năm gần đây đạo đức luôn là vấn đề sôi động ở các thời đại. Từng có nhiều quan điểm về khái niệm này, ví dụ:

  • Theo Từ điển Tiếng Việt (1992) của Viện ngôn ngữ – Viện khoa học xã hội Việt Nam: “Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội”, “Đạo đức là những phẩm chất tốt đẹp của con người, do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức mà có” (p. 279)
  • Theo Trần Hậu Kiểm (1997) thì dưới góc độ đạo đức học: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm một hệ thống các quan điểm, quan niệm, những qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội” (p. 12)

Theo Ban tư tưởng văn hóa Trung ương (2004) thì dưới góc độ Triết học:

“Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên lí, qui tắc, chuẩn mực điều tiết hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng căn cứ vào những qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội”.

  • Theo Ban tư tưởng văn hóa Trung ương (2004) thì dưới góc độ Giáo dục học: “Đạo đức là hệ thống các quan niệm, quan điểm về cái thiện, cái ác trong các mối quan hệ của con người với con người” (p. 170)
  • Theo Ban tư tưởng văn hóa Trung ương (2004) cho rằng: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó mà con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và với tiến bộ của xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội”.

Tất cả các quan niệm hay định nghĩa về đạo đức ở trên chủ yếu nói đến Luân lí (hay ý thức đạo đức, hay chuẩn mực, qui định đạo đức) chứ chưa nói đến chính đạo đức. Chúng thuộc về ý thức xã hội, nhưng đạo đức còn cả mặt tồn tại nữa chứ không chỉ là chuẩn mực, do đó chúng chưa nói được bản chất của đạo đức.

Trong luận văn này chúng tôi sử dụng định nghĩa khái niệm đạo đức của Đặng Thành Hưng (2010): “Đạo đức là hệ giá trị được xã hội hoặc cộng đồng nhất định thừa nhận và được qui định thành chuẩn mực chung, có chức năng và tác dụng thực tế điều chỉnh các quan hệ kinh tế – xã hội có liên quan đến việc xử lí những phạm trù Thiện và Ác, Tốt và Xấu giữa con người và con người, giữa con người và tự nhiên, giữa cộng đồng và cá nhân, giữa cá nhân và cá nhân, tồn tại và phát triển ở đời sống xã hội và đời sống cá nhân dưới ảnh hưởng lịch sử của truyền thống và thành tựu kinh tế – xã hội mới mẻ trong phát triển của cộng đồng đó”.

Theo quan điểm của Đặng Thành Hưng (2010), đạo đức là những giá trị có thật đang tồn tại nhờ sự thống nhất biện chứng giữa: 1/ Sự thấu hiểu và nhất trí về luân lí (chuẩn mực, qui tắc đạo đức và vai trò của chúng) của mọi người; 2/ Nhu cầu và tình cảm đạo đức có tính tương đối ổn định của mỗi người và cộng đồng; 3/ Hành động, hành vi đạo đức hàng ngày phù hợp với 2 yếu tố trên và những kết quả hiện thực mà chúng mang lại.

Như vậy, đạo đức là hệ giá trị được xã hội hoặc cộng đồng thừa nhận và qui định thành chuẩn mực chung, có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp đến cái Thiện và cái Ác trong cuộc sống. Khái niệm đạo đức này sẽ tạo cơ sở để xây dựng cách tiếp cận hoạt động trong giáo dục đạo đức và quản lí hoạt động giáo dục đạo đức phù hợp với bản chất của giáo dục đạo đức.

1.2.2.2. Giáo dục đạo đức Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát 

Giáo dục đạo đức là những tác động sư phạm một cách có mục đích, có hệ thống và có kế hoạch của nhà giáo dục tới người được giáo dục (học sinh) để bồi dưỡng cho họ những phẩm chất đạo đức (chuẩn mực, hành vi đạo đức) phù hợp với yêu cầu xã hội.

Theo Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt (1998) thì “Giáo dục đạo đức là quá trình biến các chuẩn mực đạo đức từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục”.

Giáo dục đạo đức là quá trình hai mặt, mặt tác động của nhà sư phạm và mặt tiếp nhận tích cực của người được giáo dục, đó là sự chuyển hóa những nhu cầu của xã hội thành những phẩm chất bên trong của cá nhân. Giáo dục đạo đức được thực hiện trong gia đình, nhà trường và trong môi trường xã hội, với những hình thức đa dạng và những phương pháp phong phú, trong đó giáo dục trong nhà trường có một vị trí đặc biệt quan trọng. Giáo dục đạo đức là bộ phận hợp thành của hoạt động giáo dục con người đạt tới nhân cách hài hòa, toàn vẹn, bao gồm: Giáo dục kiến thức đạo đức; Giáo dục thái độ đạo đức; Giáo dục kỹ năng – hành vi đạo đức.

Bản chất giáo dục đạo đức là chuỗi tác động có định hướng của chủ thể giáo dục và yếu tố tự giáo dục của học sinh, giúp học sinh nhận thức đúng, tạo lập tình cảm và thái độ đúng, hình thành những thói quen hành vi văn minh trong cuộc sống, phù hợp với chuẩn mực xã hội. Trong cuộc sống, trong hoạt động, thông qua giao lưu nhân cách con người mới được hình thành và phát triển.

Giáo dục đạo đức là bộ phận quan trọng có tính nền tảng của giáo dục, có nhiệm vụ rèn luyện lý tưởng, ý thức, thói quen và hình thành ở người học các phẩm chất đạo đức như lòng nhân ái, yêu tổ quốc, yêu lao động, tính trung thực, khiêm tốn, tự trọng, dũng cảm,…GDĐĐ gắn chặt với giáo dục tư tưởng chính trị, giáo dục pháp luật, giáo dục trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và lao động hướng nghiệp.

Ngoài việc nâng cao nhận thức các giá trị đạo đức, giáo dục đạo đức còn góp phần tạo ra những giá trị đạo đức mới, xây dựng những quan điểm, phẩm chất đạo đức mới, hình thành quan niệm sống tích cực cho mỗi đối tượng giáo dục. Hơn nữa, giáo dục đạo đức cũng góp phần khắc phục những quan điểm đạo đức lạc hậu, sự lệch chuẩn các giá trị nhân cách, chống lại các hiện tượng phi đạo đức, vô văn hóa tạo ra cơ chế phòng ngừa các phản giá trị đạo đức, phản văn hóa trong mỗi một con người. Giáo dục đạo đức còn có tác dụng trong việc truyền lại cho thế hệ sau những giá trị đạo đức truyền thống mà từ đời này qua đời khác chúng ta đã dày công xây dựng và giữ gìn. Thông qua hoạt động giáo dục sẽ giúp cho họ nhận thức đầy đủ giá trị của truyền thống đạo đức dân tộc, ý nghĩa to lớn của chúng trong đời sống hiện thực, lòng nhân ái và tính nhân văn sâu sắc đã được lưu giữ, bảo tồn và lắng đọng trong cốt cách con người và nền văn hóa Việt Nam.

1.2.2.3. Hoạt động giáo dục đạo đức học sinh trung học cơ sở

Hoạt động giáo dục đạo đức là hình thành cho con người những quan điểm co bản nhất, những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức cơ bản của xã hội. Nhờ đó, con người có khả năng lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng xã hội cũng như tự đánh giá suy nghĩ về hành vi của bản thân mình. Vì thế, công tác giáo dục đạo đức góp phần vào việc hình thành phát triển nhân cách phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Giáo dục đạo đức là quá trình tác động đến người học để hình thành cho họ ý thức, tình cảm và niềm tin đạo đức, đích cuối cùng quan trọng nhất là lập được những thói quen hành vi đạo đức.

Quá trình giáo dục đạo đức là một hoạt động có tổ chức, có mục đích, có kế hoạchnhằm biến những chuẩn mực đạo đức, từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của cá nhân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục.

Quá trình giáo dục đạo đức giúp mỗi cá nhân nhận thức đúng các giá trị đạo đức, biết hành động theo lẽ phải, công bằng và nhân đạo, biết sống vì mọi người, vì gia đình, vì sự tiến bộ và phồn vinh của đất nước. Trong đó mục tiêu quan trọng nhất của GDĐĐ là hình thành những thói quen hành vi đạo đức.

1.2.3. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh trung học cơ sở Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

Hoạt động giáo dục đạo đức là một trong những hoạt động giáo dục được quản lí tại cấp trường. Vì vậy những nét chủ yếu của việc quản lí hoạt động này cũng tương tự như quản lí các hoạt động giáo dục khác, chỉ phân biệt bởi mục tiêu quản lí, đối tượng và biện pháp quản lí cụ thể. Có những quan điểm khác nhau về quản lí hoạt động giáo dục, ví dụ:

  • Theo Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2006) thì “Quản lí hoạt động giáo dục được hiểu là một hệ thống những tác động (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp qui luật) của chủ thể quản lí đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường”. (p. 37)
  • Theo Trần Hậu Kiểm – Đoàn Đức Hiếu (2004): “Quản lí hoạt động giáo dục là một tập hợp các hoạt động lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các quá trình tự nhiên, xã hội, khoa học, kĩ thuật và công nghệ để chúng phát triển hợp qui luật, các nguồn lực (hiện hữu và tiềm năng) vật chất và tinh thần, hệ thống tổ chức và các thành viên thuộc hệ thống, các hoạt động để đạt được các mục đích đã định” (p. 10)

Nhất quán với quan điểm về quản lí, quản lí giáo dục, quản lí trường học đã nêu trên, chúng tôi hiểu khái niệm quản lí hoạt động giáo dục như sau:

Quản lí hoạt động giáo dục trong nhà trường là nhiệm vụ quản lí trường học có liên quan trực tiếp đến các hoạt động giáo dục học sinh trong phạm vi các môn học, các hoạt động ngoài giờ lên lớp, các quan hệ giáo dục của học sinh với cộng đồng và đoàn thể của họ, trong các môi trường văn hóa – xã hội và giao tiếp cũng như các hoạt động xã hội, giải trí và sinh hoạt của học sinh. Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

Quản lí hoạt động giáo dục cũng mang đầy đủ nội dung quản lí trường học song tính chất chủ đạo của nó là quản lí chuyên môn và phần nào là quản lí nhân sự, quản lí môi trường văn hóa, quản lí các quan hệ giáo dục.

Từ đó có thể hiểu Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức (QLHĐGDĐĐ) trong nhà trường là một trong những nhiệm vụ quản lí chuyên môn tại cấp trường, tập trung vào việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và các hoạt động giáo dục đạo đức dựa trên những nỗ lực chung của các nhà quản lí, các giáo viên, tập thể học sinh, các bậc phụ huynh và các lực lượng xã hội khác, nhằm gây ảnh hưởng đến nhu cầu, tình cảm, hành vi đạo đức của học sinh, khuyến khích và hướng dẫn các em thường xuyên thực hành, trải nghiệm, rèn luyện ý thức, hành và hành động đạo đức dưới những hình thức đa dạng như học tập, sinh hoạt, lao động, giải trí, quan hệ bạn bè, quan hệ xã hội, giao tiếp, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao quần chúng v.v… Những hình thức nói trên chính là những môi trường cụ thể để quản lí giáo dục đạo đức.

1.2.4. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh trung học cơ sở theo hướng tiếp cận CIPO

CIPO được cấu tạo từ chữ đầu của các từ tiếng Anh: Context – Bối cảnh; Input – Đầu vào; Process – Quá trình; Output – Đầu ra. Mô hình quản lý giáo dục CIPO được UNESCO đưa ra năm 2000 trong Chương trình hành động Daka để quản lý chất lượng giáo dục trong nhà trường phổ thông. Mô hình quản lý CIPO gồm 3 thành phần cơ bản: Đầu vào, Quá trình, Đầu ra, và 3 thành phần này được xem xét trong một bổi cảnh nhất định và có thể hiểu chất lượng giáo dục của một nhà trường phổ thông là chất lượng của 3 thành phần cơ bản đó.

Giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS là một quá trình hoạt động diễn ra liên tục dưới sự tác động của các yếu tố khác nhau và cả trong và ngoài nhà trường. Hơn nữa giáo dục đạo đức cho học sinh đều phụ thuộc vào các yếu tố đó. Như vậy, hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS có đầy đủ các điều kiện để vận dụng tiếp cận CIPO trong quản lý.

Nội dung quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở theo mô hình CIPO bao gồm:

Quản lý các yếu tố đầu vào: Xây dựng kế hoạch và thống nhất chương trình giáo dục đạo đức cho học sinh; Quản lý đội ngũ giáo viên tham gia giáo dục đạo đức cho học sinh; Quản lý cơ sở vật chất và tài chính phục vụ giáo dục đạo đức cho học sinh: Quản lý học sinh.

Quản lý quá trình giáo dục: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh của giáo viên; Quản lý quá trình học tập, rèn luyện đạo đức của học sinh trong trường trung học cơ sở; Quản lý việc thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục đạo đức cho HS; Quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện đạo đức của học sinh; Quản lý sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để giáo dục đạo đức cho học sinh.

Quản lý các yếu tố đầu ra:

Quản lý các yếu tố thuộc về bối cảnh của giáo dục: Ảnh hưởng bởi yếu tố khách quan; Ảnh hưởng bởi yếu tố chủ quan.

1.3. Hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

1.3.1. Vị trí, mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở

1.3.1.1. Vị trí

GDĐĐ là một bộ phận của mục tiêu và nhiệm vụ giáo dục trong nhà trường: giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục thể chất – quốc phòng, giáo dục thẩm mĩ, giáo dục lao động kĩ thuật tổng hợp, hướng nghiệp, giáo dục công dân. Trong đó, GDĐĐ được xem là nền tảng, gốc rễ tạo nên nội lực tiềm tàng vững chắc cho các mặt giáo dục khác.

1.3.1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung giáo dục đạo đức

Mục tiêu của GDĐĐ là hình thành những phẩm chất tốt đẹp trong nhân cách của học sinh. Do vậy, GDĐĐ phải giúp cho học sinh thấm nhuần sâu sắc thế giới quan Mác – Lênin, tư tưởng và đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh, tính chân lí khách quan của giá trị đạo đức, nhân văn, nhân bản của các tư tưởng, giác ngộ đúng những bổn phận đạo đức của công dân, coi đó là kim chỉ nam cho hành động của mình.

GDĐĐ phải thấm nhuần các chủ trương, chính sách của Đảng, biết sống và làm việc theo pháp luật, sống có kỉ cương nền nếp, có văn hoá trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội và giữa con người với nhau. GDĐĐ phải làm cho học sinh nhận thức ngày càng sâu sắc các nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực và các giá trị đạo đức XHCN, biến các giá trị đó thành ý thức, tình cảm, hành vi, thói quen và cách ứng xử trong đời sống hàng ngày. Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

Nhiệm vụ chủ yếu của GDĐĐ là phát triển nhu cầu đạo đức cá nhân, hình thành và phát triển ý thức đạo đức; rèn luyện ý chí, hành vi; hình thành thói quen ứng xử đạo đức; phát triển các giá trị đạo đức cá nhân theo những định hướng giá trị mang tính đặc thù dân tộc và thời đại.

GDĐĐ không chỉ định hướng cho các hoạt động giáo dục khác mà còn định hướng cho hoạt động dạy học nói chung. Với tư cách là một người QLGD, trước hết cần phải hiểu biết một cách sâu sắc những vấn đề chung của GDĐĐ. Từ đó, có những định hướng, mục tiêu sát thực, xây dựng được những chương trình, kế hoạch khả thi và có những biện pháp tổ chức chỉ đạo thích hợp để nâng cao chất lượng và hiệu quả của QLGD nói chung, quá trình GDĐĐ nói riêng.

Nội dung cơ bản của GDĐĐ cho học sinh hiện nay cũng chính là những phẩm chất đạo đức quan trọng của thế hệ trẻ Việt Nam cần phải có. Theo như chương trình giáo dục phổ thông tổng thể nêu lên 5 phẩm chất chủ yếu cần hình thành, phát triển ở học sinh là: Yêu nước; Nhân ái: Yêu quý mọi người; Tôn trọng sự khác biệt giữa mọi người; Chăm chỉ: Ham học; Chăm làm; Trung thực; Trách nhiệm: Có trách nhiệm với bản thân; Có trách nhiệm với gia đình; Có trách nhiệm với nhà trường và xã hội; Có trách nhiệm với môi trường sống. (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2019)

Như vậy, nội dung chủ yếu của GDĐĐ chính là giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức và GDĐĐ trong các mối quan hệ xã hội.

1.3.2. Hình thức tổ chức hoạt giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS

Hình thức giáo dục đạo đức cho học sinh nói chung, học sinh trường THCS nói riêng là rất đa dạng, thường được thực hiện qua tích phợp các môn học, ngoại khóa và sự phối hợp giữa các lực lượng trong và ngoài nhà trường, cụ thể như:

  • Giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua dạy môn GDCD và các môn học khác:Việc tích hợp nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh vào các môn học, phổ biết nhất là các môn khoa học xạ hội như GDCD, Sử, Địa, Văn học…, Qua đó, nhằm giúp các em hình thành kiến thức, thái độ và hành vi cơ bản. Đồng thời, giúp các em rèn luyện đạo đức, nhân cách của mình;
  • Giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, ngoại khóa: thông qua các hoạt động trải nghiệm, tổ chức chương trình văn nghệ gắn liền với các chủ điểm, hoạt động thể dục thế thao, tham quan, du lịchnhằm hình thành cho các em kinh nghiệm ứng xử, thói quen và hành vi đạo đức chuẩn mực xã hội. Các hoạt động được thực hiện với sự kết hợp với các lực lượng trong và ngoài nhà trường;
  • Giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua sự kết hợp giữa các lực lượng giáo dục:Sự phối hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường, các tổ chức đoàn, đội và các thể chế xã hội khác có thể diễn ra dưới nhiều hình thức. Vấn đề cơ bản, quan trọng hàng đầu là tất cả các lực lượng giáo dục phải phát huy tinh thần trách nhiệm, chủ động tạo ra mối quan hệ phù hợp, vì mục tiêu giáo dục đào tạo thế hệ trẻ thành người công dân hữu ích của đất nước.

1.3.3. Phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

Việc giáo dục đạo đức là một hoạt động phức tạp. Để xây dựng ý thức, thái độ, kỹ năng, thói quen cho học sinh cần phải có những phương pháp phù hợp. Theo Phạm Khắc Chương – Nguyễn Thị Yến Phương (2009)đã chỉ ra những phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh hiệu quả như phương pháp nêu yêu cầu sư phạm cụ thể:

  • Phương pháp nêu yêu cầu sư phạm: Trong bất kỳ hoạt động nào của tập thể dù lớn hay nhỏ, giáo viên cũng phải đạt được về mặt giáo dục và giáo dưỡng học sinh. Việc nêu lên những đòi hỏi sư phạm của GV đối với HS để HS hiểu được yêu cầu, yêu cầu phải phù hợp với chuẩn mực xã hội. Từ đó, HS đễ dàng thực hiện những yêu cầu của giáo viên. (Phạm Khắc Chương, Nguyễn Thị Yến Phương, 2009, p. 144)

Ngoài phương pháp nêu yêu cầu sư phạm, còn có các phương phác khác như:

  • Phương pháp tập thói quen: Phương pháp tập thói quen đặc biệt quan trọng và có hiệu quả nhất trong thời kỳ đầu của quá trình giáo dục và phát triển của trẻ. Việc tập thói quen được tiến hành dưới các hình thức khác nhau, tùy theo lứa tuổi, hoàn cảnh sống và điều kiện giáo dục. Mọi hình thái hành vi thói quen lúc đầu phải tập chính xác, bởi vì sau khi đã thành thói quen, nó như một thuộc tính bền vững, rất khó sửa chữa.
  • Phương pháp nêu gương: Dùng những tấm gương của cá nhân, tập thể để giáo dục, kích thích học sinh học tập và làm theo tấm gương mẫu mực đó. Phương pháp nêu gương có giá trị to lớn trong việc phát triển nhận thức và tình cảm đạo đức cho học sinh, đặc biệt giúp học sinh nhận thức rõ ràng hơn về bản chất và nội dung đạo đức mới.
  • Phương pháp thuyết phục: Là những phương pháp tác động vào lý trí tình cảm của học sinh để xây dựng những niềm tin đạo đức như việc giảng giải về đạo đức được tiến hành trong giờ dạy cũng như trong các giờ học môn khác, giờ sinh hoạt lớp, giờ dạy giáo dục ngoài giờ lên lớp hay sinh hoạt dưới cờ.
  • Phương pháp rèn luyện: Là những phương pháp tổ chức cho học sinh hoạt động để rèn luyện cho các em thói quen đạo đức, thể hiện được nhận thức và tình cảm đạo đức của các em thành hành động thực tế. Rèn luyện thói quen đạo đức thông qua các hoạt động cơ bản của nhà trường như: dạy học trên lớp, lao động, hoạt động xã hội đoàn thể và sinh hoạt tập thể, các phong trào thi đua trong nhà trường, đây là biện pháp tác động tâm lý rất quan trọng nhằm thúc đẩy các động cơ kích thích bên trong của học sinh, làm cho các em phấn đấu vươn lên trở thành người có đạo đức tốt. Bên cạnh đó nhà trường cũng cần chuyển hướng các hoạt động của học sinh từ hoạt động có hại sang hoạt động có ích dựa trên đặc tính ham hoạt động của học sinh bằng cách gây cho học sinh hứng thú với một hoạt động mới có ích, lôi kéo học sinh ra ngoài những hoạt động có hại. (Hà Nhật Thăng, 2010)
  • Phương pháp thúc đẩy: Là phương pháp dùng những tác động có tính chất “cưỡng bách đạo đức bên ngoài” để điều chỉnh, khuyến khích những “động cơ kích thích bên trong” của học sinh nhằm xây đựng đạo đức cho học sinh. Những nội quy, quy chế trong nhà trường vừa là những yêu cầu với học sinh, vừa là những điều lệnh đòi hỏi học sinh tuân theo để có những hành vi đúng đắn.
  • Phương pháp khen thưởng – trách phạt: Khen thưởng là tán thành, coi trọng, khích lệ những cố gắng của học sinh làm cho bản thân học sinh đó vươn lên hơn nữa và động viên khuyến khích các em khác noi theo. Trách phạt là hình thức phê phán những khiếm khuyết của học sinh, là tác động có tính chất cưỡng bách đến danh dự lòng tự trọng của cá nhân học sinh để răn đe những hành vi thiếu đạo đức và ngăn ngừa sự tái phạm của học sinh đó và những học sinh khác. Do đó phải thận trọng và đúng mực không được lạm dụng phương pháp này, khi xử phạt cần phải làm cho học sinh thấy rõ sai lầm của mình. (Trường Cán bộ Quản lý Giáo dục TpHCM, 2006, p. 71)

1.4. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở theo hướng tiếp cận CIPO Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

1.4.1. Tiếp cận CIPO trong quản lý giáo dục đạo đức

Hiện nay có nhiều cách tiếp cận trong quản lý giáo dục như: ti ếp cận chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra giáo dục; tiếp cận quá trình: quản lý mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục; người giáo dục và học sinh; phương tiện giáo dục; phương pháp giáo dục; cơ sở vật chất phục vụ hoạt động giáo dục; tiếp cận nội dung quản lý: quản lý giáo dục của giáo viên, quản lý học tập của học sinh và quản lý các hoạt động, điều kiện hỗ trợ cho dạy và học; tiếp cận chu trình: quản lý việc xác định nhu cầu học tập, quản lý việc lập kế hoạch và thiết kế giáo dục, tổ chức hoạt động giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục.

Luận văn nghiên cứu quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương theo hướng tiếp cận quá trình CIPO là phù hợp vì các lý do sau:

  • Một là: Tiếp cận CIPO thể hiện được tinh thần của các tiếp cận quản lý chất lượng trong giáo dục như: tiếp cận kiểm soát chất lượng, tiếp cận đảm bảo chất lượng, tiếp cận quản lý chất lượng tổng thể (TQM) và tiếp cận ISO.
  • Hai là: Giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS là một quá trình hoạt động diễn ra liên tục dưới sự tác động của các yếu tố khác nhau và cả trong và ngoài nhà trường. Hơn nữa giáo dục đạo đức cho học sinh đều phụ thuộc vào các yếu tố đó. Như vậy, hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS có đầy đủ các điều kiện để vận dụng tiếp cận CIPO trong quản lý.
  • Ba là: Nếu tiếp cận theo kiểm soát chất lượng thì tiếp cận này hiện nay phần lớn các trường THCS cũng đang quản lý giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng theo kiểu này dẫn đến giáo dục không hiệu quả. Hơn nữa, năng lực quản lý của nhiều Hiệu trưởng trường THCS còn hạn chế về hiểu biết lý luận và thực tiễn quản lý theo các tiếp cận quản lý hiện đại như đảm bảo chất lượng, quản lý chất lượng tổng thể hay ISO,…theo tác giả luận văn tiếp cận CIPO trong quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS là phù hợp với năng lực của Hiệu trưởng trường THCS và với bối cảnh chung của nước ta hiện nay và kinh tế xã hội và giáo dục – đào tạo.

CIPO được cấu tạo từ chữ đầu của các từ tiếng Anh: Context – Bổi cảnh; Input – Đầu vào; Process – Quá trình; Output – Đầu ra. Mô hình quản lý giáo dục CIPO được UNESCO đưa ra năm 2000 trong Chương trình hành động Daka để quản lý chất lượng giáo dục trong nhà trường phổ thông. Mô hình quản lý CIPO gồm 3 thành phần cơ bản: Đầu vào, Quá trình, Đầu ra, và 3 thành phần này được xem xét trong một bổi cảnh nhất định, và có thể hiểu chất lượng giáo dục của một nhà trường phổ thông là chất lượng của 3 thành phần cơ bản đó. Chất lượng giáo dục của cơ sở giáo dục được đánh giá qua 10 yếu tố: (Trần Khánh Đức, 2010).

  • Học sinh khoẻ mạnh được nuôi dưỡng tốt, được khuyến khích thường xuyên để có động cơ học tập chủ động.
  • Giáo viên thành thạo nghề nghiệp và được động viên đúng mức.
  • Phương pháp và kỹ thuật dạy và học tích cực.
  • Chương trình giáo dục thích hợp với người dạy và người học.
  • Trang thiết bị, phương tiện, tài liệu giáo dục phù hợp, dễ tiếp cận và thân thiện với người sử dụng.
  • Môi trường giáo dục tốt.
  • Hệ thống đánh giá chất lượng giáo dục thích hợp.
  • Hệ thống quản lý giáo dục được mọi người tham gia, có tính dân chủ.
  • Tôn trọng và thu hút được nguồn lực của địa phương và cộng đồng.
  • Chính sách phù hợp với giáo dục.

Mười yếu tố trên được sắp xếp trong 04 thành phần cơ bản của giáo dục: đầu vào (Input), quá trình (Process), đầu ra (Output) và bối cảnh cụ thể (Context). Chất lượng giáo dục (giáo dục) được hình thành từ chất lượng của 04 thành tố trên có thể mô tả bằng sơ đồ sau:

Sơ đồ 1.1 Mô hình CIPO

1.4.2. Vai trò của Hiệu Trưởng trong việc quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở theo hướng tiếp cận CIPO Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

Đối với yếu tố đầu vào:

Xây dựng kế hoạch giúp nhà quản lý xác định được sứ mệnh, tầm nhìn cho tổ chức mình. Ngoài ra, xây dựng kế hoạch cũng là một trong những chức năng quan trọng trong quá trình quản lý và cũng là chức năng quan trọng để tạo cơ sở vững chắc cho các nỗ lực tiếp theo trong các giai đoạn quản lý hoạt động giáo dục trong nhà trường, là quá trình xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện để đạt được mục tiêu giáo dục.

Như vậy, xây dựng kế hoạch GDĐĐ cho học sinh là công cụ quản lý, giúp nhà quản lý chủ động và hành động đúng hướng, đúng mục tiêu muốn đạt được bao gồm các chú ý như: Cần phải bám sát hướng dẫn chỉ đạo của Sở, Bộ GD&ĐT; Xác định thực trạng đạo đức của học sinh tại trường; Đưa ra dự báo diễn biến về đạo đức học sinh; Xác định mục tiêu cụ thể, chỉ tiêu cần đạt được; Xây dựng kế hoạch cụ thể trong năm học, học kỳ, và theo từng tháng, từng chủ điểm; Kế hoạch phải phù hợp với điều kiện nguồn lực nhà trường; Việc xây dựng kế hoạch phải được thực hiện nghiêm túc sẽ tạo cơ sở vững chắc cho các nỗ lực quản lý tiếp theo trong giai đoạn tổ chức và kiểm tra sau này.

Từ đó, căn cứ vào cơ sở lý luận và thực tiễn của nhà trường, Hiệu trưởng phải xây dựng kế hoạch quản lý mọi hoạt động trong nhà trường. Trong đó, có sự quan tâm đến quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh, đồng thời xem đó là trọng tâm và gắn liền với các hoạt động giáo dục khác. Vai trò của việc xây dựng kế hoạch vô cùng quan trọng và cần thiết đối với cán bộ quản lý, kế hoạch càng cụ thể càng rõ ràng, sát với thực tế, với điều kiện nhà trường thì kết quả mạng lại càng cao. Việc xây dựng kế hoạch quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh luôn là công cụ quan trọng và thường xuyên trong quản lý nhà trường. Để kế hoạch sát với thực tiễn, Hiệu trưởng cần phải thực hiện việc tìm hiểu nhiều nguồn thông tin để xác định thực trạng đạo đức học sinh cụ thể. Từ đó, góp phần đưa ra dự báo diễn biến về đạo đức của học sinh chính xác cũng như việc xác định mục tiêu, tiêu chí cụ thể và xác thực cần đạt được trong thời gian được phù hợp.

Đối với yếu tố quá trình:

Quản lý yếu tố quá trình là thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh giúp hình thành các mối quan hệ giữa các thành viên và các bộ phận trong nhà trường để đạt được mục tiêu của nhà trường về GDĐĐ cho học sinh.

Hiệu trưởng trường THCS cần xác định rõ và quán triệt cho người giáo viên về mục tiêu của giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường trung học cơ sở. Các mục tiêu này thể hiện trong các nội dung hoạt động giảng dạy

Từ đó, công tác tổ chức thực hiện kế hoạch GDĐĐ cho học sinh trường THCS cần chú ý đến các những nội dung như:

  • Tổ chức nhân lực để thực hiện kế hoạch;
  • Thực hiện phân công trách nhiệm quản lý một cách hiệu quả, cụ thể với chức năng, quyền hạn rõ ràng. Trong đó, sự phân chia công việc phải cụ thể, phù hợp với quyền hạn, mục tiêu của tổ chức;
  • Xác định cơ chế phân phối các nguồn lực, các điều kiện về CSVC… cho các bộ phận, cá nhân thực hiện các hoạt động;
  • Phân công trách nhiệm quản lý, xác định tiến độ, thời gian hoàn thành và kết thúc;
  • Đặc biệt phải chú ý đến phương thức hoạt động, quyền hạn từng bộ phận và việc bố trí nhân sự vận hành (Nguyễn Đức Minh-Nguyễn Khải Khoa, 1981).

Đối với yếu tố đầu ra:

Quản lý đầu ra của giáo dục đạo đức cho học sinh là tác động của hiệu trưởng đến các liên đới để thu thập thông tin về kết quả hoạt động giáo dục đạo đức của nhà trường nhằm đánh giá điều chỉnh quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh đạt hiệu quả cao hơn.

Đầu ra của giáo dục đạo đức cho học sinh là những kiến thức của học sinh về đạo đức và hành vi đạo đức mà học sinh thể hiện phù hợp với chuẩn mực đạo đức mà xã hội hiện tại thừa nhận.

Như vậy, đầu ra của giáo dục đạo đức cho học sinh thể hiện ở hai tiêu chí:

Kiến thức về đạo đức, Hành vi đạo đức

Để đánh giá tiêu chí Kiến thức về đạo đức cần dựa vào các bài kiểm tra giữa kỹ và bài thi cuối kỳ. Để đánh giá tiêu chí Hành vi đạo đức cần dựa vào ý kiến đánh giá của giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên bộ môn; tập thể Đoàn, Đội; cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội.

Do vậy, để quản lý đầu ra của giáo dục đạo đức cho học sinh, hiệu trưởng nhà trường thực hiện các công việc sau đây:

Xây dựng kế hoạch thu thập ý kiến nhận xét về hành vi đạo đức của học sinh và kế hoạch kiểm tra kiến thức của học sinh về đạo đức. Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

Chỉ đạo và tổ chức cho giáo viên chủ nhiệm, giáo viên các bộ môn đưa ra kiến nhận xét và đánh giá hành vi đạo đức của học sinh dựa trên kết quả các bài kiểm tra giữa kỹ và cuối kỳ, và dựa theo quan sát hành vi ứng xử của học sinh trong đời sống hàng ngày.

Tổ chức thu thập ý kiến đánh giá của cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội về hành vi đạo đức của học sinh trong đời sống thường nhật.

Đối với yếu tố bối cảnh:

Các yếu tố đầu vào, quá trình, đầu ra của giáo dục đạo đức ở Trường trung học cơ sở bao giờ cũng diễn ra trong một bối cảnh cụ thể. Ở đây luận án giới hạn các yếu tố tác động của bối cảnh giáo dục với góc độ đánh giá tác động của các yếu tố từ phía bối cảnh đến quản lý giáo dục đạo đức ở trường trung học cơ sở.

Để quản tốt, Hiệu trưởng cần chú ý:

  • Tác động của các yếu tố về chủ trương chính sách, cơ chế quản lý của nhà nước với giáo dục trung học cơ sở
  • Tác động của yếu tố kinh tế – xã hội trong giai đoạn hiện nay
  • Mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục
  • Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trường trung học cơ sở
  • Nhận thức của các lực lượng tham gia hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở
  • Môi trường văn hóa nhà trường

1.4.3. Nội dung quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở theo hướng tiếp cận CIPO

1.4.2.1 Quản lý yếu tố đầu vào

Quản lý việc xây dựng kế hoạch và thống nhất chương trình giáo dục đạo đức cho học sinh;

Quản lý đội ngũ giáo viên tham gia giáo dục đạo đức cho học sinh;

Quản lý cơ sở vật chất và tài chính phục vụ giáo dục đạo đức cho học sinh;

Quản lý học sinh;

Nhận thức của các lực lượng tham gia hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở.

1.4.2.2 Quản lý yếu tố quá trình Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh của giáo viên;

Quản lý quá trình học tập, rèn luyện đạo đức của học sinh trong trường trung học cơ sở;

Quản lý việc thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục đạo đức cho HS; Quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện đạo đức của học sinh;

Quản lý sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để giáo dục đạo đức cho học sinh;

1.4.2.3 Quản lý yếu tố đầu ra

Quản lý chất lượng đạo đức học sinh về kiến thức, kỹ năng và thái độ. Cụ thể:

Xây dựng kế hoạch thu thập ý kiến nhận xét về hành vi đạo đức của học sinh;

Xây dựng kế hoạch kiểm tra kiến thức của học sinh về đạo đức;

Chỉ đạo và tổ chức cho giáo viên chủ nhiệm, giáo viên các bộ môn đưa ra kiến nhận xét và đánh giá hành vi đạo đức của HS; kiến đánh giá của cha mẹ học sinh về hành vi đạo đức của học sinh trong đời sống thường nhật; kiến đánh giá của các lực lượng xã hội về hành vi đạo đức của học sinh trong đời sống thường nhật;

1.4.2.4 Quản lý yếu tố bối cảnh Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

Các yếu tố bối cảnh tác động đến quản lý giáo dục đạo đức học sinh ở trường THCS bao gồm: Chủ trương, chính sách; môi trường văn hóa; đặc điểm tâm sinh lý. Cụ thể:

Chủ trương chính sách, cơ chế quản lý của nhà nước với giáo dục trung học cơ sở;

Bối cảnh kinh tế – xã hội tại địa bàn Thị xã Bến Cát trong giai đoạn hiện nay;

Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trường trung học cơ sở tại địa bàn Thị xã Bến Cát;

Nhận thức của các lực lượng tham gia hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở;

Môi trường văn hóa trong nhà trường tại địa bàn Thị xã Bến Cát;

Tiểu kết chương 1

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, có vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống xã hội. Đạo đức chỉ được hình thành thông qua quá trình giáo dục, đó là một quá trình lâu dài, liên tục xen kẽ giữa giáo dục, tự giáo dục, giáo dục lại và mang tính nghệ thuật.

Giáo dục đạo đức là một bộ phận quan trọng trong nội dung giáo dục toàn diện cho học sinh. Đối với việc hình thành các phẩm chất đạo đức phù hợp với chuẩn mực và yêu cầu của xã hội (XH) là vấn đề mang tính cốt lõi. Có thể nói giáo dục đạo đức cho học sinh là một bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của giáo dục nói chung trong nhà trường. Muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì khâu then chốt phải là nâng cao chất lượng quản lý GDĐĐ cho học sinh đặc biệt là học sinh trường THCS.

Trong quá trình quản lý GDĐĐ, những người làm công tác quản lý giáo dục phải hiểu sâu sắc tâm lý lứa tuổi, hoàn cảnh gia đình, điều kiện kinh tế xã hội, đặc biệt là nắm chắc lý luận của khoa QLGD, đánh giá một cách đúng mực thực trạng quản lý GDĐĐ trong nhà trường để từ đó lập kế hoạch, chỉ đạo triển khai kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh. Trong quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh phải tác động đến cả tập thể sư phạm và tập thể học sinh và sự tham gia đóng góp của lực lượng xã hội góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.

Đặc biệt, đối với những trường trung học cơ sở, để quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh thành công thì các nhà quản lý phải có đạo đức nghề nghiệp, có kế hoạch xây dựng nội dung, chương trình, hình thức, giải pháp và tổ chức thực hiện các quá trình giáo dục đạo đức một cách khoa học và hợp lý nhất.

Những vấn đề trên đây sẽ là cơ sở lý luận để chúng tôi khảo sát thực trạng quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh tại các trường THCS trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương theo hướng tiếp cận CIPO trong chương 2. Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở địa bàn Bến Cát

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Luận văn: Khái quát về giáo dục đạo đức ở xã Biến Cát

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464