Khóa luận: Tổng quan chung về tỉnh Lào Cai

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Tổng quan chung về tỉnh Lào Cai hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch ở Y Tý – Lào Cai dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1 Khái quát chung về tỉnh Lào Cai.

2.1.1 Vị trí địa lý Khóa luận: Tổng quan chung về tỉnh Lào Cai

Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới, nằm chính giữa vùng Đông Bắc và vùng Tây Bắc của Việt Nam, cách Hà Nội 296 km theo đường sắt và 265 km theo đường bộ. Phía đông giáp tỉnh Hà Giang; phía tây giáp tỉnh Sơn La và Lai Châu; phía nam giáp tỉnh Yên Bái, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) với 203 km đường biên giới. Cách ngày nay hơn vạn năm, con người đã có mặt tại địa bàn Lào Cai.

Diện tích tự nhiên: 6.383,88 km2 (chiếm 2,44% diện tích cả nước, là tỉnh có diện tích lớn thứ 19/64 tỉnh, thành phố cả nước).

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

2.1.2 Điều kiện tự nhiên

Địa hình: Địa hình Lào Cai rất phức tạp, phân tầng độ cao lớn, mức độ chia cắt mạnh. Hai dãy núi chính là dãy Hoàng Liên Sơn và dãy Con Voi cùng có hướng Tây Bắc – Đông Nam nằm về phía đông và phía tây tạo ra các vùng đất thấp, trung bình giữa hai dãy núi này và một vùng về phía tây dãy Hoàng Liên Sơn. Ngoài ra còn rất nhiều núi nhỏ hơn phân bố đa dạng, chia cắt tạo ra những tiểu vùng khí hậu khác nhau.

Do địa hình chia cắt nên phân đai cao thấp khá rõ ràng, trong đó độ cao từ 300m

1.000m chiếm phần lớn diện tích toàn tỉnh. Điểm cao nhất là đỉnh núi Phan Xi Păng trên dãy Hoàng Liên Sơn có độ cao 3.143m so với mặt nước biển, Tả Giàng Phình 3.090m.

Dải đất dọc theo sông Hồng và sông Chảy gồm thành phố Lào Cai – Cam Đường

Bảo Thắng – Bảo Yên và phần phía đông huyện Văn Bàn thuộc các đai độ cao thấp hơn (điểm thấp nhất là 80 m thuộc địa phận huyện Bảo Thắng), địa hình ít hiểm trở hơn, có nhiều vùng đất đồi thoải, thung lũng, là địa bàn thuận lợi cho sản xuất nông lâm nghiệp hoặc xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng. Khóa luận: Tổng quan chung về tỉnh Lào Cai

Khí hậu: Lào Cai có khí hậu nhiệt đới gió mùa, song do nằm sâu trong lục địa bị chia phối bởi yếu tố địa hình phức tạp nên diễn biến thời tiết có phần thay đổi, khác biệt theo thời gian và không gian. Đột biến về nhiệt độ thường xuất hiện ở dạng nhiệt độ chênh lệch trong ngày lên cao hoặc xuống thấp quá (vùng Sa Pa có nhiều ngày nhiệt độ xuống dưới 00C và có băng hoặc tuyết rơi).

Khí hậu Lào Cai chia làm hai mùa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình nằm ở vùng cao từ 15độ C – 20 độ C (riêng Sa Pa từ 14 độ C – 16 độ C và không có tháng nào lên quá 200C), lượng mưa trung bình từ 1.800mm – >2.000mm. Nhiệt độ trung bình nằm ở vùng thấp từ 23 độ C – 29 độ C, lượng mưa trung bình từ 1.400mm – 1.700mm.

Sương mù thường xuất hiện phổ biến trên toàn tỉnh, có nơi ở mức độ rất dày. Trong các đợt rét đậm, ở những vùng núi cao và các thung lũng kín gió còn xuất hiện sương muối, mỗi đợt kéo dài 2 – 3 ngày.

Khí hậu Lào Cai rất thích hợp với các loại cây ôn đới, vì vậy Lào Cai có lợi thế phát triển các đặc sản xứ lạnh mà các vùng khác không có được như: hoa, quả, thảo dược và cá nước lạnh.

Thổ nhưỡng: Đất có độ phì cao, màu mỡ, đa dạng bao gồm 10 nhóm, 30 loại đất, phù hợp với nhiều loại cây trồng khác nhau.

2.1.3 Dân cư Khóa luận: Tổng quan chung về tỉnh Lào Cai

Dân số toàn tỉnh: 674.530 người (số liệu năm 2016). Mật độ dân số bình quân:

106 người/km2, trong đó:

Thành phố Lào Cai : 110.2018 người, mật độ 484 người/km2. Các huyện: Bát Xát: 75.757 người, mật độ 72 người/km2; Mường Khương: 58.593 người, mật độ 106 người/km2; Si Ma Cai: 35.766 người, mật độ 153 người/km2; Bắc Hà: 60.529 người, mật độ 89 người/km2; Bảo Thắng: 106.989 người, mật độ 156 người/km2; Bảo Yên: 82.817 người, mật độ 101 người/km2; Sa Pa: 59.172 người, mật độ 87 người/km2; Văn Bàn: 84.709 người, mật độ 60 người/km2.

Dân tộc: Có 25 nhóm ngành dân tộc cùng chung sống hoà thuận, trong đó dân tộc thiểu số chiếm 64,09% dân số toàn tỉnh. Dân tộc Kinh chiếm 35,9%, dân tộc Mông chiếm 22,21%, Tày 15,84%, Dao 14,05%, Giáy 4,7%, Nùng 4,4%, còn lại là các dân tộc đặc biệt ít người Phù Lá, Sán Chay, Hà Nhì, La Chí,…Các dân tộc thiểu số phân bố, cư trú trên địa bàn 9/9 huyện, thành phố của tỉnh.

Tỉnh Lào Cai được chia làm 3 khu vực:

  • Khu vực I: Là các xã có điều kiện phát triển kinh tế – xã hội thuận lợi. Chủ yếu là các xã ở vùng thấp, gần trung tâm các huyện, thành phố, giao thông và các dịch vụ xã hội thuận lợi.
  • Khu vực II: Là các xã có điều kiện phát triển kinh tế- xã hội khó khăn, phần lớn các xã này nằm ở vùng sâu, vùng xa, giao thông đi lại còn tương đối khó khăn; các dịch vụ xã hội cơ bản đã được đáp ứng tương đối tốt.
  • Khu vực III: Là các xã có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, các xã ở vùng sâu vùng biên giới, xa các trung tâm huyện, thành phố; địa hình bị chia cắt mạnh, giao thông đi lại còn rất nhiều khó khăn; các dịch vụ xã hội còn hạn chế.

2.1.4 Lịch sử phát triển Khóa luận: Tổng quan chung về tỉnh Lào Cai

Thời Hùng Vương dựng nước, vùng đất Lào Cai thuộc bộ Tân Hưng, là một trong 15 bộ của Nhà nước Văn Lang – là một trung tâm kinh tế chính trị lớn ở thượng nguồn sông Hồng. Đến đời Đinh, Lý, Trần, Lê có biết bao biến động về địa danh…

Đến đời nhà Nguyễn, vùng đất Lào Cai chủ yếu thuộc đất của châu Thủy Vỹ, châu Văn Bàn, một phần thuộc châu Chiêu Tấn và một phần nhỏ thuộc châu Lục Yên thuộc phủ Quy Hóa. Đến thời điểm này địa danh Lào Cai chưa được hình thành.

Vùng đất thị xã Lào Cai ngày nay xưa kia có một khu chợ, dần dần người ta mở mang thêm một phố chợ. Vì thế phố chợ đầu tiên này theo tiếng địa phương được gọi là Lão Nhai (tức Phố Cũ). Sau này người ta mở thêm một phố chợ khác gọi là Tân Nhai (Phố Mới ngày nay). Theo cố giáo sư Đào Duy Anh, từ Lão Nhai được biến âm thành Lao Cai và được gọi một thời gian khá dài. Khi làm bản đồ, người Pháp viết Lao Cai thành Lào Kay. Danh từ Lào Kay đã được người Pháp sử dụng trong các văn bản và con dấu. Nhưng trong giao tiếp và dân gian người ta vẫn gọi là Lao Cai. Sau ngày tỉnh Lao Cai được giải phóng (11-1950), đã thống nhất gọi là Lào Cai cho đến ngày nay. Sau khi đánh chiếm Lào Cai (3 -1886) và khi hoàn thành công cuộc bình định quân sự, thực dân Pháp cai quản địa hạt Lào Cai theo chế độ quân sự. Ngày 7/01/1899, đạo quan binh IV được thành lập bao gồm Tiểu quân khu Yên Bái và Tiểu quân khu Lào Cai. Lào Cai là đạo lỵ, thủ phủ của đạo quan binh IV. Để dễ bề kiểm soát và tiến hành khai thác bóc lột, thực dân Pháp đã chia lại khu vực hành chính và thay đổi chế độ cai trị. Ngày 12/7/1907, toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ đạo quan binh IV Lào Cai, chuyển từ chế độ quân quản sang chế độ cai trị dân sự, thành lập tỉnh Lào Cai. Từ đây địa danh tỉnh Lào Cai được xác định trên bản đồ Việt Nam.

Trải qua những biến động thăng trầm của lịch sử, địa lý Lào Cai cũng có nhiều thay đổi. Về địa danh hành chính,qua nhiều lần tách nhập:

Thành lập tỉnh dân sự Lào Cai (12/7/1907), phần đất của châu Thủy Vỹ bên hữu ngạn sông Hồng sáp nhập vào Chiêu Tấn, vẫn lấy tên là châu Thủy Vỹ. Từ đó địa danh Chiêu Tấn không còn. Phần đất của châu Thủy Vỹ bên tả ngạn sông Hồng được tách ra lập thành châu Bảo Thắng. Tỉnh Lào Cai gồm hai châu Thủy Vỹ, Bảo Thắng và các đại lý Mường Khương, Phong Thổ, Bát Xát, Bắc Hà (Pa Kha) và thị xã Lào Cai, trong đó có 855 làng bản, 6.812 hộ, 39.099 nhân khẩu, với 11 dân tộc chủ yếu: Hmông, Dao, Tày, Giáy… trong đó người H’mông chiếm 26,56%, Dao 22,41%, Tày, Giáy 20,77%, Kinh 4,52%, Nùng 7,33%, Thái 9,25%, U Ní 2,48%, Hoa Kiều 4,44%, còn lại là các dân tộc khác. – Sau khi tỉnh Lào Cai được giải phóng lần thứ nhất, Lào Cai được chia thành 8 huyện: Bắc Hà, Mường Khương, Bản Lầu, Bảo Thắng, Sa Pa, Bát Xát, Phong Thổ và thị xã Lào Cai.

Ngày 7/5/1955, khu tự trị Thái Mèo được thành lập, huyện Phong Thổ của tỉnh Lào Cai chuyển sang khu tự trị Thái Mèo, sau này thuộc tỉnh Lai Châu.

Ngày 27/3/1975, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa V đã nghị quyết hợp nhất ba tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ thành tỉnh mới lấy tên là Hoàng Liên Sơn. Khóa luận: Tổng quan chung về tỉnh Lào Cai

Ngày 17/4/1979, Hội đồng Chính phủ ra quyết định hợp nhất thị xã Lào Cai và Cam Đường thành thị xã Lào Cai trực thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn.

Ngày 12/8/1991 kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII ra Nghị quyết chia tỉnh Hoàng Liên Sơn thành hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai.

Ngày 01/10/1991 tỉnh Lào Cai được tái lập, trên cơ sở vùng đất Lào Cai (cũ) và bổ sung thêm ba huyện: Bảo Yên, Văn Bàn (thuộc Yên Bái cũ), Than Uyên (thuộc Nghĩa Lộ cũ) bao gồm 8 huyện, hai thị xã.

Ngày 9/6/1992, Hội đồng Bộ trưởng quyết định tách thị xã Lào Cai thành hai thị xã Lào Cai và Cam Đường.

Ngày 30/12/2000, huyện Bắc Hà được tách thành hai huyện Si Ma Cai và Bắc Hà.

Ngày 31/01/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định sáp nhập thị xã Lào Cai và thị xã Cam Đường thành thị xã tỉnh lỵ Lào Cai.

Ngày 1/01/2004, huyện Than Uyên được tách ra thuộc tỉnh Lai Châu (mới).

Ngày 30/11/2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 195/2004/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Lào Cai thuộc tỉnh Lào Cai.

2.1.5 Văn hóa

Một trong những yếu tố giúp du khách đam mê đi du lịch Lào Cai là do tỉnh có 25 dân tộc anh em sinh sống tạo cho Lào Cai nét đẹp văn hoá đa dân tộc, giàu bản sắc. Tính đa dạng, phong phú của văn hoá thể hiện cả ở văn hoá vật thể và phi vật thể.

Về trang phục có 34 kiểu loại với sắc màu, chất liệu khác nhau, khảo sát sơ bộ Lào Cai có gần 100 điệu múa, có đủ 10 họ với 11 chi khác nhau của các nhạc khí.

Lào Cai có các loại hình lễ hội phong phú. Có hội cầu mùa, hội gắn với tín ngưỡng thờ thần mặt trời, thần nước, phồn thực, bảo vệ rừng. Có hội có ý nghĩa giáo dục truyền thống lịch sử chống ngoại xâm, đề cao bản sắc văn hoá người Việt cổ. Quy mô các lễ hội cũng đa dạng, có hội có quy mô của cộng đồng làng, bản; có hội có quy mô vùng (hội Gầu Tào ở Pha Long Mường Khương, hội Roóng Poọc người Giáy ở Tả Van, Sa Pa…) nhưng có hội có quy mô toàn tỉnh như hội xuân Đền thờ ông Hoàng Bảy ở Bảo Hà… thời gian lễ hội cũng trải dài cả 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đặc biệt, khác với các tỉnh đồng bằng, mùa hè ở các làng bản vùng cao của Lào Cai cũng là mùa của lễ hội.

2.1.6 Các điểm du lịch nổi bật Khóa luận: Tổng quan chung về tỉnh Lào Cai

Cổng trời Sapa: Ra khỏi thị trấn Sapa, đi theo hướng Bắc khoảng 18 km, đường lên cổng trời ngoằn ngoèo uốn lượn giữa lưng chừng núi trùng trùng điệp điệp. Con đường có tên là Trạm Tôn, len lỏi giữa dãy Hoàng Liên Sơn hùng vĩ. Cổng trời chính là đỉnh của con đèo này. Cổng trời trở nên hấp dẫn du khách mỗi dịp đi du lịch Lào Cai Sapa, vì nhiều người tham quan Thác Bạc bao giờ cũng cố ngược lên cổng trời để ngắm cảnh sắc kỳ vĩ của núi rừng Hoàng Liên đã được vinh danh là “Vườn di sản Asian Sa Pa”.

Núi Hàm Rồng: Núi Hàm Rồng nằm ngay trên thị trấn Sapa, từ đây du khách có thể ngắm toàn cảnh thị trấn, thung lũng Mường Hoa, Tả Phìn ẩn hiện trong sương khói.

Cáp treo Fansipan: Nằm cách thị trấn Sa Pa khoảng 1,9 km về phía Tây Nam, Fansipan Legend là quần thể công trình du lịch văn hóa, dịch vụ cáp treo, vui chơi giải trí và khách sạn nghỉ dưỡng đẳng cấp. Điểm nhấn của quần thể công trình du lịch này là hệ thống cáp treo ba dây dài 6292,5m, có độ chênh ga đi và ga đến lớn nhất thế giới lên tới 1410m.

Làng thổ cẩm Tả Phìn: Làng thổ cẩm Tả Phìn thuộc huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, cách trung tâm thị trấn Sa Pa khoảng 17km về hướng đông. Sản phẩm của làng dệt thổ cẩm Tả Phìn đủ kiểu dáng và sắc màu trông thật bắt mắt. Một vài sản phẩm chính có thể kể đến là: những chiếc ba lô, túi khoác du lịch, những chiếc khăn, túi xách tay, ví đựng tiền, các tấm áo choàng thổ cẩm… với đủ sắc màu rực rỡ. Khóa luận: Tổng quan chung về tỉnh Lào Cai

Y Tý: Từ lâu Y Tý, Lào Cai đã nổi tiếng là điểm “săn mây” ấn tượng trong giới phượt. Y Tý nằm ở độ cao trên 2.000m, lưng tựa vào dãy núi Nhìu Cồ San mà đỉnh của nó cao tới 2.660m, gần như quanh năm mây phủ. Đường lên Y Tý là những con đường mòn vạch ngoằn ngoèo rồi chỉm nghỉm trong đám lá rừng, những ngôi nhà thấp thoáng trong mây. Trong cung đường này tham quan một số điểm đặc biệt sau:

Mốc 92 – ngã 3 Lũng Pô

Đây là ngã 3 nơi sông Nguyên Giang (Trung Quốc) gặp dòng Lũng Pô trên đất Việt Nam, hòa mình vào nhau và chảy vào đất Việt với tên gọi Sông Hồng. Đây cũng là nơi có mốc 92 (gồm 3 mốc là 92(1), 92(2) và 92(3) biên giới Việt Nam Trung Quốc. Mốc đặt phía Việt Nam là mốc 92(1), 2 mốc còn lại đặt trên bờ sông phía Trung Quốc.

Cầu Thiên Sinh

Cầu Thiên Sinh nằm ở cuối thôn Lao Chải, cách trung tâm xã Ý Tý gần chục km. Theo tiếng dân tộc Hà Nhì, cầu có tên là Thiên Sân Shù, dịch nghĩa là “trời sinh”. Cầu chỉ ngắn chừng 1m, trước đây là một tảng đá tự nhiên bắc qua khe sâu hun hút dưới là dòng suối Lũng Pô gầm gào tung bọt trắng xóa. Từ hàng trăm, hàng ngàn năm trước, qua sự vận động kiến tạo địa chất, khối đá khổng lồ đã bị nứt ra tạo thành khe đá này. Đây cũng là biên giới giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc. Theo thời gian, hòn đá bắc qua khe sâu cứ mòn lõm dần đi, người dân qua đây phải bắc những thanh gỗ làm cầu rồi xây cầu bê tông như bây giờ.

Cung đường A Lù – Ngải Thầu và Y Tý – Mường Hum: Trên cung đường sẽ qua các thôn biên giới Việt Trung gồm: Thôn Phan Cán Sử; Thôn Hồng Ngài; Thôn Lao Chải, Sim San. Nơi đây vào mùa lúa chín, hay mua nước đổ sẽ được thấy những thửa ruộng bậc thang uốn lượn theo triển núi, nối tiếp nhau như những bậc thang lên trời. Ngoài ra cảnh đẹp du khách sẽ được chiêm ngưỡng những ngôi nhà trình tường của người Hà Nhì và khám phá những nét văn hóa đặc sắc của bà con dân tộc thiểu số nơi đây.

Động Cốc San: Tọa lạc tại xã Cốc San, huyện Bát Xát, cách thành phố Lào Cai khoảng 7km, Cốc San là một hệ thống các thác nước và các hang động to nhỏ khác nhau. Từ quốc lộ 4D, có một con đường đất nhỏ dài khoảng hơn 1km dẫn vào Cốc San. Điểm đặc biệt là hầu như ở mỗi gầm một con thác, sau làn nước đổ từ trên cao xuống lại có một hang động. Phong cảnh Cốc San mang vẻ đẹp huyền bí diệu kỳ toát lên từ những ngọn thác, những mô đá và những hang động.

Núi Cô Tiên: Nằm trong vùng cao nguyên đá vôi của vòm sông Chảy. Gần thị trấn Bắc Hà, ở độ cao trên 1000m, núi Cô Tiên đứng sừng sững. Trên vách đá phẳng rộng như được bàn tay nghệ nhân đẽo gọt tạo am nhỏ, đặt tượng bà Quan Âm mặt quay về phương Nam, đến đây sẽ được thưởng thức những nét đẹp văn hoá truyền thống độc đáo của người vùng cao và còn được ngắm nhìn cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, và núi Cô Tiên sừng sững. Khóa luận: Tổng quan chung về tỉnh Lào Cai

Hang Tiên: Thắng cảnh Hang Tiên nằm tại xã Bảo Nhai, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Ngược dòng sông Chảy khoảng 6 km, từ trung tâm xã Bảo Nhai (huyện Bắc Hà) di chuyển bằng thuyền sẽ qua thành cổ Trung Đô, nơi gắn liền với nhiều huyền thoại. Thắng cảnh Hang Tiên là một Hạ Long thu nhỏ, gắn liền với sự tích về miếu thờ Ba Cô xã Bảo Nhai.

Chợ phiên Bắc Hà: được họp vào chủ nhật hàng tuần tại trung tâm thị trấn Bắc Hà, cách thành phố Lào Cai khoảng 76 km. Đây là phiên chợ được coi là lớn nhất và nổi tiếng nhất của đồng bào các dân tộc vùng cao biên giới. Chợ được họp để người dân bày bán những sản vật của địa phương. Chợ được phân khu gồm khu bán hàng tiêu dùng, khu bán chim, bán chó, bán trâu… tạo nên nét rất riêng của chợ vùng cao Tây Bắc.

Dinh Hoàng A Tưởng (lâu đài Hoàng Yến Chao): Nằm ở trung tâm huyện lỵ Bắc Hà. Dinh Hoàng A Tưởng được xây dựng từ năm 1914 và hoàn thành năm 1921, chủ nhân là Hoàng Yến Chao dân tộc Tày, bố đẻ của Hoàng A Tưởng. Kiến trúc Dinh Hoàng A Tưởng theo phong cách Á – Âu kết hợp, tạo sự hài hoà, bố cục hình chữ nhật liên hoàn khép kín.Trải qua hơn 100 năm tồn tại, Dinh phủ bao lớp rêu phong cổ kính vẫn đứng uy nghi nổi trội giữa một nơi dân cư đông đúc, phố xá tấp nập.

Thung lũng hoa ở Bắc Hà: Đây là địa danh do tư nhân đầu tư, nằm ở thôn Sân Bay, xã Thải Giàng Phố, cách thị trấn khoảng 1,5 cây số. Du khách có thể ghé thăm thung lũng hoa bất kỳ thời điểm nào bởi nơi đây trồng hàng nghìn loài hoa rực rỡ lung linh với đủ màu sắc, mỗi loài hoa nở vào một mùa nhất định.

Các dân tộc Lào Cai đã sáng tạo, lưu giữ hàng trăm di tích lịch sử văn hoá. Nổi bật là các di tích về khu trạm khắc đá cổ, với các hình khắc về bản đồ, chữ viết, hình người có niên đại cách ngày nay hàng nghìn năm ở thung lũng Mường Hoa (Sa Pa).

Di tích Đền Bảo Hà thờ ông Hoàng Bảy một vị tướng có công bảo vệ biên giới thời Hậu Lê được tôn thờ là “Thần vệ Quốc”.

Di tích Đền Thượng – thờ Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo được xây dựng từ thời Lê Trung Hưng với niên hiệu Chính Hoà (1680-1705).

Di tích Đền Mẫu thờ đức Thánh mẫu Liễu Hạnh công chúa (theo tín ngưỡng gọi Thánh Mẫu Liễu Hạnh), người dân nước Việt đã phong bà là Mẫu Nghi Thiên hạ, với ước nguyện Thánh mẫu giúp cho “Thiên hạ Thái Bình- Quốc thái dân an- Phong đăng hoà cốc”.

Di tích chiến thắng Phố Ràng

2.1.7 Đặc sản Khóa luận: Tổng quan chung về tỉnh Lào Cai

Cá hồi, cá tầm: Trại nuôi cá hồi Sapa cách trung tâm thị trấn Sapa 10 km. Kể từ năm 2006, khi lứa cá hồi đầu tiên ở khu nuôi cá hồi Sapa được nuôi thành công, du khách đến Sapa không chỉ để tham quan nhà thờ đá sapa, núi Hàm Rồng, bản Cát Cát, hay để ăn rau rừng, uống rượu cần,… và còn để khám phá đồng thời tìm hiểu thêm về loài cá quý hiếm này cũng như thưởng thức hương vị thơm ngon của món ăn chế biến từ cá hồi, cá tầm.

Cuốn sủi: Cuốn sủi còn được gọi là phở khan. Dưới cùng của bán là bánh phở trắng, phía trên lớp phở được rắc chút mỳ bằng củ dong rang ròn cùng thịt bò, gia vị được nấu sền sệt thành một thứ nước sốt có hương vị riêng, Trên cùng của bát cuốn sủi là hạt tiêu, lạc, rau thơm.

Lào Cai có nhiều quán bán cuốn sủi. Nhưng dường như ngon nhất là ở nhà hàng Việt Hoa gần ga tàu Lào Cai.

Lợn cắp nách: Đây là món ăn được chế biến từ loại lợn địa phương được bà con nuôi bằng hình thức thả rông (chủ yếu tự kiếm cái ăn) nên dù có nuôi lâu thì con lợn cũng chí nặng 3-40kg. Thịt ăn thơm, ngậy. Đây không chỉ món ăn du khách yêu thích mà còn hấp dẫn cả người dân bản địa.

Phở chua Bắc Hà: Bát phở chua gồm có bánh phở mới trán, thịt lợn xá xíu, rau sống thái nhỏ, lạc và chan với một ít nước chua. Nước chua được làm từ việc ngâm, trộn rau cải với nước đường và chất lọc được nước chua, nước chua ngon hay không phụ thuộc vào tay nghề người làm. Ở Lào Cai có nhiều quán hàng bán phở chua nhưng ngon nhất vẫn là phở chua được bán ở Bắc Hà.

Thắng cố ngựa: Thắng cố ngựa ở vùng núiTây Bắc nào cũng có, nhưng ở Lào Cai lại mạng một vị riêng biệt đặc sắc không thể lẫn vào đâu được vì được chế biến từ “lục phủ ngũ tạng” của con ngựa. Gia vị kèm theo không thể thiếu gồm thảo quả, địa liền cùng với hạt dổi, củ sả, quế chi… được ướp với thịt trước lúc đem xào rồi chế nước hầm nhừ trong chảo lớn. Khóa luận: Tổng quan chung về tỉnh Lào Cai

Thịt lợn muối là một trong những món ngon trong danh mục ẩm thực của đồng bào vùng cao Lào Cai. Thịt lợn muối được làm từ những miếng thịt còn nóng của con lợn mới được mổ, sau đó đem ướp với muối và xếp vào chum để chừng một tuần, sau đó đem ra treo dưới bếp lửa. Thịt lợn muối ngon là loại thịt miếng mỡ chuyển màu trong, thịt lạc thì màu đỏ.

Lào Cai có rất nhiều nhà hàng bán món thịt lợn muối được chế biến thành món thịt lợn muối xào rau cải mèo, thịt lợn muối nướng…

Rượu San Lùng: Rượu San Lùng được chế biến rất công phu. Nguyên liệu tuyển chọn kỹ từ thóc nương vào sữa ở độ dẻo. Trước khi nâu, người ta ngâm thóc thành mộng và chưng ủ cùng cao lương thảo dược.Men đủ vị thảo dược của núi rừng, có vị phòng chống lạnh, trừ cảm,có vị làm cho lưu thông khí huyết, giảm đau nhức khớp, có vị làm cho không đau đầu.

Rượu ngô Bắc Hà: làm ngô nếp, hạt màu vàng óng. Ngô được thu hoạch khi đã chín già trên cây, đem phơi nguyên bắp qua 1, 2 nắng rồi chất lên gác bếp để bảo quản và nấu rượu dần.

Men để nấu rượu ngô Bắc Hà là men làm từ hạt hồng mi, một loại cây họ cỏ, cùng loại với kê, quả như bông lau, có hạt màu đen nhỏ li ti, được trồng xen lẫn trên nương ngô, nương lúa. Hồng mi sau khi trồng 3 tháng được thu hoạch và đem phơi khô. Người H’Mông lấy hạt hồng mi cho vào cối đá nghiền nát, lọc lấy bột rồi đem nhào với nước, nặn thành bánh nhỏ. Sau đó đặt trên rơm và phơi ở chỗ ít nắng, thoáng gió đến khi những bánh men khô lại, chuyển qua màu trắng thì cất lên gác bếp.

2.2 Tiềm năng phát triển du lịch ở Y Tý – Lào Cai.

2.2.1 Khái quát về xã Y Tý

Y Tý cách huyện Bát Xát 68 km về phía Tây Bắc, ở đây gần như quanh năm mây mù bao phủ, rất hiếm khi thấy được ánh nắng mặt trời soi đủ cả ngày. Bởi thế nhiều người gọi Y Tý bằng cái tên gợi nhiều cảm xúc “vùng đất mù sương”.

Người ta vẫn truyền tai nhau câu:

“Khi nào có gió mùa về,

Thì lên Y Tý, Tà Xùa săn mây.”

Y Tý như một viên ngọc thô ráp còn ẩn giấu giữa đại ngàn, Y Tý đẹp bốn mùa, xuân đầy sắc hoa đào mận, hạ xanh như tấm thổ cẩm của những thửa ruộng mùa đổ nước, thu lại vàng ruộm đầy ấm no của mùa gặt, đông lại là mùa của những biển mây bồng bềnh như tiên cảnh.

2.2.2 Tài nguyên du lịch tự nhiên

2.2.2.1 Vị trí địa lý Khóa luận: Tổng quan chung về tỉnh Lào Cai

Xã Y Tý là một xã thuộc huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, cách huyện lị khoảng 68 km về phía tây bắc. trên vùng núi đá có độ cao hơn 2.000 m.

Phía đông giáp xã Trịnh Tường, huyện Bát Xát.

Phía nam giáp các xã Dền Sáng, Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai và xã Sin Suối Hồ, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.

Phía tây giáp Trung Quốc (suối Lũng Pô là ranh giới tự nhiên với chiều dài đường biên khoảng 17 km)

Phía bắc giáp Ngải Thầu, huyện Bát Xát.

Y Tý có tổng diện tích đất tự nhiên là 86,54 km2 , chiếm 13,3% diện tích tự nhiên của huyện Bát Xát. Y Tý có 15 đơn vị hành chính thôn bản: thôn Choản Thèn, Hồng Ngài, Lao Chải 1, Lao Chải 2, Mò Phú Trải, Ngải Chồ, Nhìu Cù San, Phan Cán Sử, Phìn Hồ, Sín Chải 1, Sín Chải 2, Sin San, Sin San, Tả Gì Thàng, Trung Trải. Có đường biên giới dài 17km tiếp giáp với nước bạn Trung Quốc là điều kiện thuận lợi để giao lưu văn hóa và phát triển kinh tế đường bộ.

Y Tý cách trung tâm tỉnh Lào Cai ( thành phố Lào Cai ) và cửa khẩu Hà Khẩu 70km về phía tây bắc qua 2 tỉnh lộ ĐT 156 và 158, cách thị trấn SaPa 70km về phía bắc. Cách cầu Thiên Sinh ( cửa khẩu phụ, cột mốc biên giới 87 với Trung Quốc ) 6km .

Vị trí địa lý xã Y Tý khá thuận lợi để phát triển kinh tế – xã hội và du lịch. Giáp trung tâm du lịch lớn của tỉnh Lào Cai là thị trấn Sapa và vùng kinh tế duyên hải của miền Nam nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa qua cửa khẩu quốc tế Hà Khẩu và điểm giao lưu cửa khẩu phụ cầu Thiên Sinh ( cột mốc biên giới 87).

2.2.2.2 Địa hình Khóa luận: Tổng quan chung về tỉnh Lào Cai

Y Tý là một xã có địa hình núi cao phức tạp và bị chia cắt bởi các dãy núi cao, toàn bộ nền địa hình Y Tý được kiến tạo bởi nhiều dải núi cao, nổi bật là hai dải núi chính tạo nên: Ngòi Phát – suối Lũng Pô, Quang Kim. Địa hình cao dần, điểm cao nhất có độ cao 2945m ( cao nguyên Y Tý ). Kiến tạo địa hình Y Tý hình thành hai khu vực. Vùng núi cao hiểm trở phía Bắc và Tây Bắc, vùng núi thấp, dải đồi thấp ở phía Nam.

Nhìn chung địa hình của Y Tý đã tạo nên những không gian thoáng đãng trong lành của cảnh quan núi rừng, đặc biệt là cảnh quan núi cao và phong cảnh độc đáo ruộng bậc thang. Qua đó có thể diễn ra cách hoạt động tham quan du lịch, nghỉ dưỡng và thể thao mạo hiểm.

2.2.2.3 Khí hậu

Khí hậu là một trong những yếu tố quan trọng tạo ra môi trường du lịch, các điều kiện nhiệt độ, độ ẩm có ảnh hưởng đến sức khoẻ du khách, ảnh hưởng đến các hoạt động du lịch, tạo yếu tố mùa trong hoạt động du lịch. Khóa luận: Tổng quan chung về tỉnh Lào Cai

Tý nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm mưa nhiều. Do ảnh hưởng của địa hình nên được chia thành hai khu vực khí hậu khác nhau:

Vùng cao: Do ảnh hưởng của địa hình núi cao, độ chia cắt lớn nên khí hậu vùng núi cao mang tính chất của khí hậu cận nhiệt đới và ôn đới ẩm. Mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 10, mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình cả năm cao nhất 24°C, thấp nhất 17,3°C.

Vùng thấp: Mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 10, mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.

Khí hậu của Y Tý so với đặc điểm của nhiều vùng trong cả nước, khí hậu tương đối thuận lợi cho hoạt động sản xuất cũng như hoạt động du lịch, tham quan nghỉ dưỡng.

2.2.2.4 Lượng mưa

Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1950mm, năm cao nhất lên đến 2360,5 mm, năm thấp nhất là 1103,8mm. Số ngày mưa trong năm trung bình là 126 ngày, mùa mưa nhiều nhất từ tháng 5 đến tháng 10, mùa mưa ít từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa phân bố không đều trong năm, mưa thường tập tung từ tháng 3 đến tháng 9 chiếm 80-85% tổng lượng mưa cả tháng 12 và tháng 1 khoảng 30mm.

2.2.2.5 Tài nguyên nước

Nước mặt : Hệ thống sông, suối trên địa bàn xã Y Tý khá dày và phân bố tương đối đều. Có nhiều suối nhỏ bắt nguồn từ vùng đồi núi cao và đặc biệt là một phần sông Hồng chảy qua Lũng Pô và Y Tý. Hệ thống suối, khe khá dày mật độ trung bình từ 1-1,5km suối/km2. Các suối lớn bao gồm: Ngòi Phát, suối Lũng Pô, Suối Quang Kim, ngòi Đum. Các suối này đều có lưu lượng lớn, dòng chảy xiết thuận lợi cho việc xây dựng các công trình thuỷ điện vừa và nhỏ.

Nước ngầm: có trữ lượng lớn đảm bảo được nhu cầu nước cho đời sống sinh hoạt và sản xuất của người dân bản địa. Chất lượng môi trường nước mặt và nước ngầm tương đối tốt, ít bị ảnh hưởng tác động từ môi trường bên ngoài.

2.2.2.6 Tài nguyên đất Khóa luận: Tổng quan chung về tỉnh Lào Cai

Đất đai ở Y Tý có 5 nhóm đất chính:

Nhóm đất mùn Alit trên núi cao (HA): Có diện tích 12,60 km2, chiếm 14,55% diện tích tự nhiên. Đất được hình thành trên độ cao 1700 m – 2800m, phân bố hầu hết các đỉnh núi cao, có nguồn gốc phát sinh từ nhiều loại đá mẹ khác nhau. Thích nghi với các loại cây lâm nghiệp, cây đặc sản, cây dược liệu và cây lương thực, thực phẩm có giá trị.

Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi cao từ 700 – 1.700 m (HF): Diện tích 26,35 km2 chiếm 30,04% diện tích tự nhiên, đá mẹ chủ yếu là đá Granit thuộc nhóm đá, tầng đất trung bình 70 – 100 cm, thích hợp với nhiều loại cây trồng lâm nghiệp, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu, cây lương thực, rau màu.

Nhóm đất Feralit đỏ vàng trên núi thấp và trung bình (F): Phân bố ở độ cao 400

700 m, diện tích 10.53 km2, chiếm 12 % diện tích tự nhiên.

Nhóm đất Feralit đỏ vàng bị biến đổi do trồng lúa nước (FL): Diện tích 16,80km2 chiếm 19 % diện tích tự nhiên, đất được hình thành trong quá trình canh tác lúa nước lâu đời, phân phố giải rác khắp nơi trong xã

Nhóm đất thung lũng, đất dốc tụ (D): Diện tích 20,26 km2, chiếm 23 % diện tích tự nhiên.

2.2.2.7 Tài nguyên rừng

Động thực vật rất phong phú về chủng loại. Rừng nguyên sinh Ý Tý có rất nhiều loài thực vật và động vật có tên trong Sách đỏ Việt Nam, đang được người Hà Nhì bảo vệ nghiêm ngặt. Khu rừng nguyên sinh được mệnh danh là “ vườn treo Y Tý “ rộng 26 km2, trải dài trên ba xã Ý Tý, Dền Sáng, Sảng Ma Sáo, xen lẫn rừng nhiệt đới và á nhiệt đới, nhiều tầng tán. Thống kê được Y Tý có nhiều sinh vật cảnh đặc hữu, với hệ thực vật có 452 loài thuộc các nhóm như lấy gỗ, làm thuốc, làm cảnh, cho dầu, cho sợi và 157 loài động vật hoang dã, trong đó có nhiều loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam, như gấu ngựa, sơn dương, mèo rừng mà nơi khác không có được.

Ở đây, riêng cây thảo quả có hơn 1.000 ha trồng dưới tán rừng tự nhiên mang lại giá trị kinh tế cao cho người dân vùng cao Y Tý. Do vậy, người dân các xã Y Tý luôn nâng cao ý thức chăm sóc thảo quả gắn với bảo vệ rừng. Khóa luận: Tổng quan chung về tỉnh Lào Cai

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY

===>>> Khóa luận: Khái quát về văn hóa phong tục của người Y Tý

One thought on “Khóa luận: Tổng quan chung về tỉnh Lào Cai

  1. Pingback: Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch ở Y Tý – Lào Cai

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464