Khóa luận: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra tỉnh Hà Tĩnh

Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện từ thực tiễn huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Thanh tra là một nội dung không thể thiếu của quản lý nhà nước, hoạt động thanh tra luôn gắn liền với chủ thể quản lý. Kể từ khi tổ chức và hoạt động thanh tra được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật chuyên biệt như Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945, Pháp lệnh Thanh tra cho đến Luật Thanh tra, công tác thanh tra đã góp phần phòng ngừa, phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị xử lý những sai phạm liên quan tới lĩnh vực quản lý nhà nước (QLNN); đề xuất với cấp có thẩm quyền có chủ trương, biện pháp khắc phục những vướng mắc về cơ chế, chính sách trong lĩnh vực Quản lý nhà nước; góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân (CQ, TC, CN). Nhờ có thanh tra mà mục đích, hiệu quả của Quản lý nhà nước được đảm bảo và ngược lại, Quản lý nhà nước mà không gắn liền với thanh tra sẽ dẫn đến không bám sát và đánh giá không đúng tình hình thực tiễn.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, thực tiễn tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng thanh tra nói chung và Thanh tra huyện nói riêng trong những năm qua cũng bộc lộ những bất cập, hạn chế, cụ thể: hệ thống văn bản chưa đồng bộ, còn chồng chéo giữa các quy định; thiết kế tổ chức thiếu tính hợp lý; hoạt động thanh tra còn chồng chéo, trùng lặp về phạm vi lẫn đối tượng thanh tra, thậm chí xảy ra tiêu cực trong hoạt động thanh tra; tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của cơ quan thanh tra (CQTT) chưa được phát huy; quyền hạn thanh tra còn bị hạn chế, các kết luận, kiến nghị thanh tra chưa được thực thi nghiêm túc và còn thiếu những biện pháp cứng rắn, chế tài đủ mạnh để xử lý; giải quyết đơn thư có lúc còn chậm, chất lượng không cao; một số cán bộ, công chức thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu về kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Những yếu kém, bất cập trên xuất phát từ nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả công tác thanh tra, làm cho công tác thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn trong công tác quản lý và nguyện vọng của Nhân dân.

Trong những năm gần đây, Thanh tra huyện Đức Thọ luôn đi đầu trong công tác cải cách hành chính, đổi mới tổ chức, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của ngành để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của huyện và Nhân dân giao phó. Tuy nhiên, công tác thanh tra thời gian gần đây cũng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi các quy định pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động thanh tra gây ảnh hưởng nhất định tới hiệu quả thanh tra khi tiến hành hoạt động thanh tra trên địa bàn huyện.

Thực tế đặt ra yêu cầu cấp bách về hoàn thiện tổ chức, hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra nói chung và Thanh tra huyện Đức Thọ nói riêng. Để đáp ứng được yêu cầu thì trước tiên cần phải đánh giá đầy đủ tình hình thực tiễn công tác thanh tra của Thanh tra huyện trong thời gian qua cũng như những vấn đề đang gặp phải về tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện giai đoạn hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật thanh tra, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Thanh tra huyện trong thời gian tới để Thanh tra huyện thực sự là một cơ quan bảo vệ pháp luật. Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện từ thực tiễn huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh” làm đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hiện nay, đề cập đến tổ chức và hoạt động thanh tra có nhiều công trình nghiên cứu tiếp cận ở những khía cạnh, góc độ, lĩnh vực khác nhau như:

  • Thứ nhất, sách chuyên khảo:

“Những vấn đề pháp lý cơ bản của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra Nhà nước Việt Nam” của Tiến sĩ Phạm Tuấn Khải (1998). Cuốn sách đã đưa ra một số quan điểm và phương hướng hoàn thiện tổ chức, hoạt động thanh tra phù hợp với yêu cầu cải cách nền hành chính trong giai đoạn hiện nay. Tác giả đề xuất một số giải pháp cho quá trình hoàn thiện cơ chế kiểm tra, thanh tra, giám sát, đóng góp thiết thực vào việc nghiên cứu đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra.    

Phòng, chống tham nhũng trong hoạt động thanh tra ở Việt Nam” (tái bản có sửa chữa, bổ sung) của PGS.TS. Nguyễn Quốc Sửu (2021), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật. Nội dung cuốn sách đề cập, phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động thanh tra; tham nhũng và những hành vi tham nhũng có thể xảy ra trong hoạt động thanh tra; phân tích cơ sở lý luận, chính trị, pháp lý về phòng, chống tham nhũng trong hoạt động thanh tra và đề xuất bốn nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này ở nước ta hiện nay. 

“Tham khảo mô hình Ngự sử đài thời phong kiến trong việc hoàn thiện tổ chức thanh tra ở Việt Nam” của PGS.TS. Nguyễn Quốc Sửu (8/2021), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật. Cuốn sách tập trung phân tích làm rõ cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn của thiết chế Ngự sử đài; qua đó tác giả đề xuất những kinh nghiệm, những giá trị thực tiễn của thiết chế này đối với việc hoàn thiện tổ chức thanh tra ở Việt Nam hiện nay.

  • Thứ hai, đề tài nghiên cứu khoa học:

Đề tài cấp Nhà nước “Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước” do Tiến sĩ Trần Đức Lượng làm chủ nhiệm đề tài. Đề tài đã nghiên cứu được những vấn đề cơ bản như: khái niệm, đặc điểm, vai trò, mối quan hệ giữa các thiết chế thanh tra, kiểm tra, giám sát ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát ở Việt Nam phù hợp với yêu cầu đổi mới và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Đề tài cấp Bộ “Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công lập” của TS. Trần Văn Long (2019), Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra. Đề tài làm rõ những vấn đề lý luận về thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công lập, nhất là những đơn vị lớn về quy mô và quan trọng về tính chất nội dung hoạt động. Đồng thời, làm rõ thực tiễn đặt ra những vấn đề cần phải có cách tiếp cận mới để xem xét, đánh giá cho phù hợp về vai trò của công tác thanh tra, kiểm tra gắn với Quản lý nhà nước khi bắt đầu xuất hiện những cơ quan, đơn vị không có chức năng Quản lý nhà nước nhưng được giao thực hiện hoạt động thanh tra. Trên cơ sở các quan điểm, đề tài đề xuất các giải pháp khắc phục những bất cập trong thực tiễn tổ chức, hoạt động thanh tra, kiểm tra của các đơn vị sự nghiệp công lập hiện nay. 

Thứ ba, luận án Tiến sĩ Luật học: “Giải trình của đối tượng trong hoạt động thanh tra Nhà nước theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” của tác giả Tạ Quang Duy (2023). Luận án đã làm sáng tỏ hơn các vấn đề lý luận liên quan đến giải trình của đối tượng thanh tra trong hoạt động thanh tra nhà nước; cung cấp bức tranh tổng quan về hoạt động thanh tra và thực hiện pháp luật về giải trình của đối tượng thanh tra trong hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành tại tỉnh Quảng Nam; trên cơ sở đó luận án đề xuất các giải pháp tăng cường giải trình của đối tượng thanh tra trong hoạt động thanh tra.

  • Thứ tư, luận văn Thạc sĩ:    

Luận văn “Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện từ thực tiễn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội” của tác giả Cao Văn Tâm (2016). Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về tổ chức, hoạt động của Thanh tra huyện; đánh giá thực tiễn tại Thanh tra huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội và đưa ra quan điểm, giải pháp hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Thanh tra huyện.

Luận văn “Thanh tra cấp huyện – từ thực tiễn huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk” của tác giả Nguyễn Đình Quang (2017). Luận văn đã chỉ ra được lỗ hổng của pháp luật trong tổ chức, hoạt động của Thanh tra huyện; trình bày, đánh giá thực trạng tại Thanh tra huyện Buôn Đôn và kiến nghị sửa đổi hoàn thiện hệ thống pháp luật thanh tra.

Luận văn “Tổ chức và hoạt động của thanh tra nội bộ từ thực tiễn Đại học Quốc gia Hà Nội” của tác giả Vũ Hải Uyên (2018). Luận văn phần nào làm rõ những vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động thanh tra nội bộ trong đơn vị sự nghiệp công lập; phân tích, đánh giá thực tiễn tổ chức, hoạt động của thanh tra nội bộ tại Đại học Quốc gia Hà Nội; kiến nghị giải pháp nhằm kiện toàn tổ chức và nâng cao hơn nữa hoạt động thanh tra nội bộ trong đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và ở Đại học Quốc gia Hà Nội nói riêng.

Thứ năm, bài viết “Tổ chức và hoạt động thanh tra Nhà nước ở Liên Bang Nga và một số khuyến nghị cho Việt Nam” của tác giả Lưu Hoài Bảo nằm trong Ấn phẩm Thông tin tham khảo số 01/2022 về “Tổ chức và hoạt động thanh tra” đăng tải trên Thư viện Quốc hội. Bài viết đã khái quát được pháp luật và nguyên tắc tổ chức, hoạt động thanh tra Nhà nước ở Liên Bang Nga; thực tiễn tổ chức, hoạt động thanh tra Nhà nước ở Liên Bang Nga; đúc rút một số kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động thanh tra cho Việt Nam.

Những công trình nghiên cứu trên và một số công trình nghiên cứu khác liên quan đến tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng thanh tra thường nghiên cứu ở tầm vĩ mô, mang tính tổng thể, ở không gian, thời gian hoặc lĩnh vực khác nhau. Việc nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện từ thực tiễn huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh” hiện chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập tới. 

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

  • Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện.
  • Phạm vi nghiên cứu:  
  • Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu tổ chức và hoạt động thanh tra trên địa bàn huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
  • Phạm vi về thời gian: Đề tài nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ năm 2019 – 2023.
  • Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu pháp luật quy định về tổ chức, hoạt động của Thanh tra huyện và thực trạng tại Thanh tra huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh với tư cách là cơ quan thanh tra theo cấp hành chính.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

  • Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở hệ thống hóa cơ sở lý luận về tổ chức, hoạt động của Thanh tra huyện; phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện Đức Thọ nhằm tìm ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của hạn chế; từ đó kiến nghị giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện trong thời gian tới.
  • Nhiệm vụ nghiên cứu:
  • Hệ thống hóa cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện.
  • Trình bày, phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn năm 2019 – 2023.
  • Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, chỉ ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân.
  • Đề xuất một số giải pháp có tính khả thi dựa trên thực trạng và định hướng phát triển của Nhà nước, địa phương nhằm hoàn thiện tổ chức, hoạt động của Thanh tra huyện nói chung và Thanh tra huyện Đức Thọ nói riêng trong thời gian tới.

5. Phương pháp nghiên cứu

  • Phương pháp luận: Đề tài thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để luận giải một số vấn đề về tổ chức và hoạt động thanh tra.
  • Phương pháp hệ thống hóa tài liệu: Phương pháp được sử dụng chủ yếu để nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức, hoạt động của Thanh tra huyện. Đó là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL), sách, giáo trình và các tài liệu khác có liên quan về tổ chức, hoạt động thanh tra. Phương pháp này giúp tác giả có thể sắp xếp tài liệu một cách có hệ thống, làm sáng tỏ vấn đề.
  • Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: Đây là phương pháp quan trọng được sử dụng để thu thập chính xác dữ liệu thông qua văn bản, tài liệu, báo cáo do Thanh tra huyện Đức Thọ cung cấp. Từ đó, tác giả có cơ sở nhận diện vấn đề.
  • Phương pháp tổng hợp thống kê, xử lý dữ liệu: Sau khi thu thập được số liệu, tác giả tiến hành sử dụng phương pháp thống kê và xử lý dữ liệu để có cơ sở đưa ra các nhận định, tăng tính thuyết phục cho lập luận. Từ đó, đề xuất các giải pháp cụ thể có tính khả thi giải quyết vấn đề.

6. Đóng góp của đề tài

  • Ý nghĩa về mặt lý luận: Đề tài góp phần củng cố hệ thống pháp luật thanh tra, cung cấp thêm một số kiến thức về mặt lý luận tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện.
  • Ý nghĩa về mặt thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn, phát hiện những vấn đề khó khăn, chồng chéo trong tổ chức và hoạt động thanh tra. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức, hoạt động thanh tra góp phần giúp Thanh tra huyện Đức Thọ hoạt động ngày càng hiệu quả, đạt kết quả tốt. Ngoài ra, đề tài có thể là tài liệu có giá trị tham khảo đối với sinh viên ngành Luật – chuyên ngành Thanh tra và một số ngành khác có liên quan.

7. Bố cục đề tài

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề tài gồm 03 chương:

  • Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật về tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện. 
  • Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. 
  • Chương 3: Giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện.

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA HUYỆN

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của Thanh tra huyện

1.1.1. Khái niệm Thanh tra huyện

Thuật ngữ “thanh tra” xuất phát từ nguồn gốc tiếng Latinh. Ở Việt Nam, thuật ngữ này đã xuất hiện từ lâu và được sử dụng rộng rãi, theo từng giai đoạn lịch sử có nhiều quan điểm khác nhau về thuật ngữ như:

Theo tác giả Trần Đức Lượng cho rằng: “Thanh tra là một chức năng thiết yếu của Quản lý nhà nước, là hoạt động kiểm tra, xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân; thường được thực hiện bởi một cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ lợi ích của nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của Cơ quan, tổ chức, cá nhân” [6,tr.11]. Theo quan điểm này, thanh tra được xem là một chức năng của Nhà nước dùng để Quản lý nhà nước, được pháp luật quy định rõ quy trình, thủ tục và tiến hành bởi cơ quan chuyên về thanh tra nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của Cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Dưới góc độ pháp lý, Hiến pháp các năm 1946, 1959 thuật ngữ “thanh tra” chưa xuất hiện. Hiến pháp năm 1980 thuật ngữ chính thức được hiến định và xác định như một chức năng của cơ quan Quản lý nhà nước. Đến Hiến pháp các năm 1992, 2013 thì hoạt động thanh tra được gắn liền với các hoạt động Quản lý nhà nước, vừa có chức năng kiểm soát việc thực thi quyền hành pháp, vừa có chức năng phát hiện, xử lý đối với các vi phạm pháp luật (VPPL) trong lĩnh vực Quản lý nhà nước.

Điều 1 Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 quy định khái niệm thanh tra đến Luật Thanh tra năm 2004, 2010 thay bằng cụm từ “thanh tra nhà nước” nhưng suy cho cùng nội hàm của khái niệm vẫn bao gồm: bản chất thanh tra, mục đích hoạt động thanh tra, nội dung thanh tra, chủ thể tiến hành thanh tra và đối tượng thanh tra. Đến Luật Thanh tra năm 2022 khái niệm thanh tra được quy định rõ trong luật, theo đó, khoản 1 Điều 2 Luật Thanh tra năm 2022 định nghĩa: “Thanh tra là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan thực hiện chức năng thanh tra đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan, tổ chức, cá nhân” [3]. Như vậy, thuật ngữ thanh tra ở đây được hiểu theo hai khía cạnh: khía cạnh là một danh từ – thanh tra với tư cách là cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; khía cạnh là một động từ – thanh tra là để chỉ hoạt động thanh tra của các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra.

Thanh tra quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Thanh tra huyện). Thanh tra huyện thuộc hệ thống cơ quan thanh tra theo cấp hành chính. Theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Thanh tra năm 2022 và khoản 1 Điều 4 Thông tư số 02/2023/TT-TTCP ngày 22/12/2023 thì: “Thanh tra huyện là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) cấp huyện, giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp Quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; thực hiện nhiệm vụ thanh tra trong phạm vi Quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện; thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo quy định của pháp luật” [3]. Như vậy, Thanh tra huyện hiện nay được xác định là đơn vị của cơ quan quản lý nhà nước cấp huyện.

1.1.2. Đặc điểm của Thanh tra huyện 

Khi bàn về đặc điểm của Thanh tra huyện, chúng ta xét trên hai khía cạnh: i) Thanh tra huyện với tư cách là một Cơ quan thanh tra theo cấp hành chính, mang tính quyền lực nhà nước, lúc này về cơ bản Thanh tra huyện có đặc điểm giống với các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước. ii) Thanh tra huyện với tư cách là một cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp, Cơ quan thanh tra trong hệ thống cơ quan thực hiện chức năng thanh tra. Với góc độ này, có thể thấy Thanh tra huyện có một số đặc điểm riêng. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, tổ chức Thanh tra huyện được tổ chức theo nguyên tắc “song trùng trực thuộc”: với quy định của Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành đã thể hiện tổ chức Thanh tra huyện được tổ chức theo nguyên tắc “song trùng trực thuộc”.

Nghĩa là theo chiều ngang Thanh tra huyện là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, giúp việc cho Ủy ban nhân dân cấp huyện, chịu sự chỉ đạo, điều hành trực tiếp của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện. Mối quan hệ giữa Thanh tra huyện với Ủy ban nhân dân cấp huyện là mối quan hệ quyền lực – phục tùng. Để đảm bảo hiệu quả hoạt động của mình, Chánh Thanh tra huyện chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Ủy ban nhân dân cùng cấp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp trong việc Quản lý nhà nước về công tác thanh tra và thực hiện những công việc được phân công. Cùng với đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm xem xét giải quyết các vấn đề mà Chánh Thanh tra huyện kiến nghị giải quyết và tạo điều kiện, hỗ trợ cho hoạt động của Thanh tra huyện. Nhờ vậy mà cả hai cơ quan hiểu rõ về vai trò, nhiệm vụ của nhau, đảm bảo hiệu quả trong quản lý, điều hành các hoạt động của huyện.

Theo chiều dọc Thanh tra tỉnh với Thanh tra huyện là mối quan hệ giữa cấp trên – cấp dưới về công tác chuyên môn, nghiệp vụ của ngành Thanh tra. Theo đó, Thanh tra huyện chịu sự chỉ đạo về công tác thanh tra, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ của Thanh tra tỉnh. Ngược lại, Thanh tra tỉnh thường hỗ trợ, hướng dẫn và trao đổi kinh nghiệm cho Thanh tra huyện (ví dụ như: hướng dẫn Thanh tra huyện xây dựng dự thảo kế hoạch thanh tra để tổng hợp vào kế hoạch thanh tra của tỉnh trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành, hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra), đồng thời Thanh tra tỉnh theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch thanh tra của Thanh tra huyện; kiểm tra tính chính xác, hợp pháp các kết luận thanh tra của Thanh tra huyện. Tóm lại, mối quan hệ giữa hai cấp thanh tra không chỉ tạo ra sự đồng bộ, nhất quán, nâng cao chất lượng công tác thanh tra mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng hệ thống thanh tra ngày càng chuyên nghiệp, vững mạnh.

Thứ hai, hoạt động của Thanh tra huyện mang bản chất thanh tra hành chính:

Theo quy định của Luật hiện hành, Thanh tra huyện là một trong những cơ quan thanh tra theo cấp hành chính và cũng là Cơ quan thanh tra thấp nhất trong hệ thống Cơ quan thanh tra theo cấp hành chính, có chức năng thanh tra hành chính mà không có chức năng thanh tra chuyên ngành. Với tư cách là cơ quan thực hiện chức năng thanh tra, Thanh tra huyện có nhiệm vụ xem xét, đánh giá việc chấp hành các quy định pháp luật của các đối tượng thuộc quyền quản lý trực tiếp của Ủy ban nhân dân cấp huyện nhằm ngăn ngừa, phát hiện sai phạm và giúp đối tượng thanh tra thực hiện đúng quy định pháp luật; đồng thời phát hiện những lỗ hổng trong cơ chế, chính sách, từ đó kiến nghị cấp có thẩm quyền có giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả quản lý của cơ quan Quản lý nhà nước, tạo dựng niềm tin của Nhân dân vào chính quyền. Đối tượng thanh tra của Thanh tra huyện là các Cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc sự quản lý trực tiếp của Ủy ban nhân dân cấp huyện bao gồm: các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã và tổ chức, cá nhân thuộc sự quản lý trực tiếp của Ủy ban nhân dân cấp huyện. Như vậy, cơ sở của hoạt động thanh tra hành chính là mối quan hệ trực thuộc giữa chủ thể với đối tượng thanh tra – đây là điểm khác biệt cơ bản với Cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực; cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.

Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra của Thanh tra huyện chủ yếu “hướng vào bên trong” làm trong sạch bộ máy hành chính nhà nước; hướng tới nội dung xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ và quyền hạn được giao cũng như trách nhiệm và hiệu quả quản lý của bộ máy hành chính nhà nước nên thường có phạm vi thanh tra hẹp. Trong khi đó, hoạt động thanh tra của Cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành chủ yếu “hướng ra bên ngoài” kiểm soát hoạt động chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý của Cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý theo ngành, lĩnh vực nên thường có phạm vi thanh tra rộng. 

Ngoài ra, hoạt động thanh tra hành chính của Thanh tra huyện được tiến hành theo kế hoạch hoặc đột xuất, thông qua Đoàn thanh tra còn hoạt động thanh tra chuyên ngành không chỉ thực hiện theo kế hoạch hoặc đột xuất mà còn được thực hiện thường xuyên và thông qua Đoàn thanh tra chuyên ngành, Thanh tra viên hoặc người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành. Mặt khác, Thanh tra huyện không có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính mà chủ yếu áp dụng các biện pháp kỷ luật hành chính theo quy định của pháp luật cán bộ, công chức, viên chức. Đối với chủ thể thanh tra chuyên ngành có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính với đa dạng các hình thức. 

Thứ ba, hoạt động của Thanh tra huyện mang tính quyền lực nhà nước:

Được xem là một đặc tính quan trọng của Quản lý nhà nước, tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra gắn bó chặt chẽ với tính quyền uy – phục tùng. Thanh tra là một chức năng thiết yếu của Quản lý nhà nước nên thanh tra phải thể hiện như một tác động tích cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Trên thực tế, không một tổ chức cụ thể nào mà không gắn với quyền lực. Trong quá trình thanh tra nói về quyền lực nhà nước cũng có nghĩa là xác định về mặt pháp lý tính chất nhà nước của tổ chức thanh tra. Vì vậy, thanh tra được Nhà nước sử dụng như một công cụ có hiệu quả trong quá trình quản lý và khi nhấn mạnh đến tính quyền lực của tổ chức thanh tra, theo Lênin: “thanh tra mà thiếu quyền lực là thanh tra suông” [20,tr.34].

Tính quyền lực nhà nước của Thanh tra huyện thể hiện ở chỗ: cơ quan có quyền hạn được xác định rõ ràng và khả năng thực hiện những quyền hạn đó một cách hiệu quả, cụ thể như: quyết định tổ chức các cuộc thanh tra theo chương trình, kế hoạch được phê duyệt; có quyền yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung thanh tra, ngược lại đối tượng thanh tra có nghĩa vụ phải tuân thủ như cung cấp thông tin, tài liệu theo yêu cầu, hợp tác trong quá trình thanh tra, không được thực hiện các hành vi đe dọa, trả thù; yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh tra; yêu cầu truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những người Vi phạm pháp luật; khi cần thiết trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế; kể cả việc chuyển hồ sơ vụ việc Vi phạm pháp luật có dấu hiệu của tội phạm sang cơ quan điều tra để xử lý.

Trong quá trình thanh tra, tính quyền lực nhà nước được cụ thể hóa thông qua vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa Thanh tra huyện với đối tượng bị thanh tra cũng như mối quan hệ đối với cơ quan, tổ chức khác, phương thức tiến hành thanh tra của Thanh tra huyện. Muốn thể hiện vai trò cũng như nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra thì không nên cụ thể hóa một mặt nào đó mà cần thực hiện đồng bộ tính quyền lực nhà nước trên tất cả các lĩnh vực.

Thứ tư, hoạt động của Thanh tra huyện gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước ở cấp huyện, đáp ứng yêu cầu và mục tiêu quản lý nhà nước ở địa phương:

Quản lý nhà nước và thanh tra đều có điểm chung là nhân danh quyền lực Nhà nước để thực hiện sự tác động lên các đối tượng quản lý. Với tư cách là một chức năng thiết yếu của Quản lý nhà nước, hoạt động của Thanh tra huyện gắn liền với hoạt động Quản lý nhà nước ở cấp huyện. Quản lý nhà nước và thanh tra có mối quan hệ gắn bó, mật thiết với nhau. Trong mối quan hệ này, Quản lý nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động thanh tra (thể hiện ở việc quyết định các chính sách, xác định phương hướng hoạt động, ban hành văn bản quy định thẩm quyền của Thanh tra huyện; sử dụng thông tin do Thanh tra huyện cung cấp, báo cáo). Mặt khác, do hoạt động chấp hành của Quản lý nhà nước thường bao hàm cả sự điều hành nên trong quá trình chấp hành các văn bản pháp luật đòi hỏi phải có sự kiểm tra, giám sát nghiêm ngặt của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, khi xét về cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh tra chỉ là phương tiện, công cụ để Quản lý nhà nước [1].

Ngoài ra, với tư cách là một khâu trong chu trình quản lý, Thanh tra huyện bị ràng buộc, chế ước bởi quản lý nhưng đồng thời tác động trở lại, góp phần điều chỉnh phương pháp, cách thức quản lý của chủ thể Quản lý nhà nước cấp huyện. Nhờ có Thanh tra huyện mà mục tiêu Quản lý nhà nước ở địa phương được đảm bảo. Vì thế, có thể nói: “một chủ thể hành chính và cơ chế Quản lý nhà nước sẽ không đầy đủ nếu thiếu thanh tra. Trong một tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, hoạt động có tính hiệu quả của thanh tra sẽ ngăn chặn được nguy cơ biến dạng, tùy tiện, thiếu kỉ cương trong hoạt động Quản lý nhà nước” [6].

Thứ năm, hoạt động của Thanh tra huyện có tính khách quan và độc lập tương đối:

Tính khách quan của Thanh tra huyện thể hiện trong quá trình thanh tra đều dựa trên cơ sở pháp luật và phải tuân thủ pháp luật, không có một thực thể nào đứng trên hay đứng ngoài pháp luật. Tính khách quan nhằm đánh giá công việc một cách chính xác, dân chủ, công bằng, bảo đảm phản ánh đúng sự thật. Để đảm bảo tính khách quan đòi hỏi Thanh tra huyện khi tác nghiệp phải xuất phát từ thực tế cuộc sống, tôn trọng sự thật; phải xem xét, đánh giá mọi vấn đề dựa trên dữ liệu, thông tin chính xác và đầy đủ; các quyết định và kiến nghị của cơ quan không phụ thuộc vào bất kỳ sự chi phối, tác động nào từ bên ngoài; không được vi phạm vào bất kỳ một trong số các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động thanh tra quy định tại Điều 8 Luật Thanh tra năm 2022 như: nhận hối lộ, bao che cho đối tượng thanh tra, cố ý kết luận sai sự thật.

Tính độc lập là đặc điểm vốn có xuất phát từ bản chất của thanh tra. Thanh tra huyện và các cơ quan bảo vệ pháp luật khác (cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án) đều có nhiệm vụ và trách nhiệm riêng biệt nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau để đảm bảo hiệu quả trong công việc. Trong trường hợp vụ việc có dấu hiệu tội phạm, nhất là lĩnh vực phòng, chống tham nhũng (PCTN), tiêu cực Thanh tra huyện chịu trách nhiệm cung cấp thông tin mà mình thu thập được hỗ trợ các cơ quan làm rõ vụ việc. Ngược lại, các cơ quan bảo vệ pháp luật phải tiếp nhận vụ việc, điều tra và chủ động thông báo kết quả cho Thanh tra huyện. Tuy nhiên, trong mối quan hệ này Thanh tra huyện phải độc lập trong việc cung cấp thông tin, trong kiến nghị của cơ quan mình cũng như bảo đảm các cơ quan khác không được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động thanh tra.

Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình ngoài việc đảm bảo phối kết hợp với cơ quan khác, Thanh tra huyện phải độc lập tương đối trong quá trình thực thi nhiệm vụ như: tự tổ chức thực hiện nhiệm vụ theo quy định pháp luật; Chánh Thanh tra huyện quyết định thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu Vi phạm pháp luật, tự chịu trách nhiệm về quyết định thanh tra trong hoạt động thanh tra; độc lập trong việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ thanh tra; độc lập kinh phí, phương tiện và các điều kiện khác, không bị phụ thuộc vào đối tượng thanh tra tránh tình trạng đối tượng thanh tra lợi dụng sự khó khăn để làm giảm đi tính khách quan, trung thực của Đoàn thanh tra. Bên cạnh đó, tính độc lập còn được thể hiện qua Thanh tra huyện có tư cách pháp nhân và con dấu, tài khoản riêng. 

Tính độc lập của Thanh tra huyện chỉ là tương đối, bởi vì hoạt động của Thanh tra huyện ngoài việc căn cứ vào quy định pháp luật còn phải xuất phát từ thực tế cuộc sống, khi xem xét mọi việc không chỉ dựa trên tính hợp pháp mà còn phải xem xét cả tính hợp lý. Ngoài ra, sự chi phối, tác động của cơ quan Quản lý nhà nước cùng cấp phần nào làm giảm đi tính độc lập vốn có của Thanh tra huyện (ví dụ như: cơ quan Quản lý nhà nước cùng cấp có sự chi phối, ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng dự thảo kế hoạch thanh tra, trong xử lý kết quả thanh tra người có thẩm quyền quyết định là Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp).

Tóm lại, có tính độc lập thì hoạt động thanh tra mới có tính khách quan, khi đạt được sự khách quan nhất định Thanh tra huyện mới có thể thực sự tách ra khỏi sự chỉ đạo, lãnh đạo hoạt động từ các cơ quan khác, chủ động thực hiện nhiệm vụ được giao, làm việc đạt được mục đích đặt ra.

1.1.3. Vai trò của Thanh tra huyện

Thanh tra mang tính quyền lực nhà nước nên thanh tra có vai trò rất quan trọng trong hoạt động Quản lý nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua việc thực hiện chức năng Quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo (KN, TC) và Phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Vai trò của thanh tra xuất phát từ mục đích hoạt động thanh tra được quy định tại Điều 3 Luật Thanh tra năm 2022. Giống như vai trò chung của cơ quan thực hiện chức năng thanh tra, Thanh tra huyện có vai trò như sau:

Thứ nhất, hoạt động của Thanh tra huyện là một trong những chức năng thiết yếu của hoạt động quản lý hành chính nhà nước cấp huyện:

Các cơ quan hành chính nhà nước khi tiến hành hoạt động quản lý trên bất cứ lĩnh vực, phạm vi, quy mô nào, chủ thể có thẩm quyền đều phải thực hiện cả ba chu trình trong công việc, đó là: đề ra chủ trương, chính sách, nhiệm vụ, kế hoạch; tổ chức chỉ đạo thực hiện những chủ trương, chính sách và biện pháp đã đề ra; kiểm tra, thanh tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của các đối tượng thuộc quyền quản lý. Điều này cho thấy, kiểm tra, thanh tra là một trong ba mặt thống nhất của Quản lý nhà nước (hiểu theo nghĩa rộng), là một khâu không thể thiếu của hoạt động Quản lý nhà nước nói chung và hoạt động quản lý hành chính nói riêng.

Thực chất thanh tra là một phương thức của kiểm tra, là chức năng của quản lý, là công cụ của người quản lý, lãnh đạo. Trong quá trình thực hiện chức năng Quản lý nhà nước, các cơ quan Quản lý nhà nước nhất thiết phải tiến hành hoạt động thanh tra đối với việc thực hiện các quyết định mà mình đã ban hành. Đó là một khâu không thể thiếu được trong quá trình hoạt động Quản lý nhà nước và thanh tra được xác định là chức năng thiết yếu của Quản lý nhà nước. Do vậy, Thanh tra huyện cũng là một trong những chức năng thiết yếu của hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở cấp huyện. 

Thứ hai, hoạt động của Thanh tra huyện góp phần bảo đảm pháp chế, kỷ cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước cấp huyện:

Nội dung nguyên tắc pháp chế là sự bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ một cách tuyệt đối, không có bất kỳ ai có thể đứng trên hay đứng ngoài pháp luật. Với chức năng của mình, Thanh tra huyện không chỉ tìm ra những sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý, kịp thời phát hiện những nội dung trong chủ trương, chính sách chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn khách quan mà còn phát huy những nhân tố tích cực, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của Cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quản lý của Ủy ban nhân dân cấp huyện. Có như vậy hiệu quả công tác thanh tra mới đáp ứng được yêu cầu phát triển trong hoàn cảnh thực tiễn của địa phương, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước mới được nâng lên. 

Để giải quyết vấn đề Vi phạm pháp luật, chủ thể quản lý có thể áp dụng nhiều biện pháp khác nhau từ giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế. Các biện pháp đều có thể được thực hiện thông qua công tác thanh tra, qua đó có thể đánh giá được một Cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đó chấp hành pháp luật ra sao, có Vi phạm pháp luật hay không, vi phạm ở mức độ nào; từ đó đề ra những biện pháp xử lý thích hợp, góp phần bảo đảm pháp chế, trật tự kỷ cương, kỷ luật trong Quản lý nhà nước ở cấp huyện, làm trong sạch bộ máy nhà nước.

Thứ ba, hoạt động của Thanh tra huyện góp phần bảo đảm việc thực hiện các quyền tự do của công dân:   

Với quy định tại khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã đặt ra yêu cầu là hoạt động của bộ máy nhà nước phải luôn hướng tới lợi ích của Nhân dân. Hoạt động của Thanh tra huyện đã góp phần bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân thông qua hoạt động giải quyết Khiếu nại, tố cáo và thanh tra. Nhờ có phạm vi hoạt động rộng khắp trên các lĩnh vực Quản lý nhà nước nên thanh tra đã góp phần đấu tranh Phòng chống tham nhũng các hành vi Vi phạm pháp luật, bảo đảm, bảo vệ các quyền tự do cơ bản của công dân, lợi ích của Nhà nước và cộng đồng. 

Trong quá trình thực hiện quyền tự do, dân chủ của mình, công dân có quyền tố cáo đối với những cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức Vi phạm pháp luật khi thực thi công vụ; khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nếu quyết định, hành vi hành chính đó xâm hại trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Với vị trí, vai trò của mình, Thanh tra huyện có trách nhiệm tham mưu Ủy ban nhân dân huyện tiến hành xác minh, ban hành kết luận nội dung tố cáo, quyết định giải quyết khiếu nại và gửi công dân. Bảo đảm đơn thư của công dân đều được xem xét giải quyết, bảo vệ tốt quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời kiến nghị xử lý đối với các Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi Vi phạm pháp luật.  

Thứ tư, hoạt động của Thanh tra huyện là một biện pháp hạn chế lạm quyền, phòng ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi Vi phạm pháp luật: vai trò của Thanh tra huyện không chỉ, không phải dừng lại ở việc phát hiện, xử lý mà quan trọng hơn Thanh tra huyện còn hướng tới mục đích phòng ngừa Vi phạm pháp luật. Tính phòng ngừa của hoạt động thanh tra thể hiện ở chỗ:  

Thanh tra cùng với các phương thức kiểm tra, giám sát luôn luôn là hiện thân của kỷ cương pháp luật. Thanh tra không chỉ có chức năng bảo đảm pháp chế mà còn có chức năng tìm hiểu, giúp đỡ, định hướng cho các đối tượng thực hiện đúng các quy định pháp luật. 

Thông qua hoạt động thanh tra đã kịp thời phát hiện và chấn chỉnh những sai phạm trong việc thực hiện chính sách, pháp luật trong phạm vi huyện. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động thanh tra các chủ thể quản lý thu thập nhiều thông tin góp phần phát hiện sự thay đổi và dự báo những vấn đề sẽ phát sinh để có biện pháp phòng ngừa thích hợp, ngăn ngừa tận gốc mầm mống phát sinh những Vi phạm pháp luật tương tự xảy ra ở một thời điểm, một không gian khác. 

Thứ năm, hoạt động của Thanh tra huyện góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên địa bàn huyện:

Để quyết định Quản lý nhà nước được các Cơ quan, tổ chức, cá nhân chấp hành một cách chính xác, đầy đủ thì các cơ quan, cá nhân đã ban hành quyết định phải đề ra quy trình thực hiện quyết định. Trong quy trình đó không thể thiếu được hoạt động kiểm tra, thanh tra để nhận xét, đánh giá tình hình và kết quả thực hiện quyết định quản lý; để kiểm nghiệm lại chính nội dung và chất lượng quản lý; khi cần thiết phải bổ sung, sửa đổi, thậm chí phải hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định quản lý.

Khi nội dung và chất lượng quyết định quản lý được thực tế kiểm nghiệm là đúng, là phù hợp nhưng đối tượng thi hành vẫn không tuân thủ, không chấp hành nghiêm chỉnh thì khi đó hoạt động kiểm tra, thanh tra phải phục vụ cho việc làm rõ nguyên nhân chủ quan, khách quan, xác định rõ trách nhiệm thuộc khâu nào, thuộc trách nhiệm của người nào để chấn chỉnh hoặc xử lý khi có vi phạm. Với ý nghĩa đó thanh tra thực chất đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả Quản lý nhà nước.

Ngoài ra, thông qua hoạt động thanh tra đối tượng Quản lý nhà nước cũng tiếp thu những kiến nghị hợp lý của đối tượng thanh tra, từ đó nắm bắt được những nhân tố tích cực về con người hoặc về phương pháp quản lý mà có phương hướng đào tạo, bồi dưỡng hoặc nhân rộng mô hình để đẩy mạnh hiệu quả quản lý đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn. Đồng thời, việc các cơ quan quản lý tiếp nhận được các thông tin từ đối tượng thanh tra phản ánh để tự hoàn thiện mình cũng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả Quản lý nhà nước.

1.2. Quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện

1.2.1. Quy định pháp luật về tổ chức của Thanh tra huyện

Khái niệm về tổ chức Thanh tra huyện mặc dù dưới góc độ pháp lý chưa có văn bản Quy phạm pháp luật nào quy định nhưng khi xem xét nội hàm các khái niệm liên quan thì có thể hiểu: “tổ chức Thanh tra huyện là một thiết chế của Nhà nước, bao gồm các bộ phận cấu thành được thành lập dựa trên những nguyên tắc nhất định để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra huyện”

1.2.1.1. Vị trí, chức năng      

Trong hệ thống cơ quan thực hiện chức năng thanh tra, Thanh tra huyện là cơ quan thấp nhất trong các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính. Thanh tra huyện có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản riêng; đặt dưới sự tổ chức, chỉ đạo, điều hành của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện vì Thanh tra huyện là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp Quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết Khiếu nại, tố cáo và Phòng chống tham nhũng, tiêu cực; thực hiện nhiệm vụ thanh tra trong phạm vi Quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện; thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết Khiếu nại, tố cáo và Phòng chống tham nhũng, tiêu cực theo quy định của pháp luật. Đây là một minh chứng thể hiện một đặc trưng cơ bản trong hoạt động hành chính – đó là sự lãnh đạo toàn diện của Thủ trưởng cơ quan hành chính đối với tất cả các lĩnh vực Quản lý nhà nước thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước.  

Theo ngành dọc, Thanh tra huyện chịu sự chỉ đạo về công tác thanh tra, hướng dẫn nghiệp vụ của Thanh tra tỉnh. Đây là mối quan hệ trực thuộc về chuyên môn, nghiệp vụ trong quá trình hoạt động thanh tra nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, khắc phục chồng chéo về nội dung tránh gây phiền hà cho đối tượng thanh tra.

Mối quan hệ giữa Thanh tra huyện đối với các Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác là mối quan hệ hai chiều, đoàn kết, hỗ trợ và phối hợp trên cơ sở bình đẳng, theo chức năng nhiệm vụ nhằm bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. 

Như vậy, Thanh tra huyện được xác định là một cơ quan chuyên môn giúp việc cho Ủy ban nhân dân cấp huyện, có vị trí ngang bằng với các cơ quan chuyên môn khác thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện và cũng là một trong những cơ quan thanh tra trong hệ thống cơ quan thực hiện chức năng thanh tra.

1.2.1.2. Cơ cấu nhân sự

khoản 1 Điều 33 Luật Thanh tra năm 2022; khoản 1 Điều 6 Thông tư số 02/2023/TT-TTCP ngày 22/12/2023 quy định Thanh tra huyện có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra, Thanh tra viên và công chức khác.

Chánh Thanh tra huyện là người đứng đầu Thanh tra huyện, chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp và trước pháp luật về thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra huyện, của Chánh Thanh tra huyện và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo Quy chế làm việc và phân công của Ủy ban nhân dân cùng cấp. 

Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, điều động, luân chuyển, biệt phái Chánh Thanh tra huyện do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định sau khi tham khảo ý kiến của Chánh Thanh tra tỉnh [10]. Như vậy, so với các chức danh khác thì quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, điều động, luân chuyển, biệt phái Chánh Thanh tra huyện có phần khác và phức tạp hơn bởi vì phải có ý kiến của người đứng đầu Thanh tra tỉnh. Điều này nhằm đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống cơ quan thanh tra và tính độc lập tương đối của Thanh tra huyện.

Phó Chánh Thanh tra huyện là người giúp Chánh Thanh tra huyện thực hiện nhiệm vụ do Chánh Thanh tra huyện phân công, chịu trách nhiệm trước Chánh Thanh tra huyện và trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công. Chánh Thanh tra huyện ủy nhiệm cho một Phó Chánh Thanh tra huyện thay mình điều hành các hoạt động của Thanh tra huyện khi vắng mặt.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, điều động, luân chuyển, biệt phái Phó Chánh Thanh tra huyện theo quy định của pháp luật và đề nghị của Chánh Thanh tra huyện. Hiện pháp luật không quy định rõ số lượng Phó Chánh Thanh tra huyện trong mỗi cơ quan [10]. Như vậy, với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, điều động, luân chuyển, biệt phái chức danh Phó Chánh Thanh tra không có sự khác biệt với chức danh Phó Trưởng phòng khác.

Thanh tra viên là người được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra viên để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động thanh tra theo quy định pháp luật (khoản 1 Điều 38 Luật Thanh tra năm 2022). Thanh tra viên là công chức chuyên môn nghiệp vụ của Cơ quan thanh tra, do tính chất đặc thù của ngành nên sẽ có sự khác biệt với các công chức khác thuộc hệ thống công chức nhà nước (ví dụ như: Thanh tra viên hưởng chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề, được cấp thẻ thanh tra sử dụng khi thực hiện nhiệm vụ thanh tra). Thanh tra viên là lực lượng nòng cốt trong hoạt động thanh tra của Thanh tra huyện, khi đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn thì sẽ được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra viên nhưng tùy vào từng ngạch thanh tra viên mà sẽ có những tiêu chuẩn khác nhau (tiêu chuẩn bổ nhiệm vào ngạch thanh tra viên, ngạch thanh tra viên chính và ngạch thanh tra viên cao cấp lần lượt được quy định tại Điều 39, 40, 41 Luật Thanh tra năm 2022) [3]. 

Công chức khác là những thành viên làm việc trong Thanh tra huyện nhưng không phải là Thanh tra viên hay lãnh đạo Thanh tra huyện mà họ có thể là cán sự hoặc chuyên viên. Đây cũng là lực lượng góp phần không nhỏ giúp hoạt động thanh tra của Thanh tra huyện đạt kết quả tốt.

1.2.2. Quy định pháp luật về hoạt động của Thanh tra huyện

1.2.2.1. Hình thức thanh tra

Hình thức thanh tra là những biểu hiện bên ngoài của hoạt động thanh tra. Có nhiều hình thức thanh tra khác nhau, điều này phụ thuộc vào các căn cứ phân loại khác nhau, bao gồm: Thứ nhất, căn cứ vào phạm vi, quy mô của cuộc thanh tra có: thanh tra diện rộng, thanh tra diện hẹp; Thứ hai, căn cứ vào chương trình thanh tra có: thanh tra theo kế hoạch, thanh tra thường xuyên và thanh tra đột xuất; Thứ ba, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của hoạt động thanh tra có: thanh tra kinh tế – xã hội, thanh tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và thanh tra công vụ.

Về mặt pháp lý, khoản 1 Điều 46 Luật Thanh tra năm 2022 đã sửa đổi, giảm bớt một hình thức thanh tra là thanh tra thường xuyên so với Luật Thanh tra năm 2010. Hoạt động thanh tra hành chính của Thanh tra huyện được thực hiện theo kế hoạch hoặc đột xuất, thông qua Đoàn thanh tra. 

Thanh tra theo kế hoạch là hình thức thanh tra được tiến hành theo kế hoạch thanh tra đã được ban hành. Với hình thức này, Thanh tra huyện sẽ có nhiều thời gian để chuẩn bị đầy đủ các điều kiện tiến hành một cuộc thanh tra như: bảo đảm cơ sở pháp lý tiến hành thanh tra; bảo đảm về kinh phí, phương tiện thanh tra; bảo đảm về nhân sự thanh tra. Những điều kiện này sẽ tạo thuận lợi trong quá trình thanh tra của Đoàn thanh tra.

Thanh tra đột xuất là hình thức thanh tra được tiến hành khi phát hiện Cơ quan, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu Vi phạm pháp luật hoặc do Thủ trưởng cơ quan Quản lý nhà nước có thẩm quyền giao hoặc theo yêu cầu của việc giải quyết Khiếu nại, tố cáo, Phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Hình thức này được Thanh tra huyện sử dụng để giải quyết những vụ việc cấp bách, gây bức xúc dư luận nhằm phát hiện kịp thời, giải quyết nhanh chóng, ngăn chặn sai phạm xảy ra nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả Quản lý nhà nước.

1.2.2.2. Phương pháp thanh tra 

Phương pháp thanh tra là cách thức, biện pháp mà cơ quan, người có thẩm quyền sử dụng để thực hiện hoạt động thanh tra nhằm đạt được mục đích đề ra.

Điểm c khoản 2 Điều 61 Luật Thanh tra năm 2022 quy định phương pháp tiến hành thanh tra là một trong những nội dung của kế hoạch tiến hành thanh tra. Việc lựa chọn sử dụng phương pháp thanh tra tùy thuộc vào đặc điểm, tính chất của vụ việc, của Cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra; đồng thời còn tùy thuộc vào khả năng nghiệp vụ của cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện hoạt động thanh tra. Trong hoạt động thanh tra, Thanh tra huyện thường sử dụng một số phương pháp chủ yếu như sau:

Thứ nhất, thu thập thông tin, hồ sơ, tài liệu và các giấy tờ liên quan: đây là phương pháp không thể thiếu đối với cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện hoạt động thanh tra. Phương pháp này bao gồm các công việc như nghiên cứu văn bản pháp luật; nghiên cứu hồ sơ, tài liệu và các giấy tờ liên quan; nghiên cứu, so sánh, thống kê các dữ liệu.

Thứ hai, thu thập ý kiến từ các Cơ quan, tổ chức, cá nhân và tham vấn ý kiến của các nhà chuyên môn: cơ quan, người tiến hành thanh tra cần lắng nghe, ghi nhận ý kiến từ Cơ quan, tổ chức, cá nhân bởi những thông tin, tài liệu có thể có giá trị phục vụ quá trình thanh tra; tuy nhiên, chủ thể thanh tra cần chắt lọc thông tin, tài liệu thu thập được để đánh giá chính xác và khách quan vụ việc. Mặt khác, để làm cho hoạt động thanh tra đạt hiệu quả, chủ thể thanh tra có thể tham vấn ý kiến của các nhà chuyên môn. Ý kiến của các nhà chuyên môn sẽ làm cho chủ thể thanh tra hiểu được nguyên lý, bản chất vụ việc bởi vì không phải chủ thể thanh tra nào cũng am hiểu tường tận mọi lĩnh vực thanh tra.

Thứ ba, thuyết phục đối tượng thanh tra tích cực hợp tác với chủ thể thanh tra và chất vấn đối tượng thanh tra: sự hợp tác của đối tượng thanh tra là yếu tố quan trọng để cuộc thanh tra có hiệu quả. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đối tượng thanh tra không thực sự hợp tác, lúc này chủ thể thanh tra có nhiệm vụ thuyết phục sự hợp tác tích cực của đối tượng thanh tra để họ nhận ra mục đích của thanh tra (sự hợp tác của đối tượng thanh tra là tình tiết để xem xét giảm trách nhiệm của đối tượng thanh tra). Chất vấn đối tượng thanh tra là phương pháp mà chủ thể thanh tra lấy thông tin vụ việc bằng cách đặt ra các câu hỏi để đối tượng thanh tra trả lời. Đồng thời, thông qua chất vấn, chủ thể thanh tra cảm nhận, đánh giá thái độ của đối tượng thanh tra để góp phần làm cho cuộc thanh tra đạt hiệu quả.

Thứ tư, xử lý kịp thời, đúng pháp luật những hành vi gây cản trở đến hoạt động thanh tra: đây là phương pháp không thể thiếu trong trường hợp có hành vi gây cản trở hoạt động thanh tra. Chủ thể thanh tra cần áp dụng những biện pháp cần thiết mà pháp luật cho phép để làm cho cuộc thanh tra đạt hiệu quả.

1.2.2.3. Nội dung hoạt động thanh tra

Hoạt động thanh tra phục vụ cho quá trình quản lý bằng việc thực hiện các nhiệm vụ thanh tra, tiếp công dân, giải quyết Khiếu nại, tố cáo và Phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Thông qua đó, giúp cho cơ quan Quản lý nhà nước thấy được tình hình hoạt động của các cơ quan, đơn vị hoặc cá nhân thuộc phạm vi quản lý của mình. Trên cơ sở đó để các cơ quan Quản lý nhà nước chấn chỉnh, xử lý kịp thời các vi phạm. Đồng thời, hoạt động thanh tra còn xem xét tính đúng đắn của cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm phát hiện những sơ hở, bất cập, chồng chéo để kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các quy định mới phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.

Nội dung hoạt động của Thanh tra huyện bao gồm: Một là, với tư cách là cơ quan chuyên môn, giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp Quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết Khiếu nại, tố cáo và Phòng chống tham nhũng, tiêu cực; Hai là, thực hiện nhiệm vụ thanh tra trong phạm vi Quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện; Ba là, thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết Khiếu nại, tố cáo và Phòng chống tham nhũng, tiêu cực theo quy định của pháp luật. Cụ thể:

Một là, quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng, tiêu cực: 

Với vị trí của Thanh tra huyện, trong lĩnh vực thanh tra, Thanh tra huyện giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện Quản lý nhà nước về công tác thanh tra và có nhiệm vụ, quyền hạn như sau: i) Xây dựng dự thảo kế hoạch thanh tra của Thanh tra huyện, báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp xem xét, quyết định trước khi gửi Thanh tra tỉnh tổng hợp vào kế hoạch thanh tra của tỉnh; ii) Tổ chức thực hiện nhiệm vụ của Thanh tra huyện trong kế hoạch thanh tra của tỉnh; thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp và của Ủy ban nhân dân cấp xã; iii) Thanh tra vụ việc khác khi được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp giao; iv) Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị của Thanh tra huyện và quyết định xử lý về thanh tra của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp; v) Tổng hợp, báo cáo kết quả công tác thanh tra [3].

Với quy định này, Thanh tra huyện sẽ không chủ động trong xây dựng và thực hiện kế hoạch thanh tra giống như quy định trong Luật Thanh tra năm 2010. Để tránh chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra, Điều 23 Luật Thanh tra năm 2022 quy định Thanh tra tỉnh có nhiệm vụ: “hướng dẫn Thanh tra huyện xây dựng dự thảo kế hoạch thanh tra để tổng hợp vào kế hoạch thanh tra của tỉnh trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch thanh tra của Thanh tra huyện” [3]. Qua đó cho thấy, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra trực tiếp của Thanh tra huyện sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào Thanh tra tỉnh nhưng đồng thời Thanh tra huyện vẫn có nhiệm vụ “thanh tra vụ việc khác khi được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giao”. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là nếu dự thảo kế hoạch thanh tra do Thanh tra huyện trình lên và Thanh tra tỉnh đưa ra khỏi kế hoạch thanh tra của tỉnh nhưng Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện vẫn giao Thanh tra huyện tiến hành khi thấy không trùng lặp, chồng chéo với nội dung kế hoạch thanh tra chung thì Thanh tra huyện vẫn phải thực hiện. Trong trường hợp này, việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong lĩnh vực thanh tra của Thanh tra huyện không khác gì so với quy định của Luật Thanh tra năm 2010. 

Hai là, thực hiện nhiệm vụ thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện:

Với đặc điểm là cơ quan thanh tra theo cấp hành chính, Thanh tra huyện có chức năng thanh tra hành chính mà không có chức năng thanh tra chuyên ngành. Thanh tra huyện giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp xem xét, đánh giá việc chấp hành pháp luật của các đối tượng thuộc quyền quản lý trực tiếp của Ủy ban nhân dân cấp huyện; tiến hành thanh tra theo đúng quy định pháp luật nhằm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý các sai phạm của họ; đồng thời kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nhằm làm cho bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, tạo dựng niềm tin của Nhân dân, là chìa khóa quyết định thành công của một chính quyền.

Ba là, thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo quy định của pháp luật:

Luật Thanh tra năm 2022 bổ sung thêm chức năng “thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân” – đây là một bước ngoặt lớn đánh dấu vai trò quan trọng của Thanh tra huyện trong lĩnh vực tiếp công dân tại địa phương. Tuy nhiên, quy định này sẽ tạo ra tính hai mặt như sau: Thanh tra huyện sẽ phải thực hiện nhiều công việc hơn, đổi lại chất lượng sẽ đảm bảo hơn bởi đội ngũ cán bộ, công chức (CB, CC) thanh tra có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao nhưng lại đặt ra vấn đề là tổ chức, hoạt động tiếp công dân ở cấp huyện sẽ thực hiện như thế nào? trong khi hiện tại Ban tiếp công dân được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Tiếp công dân và Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Như vậy, việc bổ sung thêm nhiệm vụ này của Luật Thanh tra năm 2022 cũng không làm thay đổi nhiều nhiệm vụ của Thanh tra huyện bởi trên thực tế công việc này vốn dĩ Thanh tra huyện vẫn thực hiện và vấn đề ở đây là dù công việc này thuộc trách nhiệm của cơ quan nào thì mục tiêu cuối cùng là giải quyết hiệu quả công tác tiếp công dân tại địa phương thì dường như chưa giải quyết được [4].

Nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan hành chính nhà nước trong đó có Ủy ban nhân dân cấp huyện là giải quyết Khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên, để thực hiện nhiệm vụ này không có nhiều cơ quan được giao nhiệm vụ. Ở cấp huyện, Thanh tra huyện luôn là cơ quan thường trực để tham mưu và giải quyết Khiếu nại, tố cáo. Đối với nhiệm vụ cụ thể, khoản 7 Điều 5 Thông tư số 02/2023/TT-TTCP ngày 22/12/2023 quy định rõ, có thể kể đến một số nhiệm vụ như: i) Thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về tiếp công dân, Khiếu nại, tố cáo đối với phòng, ban chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân xã, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị khác thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện theo quy định của pháp luật; kiến nghị các biện pháp tăng cường công tác giải quyết Khiếu nại, tố cáo thuộc phạm vi quản lý của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện; ii) Xác minh, báo cáo kết quả xác minh và kiến nghị biện pháp giải quyết vụ việc Khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện khi được giao; iii) Tiếp nhận, xử lý đơn; giải quyết Khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật [10].

Về thực hiện nhiệm vụ Phòng chống tham nhũng, tiêu cực căn cứ quy định tại khoản 8 Điều 5 Thông tư số 02/2023/TT-TTCP ngày 22/12/2023 Thanh tra huyện có nhiệm vụ, quyền hạn như sau: i) Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp Quản lý nhà nước về công tác Phòng chống tham nhũng, tiêu cực; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong công tác Phòng chống tham nhũng, tiêu cực theo quy định của pháp luật; ii) Phối hợp với Kiểm toán nhà nước, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), Tòa án nhân dân (TAND) trong việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý tham nhũng, tiêu cực; iii) Kiểm tra, giám sát nội bộ nhằm ngăn chặn hành vi tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động của Thanh tra huyện [10].

1.3. Yếu tố tác động đến tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện

1.3.1. Yếu chính trị 

Thể chế chính trị luôn giữ vai trò định hướng, chi phối toàn bộ các hoạt động trong xã hội. Theo Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” [2] với vai trò là hạt nhân chính trị trong hệ thống chính trị, Đảng lãnh đạo toàn diện, mọi mặt từ tổ chức đến hoạt động của toàn hệ thống chính trị, trong đó có Nhà nước. Không chỉ trong Hiến pháp quy định mà các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước đều được thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Quyền lực chính trị của Đảng được kết tinh, thể hiện trong các Cương lĩnh, Nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng và Đảng quyết định, chịu trách nhiệm về đường lối chính trị trên mọi mặt của đời sống chính trị – xã hội, tạo cơ sở tiền đề của từng cấp, từng ngành, trong đó có ngành Thanh tra.

Đảng lãnh đạo và Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa Cương lĩnh, đường lối của Đảng thành pháp luật, chính sách của Nhà nước. Nhà nước thể chế hóa pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật trên cơ sở đường lối chiến lược về đối nội, đối ngoại do Đảng lãnh đạo. Đảng quyết định tổ chức bộ máy nhà nước, bố trí, phân công cán bộ, kiểm tra hoạt động của bộ máy nhà nước, chỉ đạo công cuộc cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước. Vì thế, những quy định về tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra nói chung và Thanh tra huyện nói riêng phải được đặt trong khuôn khổ các quan điểm và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn và trực tiếp đến cách vận hành, tổ chức bộ máy nhà nước – là nền tảng góp phần ổn định, phát triển bộ máy nhà nước cũng như hoàn thiện tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra nói chung, Thanh tra huyện nói riêng. 

1.3.2. Yếu tố hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

Cần phải đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật, bởi các văn bản Quy phạm pháp luật này là khung pháp lý, cơ sở pháp lý đảm bảo cho tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện đảm bảo tính toàn diện, tính thống nhất và đồng bộ, tính phù hợp và tính hiệu quả. Tính toàn diện đòi hỏi hệ thống văn bản Quy phạm pháp luật có khả năng đáp ứng được đầy đủ nhu cầu điều chỉnh tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện, đồng thời phải ban hành đầy đủ các văn bản quy định chi tiết và các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định pháp luật trong những trường hợp cần có sự quy định chi tiết. Tính thống nhất và đồng bộ đòi hỏi các văn bản không được trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn các quy định, không chỉ thống nhất, hài hòa về mặt nội dung mà còn phải bảo đảm tính thứ bậc. Tính phù hợp thể hiện trên nhiều mặt như điều kiện chính trị – xã hội, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và điều kiện kinh tế.

Tính hiệu quả thể hiện việc ban hành các văn bản liên quan đến tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện phải bảo đảm hiệu quả, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước, của địa phương trong từng giai đoạn.

Tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và tổ chức, hoạt động của Thanh tra huyện nói riêng đều phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật, tuân theo pháp luật. Hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra qua từng thời kỳ từ Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945, Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, Luật Thanh tra năm 2004, 2010, hiện nay có Luật Thanh tra năm 2022 và các văn bản hướng dẫn thi hành ngày càng hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, có vai trò rất quan trọng trong việc xác định địa vị pháp lý của Thanh tra huyện. Thanh tra huyện là cơ quan nằm trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, do đó, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thanh tra huyện giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện Quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết Khiếu nại, tố cáo và Phòng chống tham nhũng, tiêu cực; thực hiện nhiệm vụ thanh tra trong phạm vi Quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện; thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết Khiếu nại, tố cáo và Phòng chống tham nhũng, tiêu cực theo quy định pháp luật. Vì vậy, tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện chịu sự điều chỉnh của các văn bản Quy phạm pháp luật và chịu sự ảnh hưởng của cơ quan Quản lý nhà nước cùng cấp trong tổ chức và hoạt động.    

Có thể thấy, hệ thống văn bản Quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra là hành lang pháp lý, là cơ sở để Thanh tra huyện thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong tổ chức và hoạt động thanh tra, là yếu tố tác động trực tiếp, có ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện.

1.3.3. Yếu con người  

Thực tế cho thấy, thanh tra có vai trò rất lớn trong quản lý nhà nước, tuy nhiên để thực hiện được điều này thì thiết kế tổ chức phải hợp lý. Nếu tổ chức thanh tra không hợp lý, thiếu tính liên kết, không quy định rõ về vị trí, chức năng, không thể hiện tính minh bạch trong nhiệm vụ, quyền hạn thì sẽ trở thành rào cản cho sự linh hoạt và tính trách nhiệm trong hoạt động thanh tra. Điều này đòi hỏi việc tổ chức, hoạt động của Thanh tra huyện phải bám sát Luật Thanh tra, phải xác định được đúng số lượng, chỉ tiêu biên chế trong mỗi cấp, mỗi cơ quan thanh tra tùy thuộc vào yêu cầu, tình hình thực tế của mỗi đơn vị.

Con người là chủ thể của quá trình sản xuất, là chủ thể của các mối quan hệ trong xã hội và giữ vai trò quyết định trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và Thanh tra huyện nói riêng. Con người bảo đảm cho mức độ hoàn thành công việc được giao, do đó, tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện chịu ảnh hưởng, tác động trực tiếp của con người mà cụ thể là đội ngũ Cán bộ, công chức thanh tra – đây chính là nhân tố chủ yếu hàng đầu của ngành Thanh tra, nhân tố hình thành nên tổ chức và trực tiếp tiến hành thanh tra. Bên cạnh đó, nhiệm vụ của đội ngũ Cán bộ, công chức thanh tra là thực thi công vụ, thực thi pháp luật, thực thi quyền lực nhà nước; đồng thời, chính họ đóng vai trò tham mưu, đề xuất, xây dựng chính sách, hệ thống pháp luật về thanh tra hoàn chỉnh và tiến bộ của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn rằng: “công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém” [8,tr.273], nghĩa là một đội ngũ Cán bộ, công chức thanh tra có chất lượng ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ thì tổ chức và hoạt động thanh tra sẽ đạt hiệu quả cao nếu không sẽ ngược lại; hiệu lực, hiệu quả của Thanh tra huyện nói riêng, của bộ máy nhà nước nói chung xét đến cùng được quyết định bởi năng lực, phẩm chất và hiệu quả công tác của đội ngũ Cán bộ, công chức thanh tra. Chính vì vậy, đội ngũ Cán bộ, công chức thanh tra cần đáp ứng một số tiêu chuẩn như sau: phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, hết lòng với Nhân dân, hết mình với công việc; phải có trình độ, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng công việc được phân công, trang bị các kỹ năng mềm để thực thi công vụ hiệu quả; không ngừng tu dưỡng, rèn luyện cả về tri thức lẫn thể chất để trở thành Cán bộ, công chức tốt, góp phần nâng cao vị thế, vai trò của ngành Thanh tra nói chung và Thanh tra huyện nói riêng, bởi vì “Cán bộ thanh tra như cái gương cho người ta soi mặt, gương mờ thì không soi được” [7]. 

Tóm lại, đội ngũ Cán bộ, công chức thanh tra ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện, đội ngũ có trình độ, chuyên môn, có phẩm chất, đạo đức công vụ thì tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện đạt hiệu quả và ngược lại.

Những yêu cầu cơ bản về chất lượng đội ngũ Cán bộ, công chức thanh tra sẽ là định hướng cho xây dựng chế độ đãi ngộ, đào tạo, tuyển dụng, bố trí Cán bộ, công chức thanh tra có năng lực, trình độ, phẩm chất.

1.3.4. Yếu tố kinh tế, cơ sở vật chất

Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện chịu sự tác động của trình độ phát triển của đất nước, bản thân mô hình tổ chức, hoạt động thanh tra được hình thành do yêu cầu khách quan, đòi hỏi của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Yếu tố kinh tế thể hiện ở chế độ tiền lương, phụ cấp cho Cán bộ, công chức làm công tác thanh tra, nhằm bảo đảm cho cuộc sống của họ ở mức trung bình khá của xã hội trở lên, giúp họ yên tâm công tác, hạn chế tiêu cực trong quá trình hoạt động (do tính chất đặc thù nghề nghiệp những người làm công tác thanh tra luôn phải đối mặt với những khó khăn, áp lực, cám dỗ). Ngoài ra công tác khen thưởng, động viên cũng có ý nghĩa to lớn nhằm giúp cho Cán bộ, công chức thanh tra thêm yêu, gắn bó hăng say với nghề. 

Cơ sở vật chất là yếu tố cơ bản “cần” và “có” trong quá trình hoạt động thanh tra. Nếu cơ sở vật chất không đạt yêu cầu, không chỉ ảnh hưởng đến năng suất làm việc của Cán bộ, công chức thanh tra mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra. Cơ sở vật chất bao gồm trụ sở làm việc, trang thiết bị làm việc, các vật tư, đồ dùng phục vụ tác nghiệp trong hoạt động thanh tra, giải quyết đơn thư như: bàn ghế, máy vi tính, thiết bị ghi âm, ghi hình – đây là các trang thiết bị cần thiết giúp hoạt động thanh tra tiến hành nhanh chóng, đạt kết quả tốt hơn. 

1.3.5. Yếu văn hóa, xã hội

Thực tiễn cho thấy, các yếu tố về tổ chức dân cư, truyền thống, thói quen, phong tục tập quán đã ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện pháp luật của Cán bộ, công chức và người dân, “Phép vua thua lệ làng” đây là yếu tố trực tiếp tác động đến hoạt động của Thanh tra huyện vì là cấp gần cơ sở, chịu tác động của văn hóa, tập quán, thói quen của người dân địa phương.

Trong xã hội, việc tổ chức dân cư dựa trên sự liên kết chặt chẽ của quan hệ huyết thống, họ hàng, làng xóm đã tồn tại từ lâu đời và rất phổ biến. Người ta thường nói rằng: “Một trăm cái lý không bằng một tý cái tình” cũng chính vì vậy đã dẫn đến tình trạng các Đoàn thanh tra thường có tâm lý e ngại, né tránh thanh tra, chỉ đôn đốc nhắc nhở. Điều này dẫn đến hoạt động của Đoàn thanh tra bị hạn chế, không đạt được mục đích đề ra. Ngoài ra, tư duy và hành động của đa số người dân địa phương thường xuất phát từ tư lợi nên dễ nảy sinh suy nghĩ lệch lạc, hành động tùy tiện dẫn đến vi phạm pháp luật khiến cho hoạt động thanh tra, giải quyết đơn thư thêm phần phức tạp.

Môi trường làm việc cũng ảnh hưởng đến tâm lý làm việc của Cán bộ, công chức thanh tra. Một môi trường lý tưởng sẽ tạo động lực cho Cán bộ, công chức thanh tra thoải mái làm việc, nhiệt huyết, nỗ lực hoàn thành tốt nhất công việc được giao. Ngược lại, nếu môi trường làm việc không như họ mong muốn, gò bó, căng thẳng dẫn đến nảy sinh tâm lý chán nản, khiến kết quả công viêc không đựơc cao.̣

Bên cạnh đó, để hoạt động thanh tra được tiến hành đúng tiến độ, kế hoạch, mục đích đề ra thì không thể thiếu mối quan hệ giữa Thanh tra huyện với các Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; tùy vào điều kiện, hoàn cảnh, tính chất vụ việc thì sự phối hợp là khác nhau. Sự phối hợp này có vai trò rất quan trọng nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra, góp phần đấu tranh phòng, chống các hành vi Vi phạm pháp luật khác trong Quản lý nhà nước. Để sự phối hợp thực sự chặt chẽ, linh hoạt thì Thanh tra huyện và các Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác trong quá trình phối hợp cần tuân thủ nguyên tắc đồng bộ, thống nhất, tuân thủ pháp luật, bảo đảm kịp thời, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định pháp luật.

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1, dưới góc độ lý luận đề tài đã hệ thống hóa được những vấn đề cơ bản liên quan đến tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện như: khái niệm, đặc điểm, vai trò Thanh tra huyện; quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện; yếu tố tác động đến tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện. Trong hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước, Thanh tra huyện là một mắt xích quan trọng, với vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn được quy định rõ và ngày càng hoàn thiện tại các văn bản quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý quan trọng để Thanh tra huyện phòng ngừa những nguy hại có thể ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan nhà nước; phát hiện sơ hở, hạn chế trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật và xử lý những hành vi trái quy định pháp luật. Từ đó, giúp Cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định pháp luật; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước là tiền đề phát triển mọi mặt đời sống kinh tế – xã hội. Để đạt được mục đích pháp luật quy định, Thanh tra huyện cần thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464