Khóa luận: Thực trạng tổ chức hoạt động Thanh tra tỉnh Hà Tĩnh

Thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh

2.1. Giới thiệu chung về huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh

  • Tiến trình thành lập huyện Đức Thọ:    

Trải qua các giai đoạn lịch sử, Đức Thọ đã có không ít tên gọi, mỗi tên gọi không đơn thuần chỉ là một danh xưng mà nó còn chứa đựng sự thăng trầm lịch sử của vùng đất này. Từ thuở vua Hùng dựng nước vùng đất này thuộc bộ Cửu Đức, trong các thế kỉ tiếp theo, tên gọi luôn có sự thay đổi từ Cửu Đức đến Đức Quang, từ Cổ La đến La Sơn, dù qua bao nhiêu lần đổi thay thì 2 từ gốc “Đức” và “La” vẫn được giữ nguyên. Cho đến năm 1959 thực hiện chủ trương xây dựng bộ máy tổ chức hành chính bốn cấp thống nhất của Nhà nước, phủ Đức Thọ và huyện La Sơn đổi tên thành huyện Đức Thọ cho đến ngày nay. Trải qua nhiều lần phân hợp, huyện Đức Thọ hiện nay có 16 đơn vị hành chính trong đó có 01 thị trấn Đức Thọ và 15 xã [14,15].

  • Điều kiện tự nhiên:

Vị trí địa lý: Đức Thọ là huyện nằm ở phía Bắc tỉnh Hà Tĩnh với diện tích tự nhiên trên 20.200 ha. Về địa giới, phía Đông giáp thị xã Hồng Lĩnh và huyện Can Lộc; phía Tây giáp huyện Hương Sơn; phía Nam và Tây Nam giáp huyện Vũ Quang; phía Bắc giáp 02 huyện Nam Đàn, Hưng Nguyên thuộc tỉnh Nghệ An. Điều đặc biệt là cả 03 mặt đều dựa lưng vào núi và có một hướng tỏa ra là hạ lưu sông La, sông Lam và xa hơn nữa là Biển Đông [14,15].

Về khí hậu: Đức Thọ nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, thời tiết hàng năm được phân chia hai mùa khá rõ rệt [14].

Về địa hình: địa hình Đức Thọ gồm núi đồi, đồng bằng và sông ngòi [14].

  • Điều kiện kinh tế – xã hội:         

Về kinh tế: cùng với phát triển nông nghiệp Đức Thọ đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và phát triển dịch vụ, thương mại. Có thể nói tình hình kinh tế của huyện đã có những chuyển biến tích cực, trong đó: Nông nghiệp chiếm 19,1%, Công nghiệp – Xây dựng chiếm 39%, Thương mại – Dịch vụ chiếm 41,9%; thu nhập bình quân đầu người đạt 54,7 triệu đồng/người/năm; tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 3,05% [15].

Về xã hội: huyện Đức Thọ là nơi tập trung khá đông dân cư sinh sống, dân số khoảng 101.000 người (trong đó có khoảng 9.996 giáo dân), trình độ dân trí khá cao và tương đối đồng đều [15].

Về cơ sở hạ tầng: huyện Đức Thọ có tuyến đường bộ cao tốc Bắc – Nam đoạn Diễn Châu – Bãi Vọt và quốc lộ 8A; tuyến đường sắt Bắc – Nam; tuyến đường sông do Trung ương, địa phương quản lý cùng với các tuyến đường liên xã, liên huyện, liên tỉnh tạo thành mạng lưới giao thông hợp lý, thuận lợi cho việc lưu thông, tăng tính kết nối. Điều đặc biệt của tuyến đường sông là nơi hợp lưu của hai con sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố tạo nên con sông La gọi là Bến Tam Soa [15].

Về tiềm năng du lịch: Đức Thọ là vùng đất có nhiều phong cảnh đẹp, có nhiều di tích lịch sử văn hóa lâu đời (ví dụ như: khu dịch vụ du lịch tâm linh: khu di tích cố Tổng Bí thư Trần Phú kết hợp với bến Tam Soa, nhà thờ Nguyễn Biểu; sông La) [15].

Xuất phát từ điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế – xã hội Đức Thọ đã có những bước phát triển đáng kể, đạt được thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực, nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần cho người dân. Song cũng không tránh khỏi những khó khăn, hạn chế do tác động mặt trái của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, vấn đề thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, những tranh chấp của Nhân dân diễn ra ngày càng nhiều và phức tạp. Các cơ quan chức năng vì một phần chuyên môn còn yếu, lực lượng thiếu, cá biệt trách nhiệm còn chưa cao nên công việc còn tồn đọng, không giải quyết kịp thời, ít nhiều đã ảnh hưởng đến lòng tin của Nhân dân đối với hiệu quả điều hành, lãnh đạo của chính quyền địa phương huyện Đức Thọ.

2.2. Thực tiễn tổ chức của Thanh tra huyện Đức Thọ

  • Vị trí, chức năng

Căn cứ Quyết định số 02/2023/QĐ-UBND ngày 12/12/2023 của Ủy ban nhân dân huyện Đức Thọ về việc ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra huyện, theo đó:

Thanh tra huyện Đức Thọ là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Đức Thọ, giúp Ủy ban nhân dân huyện Quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết Khiếu nại, tố cáo và Phòng chống tham nhũng, tiêu cực; thực hiện nhiệm vụ thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân huyện; thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết Khiếu nại, tố cáo và Phòng chống tham nhũng, tiêu cực theo quy định của pháp luật.

Thanh tra huyện Đức Thọ có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản riêng; chịu sự chỉ đạo, điều hành về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân huyện Đức Thọ mà trực tiếp là Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đức Thọ; đồng thời chịu sự chỉ đạo về công tác thanh tra, hướng dẫn về nghiệp vụ của Thanh tra tỉnh Hà Tĩnh [19].

  • Cơ cấu nhân sự

Hiện nay, Thanh tra huyện Đức Thọ có 04 đồng chí, bao gồm: 01 Chánh Thanh tra, 02 Phó Chánh Thanh tra và 01 Thanh tra viên. Theo quy chế làm việc, Thanh tra huyện phân công nhiệm vụ các đồng chí như sau:

  • Chánh Thanh tra huyện:

Chịu trách nhiệm trước Cấp ủy huyện, Ủy ban nhân dân huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đức Thọ về toàn bộ hoạt động của Thanh tra huyện Đức Thọ;

  • Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 32 Luật Thanh tra năm 2022;
  • Chỉ đạo thực hiện chức năng, nhiệm vụ tham mưu Quản lý nhà nước trên các lĩnh vực và thực hiện quyền thanh tra theo quy định của pháp luật. Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Cấp ủy huyện, Ủy ban nhân dân huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đức Thọ giao;
  • Quản lý, phân công nhiệm vụ và kiểm tra, đôn đốc thực hiện kế hoạch thanh tra và các nhiệm vụ quyền hạn đối với cán bộ cơ quan; phụ trách công tác tổ chức cán bộ, công tác thi đua khen thưởng, quản lý tài chính, tài sản và chủ tài khoản tạm giữ của Thanh tra huyện Đức Thọ;
  • Phối hợp với các cơ quan, phòng, ban, ngành cấp huyện và xin ý kiến chỉ đạo của Thanh tra tỉnh Hà Tĩnh để tham mưu, chỉ đạo công tác thanh tra, giải quyết KN, TC theo thẩm quyền;
  • Khi vắng mặt, ủy quyền cho Phó Chánh Thanh tra điều hành và giải quyết một số công việc cần thiết.

Đối với 02 Phó Chánh Thanh tra, chịu trách nhiệm trước Chánh Thanh tra huyện và trước pháp luật về thực hiện nhiệm vụ được giao; giúp Chánh Thanh tra huyện phụ trách, tham mưu một số lĩnh vực công tác:

  • Phó Chánh Thanh tra thứ nhất:

Phụ trách công tác Quản lý nhà nước về tiếp dân, giải quyết Khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của các tổ chức và công dân. Tham gia các cuộc tiếp dân và trực tiếp làm trưởng đoàn thanh tra, giải quyết Khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân huyện Đức Thọ;

Kiểm tra, đôn đốc, báo cáo về việc thực hiện các quyết định, kết luận giải quyết Khiếu nại, tố cáo của các cấp trên địa bàn huyện;

Tham mưu xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra hàng năm, đôn đốc việc lập, gửi báo cáo định kỳ và đột xuất theo quy định. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chánh Thanh tra huyện Đức Thọ.

  • Phó Chánh Thanh tra thứ hai:

Chỉ đạo, tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về công tác Phòng chống tham nhũng;

Kiểm tra, đôn đốc, báo cáo việc thực hiện kết luận thanh tra các cấp, kiểm toán trên địa bàn huyện. Tham gia và trực tiếp làm trưởng đoàn thanh tra, giải quyết KN, TC khi được phân công;

Tham mưu xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra hàng năm. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chánh Thanh tra huyện.

  • Thanh tra viên được giao nhiệm vụ:

Trực tiếp tham mưu và xây dựng báo cáo định kỳ tháng, quý, năm; sơ kết, tổng kết thuộc lĩnh vực thanh tra, tiếp dân, giải quyết Khiếu nại, tố cáo theo quy định;

Tham mưu công tác chuẩn bị các cuộc thanh tra, soạn thảo văn bản, quản lý hồ sơ, tài liệu lưu trữ sau thanh tra, giải quyết Khiếu nại, tố cáo, quản lý con dấu của Thanh tra huyện;

Tham gia các Đoàn thanh tra và thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chánh Thanh tra huyện.

Ngoài các nhiệm vụ được phân công, lãnh đạo Thanh tra huyện có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ trước Thanh tra tỉnh, Cấp ủy, chính quyền huyện [16].

Với cơ cấu gồm 04 đồng chí, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đội ngũ công chức thuộc Thanh tra huyện Đức Thọ được tổng hợp như sau:

Bảng 2.1 Bảng cơ cấu nhân sự Thanh tra huyện Đức Thọ năm 2024

Chức vụ

Trình độ Chuyên môn Nghiệp vụ (ngạch) Lý luận chính trị
Bậc đào tạo Loại hình đào tạo
Chánh Thanh tra Phó Chánh Thanh tra Thanh tra viên Sau Đại học Đại học Cao đẳng, Trung cấp Chính quy Vừa làm vừa học Thanh tra viên Chuyên viên, Cán sự Sơ cấp Trung cấp Cao cấp
01 02 01 01 03 0 03 01 04 0 0 01 03

Nguồn: Thanh tra huyện Đức Thọ

Từ số liệu trên cho thấy, đội ngũ công chức Thanh tra huyện Đức Thọ có trình độ chuyên môn từ Đại học trở lên (25% có trình độ Thạc sĩ Luật, 25% cử nhân Kinh tế ngành Kế toán, 50% cử nhân Kinh tế Nông nghiệp) đều tốt nghiệp theo các loại hình đào tạo trong hệ thống giáo dục Việt Nam và đáp ứng được chuẩn ngoại ngữ và công nghệ thông tin; 100% đáp ứng tiêu chuẩn bổ nhiệm vào ngạch thanh tra viên (cụ thể: 01 thanh tra viên chính, 03 thanh tra viên); 100% đội ngũ công chức đã qua bồi dưỡng lý luận chính trị (01/04 có trình độ trung cấp, 03/04 có trình độ cao cấp). Nhìn chung, với số lượng cũng như chất lượng của đội ngũ công chức Thanh tra huyện Đức Thọ hiện nay về cơ bản được tổ chức theo đúng quy định pháp luật.

2.3. Thực tiễn hoạt động của Thanh tra huyện Đức Thọ

2.3.1. Quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

Với chức năng của mình, Thanh tra huyện Đức Thọ trong thời gian qua đã tham mưu nhiều văn bản Quy phạm pháp luật, văn bản mang tính Quy phạm pháp luật trong lĩnh vực thanh tra, giải quyết Khiếu nại, tố cáo; Phòng chống tham nhũng và đôn đốc các quyết định có hiệu lực pháp luật như: Văn bản số 4288/UBND-TTr ngày 06/12/2022 về việc hướng dẫn triển khai thực hiện công tác kê khai, công khai bản khai tài sản, thu nhập hàng năm, bổ sung năm 2022; Văn bản số 12/UBKT-TTr ngày 15/12/2022 về đôn đốc việc thực hiện kê khai tài sản; Văn bản số 893/UBND-TTr ngày 14/4/2023 gửi Trưởng các phòng, ban, ngành, cơ quan, đơn vị thuộc huyện và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn chỉ đạo, điều hành chung về công tác tiếp công dân, giải quyết Khiếu nại, tố cáo, Phòng chống tham nhũng. Ngoài ra, Thanh tra huyện cũng làm tốt công tác phối hợp với Hội đồng phối hợp công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật huyện, phòng Tư pháp để tham mưu Ủy ban nhân dân huyện triển khai phổ biến, quán triệt các văn bản Quy phạm pháp luật về tiếp công dân, giải quyết Khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Đức Thọ dưới nhiều hình thức tuyên truyền và được đông đảo tầng lớp Nhân dân hưởng ứng [17,18].

Ngoài ra, Thanh tra huyện Đức Thọ đã làm tốt vai trò của mình trong việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị của Thanh tra huyện và quyết định xử lý về thanh tra của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện; quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý tố cáo của Chủ tịch UBND cấp huyện khi được giao. Cụ thể giai đoạn từ năm 2019 – 2023 Ủy ban nhân dân huyện và Thanh tra huyện ban hành 10 kết luận thanh tra có hiệu lực pháp luật, qua thực hiện các kết luận đã yêu cầu 20 tập thể và 38 cá nhân rút kinh nghiệm sâu sắc. Cũng trong thời gian này, Ủy ban nhân dân huyện đã đôn đốc, chỉ đạo các ngành, Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn tổ chức thực hiện 46 quyết định, kết luận về Khiếu nại, tố cáo có hiệu lực pháp luật (trong đó 34 quyết định giải quyết khiếu nại, 12 kết luận nội dung tố cáo); qua đây thi hành kỷ luật Đảng đối với 06 tổ chức, kết luận 02 Đảng viên thực hiện chưa tốt nội dung còn có khuyết điểm vi phạm nhưng chưa đến mức phải thi hành kỷ luật [17,18].

2.3.2. Thực hiện nhiệm vụ thanh tra

Thời gian qua, công tác thanh tra trên địa bàn huyện luôn được coi trọng và triển khai nghiêm túc, từ năm 2019 – 2023, Thanh tra huyện Đức Thọ đã đạt được một số kết quả như sau:

Bảng 2.2 Bảng số lượng các cuộc thanh tra của Thanh tra huyện Đức Thọ giai đoạn từ năm 2019 – 2023

Năm Tổng số cuộc Theo kế hoạch Đột xuất Tiến độ hoàn thành đúng Thu hồi tiền (triệu đồng)
2019 08 07 01 08 58.329.000
2020 05 05 0 05 63.968.000
2021 11 08 03 11 298.606.000
2022 09 09 0 09 125.369.000
2023 06 06 0 05 39.163.000
Tổng 39 35 04 38 585.435.000

Nguồn: Thanh tra huyện Đức Thọ

Trong 05 năm vừa qua, Thanh tra huyện đã tham mưu và trực tiếp tiến hành 39 cuộc thanh tra, trong đó có 35 cuộc thanh tra theo kế hoạch và 04 cuộc thanh tra đột xuất, kiến nghị thu hồi nộp về ngân sách nhà nước số tiền 585.435.000 đồng đạt 100% được triển khai trên nhiều lĩnh vực, cụ thể: Thanh tra công tác quản lý tài chính ngân sách, đầu tư xây dựng cơ bản, sử dụng kinh phí xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tại xã Tân Hương, An Dũng, Đức Lạng, Liên Minh, Trường Sơn, Tùng Ảnh, Thanh Bình Thịnh; Thanh tra các chuyên đề theo chỉ đạo của Thanh tra tỉnh và Ủy ban nhân dân huyện giao như Thanh tra việc mua sắm trang thiết bị y tế, sinh phẩm, kít xét nghiệm phòng chống dịch Covid-19 tại Trung tâm Y tế huyện Đức Thọ; Thanh tra công tác quản lý, sử dụng tài chính – ngân sách và các khoản đóng góp của cha mẹ học sinh tại trường Mầm non Liên Minh, trường Mầm non Trường Sơn, trường Tiểu học thị trấn Đức Thọ, trường Tiểu học Đức Thịnh, trường Tiểu học Tùng Ảnh, trường Trung học cơ sở Hoàng Xuân Hãn, trường Trung học cơ sở Lê Văn Thiêm; Thanh tra trách nhiệm chấp hành Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật phòng, chống tham nhũng tại các xã Hòa Lạc, Tân Dân, Bùi La Nhân [18].

  • Qua số liệu thống kê cho thấy:

Giai đoạn năm 2019 – 2023 Thanh tra huyện Đức Thọ tổ chức không nhiều các cuộc thanh tra (số lượng các cuộc thanh tra không quá 15 cuộc/ năm), đặc biệt năm 2020 chỉ tiến hành 05 cuộc thanh tra (nguyên nhân do dịch bệnh Covid-19 bùng phát nên mọi hoạt động đều tạm dừng trong đó có hoạt động thanh tra). Xét về cả giai đoạn 05 năm, điều này phản ánh được hiệu quả hoạt động thanh tra chưa cao, cơ quan chưa chủ động trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Tổng số cuộc thanh tra trong giai đoạn này không nhiều nhưng lại có sự chênh lệch số lượng các cuộc thanh tra giữa các năm, cụ thể: năm 2021 – 2022 số lượng các cuộc thanh tra tăng lên đột ngột (riêng năm 2021 có tới 03 cuộc thanh tra đột xuất), đặc biệt năm 2021 tăng gấp đôi so với năm 2020 và gần gấp đôi so với năm 2023. Điều này chứng minh rằng, hoạt động của Thanh tra huyện Đức Thọ chưa thực sự ổn định, đang còn chịu ảnh hưởng, chi phối từ nhiều yếu tố trong đó có yếu tố về nhân sự. Nguyên nhân số lượng các cuộc thanh tra tăng lên một phần cũng bởi năm 2021 là năm đánh dấu mốc quan trọng đối với đất nước – năm bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026 và cùng năm tại huyện Đức Thọ thực hiện dự án cao tốc Diễn Châu – Bãi Vọt, vì là sự kiện quan trọng nên cũng phát sinh rất nhiều vấn đề cần được thanh tra để làm rõ, tránh gây bức xúc dư luận.

Qua các cuộc thanh tra, Thanh tra huyện đã phát hiện ra sai phạm, chỉ ra được những hạn chế cần khắc phục của đối tượng thanh tra. Thanh tra huyện Đức Thọ với tinh thần khẩn trương, bám sát thực tiễn cộng với sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo mà các cuộc thanh tra được tiến hành có trọng tâm, trọng điểm, mang lại kết quả cao, khiến dư luận đồng tình. Cho thấy, Thanh tra huyện cũng đã làm tròn trách nhiệm của mình duy chỉ còn 01 cuộc thanh tra do tính chất phức tạp của vụ việc nên đã không hoàn thành đúng tiến độ.

2.3.3. Thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực 

  • Thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo:

Bảng 2.3 Bảng thống kê hoạt động tiếp công dân, tiếp nhận, phân loại và xử lý đơn thư giai đoạn từ năm 2019 – 2023 của huyện Đức Thọ

Năm Tổng số công dân tiếp Tiếp nhận đơn thư Phân loại đơn thư Kết quả xử lý đơn thư
Khiếu nại Tố cáo Kiến nghị, phản ánh Số đơn thuộc thẩm quyền huyện giải quyết Tỷ lệ hoàn thành
Khiếu nại Tố cáo Kiến nghị, phản ánh
2019 236 39 31 03 05 23 03 04 100%
2020 138 42 23 09 10 12 06 05 100%
2021 203 65 40 12 13 29 09 08 100%
2022 99 108 48 03 57 45 01 26 100%
2023 72 41 03 01 37 01 0 07 87,5%
Tổng 748 295 145 28 122 110 19 50 97,5%

Nguồn: Báo cáo kết quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2019 – 2023; phương hướng nhiệm vụ năm 2020 – 2024; Báo cáo tổng kết công tác thanh tra năm 2019 – 2023 của Thanh tra huyện Đức Thọ

Trong 05 năm vừa qua, huyện Đức Thọ đã tiếp 748 lượt người trong đó có 03 đoàn đông người (cụ thể: tiếp dân định kỳ: 258 lượt người, tiếp dân thường xuyên: 490 lượt người), tiếp nhận 295 đơn thư Khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Trong đó, có 179 đơn thư thuộc thẩm quyền giải quyết của Thanh tra huyện (cụ thể: 110 đơn khiếu nại, 19 đơn tố cáo và 50 đơn kiến nghị, phản ánh). Thực hiện nhiệm vụ được giao, Thanh tra huyện đã tiến hành kiểm tra, xác minh và có văn bản kiến nghị giải quyết 178/179 vụ việc, đạt tỷ lệ 97,5% (01 đơn thư khiếu nại của năm 2023 do tính chất phức tạp của vụ việc nên chuyển đơn sang kỳ sau giải quyết). Ngoài ra, với tinh thần trách nhiệm cao Thanh tra huyện Đức Thọ còn phối hợp với các phòng, ban xem xét giải quyết toàn bộ đơn thư thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân huyện [17,18]. So sánh với huyện Can Lộc là huyện tiếp giáp với Đức Thọ, có nhiều điểm tương đồng với huyện Đức Thọ, cùng kỳ huyện Can Lộc tiếp 1058 lượt người; tiếp nhận, xử lý 405 đơn thư Khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; Thanh tra huyện Can Lộc đã tiến hành kiểm tra, xác minh và có văn bản kiến nghị giải quyết 260/262 đơn thư, đạt 95,55% [5]. Qua đó cho thấy, hiệu quả hoạt động của Thanh tra huyện Can Lộc không cao bằng Thanh tra huyện Đức Thọ.

Từ thực tế tiếp nhận, xử lý và giải quyết đơn thư của huyện Đức Thọ trong 05 năm qua cho thấy: đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh chủ yếu về lĩnh vực đất đai như thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bồi thường giải phóng mặt bằng, dồn điền đổi thửa. Một trong những nguyên nhân chính là do trong một thời gian dài chính sách pháp luật về đất đai chưa được đồng bộ, thiếu cụ thể và nhất quán dẫn tới trong nhiều trường hợp việc thực hiện chính sách còn tùy tiện, không quan tâm đầy đủ đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất. Ngoài ra, với tâm lý “tấc đất tấc vàng” cộng thêm giai đoạn những năm 2019 – 2022 bất ổn địa – chính trị và kinh tế toàn cầu khiến giá đất ngày một tăng cao dẫn đến người dân có suy nghĩ chiếm đoạt, tư lợi.

Đối với đơn tố cáo, nảy sinh nhiều vào giai đoạn 2020 – 2021 khi quốc gia, địa bàn huyện có những đợt sinh hoạt chính trị quan trọng như: Đại hội Đảng các cấp, bầu cử đại biểu Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân các cấp. Người dân đã lợi dụng quyền dân chủ để tố cáo cán bộ chủ chốt các xã, thị trấn, các phòng ban Vi phạm pháp luật khi thực thi công vụ; triển khai nhiệm vụ không đúng với chính sách, pháp luật của Nhà nước gây thiệt hại cho công dân, tổ chức và Nhà nước. Các tố cáo sau khi thẩm tra, xác minh phần lớn đều sai sự thật toàn bộ hoặc một phần do thiếu căn cứ hoặc không xác định được hành vi Vi phạm pháp luật của đối tượng bị tố cáo. Điều này nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín của tập thể, cá nhân, phá rối nội bộ, làm ảnh hưởng đến việc bổ nhiệm các đồng chí vào các chức danh phù hợp với năng lực, trình độ của họ. Điều nguy hiểm và đáng lo ngại hơn là trong số những đơn thư tố cáo sai sự thật, thông tin bịa đặt còn có sự tiếp tay của một số cán bộ cơ hội, biến chất, kéo bè kết phái, xúi giục để một người nào đó đứng ra tố cáo theo kiểu “ném đá giấu tay”. Họ cố tình lan truyền thông tin sai sự thật, bịa đặt hòng làm giảm uy tín, danh dự của một cán bộ nào đó vì bản tính hơn thua, không muốn người khác vượt mặt mình [12].

  • Thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, tiêu cực:

Được giao là cơ quan tham mưu việc tổng hợp kết quả kê khai minh bạch tài sản, thu nhập, Thanh tra huyện đã phối hợp với phòng Nội vụ huyện tiến hành tổng hợp phục vụ chỉ đạo, triển khai Phòng chống tham nhũng của Ủy ban nhân dân huyện trong lĩnh vực này. Trong 05 năm, số cán bộ phải kê khai tài sản, thu nhập thể hiện:

Bảng 2.4 Bảng hoạt động tổng kê khai minh bạch tài sản của huyện Đức Thọ giai đoạn từ năm 2019 – 2023

Năm Tổng hợp cho năm Số lượng đơn vị kê khai Số người phải kê khai Số người đã kê khai Tỷ lệ hoàn thành
2020 2019 0 0 0 0
2021 2020 0 0 0 0
2022 2021 79 315 315 100%
2023 2022 81 303 303 100%
2024 2023 81 279 279 100%

Nguồn: Thanh tra huyện Đức Thọ

Chính phủ chưa ban hành Nghị định hướng dẫn về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và huyện Đức Thọ thực hiện việc kê khai tài sản, thu nhập theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 nên việc kê khai tài sản, thu nhập năm 2019, 2020 chưa thực hiện chỉ thực hiện kê khai được năm 2021, 2022, 2023.

Thực hiện kê khai tài sản, thu nhập theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ban hành ngày 30/10/2020 của Chính phủ về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, qua thanh tra cho thấy: 100% đơn vị thực hiện kê khai; số người đã kê khai/ số người phải kê khai: 100%; chưa phát hiện trường hợp kê khai thiếu trung thực; 100% bản kê khai được công khai theo quy định (trong đó số bản kê khai thực hiện công khai bằng hình thức công bố tại cuộc họp chiếm 70%, công khai bằng hình thức niêm yết tại trụ sở chiếm 29%, công khai bằng hình thức khác chiếm 1%); 100% bản kê khai được Thanh tra huyện tổng hợp nộp Thanh tra tỉnh theo đúng quy định pháp luật. Cơ quan triển khai 18 cuộc thanh tra tại 24 đơn vị theo kế hoạch, kết quả sau thanh tra: phát hiện xử lý 358.988.000 đồng, trong đó xử lý thu hồi về ngân sách nhà nước 263.929.000 đồng, kết quả đạt 100%. Qua thanh tra không phát hiện dấu hiệu tham nhũng [18].

Trong những năm qua, Thanh tra huyện Đức Thọ đã chủ động tham mưu cho Ủy ban nhân dân huyện Đức Thọ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện trong công tác Phòng chống tham nhũng kịp thời đáp ứng yêu cầu, tình hình thực tiễn của địa phương. Ngoài ra, cơ quan còn chủ động trong việc xây dựng kế hoạch thanh tra và trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện phê duyệt về thanh tra việc chấp hành các quy định pháp luật của đối tượng thanh tra thuộc quyền quản lý của Ủy ban nhân dân huyện Đức Thọ. Tiến hành xác minh kê khai tài sản, thu nhập theo quy định pháp luật về Phòng chống tham nhũng, tiến hành tổng hợp kết quả và báo cáo về công tác Phòng chống tham nhũng. Qua thanh tra đã phát hiện những hạn chế, thiếu sót của các đơn vị và kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện chấn chỉnh kịp thời, góp phần củng cố công cuộc Phòng chống tham nhũng, tiêu cực, tạo dựng niềm tin của Nhân dân vào chính quyền.

2.4. Đánh giá chung về tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện Đức Thọ

2.4.1. Ưu điểm về tổ chức, hoạt động của Thanh tra huyện Đức Thọ 

2.4.1.1. Ưu điểm về tổ chức

Thứ nhất, tổ chức của Thanh tra huyện Đức Thọ cơ bản được tổ chức theo đúng quy định pháp luật, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và tình hình thực tiễn tại địa phương. Cơ quan đã làm tốt việc phân công rõ từng thành viên phụ trách từng mảng chuyên môn, cơ bản bao quát được trên các lĩnh vực xã hội.

Thứ hai, Thanh tra huyện Đức Thọ đã đáp ứng được yêu cầu là cơ quan chuyên môn, tham mưu giúp Ủy ban nhân dân huyện Quản lý nhà nước về công tác tiếp công dân, thanh tra, giải quyết Khiếu nại, tố cáo và Phòng chống tham nhũng, tiêu cực.

Thứ ba, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của công chức thanh tra cơ bản đáp ứng được yêu cầu công việc (100% có trình độ Đại học trở lên, đã được bổ nhiệm vào các ngạch thanh tra viên khác nhau). Đội ngũ công chức thanh tra có lập trường chính trị, tư tưởng vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng và Nhà nước; ngoài ra, công chức trong cơ quan đều thực hiện tốt nội dung 05 điều kỷ luật của ngành, luôn nỗ lực, cố gắng học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Thứ tư, biên chế của đội ngũ công chức Thanh tra huyện Đức Thọ bố trí cơ bản phù hợp cả về số lượng lẫn chất lượng, có năng lực, khả năng xử lý công việc khá tốt.

Thứ năm, cơ quan thường xuyên quan tâm đến công tác củng cố tổ chức bộ máy thanh tra, xây dựng đội ngũ công chức thanh tra có trình độ năng lực, xây dựng lập trường tư tưởng chính trị cho công chức; thường xuyên quan tâm đến công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho công chức (ví dụ: cử 01 Thanh tra viên đi học lớp cao cấp lý luận chính trị; tạo điều kiện để 01 công chức tham gia chương trình đào tạo Tiến sĩ Luật).

2.4.1.2. Ưu điểm về hoạt động

  • Thứ nhất, đối với công tác thanh tra:

Khoảng thời gian từ năm 2019 – 2023 có nhiều khó khăn cả về mặt khách quan lẫn chủ quan nhưng Thanh tra huyện Đức Thọ đã chủ động nỗ lực, cố gắng nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ được giao. Cụ thể như: cơ quan chủ động xây dựng kế hoạch thanh tra, tiến hành thanh tra các vụ việc khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đức Thọ giao được giải quyết nhanh chóng, kịp thời nhưng vẫn tuân thủ quy định pháp luật về trình tự, thủ tục; chủ động tham mưu giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện trong công tác thanh tra góp phần tăng cường hiệu quả Quản lý nhà nước trên địa bàn huyện.

Chất lượng cũng như số lượng các cuộc thanh tra ngày càng được nâng lên, các cuộc thanh tra được tổ chức thực hiện tương đối toàn diện trên các lĩnh vực, tập trung vào những lĩnh vực nổi cộm, gây bức xúc dư luận, dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực.

Các cuộc thanh tra đã chỉ ra được những sai phạm của đối tượng thanh tra, kịp thời phát hiện và chấn chỉnh những thiếu sót công tác quản lý, góp phần nâng cao hiệu quả Quản lý nhà nước.

Cơ quan cơ bản hoàn thành tốt nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân dân huyện theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý về thanh tra, quyết định xử lý tố cáo.

  • Thứ hai, đối với công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo:

Cơ quan chủ động trong công tác tham mưu cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện trong công tác giải quyết Khiếu nại, tố cáo và tiến hành giải quyết Khiếu nại, tố cáo phần lớn đảm bảo đúng thời gian quy định góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong công tác Quản lý nhà nước trên địa bàn huyện.

Cơ quan đã tiến hành thanh tra trách nhiệm trong công tác tiếp công dân, giải quyết Khiếu nại, tố cáo; đã tiếp nhận nhiều đơn thư, tiến hành phân loại và chuyển đơn thư đến cơ quan có thẩm quyền xử lý, qua đó góp phần bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

  • Thứ ba, đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực:   

Cơ quan đã tiến hành thanh tra việc chấp hành các quy định pháp luật về Phòng chống tham nhũng và nhất là trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị. Qua thanh tra kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những khuyết điểm, thiếu sót trong công tác PCTN; kiến nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo các cơ quan, tổ chức, đơn vị nghiêm túc rút kinh nghiệm, khắc phục thiếu sót, hạn chế trong kết luận thanh tra.

Cơ quan phối hợp thực hiện tốt công tác phòng ngừa tham nhũng như: thực hiện nghiêm túc việc kê khai tài sản, thu nhập của Cán bộ, công chức; công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị.

2.4.2. Hạn chế về tổ chức, hoạt động của Thanh tra huyện Đức Thọ

2.4.2.1. Hạn chế về tổ chức

Thứ nhất, tính chủ động, độc lập của Thanh tra huyện Đức Thọ chưa cao, còn chịu phụ thuộc quá lớn vào cơ quan Quản lý nhà nước cùng cấp – Ủy ban nhân dân huyện Đức Thọ về nhân sự, kinh phí, trong việc xây dựng dự thảo kế hoạch thanh tra.

Thứ hai, về đội ngũ công chức: chất lượng đội ngũ công chức mặc dù từng bước được nâng cao nhưng nhìn chung chất lượng vẫn chưa được đảm bảo, vẫn còn tình trạng lười tiếp thu kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; tình trạng đi làm trễ nhưng lại về sớm. Tính ổn định của đội ngũ lãnh đạo, công chức không cao khi có 01 Thanh tra viên chuyển sang làm Kế toán văn phòng và có một thời gian Phó Chánh Thanh tra kiêm Giám đốc trung tâm hành chính công huyện. Sự thay đổi về nhân sự ít nhiều đã ảnh hưởng đến tổ chức, sắp xếp vị trí việc làm, trong khi hoạt động của cơ quan đòi hỏi tính ổn định cao.

Thứ ba, biên chế của Thanh tra huyện chỉ dừng lại ở mức đáp ứng đủ nhu cầu biên chế, đối với một số vụ việc đột xuất, cần giải quyết ngay đã dẫn đến tình trạng thiếu nhân lực phục vụ, lúc này một người có thể phải đảm nhiệm công việc của nhiều người, điều này dẫn đến chất lượng giải quyết công việc không cao. Bên cạnh đó, việc phân công nhiệm vụ cho từng thành viên trong cơ quan đã được quy định rõ trong quy chế làm việc nhưng trên thực tế nhiều công chức vẫn phải kiêm nhiệm thêm một số công việc khác.

Thứ tư, sự phối hợp giữa Thanh tra huyện Đức Thọ với các Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác trong việc thực hiện các quyết định, kết luận có hiệu lực pháp luật chưa thực sự chặt chẽ, linh hoạt.

2.4.2.2. Hạn chế về hoạt động

  • Thứ nhất, đối với công tác thanh tra:

Đối với các cuộc thanh tra cần phải trưng tập tới cán bộ của nhiều phòng, ban thì các thành viên được trưng tập thường không tập trung, hoàn thành không tốt các nhiệm vụ do trưởng đoàn phân công vì bị chi phối bởi hoạt động của phòng, ban; nhiều tồn tại, hạn chế liên quan tới chuyên môn ngành đó phụ trách không được đánh giá triệt để dẫn tới kết luận thanh tra chưa nêu được đúng bản chất, thực tế hoạt động của đối tượng thanh tra.

Một số cuộc thanh tra còn chưa đảm bảo thời gian theo quy định, vẫn còn tình trạng bị quá thời hạn quy định, chất lượng chưa thực sự cao, yêu cầu đặt ra nhất là đối với các cuộc thanh tra đột xuất.

Việc đôn đốc, chỉ đạo, thực hiện các kết luận, quyết định sau thanh tra, quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo còn thiếu quyết liệt dẫn tới nhiều kết luận, quyết định ban hành đã lâu nhưng vẫn chưa được triển khai, thực hiện dứt điểm khiến công dân liên tục có đơn thư vượt cấp gây phức tạp tình hình địa phương, ảnh hưởng đến niềm tin của người dân.

Hiệu quả thu hồi tiền trong thực hiện các quyết định, kết luận còn gặp nhiều khó khăn, chưa đạt yêu cầu đặt ra. Vẫn còn tình trạng một số đối tượng thanh tra không thực hiện quyết định thu hồi tiền về ngân sách của cơ quan có thẩm quyền quản lý, tuy nhiên Ủy ban nhân dân huyện và Thanh tra huyện cũng không thể có biện pháp khắc phục tình trạng trên.

  • Thứ hai, đối với công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo:

Công tác tập huấn nghiệp vụ, hướng dẫn, chỉ đạo về nghiệp vụ tiếp dân, xử lý đơn thư, giải quyết Khiếu nại, tố cáo còn hạn chế dẫn đến việc tổ chức tiếp công dân trên địa bàn huyện có nội dung chưa thống nhất, chất lượng không đồng đều, còn biểu hiện lúng túng trong việc giải thích, hướng dẫn công dân; việc xử lý đơn thư trong một số trường hợp còn thiếu tính chính xác nên tham mưu cho lãnh đạo Ủy ban nhân dân huyện giao các ngành giải quyết không phù hợp, không kịp thời khiến công dân phẫn nộ, bức xúc.

Kết luận thanh tra còn mang tính nể nang, ngại va chạm, chưa chỉ rõ được những thiếu sót, khuyết điểm để khắc phục cũng như trách nhiệm phải xử lý của người đứng đầu.

  • Thứ ba, đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực:

Công tác Phòng chống tham nhũng qua hoạt động thanh tra gặp nhiều khó khăn do một số Đoàn thanh tra có nội dung thanh tra phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng dẫn đến tiến độ thanh tra chậm, phần nào tác động đến hiệu quả công tác Phòng chống tham nhũng.

Chưa phát huy được tính tự giác của Cán bộ, công chức, Đảng viên và Nhân dân trong công tác đấu tranh Phòng chống tham nhũng; sự phối hợp giữa Thanh tra huyện với các cơ quan bảo vệ luật pháp như Tòa án, Viện kiểm sát, Công an chưa thực sự cao.

Việc thực hiện các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập còn nặng về hình thức do không đánh giá đúng thực tế tài sản và trung thực trong kê khai của các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đây là vấn đề nan giải chưa có hướng giải quyết.

2.4.3. Nguyên nhân của hạn chế về tổ chức, hoạt động của Thanh tra huyện Đức Thọ

2.4.3.1. Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, hệ thống văn bản Quy phạm pháp luật thanh tra vẫn còn hạn chế, thiếu đồng bộ, chưa quy định cụ thể, rõ ràng gây khó khăn trong thực tiễn:

Về vị trí, chức năng: với quy định tại Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành cho thấy Thanh tra huyện không thể độc lập trong tổ chức và hoạt động giống như Tòa án nhân dân hay Viện kiểm sát nhân dân được. Mọi hoạt động của cơ quan thanh tra sẽ chịu ảnh hưởng, tác động không nhỏ từ Ủy ban nhân dân huyện. Điều này phần nào ảnh hưởng đến tính chủ động, độc lập trong tổ chức và hoạt động thanh tra.

Hiện nay, Thanh tra huyện là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, trong khi đối tượng thanh tra lại là các Cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý trực tiếp của Ủy ban nhân dân huyện nên sẽ có sự nể nang, ngại va chạm khi tiến hành thanh tra. Do vậy, có lúc đã không phản ánh được tính khách quan, đầy đủ, đúng bản chất đối tượng thanh tra, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động thanh tra.

Với vị trí của Thanh tra huyện cho thấy quyền hạn thanh tra còn bị hạn chế. Thanh tra huyện chỉ dừng lại ở quyền kiến nghị xử lý nên hiệu quả thường không cao và chịu sự phụ thuộc vào thái độ tiếp thu cũng như biện pháp thực hiện các kiến nghị của cơ quan, tổ chức được Thanh tra huyện kiến nghị.

  • Về nhiệm vụ cụ thể:

Mâu thuẫn giữa hai văn bản Quy phạm pháp luật: căn cứ quy định tại Thông tư số 02/2023/TT-TTCP ngày 22/12/2023, Thanh tra huyện có nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các quyết định, kết luận có hiệu lực pháp luật. Đối với nhiệm vụ này, Nghị định số 33/2015/NĐ-CP ngày 27/3/2015 cũng quy định tuy nhiên đối tượng đôn đốc không có các quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo; cơ quan thanh tra cũng chỉ làm nhiệm vụ đôn đốc đơn thuần, biện pháp đôn đốc, kiểm tra, giám sát còn mang tính chung chung; không quy định các chế tài đối với các đối tượng chậm hoặc không thực hiện kết luận, đặc biệt là không có quy định về trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành quyết định, dẫn tới hiệu quả không cao, nhiều quyết định, kết luận qua thời gian dài nhưng vẫn chưa thể thực hiện dứt điểm.

Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-TTCP-NHNN ban hành ngày 25/11/2015 của Thanh tra Chính phủ – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc phong tỏa tài khoản của đối tượng thanh tra nhưng lại không quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục phong tỏa tài khoản nên thực tế việc tiến hành phong tỏa tài khoản của đối tượng thanh tra vẫn rất khó khăn và hiệu quả chưa cao.

Thanh tra huyện có chức năng giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp Quản lý nhà nước trên các lĩnh vực: thanh tra; tiếp công dân, Khiếu nại, tố cáo; Phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Tuy nhiên, sự phân định về phạm vi thanh tra không rõ ràng dẫn đến sự chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra, ảnh hưởng hiệu quả hoạt động thanh tra.

Luật Thanh tra và Luật Phòng, chống tham nhũng quy định chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra huyện trong công tác đấu tranh Phòng chống tham nhũng nhưng không phân bổ kinh phí cho hoạt động này nên ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của công tác này.

Về biên chế: biên chế của Thanh tra huyện là do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện quyết định trong khi pháp luật thanh tra hiện nay không quy định cụ thể biên chế là bao nhiêu nên việc quyết định nhân sự cho Thanh tra huyện còn mang nặng ý chí chủ quan cá nhân của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Đây thực sự là một rào cản lớn cho hoạt động thanh tra, bởi lẽ con người chính là chìa khóa quyết định hiệu quả của hoạt động thanh tra. Thực trạng trên sẽ dẫn đến một số công chức thanh tra phải đồng thời kiêm nhiệm thêm một số công việc khác.

Thứ hai, hệ thống văn bản Quy phạm pháp luật về pháp luật nội dung chưa hoàn thiện phần nào ảnh hưởng đến hoạt động thanh tra:

Hiện nay, Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có phương án xử lý đối với tài sản kê khai không trung thực. Bên cạnh đó, căn cứ vào quy định pháp luật hiện hành rất khó để xác định động cơ vụ lợi.

Luật Tố cáo không quy định về thời hiệu tố cáo nên thực tế có nhiều tố cáo về hành vi Vi phạm pháp luật đã diễn ra từ lâu, tính chất vụ việc không nghiêm trọng, không gây nguy hiểm cho xã hội nhưng cơ quan vẫn thụ lý và xem xét giải quyết. Thực tế như trên gây tốn kém, lãng phí, mất thời gian của cơ quan.

Luật Khiếu nại chưa có sự thống nhất giữa chủ thể có quyền khiếu nại, về quy định người giải quyết khiếu nại cũng còn bất cập.

Thứ ba, chế độ đãi ngộ chưa thỏa đáng. Với tính chất đặc thù của ngành, công việc đòi hỏi tính chuyên môn, nghiệp vụ cao nhưng chế độ tiền lương, phụ cấp chưa tương xứng với công sức của đội ngũ công chức. Điều này dẫn đến công chức thanh tra không tâm huyết với nghề, tính trách nhiệm không cao trong thực thi công vụ và thường không ổn định, chỉ xem đây là chỗ “trú chân”, khi có điều kiện sẽ chuyển sang vị trí việc làm mới, cơ quan mới.

Thứ tư, các cuộc thanh tra thường kéo dài nguyên nhân là do một số đối tượng thanh tra cản trở, chống đối, không hợp tác trong quá trình hai bên làm việc, không cung cấp thông tin, tài liệu hay cung cấp theo kiểu nửa vời, cung cấp không đúng; thậm chí cố tình gây ra nhiều khó khăn, thử thách để cản trở hoạt động của Đoàn thanh tra.

2.4.3.2. Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, chất lượng đội ngũ công chức thanh tra chưa được đảm bảo. Công tác tuyển dụng công chức thanh tra, bổ nhiệm vào ngạch thanh tra viên còn chậm, chưa đổi mới theo hướng đáp ứng yêu cầu chuyên nghiệp hóa đội ngũ công chức; việc tuyển dụng thường xuất phát điểm là cử nhân ngành Kinh tế, sau này mới đi học thêm các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ thanh tra, cần chú trọng tuyển dụng công chức tốt nghiệp ngành Luật – chuyên ngành Thanh tra hoặc tuyển dụng công chức đa ngành. Bên cạnh đó, trong tuyển dụng cơ quan chỉ mới chú trọng đến bằng cấp chứ chưa để ý đến năng lực thực sự, thái độ của công chức thanh tra.

Thứ hai, chưa có sự nhận thức đúng đắn, nhận thức mới về tầm quan trọng của Thanh tra huyện. Thực tế xã hội chưa thực sự coi trọng hoạt động thanh tra, còn có suy nghĩ tiêu cực về ngành, một số lãnh đạo và Thủ trưởng một số đơn vị của huyện vẫn có tư tưởng coi Thanh tra huyện là cơ quan giải quyết đơn thư, coi nhẹ hoạt động thanh tra.

Thứ ba, công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, xử lý sau thanh tra chưa kiên quyết; thiếu sự phối hợp giữa các ngành và trách nhiệm của một số đơn vị được giao nhiệm vụ giải quyết đơn thư có lúc còn hạn chế; còn biểu hiện ngại va chạm, né tránh và thiếu trách nhiệm trong giải quyết đơn thư.

Thứ tư, cơ sở vật chất và trang thiết bị của Thanh tra huyện Đức Thọ còn hạn chế, không đáp ứng được nhu cầu sử dụng khoa học công nghệ, ứng dụng khoa học công nghệ vào nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra chưa cao. Đa số hoạt động thanh tra vẫn đang thực hiện theo kiểu truyền thống, sử dụng phương pháp thủ công gây tốn kém về thời gian cũng như nhân lực.

Tiểu kết chương 2

Trong những năm qua, tổ chức Thanh tra huyện Đức Thọ từng bước được củng cố, tăng cường; cơ sở vật chất được trang bị đảm bảo cho hoạt động; việc thực hiện chế độ chính sách cho công chức làm công tác thanh tra được quan tâm. Hàng năm, cơ quan thanh tra đảm bảo tiến hành các cuộc thanh tra theo kế hoạch và đột xuất phần lớn đều hoàn thành đúng tiến độ; tỷ lệ giải quyết đơn thư của cơ quan thanh tra đều đạt tỷ lệ cao; các biện pháp Phòng chống tham nhũng được triển khai đồng bộ, đúng quy định, trên địa bàn huyện không xảy ra vụ án tham nhũng nào nghiêm trọng; các quyết định, kết luận tồn đọng lâu ngày đã được giải quyết dứt điểm, đã thiết lập được hệ thống theo dõi các quyết định, kết luận có hiệu lực.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, Thanh tra huyện Đức Thọ vẫn còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như cơ sở vật chất đã xuống cấp; biên chế chưa bố trí đủ, còn có công chức thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ; công tác thanh tra, giải quyết đơn thư, Phòng chống tham nhũng, tiêu cực, đôn đốc các quyết định, kết luận có hiệu lực pháp luật chất lượng chưa thực sự cao. Thực tế đó, đòi hỏi thời gian tới Thanh tra huyện Đức Thọ phải tiếp tục đổi mới để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464