Khóa luận: Thực trạng về nghi lễ hầu đồng trong thờ Mẫu

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng về nghi lễ hầu đồng trong thờ Mẫu hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: Tìm hiểu tín ngưỡng thờ mẫu tại đền Đồng Bằng – Thái Bình để phục vụ phát triển du lịch văn hóa tâm linh dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.3. Nghi thức hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu tại đền Đồng Bằng

2.3.1 Các thành phần được tham gia, trang phục và lễ vật trong nghi thức hầu đồng Khóa luận: Thực trạng về nghi lễ hầu đồng trong thờ Mẫu

Các thành phần chính tham gia.

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người dân Việt Nam, trong mỗi buổi hầu đồng ta thường nhìn thấy những người được coi là nhân vật chính trong mỗi buổi hầu đồng được gọi là ông đầu hoặc bà đồng, nhiệm vụ đó chính là nhảy múa và mời tất cả các vị thánh hiển linh và ban phát lộc cho dân chúng, dân làng. Thể hiện tình yêu thương che chở của người mẹ đối với lại các con của mình. Khi những điệu nhảy được bắt đầu đó cũng chính là lúc âm nhạc được vang lên. Một trong những làn điệu truyền thống của người dân Việt, đó là hát chầu văn không thể thiếu trong mỗi buổi chầu.

Và khi mà nói đến ông Đồng và bà Đồng đa số những người hầu đồng là do hoàn cảnh bản thân thúc ép, do di truyền gia tộc hay bản tính có căn đồng. Người nào có “căn” mà chưa ra trình Thánh thì thường bị bệnh tật, ốm đau, mà đây là thứ bệnh “âm”, chữa chạy bằng thuốc thang không khỏi, khi làm ăn thường thất bát, thua thiệt. Dân gian gọi hiện tượng này là “cơ đày”, tức người đang bị Thánh đày ải. Ra đồng rồi thì thường sức khoẻ hồi phục, làm ăn được hanh thông. Một khi đã bị Thánh “bắt lính”, tức ra trình đồng rồi thì hàng năm, tuỳ theo lịch tiết, đặc biệt là vào dịp “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, các Bà đồng, Ông đồng thường phải tổ chức làm lễ Lên đồng. Trong nghi lễ như vậy, theo quan niệm dân gian, các vị Thánh từ các miền khác nhau của vũ trụ bay về nhập hồn vào thân xác các Bà, Ông đồng.

Dàn nhạc hầu bóng (hầu đồng): gồm có 1 đàn nguyệt, 1 đàn nhị, 1 sáo, 1 trống lớn, 1 trống nhỏ, 1 cảnh đôi, 1 phách. Tùy từng địa phương, tùy hoàn cảnh hành lễ mà người ta có thể thêm bớt nhạc cụ này hoặc nhạc cụ khác, nhưng người ta không thể bớt đi đàn nguyệt, trống nhỏ, cảnh đôi vì đây là những nhạc cụ nòng cốt, nhạc cụ tính cách của dàn nhạc hầu bóng.

Nhân sự cho một buổi hầu đồng: Ngoài Ông đồng hay Bà đồng thường có thêm hai hoặc bốn phụ đồng (được gọi là nhị trụ hoặc tứ trụ hầu dâng) đi theo để chuẩn bị trang phục, lễ lạt…

Trang phục trong hình thức hầu đồng.

Trang phục: Có bao nhiêu giá đồng thì tương ứng với ngần ấy bộ trang phục và trang sức đi kèm. Dân gian truyền lại có 36 giá đồng tương ứng với 36 vị Thánh và điều đó có nghĩa là sẽ có 36 bộ trang phục dành cho các giá đồng. Vì vậy người hầu đồng sẽ phải chuẩn bị đầy đủ trang phục tùy theo định hầu mấy giá. Thường thì cần những trang phục sau đây: Khóa luận: Thực trạng về nghi lễ hầu đồng trong thờ Mẫu

Khăn đỏ phủ diện

Ít nhất là 5 chiếc áo dài mầu sắc khác nhau và một quần dài trắng.

Khăn tấu hương và một ít loại khăn khác.

Thắt đai lưng mầu.

Thẻ ngà, kiềng bạc, vòng, hoa tai, chuỗi hạt, xuyến, quạt và son phấn.

Tuy nhiên cũng có trường hợp, người hầu đồng chỉ cần một vuông vải đỏ. Màu sắc của trang phục phải phù hợp với màu sắc của từng phủ:

  • Miền trời, tượng trưng bằng màu đỏ (Thiên phủ)
  • Miền đất là màu vàng (Địa phủ)
  • Miền sông biển là màu trắng (Thoải phủ)
  • Miền rừng núi là màu xanh (Nhạc phủ).

Lễ vật trong hình thức hầu đồng.

Lễ vật trong mỗi vấn hầu trước kia thường đơn giản. Vật phẩm cơ bản gồm xôi, thịt, hoa quả, chầu, cau, rượu, thuốc, vàng mã,… Ngày nay, lễ vật ngày càng phong phú, gồm cả những sản phẩm hàng hóa công nghiệp, thực phẩm đương thời, đắt tiền, dùng trong cả lễ mặn và lễ chay.

Lễ vật trình đồng phải khác với lễ vật hầu bản mệnh hay tiệc khao, được trình bày trên một kỷ tháp hình chữ nhật kê chính giữa và gồm những thứ sau đây:

Chén đũa bạc, đĩa và cốc pha lê. Chính giữa là một cái gương trên phủ một chiếc khăn thêu. Hai bên bục và trước kỷ (bày bốn mâm lễ Tứ Phủ mỗi mâm có chín quả trứng, một cái lược, một cái quạt, một đôi guốc, chín vuông vải màu phủ lên trên. Màu phải là màu chính của Tứ Phủ (xanh, đỏ, trắng và vàng). Bên cạnh mâm lễ có một cái chung nhỏ, một cái thau nhỏ. Cứ mỗi lễ phải thay một hình nhân (nộm) và bốn lốt. Bên cạnh mâm lễ Tứ phủ là mâm lễ sơn trang, mà bất cứ thứ lễ gì cũng phải chia ra làm 13 phần. Một phần lớn bày ở giữa còn 12 phần nhỏ bày xung quanh. Ngay cạnh đó là một mâm hài sơn trang (hoặc giống) màu. Mũi hài có thêu hình chim phượng. Một trăm vàng thoi (giấy vàng xếp thành thoi).

Lễ mặn sơn trang gồm: có ốc, tôm, cá khô, cua (13 hoặc 15 con), mực, nếp cẩm, dừa tươi…

Lễ sơn trang về đồ chay thường có: 1 mâm hoa quả gồm khế chua sung chát gừng cay, chanh ớt, dứa…ở dưới bệ. Thường thì tán lộc sơn trang ở giá chầu bé hoặc cô bé hoặc bất kì giá chầu hoặc cô miền thượng. Trước bàn thờ bầy đủ các loại mã và một chiếc thuyền rồng hình cánh phượng có 12 hình nhân chèo thuyền, một đôi ngựa và một đôi voi có đủ yên cương và hàm thiếc. Những đồ dùng mã người ta sẽ hóa (đốt) sau khi lễ xong. Ngày nay lễ vật có thay đổi đôi chút tùy nơi, tuy nhiên vẫn phải giữ căn bản tối thiểu tùy đồng tiền dâng cúng.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

2.3.2. Trình tự hầu đồng Khóa luận: Thực trạng về nghi lễ hầu đồng trong thờ Mẫu

Bắt đầu buổi hầu đồng người ta đặt các lễ vật lên hương án. Người hầu đồng để các dụng cụ lên chiếu đồng, bước lên chiếu đồng, lấy hoa xoa lên mặt, quần áo rồi vẩy xung quanh để tẩy trang. Cung văn lên giây đàn, dạo nhạc, hát văn cộng đồng.

Ba động tác tiên khởi mà người hầu đồng phải làm là: Chấp tay chờ cho phụ đồng phủ khăn diên lên đầu trùm cả tay xong thì đưa tay lên trán rồi bước chân trái lên một bước, chân phải chụm lên với chân trái, lặp lại thêm hai lần mới quỳ xuống. Người hầu đồng làm lễ vái dập người, hai tay chống xuống chiếu, mặt úp sát, vái ba lễ. Sau đó đứng dậy đi dật lùi ba bước về vị trí cũ. Giá đệ nhất được bắt đầu.

Cũng như giá đầu, khi sang một giá khác, người hầu đồng sau khi thay đổi trang phục và lễ cụ sẽ bước lên chiếu đồng, cung văn chuẩn bị tấu nhạc. Người phụ đồng kính cẩn đưa một chiếc khăn phủ diện mầu đỏ. Hầu đồng cầm khăn, vái mấy vái rồi phủ lên đầu, hai tay cầm hai mép khăn phủ ở đầu gối. Một lúc sau đầu hầu đồng lắc lư, đảo đảo rồi bất ngờ hét lên một tiếng, chỉ ngón trỏ trái lên trời. Đó là dấu hiệu giá quan lớn đệ nhất nhập đồng.

2.3.3 Trình tự của một giá đồng

Thay Lễ phục:

Mỗi vị thánh đều có lễ phục riêng phù hợp với danh hiệu của vị đó và màu sắc cũng khác biệt tùy từng Phủ, từng gốc tích sắc tộc gốc, phẩm hàm cũng như văn hay võ.

Dâng hương hành lễ.

Đây là một nghi thức không thể thiếu được cho bất cứ giá nào. Hầu đồng tay trái cầm một bó nhang đã đốt sẵn, bọc trong một chiếc khăn có tẩm hương. Tay phải rút một nén nhang rồi hơ lên bó nhang trong tay làm động tác phù phép mà ngôn ngữ hầu đồng gọi là khai nông, để xua đuổi tà ma.

Lễ thánh giáng.

Khi hầu đồng có thánh nhập vào thì buông các nén hương đang cầm theo tay chắp, nghiêng mình ra hiệu thánh thuộc hạng thứ bậc nào. Khóa luận: Thực trạng về nghi lễ hầu đồng trong thờ Mẫu

Có hai hình thức thánh giáng:

  • Giáng trùm khăn (hầu tráng mạn) với các giá Thánh Mẫu. Mẫu chỉ đến chứng giám rồi đi ngay.
  • Giáng mở khăn – với các hàng quan trở xuống.

Khi thánh đã nhập, người hầu đồng không còn là người phàm nữa, xuất thần, tự thôi miên đã giúp cho họ nhảy múa một cách uyển chuyển, nhịp nhàng mà bình thường họ không làm được. Đó chính là hứng khởi mang tính tâm linh tôn giáo (chỉ có ở một số người).

Múa đồng.

Múa đồng là một hình thức diễn xướng đã được cách điểm hóa, khẳng định sự ứng nhập của thần linh. Bởi vậy động tác múa khác nhau tùy theo từng vị thánh. Nhưng chung chung thì thấy có ảnh hưởng của chèo và vũ điệu dân gian.

Mỗi động tác múa trong các giá chầu phản ánh con người thật của vị thánh giáng đồng và thay đổi theo đặc điểm của “giá”. “Giá” quan thường múa cờ, múa kiếm, long đao, kích. Giá các chầu bà thì múa quạt, múa mồi, múa tay không. Giá ông hoàng thì có múa khăn tấu, múa tay không, múa cờ. Giá các cô múa quạt, múa hoa, chèo đò, múa thêu thùa, múa khăn lụa, múa đàn, múa tay không. Giá các cậu thường múa hèo, múa lân…Trước khi sử dụng lễ cụ, người hầu đồng bắt chéo hai dụng cụ lên trước trán, sau đó cúi đầu làm lễ. Khi múa xong một giá, người hầu đồng lại bắt chéo hai lễ cụ trước trán để tạ lễ.

Nghi lễ Thánh giáng phải theo thứ tự từ cao đến thấp: Cao nhất là Thánh Mẫu (Tứ vị Thánh Mẫu), sau đó là hàng Quan (Ngũ vị quan lớn), Chầu (Tứ vị Chầu bà), Ông Hoàng (Ngũ vị ông Hoàng), Cô (thập nhị Vương cô), Cậu (thập vị Vương cậu), tổng cộng có đến 50-60 vị. Tuy nhiên, không phải tất cả các vị Thánh Tứ phủ đều nhập đồng, mà chỉ có một số, nhiều nhất là 36 vị nên mới có 36 giá đồng. Bình thường chỉ trên dưới 20 vị Thánh nhập trong một nghi lễ hầu đồng.

Ban Lộc và nghe Văn chầu.

Sau khi đã múa các thánh thường ngồi nghe cung văn hát, kể sự tích lai lịch vị thánh đang giáng. Với các giá ông Hoàng thì cung văn ngâm các bài thơ cổ. Thánh biểu hiện sự hài lòng bằng động tác về gối và thưởng tiền cho cung văn. Lúc này cũng là lúc, Thánh dùng những thứ người hầu đồng dâng như: rượu thuốc lá, chầu nước..v.v. Các thứ thánh dùng phải làm nghi thức khai cương (khai quang) cho thanh sạch. Lúc này những người ngồi dự chung quanh đến gần để cầu xin hoặc nghe thánh phán truyền. Và đây cũng là lúc thánh phát lộc. Lộc thánh gồm nhiều thứ như: hoa quả, bánh trái, gương lược, tiền bạc, nén nhang cháy..v.v.

Thánh thăng.

Cuối cùng là dấu hiệu thánh thăng. Người hầu đồng ngồi yên, hai tay bắt chéo trước trán quạt che lên đỉnh đầu, khẽ rung mình, lúc ấy hai người phụ hầu đồng cấp tốc phủ khăn diện lên đầu người hầu đồng, cung văn nổi nhạc và hát điệu thánh xa giá hồi cung – kết thúc một giá đồng.

2.4. Thông tin về hoạt động du lịch tại đền Đồng Bằng

2.4.1. Phương tiện tìm hiểu về di tích Khóa luận: Thực trạng về nghi lễ hầu đồng trong thờ Mẫu

Nhìn vào kết quả điều tra ở bảng 1.1 ta có thể nhận thấy rằng, hình thức truyền miệng thực sự rất có hiệu quả đối với việc truyền bá hình ảnh điểm đến tâm linh – đền Đồng Bằng, phương thức này chiếm đến 51%. Điều này cho thấy, du khách biết đến đền Đồng Bằng chủ yếu thông qua lời giới thiệu của bạn bè người thân, đây được xem là một phương thức quảng bá hữu hiệu và tiết kiệm chi phí nhất. Điều này cũng báo hiệu rằng, những phản hồi và đánh giá của du khách về điểm đến là rất tốt, nhờ vậy mà những người được truyền đạt mới có mong muốn được đến đây để trải nghiệm ít nhất một lần. Kênh thông tin quan trọng đứng thứ hai chiếm 30% đó là thông qua Internet, sách báo, tạp chí.

Ngày nay, với sự phát triển vượt bật của công nghệ thông tin và xu thế toàn cầu hóa, thì Internet đã trở thành một công cụ phổ biến giúp con người tìm kiếm thông tin một cách nhanh chóng và dễ dàng nhất. Vì vậy mà 30% du khách được điều tra cho biết, họ đã tìm kiếm và tiếp cận những thông tin về đền Đồng Bằng 69 thông qua Internet, sách báo, tạp chí, đây cũng là một trong những phương tiện thông tin hiệu quả giúp cho việc quảng bá, giới thiệu đền Đồng Bằng cho du khách ở khắp nơi được dễ dàng hơn. Ngoài ra một bộ phận truyền thông không kém phần quan trọng khác đó chính là các công ty lữ hành, các văn phòng du lịch (chiếm 17%), họ cũng chính là những người trực tiếp giới thiệu đến du khách những thông tin nỗi bật về điểm đến và cũng là những người góp phần vào việc thuyết phục du khách đưa ra những quyết định lựa chọn điểm đến, bằng những hiểu biết và sự khéo léo của mình. Ngoài ra còn một số phương tiện thông tin khác chiếm 2%.

2.4.2. Số lần đến di tích

Nhìn vào bảng thống kê tỷ lệ phần trăm số lần đến di tích của du khách ta có thể thấy rằng, đa phần du khách đến với Đền Đồng Bằng lần đầu tiên, con số này chiếm 55%, lần thứ 2 chiếm 27%, lần thứ 3 chiếm 14% và có những người đã đến trên 4 lần chiếm 4%. Phần lớn du khách đến đây lần đầu cho thấy Đền Đồng Bằng đang ngày một biết đến nhiều hơn, ngày càng có nhiều người muốn một lần đến đây để tham quan vãn cảnh, để cầu xin những điều may mắn, để thỏa mãn mục đích tâm linh của mình. Ngoài ra cũng có những người đến lần thứ 2, thứ 3, thậm chí thứ 4 trở lên, chứng tỏ có rất nhiều người tin tưởng vào tính linh thiêng của điểm đến tâm linh này, mỗi lần gặp những khó khăn trong cuộc sống hay có những điều cần cầu xin, họ điều tìm đến đây. Cũng có thể có nhiều người yêu thích cảnh đẹp và sự yên bình thanh tịnh nơi đây, vì vậy mà họ thường xuyên tìm đến những lúc mệt mỏi để tìm kiếm sự bình yên và thanh thản trong tâm hồn.

2.4.3. Hình thức du lịch khi đến di tích Khóa luận: Thực trạng về nghi lễ hầu đồng trong thờ Mẫu

Đa phần khách du lịch đến đây đều đi theo hình thức tự tổ chức chiếm 67%. Vì phần lớn khách du lịch đến đây điều muốn chủ động sắp xếp thời gian sao cho hợp lý và phù hợp với mục đich của mình, họ muốn đến bất cứ lúc nào có nhu cầu và có khả năng, và loại hình này phần lớn được lựa chọn bởi những người dân trên chính địa bàn tỉnh và ở các tỉnh thành lân cận có khoảng cách địa lý gần. Tuy vậy hình thức đi theo Tour du lịch trọn gói cũng được nhiều người lựa chọn khi đến với di tích (chiếm 33%), điều này cho thấy Đền Đồng Bằng cũng là một điểm du lịch tâm linh được chú ý và được đưa vào trong chương trình du lịch của nhiều công ty lữ hành.

2.4.4. Mục đích đến di tích

Mục đích chung

Qua quá trình điều tra khảo sát đối với 100 du khách đến tham quan tại đền Đồng Bằng về mục đích đến di tích của họ, có thể rút ra một nhận xét rằng, du khách đến với đền Đồng Bằng bởi rất nhiều mục đích khác nhau, tuy nhiên mục đích chủ yếu được rất nhiều người lựa chọn đó là đến di tích để cầu xin những điều may mắn và đến để tham quan vãn cảnh thư giản, bên cạnh đó còn có một số mục đích khác, ta có thể xem kết quả ở bảng dưới đây:

Đền Đồng Bằng ngày nay được biết đến là một điểm di tích tâm linh mang tính linh thiêng và giàu giá trị văn hóa lịch sử. Nơi đây vừa là chốn thờ tự tôn nghiêm, nơi đặt điện thờ vua cha Bát Hải và ba vị thánh Mẫu. Bởi vậy mà có đến 71% du khách đến đây với mục đích để cầu xin những điều may mắn cho bản thân và gia đình. Điều này nói lên sự linh ứng và niềm tin tưởng lớn lao của du khách vào vùng đất linh thiêng này.

Đến di tích để tham quan vãn cảnh

Ngày nay, đền Đồng Bằng được nhiều người biết đến không chỉ vì đây là một điểm đến tâm linh mà còn là một điểm di tích với lối kiến trúc và cảnh quan môi trường đẹp nổi tiếng. Những công trình kiến trúc đặc sắc ở đây đã được các nghệ nhân bố trí một cách khéo léo, hài hòa vào một khung cảnh thơ mộng. Bầu không khí ở đây cũng trong lành và yên tĩnh lạ thường. Bởi vậy mà có đến 68% du khách cho biết rằng mục đích họ đến đây còn là để tham quan, vãn cảnh. Đến di tích để tìm hiểu về nghệ thuật kiến trúc, văn hóa lịch sử. Có 27% du khách cho rằng họ đến đây để tìm hiểu về lịch sử văn hóa và nghệ thuật kiến trúc ở đây. Đền Đồng Bằng được xây dựng để tưởng nhớ công lao của vị anh hùng dân tộc –vua cha Bát Hải– người đã hy sinh lợi ích bản thân để mở mang bờ cõi cho đất nước. Bởi vậy nó mang một giá văn hóa – lịch sử rất to lớn, tái hiện lại lại lịch sử hào hùng của dân tộc ta. Bên cạnh đó, các công trình kiến trúc ở đây, dưới bàn tay tài hoa của các nghệ nhân xưa, đã hội tụ rất nhiều tinh hoa từ những giá trị tạo nên những tác phẩm nghệ thuật kiến trúc độc đáo mà ít nơi nào có được. Những giá trị văn hóa lịch sử và nghệ thuật kiến trúc độc đó, đã góp phần làm cho nơi đây trở thành nguồn cảm hứng nghiên cứu và sáng tác nghệ thuật của các nhà Văn học, Sử học, các nhà kiến trúc hay nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp, những sinh viên đại học du lịch mong muốn đến tìm hiểu để phục vụ cho quá trình học tập và cả những du khách có mong muốn tìm hiểu kết hợp với mục đích tâm linh. Khóa luận: Thực trạng về nghi lễ hầu đồng trong thờ Mẫu

Mục đích khác

Ngoài những mục đích được kể trên, du khách còn đến đây vì một số mục đích khác (chiếm 10%)như: họ là những hướng dẫn viên du lịch dẫn khách đến tham quan; hay là những nhiếp ảnh gia đến để thực hiện những bức hình nghệ thuật; có thể là sinh viên đại học/cao đẳng đến để thực tập, nghiên cứu..v.v…

Mục đích đến mang tính tâm linh

Cầu may mắn, sức khỏe, bình an, thành công trong sự nghiệp

Sức khỏe, may mắn, bình an là những điều mà con người luôn mong muốn có được trong cuộc sống trước khi nghĩ đến tiền bạc vật chất, và tiếp theo đó là công danh sự nghiệp. Cho nên phần lớn du khách đến đây (chiếm 69%) điều cầu mong được những điều đó cho bản thân hoặc người thân, bạn bè. Con số 69% thể hiện niềm tin rất lớn của du khách đối với di tích.

Tỏ lòng thành kính tri ân đối với các vị anh hùng có công với dân tộc, đất nước.

Đền Đồng Bằng là một điểm đến tâm linh hội đủ cả hai yếu tố đó là tôn giáo và tín ngưỡng – cụ thể đạo Mẫu và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Bởi vậy mà một mục đích tâm linh cũng nằm trong mong muốn của hơn 70% du khách đến đây đó là tỏ lòng tri ân đối với các vị anh hùng có công với dân tộc đất nước. Thông qua việc cúng vái, dâng hương, cầu nguyện… tất cả du khách đến đây điều mong muốn thể hiện lòng biết ơn, kính trọng và niềm tin vào sự hiển linh của các vị anh hùng dân tộc.

Cầu mong sự thoải mái, bình yên, thanh thản trong tâm hồn

Ngày nay, khi mà cuộc sống ngày càng xô bồ, phức tạp. Con người đôi khi đã vô tình hoặc cố tình gây nên những tội lỗi, những việc làm trái lương tâm, trái với giáo lý. Vì vậy mà khi nhận ra, họ rất mong muốn tìm đến một nơi nào đó có thần linh, có thánh Mẫu để cầu xin sự tha thứ và bình an trong tâm hồn. Vì vậy mà cũng có khá đông du khách (42%) tìm đến với đền Đồng Bằng với mục đích đó.

Một số mục đích tâm linh khác:

Ngoài những mục đích tâm linh kể trên, còn có một số mục đích đến tâm linh khác cũng được du khách lựa chọn đó là: cầu mong tình duyên; cảm nhận sự chở che, đỡ nâng của các thánh thần và tìm niềm tin trong cuộc sống; một số cầu mong cho người thân đã mất được siêu thoát, hay rộng hơn là cầu mong cho thế giới được hòa bình, người dân an lạc..v.v… tất cả điều thể hiện những mong muốn của con người cho cuộc sống của bản thân và xã hội ngày càng tốt đep hơn. Tất cả điều thể hiện niềm tin mãnh liệt của du khách đối với điểm đến tâm linh này.

Tiểu kết chương 2

Tín ngưỡng thờ Mẫu tại đền Đồng Bằng tỉnh Thái Bình thể hiện ở nhiều phương diện bao gồm: Địa bàn thờ Mẫu, nhân vật Mẫu thờ phụng và cách bài trí và các hoạt động diễn ra. Ở mỗi một biểu hiện, tín ngưỡng thờ Mẫu đều thể hiện những đặc điểm mang dấu ấn bản địa sâu sắc. Càng hiểu được rõ thêm tín ngưỡng thờ Mẫu được phát triển như thế nào tại đền Đồng Bằng. Điều đó ảnh hưởng từ ba nhân tố quan trọng là vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên – xã hội và hoàn cảnh lịch sử. Ba yếu tố đó tạo sự hình thành và phát triển tín ngưỡng thờ Mẫu tại đền Đồng Bằng.

Các hoạt động thờ Mẫu được diễn ra sôi nổi trên khắp địa bàn đền Đồng Bằng thông qua hoạt động Lên đồng và Lễ hội. Lên đồng là một trong những nghi lễ Hội luôn là phần sôi nổi, thu hút sự tham gia đông đảo của dòng người đến quan trọng trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Hoạt động Lên đồng diễn ra với tần suất thường xuyên trên địa bàn đền Đồng Bằng. Không chỉ diễn ra với tần suất thường xuyên mà những nơi này còn thu hút đông đảo người dân đến tham dự. Phần Lễ được tổ chức trang nghiêm, long trọng dưới sự chứng kiến của mọi người, còn phần trảy hội. Theo thời gian, lễ hội tín ngưỡng thờ Mẫu tại đền Đồng Bằng phát triển không ngừng và luôn chiếm một vai trò chủ đạo. Từ đó đã trở thành một nét văn hóa tốt đẹp của người dân Thái Bình. Khóa luận: Thực trạng về nghi lễ hầu đồng trong thờ Mẫu

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY

===>>> Khóa luận: Giải pháp phát triển du lịch tại đền Đồng Bằng

3 thoughts on “Khóa luận: Thực trạng về nghi lễ hầu đồng trong thờ Mẫu

  1. Pingback: Khóa luận: Tổng quan về đền thờ Đồng Bằng ở Thái Bình

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464