Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng về giám sát hàng tại cảng Đình Vũ hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: Hoàn thiện công tác giám sát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ – Hải Phòng dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.2 Thực trạng công tác giám sát hải quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ
2.2.1 Thực trạng về đội ngũ cán bộ GSHQ tại Chi cục
Bảng 2.4: Số lượng cán bộ GSHQ tại Chi cục
Qua số liệu trên cho thấy, biên chế của Đội GSHQ có xu hướng tăng trong giai đoạn từ 2013 đến 2017. Số lượng cán bộ làm công tác GSHQ tại Chi cục trung bình chiếm tỷ lệ 40% trên tổng số cán bộ công chức toàn Chi Cục, cụ thể:
Năm 2013 số cán bộ công chức GSHQ là 35 người chiếm tỷ lệ 39,8%; Năm 2014 là 36 người chiếm tỷ lệ 40%; Năm 2015 là 37 người chiếm tỷ lệ 39.8%; Năm 2016 là 38 người chiếm tỷ lệ 40%; Năm 2017 là 39 người chiếm tỷ lệ 39,8%.
Cán bộ làm công tác GSHQ tại Chi cục chủ yếu từ hai nguồn: tuyển dụng mới và điều chuyển, luân chuyển từ các Phòng ban, Chi cục bộ phận nghiệp vụ khác. Công tác luân chuyển cán bộ làm công tác GSHQ được triển khai theo quy định trong quy chế bắt buộc phải luân chuyển vị trí theo định kỳ theo quy định của ngành Hải quan bao gồm cả luân chuyển cán bộ theo tính chất công việc và luân chuyển cán bộ theo địa bàn công tác. Chính yêu cầu về luân chuyển cán bộ đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc ổn định của lực lượng GSHQ tại Chi cục. Khóa luận: Thực trạng về giám sát hàng tại cảng Đình Vũ
Bên cạnh áp lực từ cơ chế luân chuyển cán bộ thì tỷ lệ công chức trẻ khá cao cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng GSHQ tại Chi cục. Đội ngũ công chức dưới 35 tuổi mặc dù được có trình độ chuyên môn cao, được đào tạo bài bản, nhiệt tình học hỏi song kinh nghiệm công tác còn nhiều hạn chế, đặc biệt là nghiệp vụ giải quyết các tình huống phát sinh trong quá trình GSHQ.
Bảng 2.5: Số lượng cán bộ GSHQ tại Chi cục
Qua số liệu từ bảng 2.5 cho thấy, bên cạnh đội ngũ công chức trẻ thì tỷ lệ công chức trên 50 tuổi cũng chiếm khá cao. Đây là đội ngũ giàu kinh nghiệm, biết cách giải quyết các tình huống thực tế song ngại cập nhật kiến thức mới nên hiệu quả công tác GSHQ chưa cao.
Thực trạng này vừa là điểm yếu về đội ngũ nhân lực của Chi cục, song nó cũng là cơ hội để Chi cục nâng cao hiệu quả công tác GSHQ nếu Chi cục biết kết hợp đào tạo và đào tạo chéo giữa 2 đội ngũ này.
Phần lớn cán bộ GSHQ được luân chuyển từ các Phòng ban, Chi cục, bộ phận nghiệp vụ khác, do đã trải qua các nghiệp vụ hải quan khác nhau nên có ít nhiều kinh nghiệm và do tính chất nghiệp vụ yêu cầu. Hầu hết các cán bộ chỉ về đội GSHQ dưới 3 năm đã luân chuyển.
Trong lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ, Chi cục đã cử gần 60 lượt người đi đào tạo các khóa học và bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức hải quan làm công tác GSHQ. Tỷ lệ số cán bộ công chức GSHQ có trình độ thành thạo về các nghiệp vụ chuyên môn phục vụ cho công tác GSHQ cũng có sự thay đổi, làm ảnh hưởng đến nghiệp vụ chuyên môn trong công tác của các cán bộ công chức mà một phần nguyên nhân là do sự luân chuyển cán bộ như đã đề cập ở trên.
Với xu hướng phát triển của GSHQ trong thời gian tới, có thể thấy rằng, số lượng và chất lượng cán bộ để đáp ứng yêu cầu của công tác GSHQ trong giai đoạn hiện tại và trong những năm sắp tới là một trong những vấn đề cấp thiết và quan trọng của lực lượng GSHQ.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Kinh Tế
2.2.2 Thực trạng giám sát hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu đưa vào, lưu giữ, đưa ra khu vực Cảng
Trong giai đoạn 2014-2017, công tác GSHQ đối với hàng hóa NK đưa vào, lưu giữ, đưa ra khu vực Cảng thực hiện tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ đã được thực hiện đúng quy trình, thủ tục theo quy định hiện hành. Kết quả được thể hiện trong bảng 2.6.
Trong giai đoạn 2014-2017, số vụ vi phạm hành chính về hải quan đối với hàng hóa NK có xu hướng tăng lên. Nhận thức nhiệm vụ đấu tranh chống buôn lậu và vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới là nhiệm vụ hàng đầu của đơn vị. Chi cục đã có kế hoạch, biện pháp tăng cường đấu tranh chống buôn lậu chặt chẽ, linh hoạt và đạt hiệu quả tốt. Bố trí lực lượng trực ngoài giờ đảm bảo theo yêu cầu của công tác chuyên môn.Chi cục đã chủ động phân công lực lượng thường trực tại cửa khẩu đảm bảo giải quyết thủ tục nhanh chóng, đúng pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng cho các doanh nghiệp hoạt động XNK.
Bảng 2.6: Kết quả GSHQ hàng hóa NK tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ giai đoạn 2014 – 2017
2.2.3 Thực trạng giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu đưa vào, lưu giữ, đưa ra khu vực Cảng Khóa luận: Thực trạng về giám sát hàng tại cảng Đình Vũ
Kết quả công tác GSHQ hàng hóa XK đưa vào, lưu giữ, đưa ra khu vực Cảng thực hiện tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ trong giai đoạn 2014-2017 được thể hiện trong bảng 2.7.
Số liệu trong bảng 2.7 cho thấy sự gia tăng trong số lượng hàng hóa XK vi phạm pháp luật hải quan được phát hiện qua công tác GSHQ của Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ các năm giai đoạn 2014-2017.
Hành vi vi phạm chủ yếu như: XK hàng hóa không khai báo hải quan đối với những mặt hàng phải có giấy phép; không khai tên hàng XK để trốn thuế, gian lận thuế; Khai sai so với thực tế về tên hàng, chủng loại, số lượng, trọng lượng, chất lượng, trị giá, xuất xứ hàng hóa đối với hàng hóa quá cảnh,…
Bảng 2.7: Kết quả GSHQ hàng hóa XK tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ giai đoạn 2014-2017
Thời gian qua, ngay từ đầu mỗi năm, Chi cục đã chủ động xây dựng kế hoạch đấu tranh phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, đồng thời đảm bảo công tác quản lý nhà nước về hải quan; tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các lực lượng trong và ngoài Ngành, thu thập thông tin phục vụ cho công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại
và hàng giả, chú trọng các đối tượng có biểu hiện nghi vấn, rủi ro cao; hỗ trợ thông tin, tình hình hai chiều giữa các cơ quan chuyên trách tại cửa khẩu hai nước; tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật cho cộng đồng doanh nghiệp, vận động nhân dân trên địa bàn không tiếp tay cho các đối tượng buôn lậu, gian lận thương mại.
2.2.4 Đánh giá của CBCC Hải quan và doanh nghiệp về công tác giám sát hải quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ Khóa luận: Thực trạng về giám sát hàng tại cảng Đình Vũ
Trong quá trình nghiên cứu, để có thể đưa ra những kết luận chính xác nhất về công tác GSHQ hàng hóa XK, NK tại Chi cục, tác giả đã thực hiện điều tra khảo sát để lấy ý kiến của 2 nhóm: (1)CBCC làm việc tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ (18 phiếu) và (2)Các doanh nghiệp XNK thường xuyên qua Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ (68 phiếu).
2.2.4.1. Đánh giá quy trình thủ tục giám sát hải quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
Việc triển khai Hệ thống quản lý hải quan tự động tại cảng biển (gọi tắt là VASSCM) có ý nghĩa quan trọng trong công tác cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa của ngành Hải quan. Kết quả triển khai tại khu vực cảng Hải Phòng bước đầu khẳng định được hiệu quả thiết thực trong đơn giản hóa thủ tục, giảm thời gian thông quan và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hải quan. Đối với Quy trình thủ tục GSHQ hàng hóa XK, NK, mặc dù không có CBCC nào lựa chọn đánh giá “không đồng ý” đối với cả 05 tiêu chí được đưa ra, nhưng có thể thấy, một số tiêu chí chủ yếu vẫn chỉ được đánh giá ở mức khá hoặc trung bình, biểu hiện ở tỷ lệ lựa chọn phương án “đồng ý một phần” còn cao. Thực tế cho thấy do lượng hàng hóa XNK qua Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ thời gian gần đây có sự gia tăng khá nhanh, trong khi lực lượng CBCC GSHQ còn mỏng, chất lượng chưa thật sự tốt, khiến cho việc thực hiện nghiệp vụ giám sát còn chậm. Ngoài ra, sự thoái hóa, biến chất của một số cá nhân CBCC gây nhũng nhiễu, phiền hà cho doanh nghiệp XNK đã xuất hiện trong thời gian gần đây. Trước tình hình đó, Chi cục cũng như Cục Hải quan thành phố Hải Phòng đã có phương án xử lý thỏa đáng để lành mạnh hóa công tác GSHQ.
Bảng 2.8: Đánh giá của CBCC về quy trình thủ tục GSHQ hàng hóa XK, NK của Chi cục
Để thấy rõ hơn về chất lượng dịch vụ trong công tác GSHQ, tác giả khảo sát cùng bộ 5 tiêu chí về GSHQ đối với đại diện 68 Doanh nghiệp XNK thường xuyên qua Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ.
Cùng một bộ tiêu chí được đưa ra để đánh giá về quy trình thủ tục GSHQ hàng hóa XK, NK, có thể nhận thấy sự tương đồng trong quan điểm đánh giá của cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ CBCC hải quan (mặc dù cộng đồng doanh nghiệp đánh giá các tiêu chí thấp hơn một chút).
Về cơ bản ngành Hải quan đã thực hiện cải cách hiện đại hóa, với tinh thần giảm tối đa các chi phí cho doanh nghiệp, tạo điều kiện nhằm thúc đẩy hoạt động thương mại. Những năm qua, ngành Hải quan đã nỗ lực triển khai thực hiện quyết liệt trong việc ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao công tác quản lý, giảm giấy tờ. Theo đó hầu hết chứng từ thuộc bộ hồ sơ hải quan đã được bỏ, chỉ còn lại một số chứng từ liên quan đến quản lý chuyên ngành của các lĩnh vực khác như nông nghiệp, y tế, công thương, các chứng từ ưu đãi,… Khóa luận: Thực trạng về giám sát hàng tại cảng Đình Vũ
Kết quả điều tra cho thấy thể hiện trong bảng 2.8 và 2.9 cho thấy, cơ chế quản lý hoạt động GSHQ, các văn bản, biểu mẫu cơ bản được đánh giá tốt. Điều đó nói lên cơ chế quản lý, các văn bản hướng dẫn cũng như các biểu mẫu là tương đối phù hợp với công tác GSHQ hiện nay.
Ngoài ra, về thời gian thực hiện GSHQ đối với 01 lô hàng hóa XNK, các bảng kết quả khảo sát trên cho thấy tiêu chí này được đánh giá khá tốt. Thời gian giải quyết thủ tục thông quan đối với một tờ khai tại khu vực GSHQ được giảm từ 3-5 phút do giảm thời gian đi lại, làm thủ tục tại bộ phận GSHQ của doanh nghiệp.
Bảng 2.9: Đánh giá của cộng đồng doanh nghiệp về quy trình thủ tục GSHQ hàng hóa XK, NK của Chi cục
Những kết quả đạt được trong việc cải cách quy trình thủ tục GSHQ hàng hóa XK, NK tại Chi cục đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực:
Thứ nhất, đối với việc quản lý Nhà nước của cơ quan hải quan:
- Giảm thời gian thông quan (khoảng 3 phút/1 Cont), bình quân 1 ngày Cảng Đình Vũ giải phóng 400 Cont x 3 phút = 12 giờ.
- Giảm một bước nghiệp vụ tại KVGS (bước xác nhận hàng hóa qua khu vực giám sát), việc này giảm được ít nhất 2 công chức hải quan.
- Giúp cho cơ quan Hải quan kịp thời nắm bắt thời điểm lô hàng hay Cont ra vào Cảng, số lượng hàng, Cont tồn trong Cảng đối với từng con tàu, những lô hàng quá hạn làm thủ tục hải quan hay vị trí cụ thể của từng Cont… từ đó đưa ra các quyết định xử lý phù hợp.
- Công tác quản lý rủi ro, kiểm soát chống buôn lậu, GSHQ được được thực hiện hiệu quả hơn do có đầy đủ thông tin về vị trí Cont hạ bãi, số chuyến và tên tàu, đồng thời giúp tăng cường tính tuân thủ của hoạt động XNK.
- Khi làm thủ tục nhận hàng tại Cảng không phải làm thủ tục tại khâu nghiệp vụ GSHQ.
- Chủ động về thời gian nhận hàng tại Cảng, có thể nhận 24/24h trong tuần.
- Giảm việc phải xuất trình chứng từ, giấy tờ.
- Giảm chi phí nhân công lao động, sử dụng nguồn nhân lực hợp lý.
- Chủ động về thời gian giao, nhận hàng giữa Cảng và người khai hải quan, Cảng có thể giao hàng 24/24h trong tuần.
- Nâng cao uy tín, hiệu quả hoạt động kinh doanh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp KDC. Tăng tốc độ giải phóng mặt bằng xếp Cont của doanh nghiệp KDC dẫn đến làm tăng hiệu suất khai thác bến bãi.
- Ngăn chặn nguy cơ kẻ gian làm giả chứng từ thông quan hàng hóa của hải quan để rút hàng ra khỏi Cảng.
- Đảm bảo doanh nghiệp KDC có đầy thông tin về tình trạng cấp phép thông quan (từ cơ quan Hải quan) đối với từng lô hàng, từng Cont để cho hàng ra vào Cảng theo đúng quy định của pháp luật tránh rủi ro so với thực hiện trao đổi bằng thủ tục giấy….
Như vậy có thể khẳng định rằng, quá trình triển khai thực hiện kết nối hệ thống trao đổi thông tin về hàng hóa XK, NK tại Cảng biển Hải Phòng đã thể hiện rõ tính ưu việt trong cải cách, đơn giản hóa thủ tục hải quan, giảm thời gian đi lại của doanh nghiệp, giảm thời gian thông quan hàng hóa tại khu vực GSHQ
2.2.4.2. Đánh giá về đội ngũ cán bộ, công chức giám sát hải quan Khóa luận: Thực trạng về giám sát hàng tại cảng Đình Vũ
Trong nhiều năm qua, ngành Hải quan luôn quan tâm đến công tác quản lý cán bộ, ngày 12/5/2016, Tổng cục trưởng TCHQ mới ban hành Chỉ thị số 3957/CT-TCHQ về việc đẩy mạnh hoạt động đổi mới quản lý nguồn nhân lực Hải quan dựa trên vị trí việc làm giai đoạn 2016-2020. Đây là lần đầu tiên TCHQ ban hành Chỉ thị liên quan đến đẩy mạnh hoạt động đổi mới quản lý nguồn nhân lực theo năng lực. Rõ ràng đây là bước đổi mới, đột phá của ngành Hải quan trong vấn đề đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC, song song với việc tiếp tục cải cách, hiện đại hóa thể chế, thủ tục hải quan, hệ thống công nghệ thông tin, cơ sở vật chất và trang thiết bị đã được chú trọng trong thời gian qua.
Theo đó tại Cục Hải quan Hải Phòng nói chung, Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ nói riêng đã và đang đẩy mạnh nghiên cứu, xây dựng và triển khai các chủ trương, định hướng về đổi mới phương pháp quản lý nguồn nhân lực theo năng lực, trong đó tập trung vào các hoạt động: rà soát Danh mục vị trí việc làm và Bản mô tả công việc chung của từng vị trí việc làm; đẩy mạnh việc xây dựng và triển khai các Khung năng lực chuyên môn nghiệp vụ đối với tất cả các lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ; nghiên cứu, xây dựng khung chương trình, biên soạn tài liệu đào tạo, tổ chức đào tạo theo năng lực đối với các lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ; ứng dụng kết quả vào việc tuyển dụng, bố trí, sắp xếp, điều động, luân phiên, luân chuyển, quy hoạch, bổ nhiệm,…
Riêng tại Đội GSHQ thuộc Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ, trong thời gian qua, để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của đơn vị, Lãnh đạo Đội đã thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Chi bộ Đảng, Tổ công đoàn trong việc phổ biến, quán triệt các văn bản, chỉ thị, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đến từng CBCC trong đơn vị, đặc biệt là phổ biến quán triệt các Quyết định, văn bản hướng dẫn liên quan đến công tác nghiệp vụ của Đội.
Trên cơ sở phân công cụ thể trách nhiệm của từng đồng chí lãnh đạo Đội, Đội đã có quy định cụ thể về phân công nhiệm vụ và lề lối làm việc đối với cán bộ công chức trong Đội để phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ, công chức trong Đội; nhiệm vụ cụ thể của từng bộ phận công tác để thực hiện nhiệm vụ chung của đơn vị.
Hàng tháng, Đội đều tổ chức họp rút kinh nghiệm trong tập thể CBCC để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng đồng chí lãnh đạo Đội cũng như các cá nhân công chức tại từng bộ phận công tác, đồng thời rút kinh nghiệm trong công tác để đảm bảo các hoạt động nghiệp vụ của Đội được thực hiện thống nhất và đạt hiệu quả cao. Khóa luận: Thực trạng về giám sát hàng tại cảng Đình Vũ
Cá nhân đồng chí đội trưởng luôn đi sâu đi sát, nắm bắt kịp thời các khó khăn vướng mắc trong công tác nghiệp vụ tại các bộ phận công tác để chỉ đạo các đồng chí phó đội trưởng phụ trách trực tiếp nhằm giải quyết kịp thời đối với các vướng mắc phát sinh. Đảm bảo thông quan nhanh chóng, đúng quy định đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua khu vực giám sát.
Các đồng chí phó đội trưởng đều gương mẫu, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được phân công; thực hiện nghiêm túc chế độ thỉnh thị báo cáo; làm tốt công tác lãnh đạo chỉ đạo, điều hành hoạt động nghiệp vụ tại các bộ phận công tác được phân công phụ trách cũng nhưviệc thực hiện nhiệm vụ chung của toàn Đội.
Bảng 2.10 và bảng 2.11 cho thấy, đối với 04 chỉ tiêu đánh giá về đội ngũ CBCCGSHQ hàng hóa XK, NK của Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ được đánh giá chủ yếu ở các lựa chọn “hoàn toàn đồng ý” và “đa phần đồng ý”. Điều đó có nghĩa là đội ngũ CBCC GSHQ cơ bản đáp ứng với yêu cầu công việc hiện tại của Chi cục.
Tại Chi cục hiện nay, độ tuổi trung bình của CBCC làm GSHQ tương đối trẻ; hầu hết có kinh nghiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, được đào tạo cơ bản tốt. Hơn nữa, CBCC đều an tâm công tác, nhiệt tình với công việc, sử dụng thành thạo vi tính, ngoại ngữ nên phục vụ tốt cho công tác khai thác thông tin và công tác nghiệp vụ.
Trong học tập rèn luyện, nhiều CBCC đã có tinh thần phấn đấu vươn lên vừa học vừa làm, có ý thức tìm tòi sáng tạo, có nhiều ý kiến đóng góp xây dựng và cải tiến phương pháp làm việc hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Dù ở vị trí công tác nào, đều làm việc hăng say, nhất là những khi công việc đột xuất dồn dập, không kể ngày đêm, ngày nghỉ miệt mài vì mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ; nhiều đồng chí thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, quản lý một lượng tiền và hàng hoá lớn vẫn luôn luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm không để xẩy ra nhầm lẫn sai sót hoặc lợi dụng làm thất thoát tài sản Nhà nước.
Điều đáng ghi nhận là thông qua việc thực hiện chức trách nhiệm vụ của từng CBCC đã tôi luyện đội ngũ công chức ngày càng trưởng thành về mọi mặt từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành Hải quan.
Bảng 2.10: Đánh giá của CBCC về đội ngũ CBCCGSHQ hàng hóa XK, NK của Chi cục
Bảng 2.11: Đánh giá của cộng đồng doanh nghiệp về đội ngũ CBCCGSHQ hàng hóa XK, NK của Chi cục
Cũng như đánh giá của CBCC hải quan, cơ bản các ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp đều đánh giá khá đối với các tiêu chí được đưa ra. Tuy nhiên, cũng như đánh giá của CBCC hải quan thì chỉ tiêu số lượng CBCC và thái độ làm việc của CBCCGSHQ tại Chi cục chưa nhận được cảm nhận tích cực từ phía các đối tượng đánh giá.
2.2.4.3. Đánh giá về công tác tuyên truyền, hỗ trợ và cung cấp thông tin cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong quá trình giám sát hải quan Khóa luận: Thực trạng về giám sát hàng tại cảng Đình Vũ
Trong quá trình thực hiện công tác GSHQ, CBCC GSHQ của Chi cục đã quan tâm đến công tác tuyên truyền, hỗ trợ, cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp XNK. Nội dung hoạt động này bao gồm:
- Tháo gỡ khó khăn vướng mắc đối với doanh nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan XNK hàng hóa tại Chi cục.
- Tuyên truyền các Luật, nghị định, Thông tư và các văn bản mới liên quan đến chính sách hàng hóa XNK, chính sách thuế và các chính sách liên quan đến hoạt động XNK, liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của doanh nghiệp.
- Tuyên truyền về công tác phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, gian lận thương mại. Thông tin tố giác về các đối tượng lợi dụng chính sách pháp luật để chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, gian lận thương mại và đặc biệt là các đường dây ổ nhóm hoạt động có tổ chức và tính chất chuyên nghiệp.
- Tuyên truyền ý thức chấp hành pháp luật và công bố các vụ việc buôn lậu, vân chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, gian lận thương mại được bắt giữ.
Theo đánh giá của tác giả, việc thường xuyên tuyên truyền, hỗ trợ, cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp XNK về những chủ chương, chính sách mới, trong đó có các quy định về phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại trong thời gian qua đã có tác động tốt đến nhận thức của các doanh nghiệp XNK trên địa bàn. Tuy nhiên, buôn lậu, gian lận thương mại là vấn đề mang nặng tính chủ quan. Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp, cá nhân nắ m rõ được những quy định của luật pháp về vấn đề này, nhưng vì lợi nhuận mà họ vẫn bất chấp để thực hiện. Do đó theo đánh giá chủ quan của tác giả, hoạt động tuyên truyền pháp luật được Chi cục thực hiện có tác động chưa lớn đến việc cải thiện tình hình buôn lậu, gian lận thương mại trên địa bàn.
Qua bảng 2.12 cho thấy, hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp XNK trong quá trình GSHQ hàng hóa XK, NK của Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ chưa được đánh giá tốt.
Thực tế thì hoạt động này chưa được thực hiện thường xuyên, tần suất thấp; việc truyền tải nội dung tuyên truyền, hỗ trợ, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp khá cứng nhắc, khó tạo được ấn tượng sâu sắc và phong trào sâu rộng trong cộng đồng doanh nghiệp XNK.
Bảng 2.12: Đánh giá CBCC và Doanh nghiệp về hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp XNK trong quá trình GSHQ hàng hóa XK, NK của Chi cục
2.2.4.4. Đánh giá về công cụ, dụng cụ, hệ thống công nghệ thông tin phục vụ giám sát hải quan
Công cụ, dụng cụ, hệ thống công nghệ thông tin phục vụ GSHQ là một nhân tố quan trọng góp phần vào hiệu quả của công tác GSHQ tại Chi cục. Như đã đề cập, Cục Hải quan thành phố Hải Phòng đã triển khai Hệ thống quản lý hải quan tự động tại cảng biển (VASSCM) tại các đơn vị trong toàn Cục, đây là công cụ có ý nghĩa thiết thực trong đơn giản hóa thủ tục, giảm thời gian thông quan và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hải quan .
Kết quả khảo sát tại bảng 2.13 và 2.14 cho thấy phương tiện hiện đại, hệ thống CNTT phục vụ GSHQ hàng hóa XK, NK của Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ nhận được sự đánh giá tích cực từ cả các CBCC hải quan cũng như từ phía cộng đồng doanh nghiệp XNK.
Kể từ khi triển khai thí điểm hệ thống VASSCM (ngày 15/8/2017) đến nay, có thể khẳng định Hệ thống đã mang lại hiệu quả lớn trong cải cách, hiện đại hóa hải quan. Khóa luận: Thực trạng về giám sát hàng tại cảng Đình Vũ
Về tổng quan, đối với cơ quan Hải quan, Hệ thống được kết nối tự động với Cơ chế một cửa quốc gia để khai thác giúp sử dụng hiệu quả nguồn thông tin e-Manifest; Hệ thống VNACCS/VCIS, E-Customs (V5) phục vụ công tác kiểm tra, giám sát. Qua đó cơ quan Hải quan quản lý được toàn bộ diễn biến của hàng hóa XNK tại khu vực cảng, kho, bãi và lịch sử lô hàng từ khi vào Việt Nam. Hệ thống cũng giúp loại bỏ triệt để các tác nghiệp thủ công, sử dụng văn bản giấy trong một số công đoạn nghiệp vụ của công chức. Nhờ đó, cơ quan Hải quan tập trung lực lượng cho giám sát, kiểm soát đối với những lô hàng, doanh nghiệp trọng điểm có rủi ro cao, tránh việc kiểm tra, kiểm soát tràn lan, nâng cao hiệu quả phương thức quản lý rủi ro- một bước đi cụ thể trong áp dụng chuẩn mực, thông lệ quốc tế về quản lý hải quan hiện đại.
Bảng 2.13: Đánh giá của CBCC về phương tiện, thiết bị, hệ thống CNTT phục vụ GSHQ hàng hóa XNK của Chi cục
Bảng 2.14: Đánh giá của DN về phương tiện, thiết bị, hệ thống CNTT phục vụ GSHQ hàng hóa XNK của Chi cục
Triển khai Hệ thống cũng là bước đi cụ thể, đột phá trong cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa hải quan theo Kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa hải quan giai đoạn 2016-2020 đã được Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt.
Một ý nghĩa thiết thực khác là góp phần tinh gọn, tinh giản về tổ chức, biên chế, nhưng vẫn nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quá trình hoạt động theo đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 Khóa XII. Đồng thời giúp doanh nghiệp kinh doanh cảng được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời về tình trạng cấp phép thông quan (từ cơ quan Hải quan) với từng lô hàng, từng container, để giảm thiểu rủi ro trong thực hiện thủ tục giao, nhận hàng so với thực hiện bằng chứng từ giấy; có thể thực hiện chế độ quản lý, thống kê, lưu giữ chứng từ giao nhận hàng hóa đảm bảo nhanh chóng, chính xác, khoa học và minh bạch; nâng cao uy tín, tăng khả năng tiếp nhận, khai thác hàng hóa, nâng cao hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh.
Đối với doanh nghiệp XNK, Hệ thống trao đổi thông tin và xử lý dữ liệu 24/24 giờ giúp doanh nghiệp hoàn toàn chủ động kế hoạch giao nhận hàng hóa tại cảng, không phụ thuộc vào thời gian làm việc của cơ quan Hải quan. Mặt khác, cắt giảm thủ tục xuất trình chứng từ giấy để cơ quan Hải quan kiểm tra, xác nhận hàng đủ điều kiện qua khu vực giám sát. Theo ghi nhận, điều này giúp rút ngắn thời gian làm thủ tục giao nhận hàng từ 5 đến 7 lần so với trước đây, cùng với đó là cắt giảm về chi phí đi lại để giải quyết thủ tục đưa hàng ra, vào khu vực cảng.
Đối với hãng tàu và đại lý hãng tàu, nhờ việc giải phóng hàng hóa nhanh chóng nên thời gian quay vòng sử dụng vỏ container được rút ngắn, hỗ trợ doanh nghiệp tăng khả năng khai thác, nâng cao hiệu quả kinh doanh vận tải quốc tế.
2.3 Đánh giá công tác giám sát hải quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ Khóa luận: Thực trạng về giám sát hàng tại cảng Đình Vũ
2.3.1 Điểm mạnh
Trong giai đoạn 2014-2017, việc thực hiện tốt công tác GSHQ hàng hóa XK, NK tại Chi cục đã góp phần quan trọng trong công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại. Có được thành quả này là do sự tâm huyết, cố gắng hết mình của các CBCC trong Đội giám sát tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ. Có thể thấy được những điểm mạnh chủ yếu trong công tác GSHQ như sau:
- Thủ tục GSHQ tại Chi cục dần được đổi mới theo hướng áp dụng quản lý rủi ro; thủ tục hải quan được chuẩn hoá theo hướng quy định cụ thể cho từng loại hình hàng hoá XK, NK; số lượng hồ sơ, chứng từ trong thủ tục hải quan, tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hoá, thời gian thông quan giảm đáng kể qua từng năm. Đây là bước đột phá lớn của ngành Hải quan, phù hợp với lộ trình cải cách thủ tục hành chính mà Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tạo điều kiện thuân lợi cho doanh nghiệp thực hiện hoạt động XNK.
- Rút ngắn thời gian thông quan của hàng hoá XNK: Từ năm 2014, việc đi vào sử dụng Hệ thống VNACCS/VCIS (được xây dựng trên nền tảng công nghệ của Nhật Bản) là Hệ thống thông quan tự động và Hệ thống thông quan điện tử E-customs 5 đã góp phần rút ngắn thời gian quản lý ở tất cả các khâu trong quy trình quản lý hàng hóa XK, NK, tăng cường công tác quản lý đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp XNK. Khóa luận: Thực trạng về giám sát hàng tại cảng Đình Vũ
- Công tác tuyên truyền, hỗ trợ, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp đã được quan tâm thực hiện. Sự nỗ lực này của Chi cục đã giúp cho doanh nghiệp trên địa bàn nắm bắt kịp thời chính sách pháp luật, những thay đổi về chính sách điều hành áp dụng trên địa bàn để doanh nghiệp có thể chủ động nghiên cứu, triển khai trong hoạt động thương mại.
- Công tác phối hợp với các lực lượng thường xuyên được duy trì như xây dựng các kế hoạch triển khai công tác phối, kết hợp đạt hiệu quả cao.
Trong công tác kiểm tra, giám sát, Chi cục đã phối hợp với các ngành như Biên phòng, Y tế, Kiểm dịch động vật, Kiểm dịch thực vật.
2.3.2 Điểm yếu
Bên cạnh những điểm mạnh đã đề cập ở trên, trong thời gian qua, công tác GSHQ hàng hóa XK, NK tại Chi cục vẫn còn nhiều mặt còn những điểm yếu cần được hoàn thiện như sau:
- Sự thiếu đồng bộ giữa các quy trình quản lý hàng hóa XNK của cơ quan; hệ thống CNTT trong quản lý Hải quan và hệ thống quản lý hàng hóa XNK của các đơn vị kinh doanh kho, bãi, cảng dẫn đến công tác quản lý, GSHQ đối với hàng hóa, phương tiện vận tải tại khu vực Cảng biển, cửa khẩu, kho, bãi còn chưa đáp ứng được yêu cầu của Luật Hải quan; việc kết nối trao đổi thông tin hàng hóa đưa vào, đưa ra kho, bãi, Cảng chưa được liên kết giữa các Chi cục Hải quan trên toàn quốc, do vậy hiệu quả công tác quản lý, kiểm tra, giám sát còn hạn chế…
- Quy trình nghiệp vụ và hệ thống công nghệ thông tin còn một số bất cập: thiếu quy trình quản lý hàng hóa xuyên suốt từ khi XK, NK, vận chuyển, sử dụng hàng hóa đúng mục đích đã đăng ký cơ quan hải quan; các quy trình nghiệp vụ, phần mềm do các đơn vị xây dựng còn thiếu tính liên thông, liên kết còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý; các phần mềm có mức độ tự động hóa chưa tương thích; thông tin chi tiết trên các hệ thống mới chỉ phục vụ cho từng mảng công việc chuyên môn cụ thể, thiếu thông tin tổng hợp.
- Công tác GSHQ hàng năm mặc dù đã được Chi cục xây dựng kế hoạch triển khai cụ thể, tuy nhiên phần lớn công việc mang tính chất thời điểm, cộng với sự giới hạn về nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực con người, dẫn đến công tác GSHQ thiếu tính chủ động, ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác này.
2.3.3 Nguyên nhân Khóa luận: Thực trạng về giám sát hàng tại cảng Đình Vũ
Những điểm yếu nêu trên trong công tác GSHQ hàng hóa XK, NK tại
Chi cục có thể lý giải bởi một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Nhóm nguyên nhân chủ quan:
- Việc bố trí đội ngũ CBCC GSHQ còn chưa được chú trọng, một số CBCC chưa nắm vững chức năng nhiệm vụ và quyền hạn được giao, chưa có
- thức trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, chưa thực hiện đúng; một số CBCC chưa có đủ năng lực do công tác đào tạo, phát triển chưa hợp lý, không sát với thực tế.
Công tác cán bộ đối với lực lượng GSHQ còn bất cập:
- Một bộ phận CBCC còn chưa đáp ứng và theo kịp yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, đặc biệt là đối với một số lĩnh vực nghiệp vụ khó, phức tạp như: Thu thập xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan, rà soát tờ khai luồng xanh, quản lý rủi ro.
- Hạn chế của cán bộ, công chức hải quan của các Chi cục hải quan khác trong việc thực thi chính sách, pháp luật về lĩnh vực ưu đãi đầu tư, các khái niệm “linh kiện”, “nguyên liệu”, “vật tư”, đôi khi cán bộ hải quan áp dụng miễn thuế chưa chính xác cũng gây khó khăn cho công tác giám sát tại cửa khẩu.
- Chưa có chế độ, chính sách cụ thể đối với cán bộ, công chức thuộc lực lượng kiểm soát hải quan (mới chỉ có chế độ, chính sách đối với cơ sở bí mật, cộng tác viên của ngành Hải quan). Thực tế này phần nào ảnh hưởng tới hiệu quả nghiệp vụ, trong đó có công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại.
- Công tác tuyên truyền chưa đổi mới, thông tin mới đến với doanh nghiệp chưa kịp thời, đội ngũ CBCC còn thiếu kỹ năng, chưa được đào tạo chuyên sâu về công tác tuyên truyền, làm việc theo chế độ kiêm nhiệm… Vì vậy, hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hải quan hiệu quả mang lại chưa cao. Thực tế, trong thời gian vừa qua cho thấy nhiều doanh nghiệp chưa nắm bắt đầy đủ, kịp thời chính sách thuế nên đã bỏ qua cơ hội kinh doanh hoặc không tuân thủ tốt pháp luật về thuế, về tính chất mặt hàng, sở hữu trí tuệ, nhãn mác nên có thể dẫn đến vi phạm pháp luật về hải quantrong quá trình tham gia hoạt động xuất nhập khẩu.
Nhóm nguyên nhân khách quan
- Hệ thống Luật pháp, các chế độ chính sách quản lý kinh tế của nước ta đang trong quá trình hoàn thiện do vậy còn nhiều bất cập, sơ hở, thiếu đồng bộ tạo ra những kẽ hở cho các hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại, thực trạng này được chứng minh qua những vụ việc lách luật để gian lận trốn thuế ngày càng tinh vi và phức tạp. Việc xây dựng, ban hành một số văn bản hướng dẫn dưới luật chậm trễ, không phù hợp với thực tế đôi khi còn trái ngược, mâu thuẫn với nhau. Thực tế nêu trên đã làm cho các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung, trong đó có ngành Hải quan trong một số lĩnh vực nghiệp vụ gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong triển khai thực hiện. Khóa luận: Thực trạng về giám sát hàng tại cảng Đình Vũ
- Hệ thống Cảng Hải Phòng có chiều dài khoảng 20 km nhưng phát triển nhỏ lẻ, manh mún, mỗi Cảng có cơ sở hạ tầng, công nghệ, quy trình, cách thức quản lý, khai thác hàng vào ra Cảng khác nhau tùy theo đặc thù của từng Cảng nên công tác quản lý của cơ quan Hải quan đối với hoạt động của các doanh nghiệp KDC cũng như quản lý hàng hóa ra vào, lưu giữ trong khu vực Cảng Hải phòng gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc như:
Một số doanh nghiệp KDC đã triển khai kết nối trao đổi thông tin với hải quan nhưng có đầu tư trang thiết bị lạc hậu nên thông tin chuyển cho hải quan chậm, chưa theo thời gian thực nên ảnh hưởng đến hiệu năng của hệ thống, chưa đảm bảo yêu cầu quản lý.
Một số doanh nghiệp Cảng có quy trình quản lý hàng hóa XK chưa đáp ứng yêu cầu quản lý hải quan theo quy định của Luật Hải quan 2014 như không phân chia được khu vực riêng cho hàng XK, NK, hàng qua thời hạn làm thủ tục hải quan, hay hàng nội địa do điều kiện mặt bằng nhỏ gây khó khăn cho công tác giám sát, kiểm soát hải quan, cần phải có giải pháp để quản lý tốt hơn.
Nhiều nội dung chỉ tiêu thông tin cần báo cáo cho cơ quan Hải quan nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhưng chưa có quy trình, quy định cụ thể, hoặc có những doanh nghiệp Cảng chưa báo cáo kịp thời hoặc chưa có cách thức báo cáo nhanh, tự động qua hệ thống điện tử. Hệ thống thông tin và thống kê hải quan chưa được hoàn thiện.
Tính tuân thủ pháp luật của một số doanh nghiệp chưa cao. Bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn chân chính, một số doanh nghiệp do chạy theo lợi nhuận trước mắt nên chỉ tập trung vào khai thác các yếu tố có lợi cho mình nên sử dụng bất cứ phương thức, thủ đoạn nào có được, kể cả kinh doanh phạm pháp, gian lận thương mại, trốn thuế nhằm mục đích lợi nhuận, hưởng được lợi thế cạnh tranh do ít tổn phí. Điều này làm cho công tác quản lý hoạt động GSHQ hàng hóa XK, NK gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh tế – xã hội, làm cho những doanh nghiệp làm ăn chân chính sẽ khó tồn tại bên cạnh những doanh nghiệp gian dối. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp không nắm vững pháp luật, trình độ nhân viên làm công tác XNK còn hạn chế, thường xuyên thay đổi nhân viên, do vậy, cơ quan hải quan phải tốn rất nhiều thời gian và công sức trong việc hướng dẫn doanh nghiệp về thủ tục hải quan.
Tóm tắt chương 2
Trong chương 2, căn cứ trên khung lý thuyết được xây dựng ở chương 1, cùng với bộ số liệu (sơ cấp, thứ cấp) được thu thập từ những nguồn chính thống, đáng tin cậy, luận văn đã phân tích thực trạng về nhân sự của đội GSHQ, kết quả công tác giám sát hàng hóa xuất, nhạp khẩu tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đình Vũ trong giai đoạn 2014-2017.
Bên cạnh đó, luận văn còn đánh giá khá chi tiết về thực trạng công tác GSHQ trên cơ sở phân tích đánh giá của CBCC hải quan và cộng đồng doanh nghiệp XNK mở tờ khai tại Chi cục về chất lượng công tác GSHQ tại Chi cục.
Luận văn cũng phân tích điểm mạnh, điểm yếu, lý giải nguyên nhân dẫn đến những điểm yếu trong công tác GSHQ hàng hóa XK, NK tại Chi cục, tạo ra căn cứ thực tế có ý nghĩa quan trọng cho việc đề ra những giải pháp hoàn thiện công tác GSHQ ở chương tiếp theo. Khóa luận: Thực trạng về giám sát hàng tại cảng Đình Vũ
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Khóa luận: Giải pháp hoàn thiện giám sát tại cảng Đình Vũ

Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com
Pingback: Khóa luận: Tổng quan về xuất nhập khẩu tại cảng Đình Vũ