Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

Chia sẻ cho các bạn sinh viên ngành luật bài Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu cho các bạn đang chuẩn bị làm bài khóa luận cùng nhau tham khảo nhé. khóa luận môn học là một trong những yêu cầu bắt buộc của các trường đại học, và Cao Học. Đối với sinh viên hay học viên tất cả các khóa học đều bắt buộc phải làm một bài khóa luận, với đề tài bắt buộc hoặc là một đề tài cụ thể nào đó ví dụ như đề tài Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu các bạn cùng  tham khảo đề tài khóa luận dưới đây nhé.

2.4. Các thành tố trong văn hóa của người Cơ Tu

2.4.1. Văn hóa ẩm thực Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

Tỉnh Quảng Nam, người Cơ Tu có số lượng sinh sống đông nhất trong các địa phương có người Cơ Tu sinh sống (36.822 người). Quảng Nam cũng là địa phương được giới nghiên cứu cho là quê hương gốc, quê hương lâu đời của người Cơ Tu ở Việt Nam. Tại tỉnh Quảng Nam, người Cơ Tu sống tập trung ở các huyện (trong 19 xã) và huyện Nam Giang (trong 5 xã). Dân tộc Cơ Tu cũng là một trong bốn dân tộc thiểu số ( Cơ Tu, Xơ Đăng, Giretrieng, cor) của miền núi Quảng Nam , hiện còn giữ lại được nhiều nét đặc trung trong văn hóa truyền thống thể hiện trong sinh hoạt kinh tế, trong ngôi nhà làng ( nhà Gươl), trong quan hệ xã hội, dòng họ, hôn nhân gia đình, trong các cách đối nhân xử thế, trong lế hội, trong các điệu múa, nhạc cụ, lời ca tiếng hát, các câu chuyện cổ,…bước đầu tiên tôi xin nêu lên những tính trong văn hóa ẩm thực của người Cơ Tu, với mong muốn chúng ta có thể hiểu hơn về dân tộc này.

Cũng như các dân tộc khác sống lâu đời ở vùng núi tỉnh Quảng Nam, nền kinh tế chủ đạo của người Cơ Tu bấy lâu nay là nền kinh tế nương rẫy. Với việc chặt đốt cây rừng lấy đất trồng cây cạn mỗi năm một vụ… đây là nền kinh tế mang nặng tính chất tự nhiên, xuất phát từ nền kinh tế chỉ biết lấy sản phẩm kinh tế nương rẫy làm nguồn sống chủ yếu mà ít chú ý đến vườn, chăn nuôi, làm nghề thủ công buôn bán trao đổi,…cho nên trong cách thức ăn uống, trong cơ cấu bữa ăn của người Cơ Tu trước đây cũng như hiện nay phản ánh rất rõ đặc tính của cư dân nương rẫy, của nền kinh tế tự cung tự cấp, đóng kín. Điều đó được phản ánh qua những đặc điểm trong văn hóa ẩm thực của người Cơ Tu như sau: Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Ngành Du Lịch

Thứ nhất: đặc tính đơn giản, ít nghi thức, mang đậm yếu tố tự cung tự cấp trong cơ cấu bữa ăn, trong cách thức tổ chức bữa ăn. Đây chính là sự thích ứng trong ăn uống của con người với mỗi trường sống.

Nhìn chung đồ ăn thức uống của người Cơ Tu là những thứ được chế biến từ sản phẩm của núi rừng, là những sản phẩm do đồng bào tự làm ra, không phải qua việc trao đổi mua bán. Đó là các loại lương thực, thực phẩm có được nhờ vào việc trồng trọt, chăn nuôi, săn bắn, thu nhặt từ trên núi rừng, dưới sông suối về như lúa, ngô, khoai, sắn, các loại thịt rừng, rau rừng, thịt gia cầm, gia súc, các loại cá, các loại nhuyễn thể khác,…

Trong cơ cấu món ăn đặc tính ăn theo mùa (hay nói khác là ăn uống theo màu vụ ) của người dân tộc Cơ Tu được thể hiện rất rõ. Vào những lúc được mùa thì đồng bào ăn nhiều, ăn no. Vào những lúc mất mùa, lúc giáp hạt thì ngược lại. Vào mùa đông và mùa xuân nguồn rau, nguồn thực phẩm dồi dào thì bữa ăn của họ đa dạng và phong phú. Vào mùa hè ăn uống trở nên đạm bạc, đơn giản do ít rau, ít thú săn,…

Trước đây do tính chất canh tác nương rẫy quy định, nên trong một ngày người Cơ Tu chỉ ăn hai bữa chính (bữa sang và bữa chiều), bữa trưa là bữa ăn phụ. Trong các bữa ăn người Cơ Tu chú ý đến số lượng hơn là chất lương của thức ăn bữa đó. Khi ăn uống đồng bào ít mời mọc, cũng như ít có sự phân biệt ngôi thứ, tuổi tác trong bữa ăn đó.

Tính đơn giản trong ăn uống của đồng bào thể hiện rất rõ trong cách chế biến món ăn. Có thể nói ở người Cơ Tu kỹ thuật chế biến món ăn hết sức đơn điệu. Thông thường trong việc chế biến món ăn đồng bào ít pha chế, ít dung gia vị. Chủ yếu là luộc và nướng thức ăn.

Thứ hai: tính cộng đồng trong ăn uống của người Cơ Tu thể hiện rất cao

Tính cộng đồng biểu hiện trong cách bày biện thức ăn. Thức ăn bày ra chỉ chú ý đến tính tiện dụng, ai có thể lấy thức ăn một cách dễ dàng. Khi chia phần dù có mặt hay không, mọi thành viên trong cộng đồng làng đều có phần. Thời kỳ trức đây đứa trẻ còn nằm trong bụng mẹ, hay khách đến chơi đều được phần như các thành viên khác.

Tính cộng đồng thể hiện trong cách hưởng lợi. Sản phẩm săn bắn trong phạm vi của làng mọi ngời đều được hưởng.

Tính cộng đồng còn được thể hiện trong không gian ăn uống, trong số lượng người tham gia vào các bữa ăn. Vào các dịp lễ tết, hội hè, ma chay, cưới xin và các dịp lễ tết khác các gia đình dù ít dù nhiều đều chung nhau đóng góp và có mặt đông đủ tại gia chủ đứng ra chủ trì.

Thứ ba: ăn uống của người Cơ Tu thường không kế hoạch, lãng phí dẫn đến tình trạn thừa mà lại thiếu. Điều này thể hiện trong các dịp hội hè , cưới hỏi , ma chay,… đồng bào thường bỏ ra một khối lượng thức ăn rất lớn, vượt ra ngoài yêu cầu chi dùng. Đây cũng là những dịp đồng bào ăn uống thoải mái, thừa thãi, mà không nghĩ đến những lúc giáp hạt, đói kém,… đối với người Cơ Tu ý thức dành dụm, tiết kiệm hầu như không được chú trọng. Hiện any tình trạng này vẫn còn khá phổ biến ở người Cơ Tu. Vào những dịp vui hay dịp buồn đồng bào đều tổ chức ăn uống thoải mái, chu tất chấp nhận trả nợ đến mấy năm sau. Chính vì thế mà đặc tính này trở thành một gánh nặng cho đồng bào, cần phải sớm được loại bỏ.

Thứ tư: ăn bốc (bốc bằng tay) là một trong những tập quán khá phổ biến trong các thời kì trước đây của người Cơ Tu. Tập quán này tuy có cái lợi là gọn nhẹ, dễ dàng xử lý trong khi ăn uống, nhưng đồn thời nó cũng phản ánh trình độ ăn uống của người dân tộc Cơ Tu. Như đã trình bày, thông thường người Cơ Tu chỉ chế biến món ăn theo hai hình thức: luộc và nướng. Trước đây người Cơ Tu có ít các món xào, món canh trong bữa ăn. Món canh có tính phổ biến và là đặc sản của người Cơ Tu phải kể đến món canh thập cẩm ( tà lục, tà lẹc). Đây là một món ăn vừa giống canh vừa giống cháo được hợp thành từ gạo (sản phẩm trồng trọt), dọc mùng, rau rừng, nấm, nón chuối non ( sản phẩm hái lượm ), cua, ôc, nhái, xương thú ( sản phẩm săn bắt) cá muối…

Hiện nay ở người Cơ Tu, tập quán ăn bốc đã mất vị rí trong cách thức ăn uống của người đồng bào. Dụng cụ trong ăn uống của người Cơ Tu này đã phong phú lên rất nhiều so với trước đây. Bao gồm các loại bát đĩa, thìa, muỗng, đũa… đồng bào từng bước đã biết giữ gìn vệ sinh trong ăn uống, thế nhưng vào những dịp ăn uống đông người, đồng bào vẫn còn tập quán ăn bốc.

Thứ năm: ăn uống của người Cơ Tu mang tính thực dụng nhiều hơn là thẩm mỹ, hơn thê nhiều lúc còn mang tính tâm linh. Một thời gian trước đây đối với người Cơ Tu ăn uống chỉ là nhu cầu, là điều kiện đảm bào sự sinh tồn. Sống giữa núi non, luôn bị cái đói đe dọa, hành hạ nên người Cơ Tu chưa xem ăn uống như là một nghệ thuật, một chuẩn mực của xã hội. Người Cơ Tu chỉ kiêng ăn những loài động, thực vật mà đồn bào xem là tổ vật, và là vật kiêng của dòng họ. Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

Thứ sáu: do nhiều nguyên nhân tác động nên đối với người Cơ Tu, khâu chế biến, nhất là bảo quản thức ăn ít được chú ý đến. Đối với đồng bào đồ ăn trong bữa ăn thường “chặt to, kho mặn” . Đồng bào ít có kinh nghiệm trong việc bảo quản thức ăn. Thức ăn được bảo quản chủ yếu là được phơi khô hay dầm muối, treo trên các sàn bếp…

Thứ bảy: uống rượu và hút thuốc là một trong những tập quán khá phổ biến và lâu đời đối với người Cơ Tu.

Hút thuốc là nhu cầu hàng ngày, không phân biệt giới tính, tuổi tác, không gian hay thời gian. Người Cơ Tu có nhiều cách hút thuốc lá khác nhau: quấn thuốc lá thành điếu, giã nhỏ lá thuốc đã phơi khô, nhưng phổ biến nhất vẫn là hút thuốc bằn tẩu. Trước đây từ lớp tuổi trung niên trở lên, trên miệng của người Cơ Tu luôn có cái tẩu. Đối với đồng bào tẩu thuốc ngoài công dụng để hút còn là vật trang sức. Chính vì thế người Cơ Tu đã tồn tại, hiện diện nhiều tẩu thuốc đẹp, rất công phu.

Trước đây, người Cơ Tu không chú ý nhiều đến nước uống thường, nhưng lại rất quan tâm đến nước uống có chất men (rượu). Có thể nói uống rượu của người Cơ Tu đã trở thành một tập quán rất lâu đời, một thứ gì đó không thể thiếu được trong các dịp vui, dịp buồn, dịp gặp nhay hay thậm chí là ngay trong các bữa ăn thường ngày. Loại rượu đặc sản của người Cơ Tu là rượu “cần” được chế biến từ một loại men rễ cây rừng với nguyên liệu sắn. Kỹ thuật chế biến rượu cần khá đơn giản nên nhà nào cũng có, cũng làm được. Dụng cụ đựng rượu là các loại ché. Ché được xem là một trong những tài sản quý hiểm của người Cơ Tu ( bên cạnh trâu, cồng chiêng…) hiện nay, ngoài rượu cần ra, người Cơ Tu còn dùng phổ biến rượu trắng do người kinh đưa lên hoặc tự nấu lấy.

Ẩm thực ngày tết của người Cơ Tu

Ngày tết, trên mâm đãi khách của đồng bào Cơ Tu luôn đủ đầy những món ăn truyền thống độc đáo, thể hiện tình cảm của chủ nhà đối với khách ghé thăm.

Từ ngàn xưa đồng bào Cơ Tu thường rất coi trọng đối với mâm đãi khách trong ngày tết. Ngoài yếu tố tình cảm của chủ nhà với khách, mâm cỗ ngày tết cũng thể hiện được mức độ kinh tế của gia chủ. Tuy nhiên, dù ở phương diện nào, đồng bào Cơ Tu vẫn luôn trân trọng tình cảm của nhau, nhất là trong ngày lễ tết. Vì thế, mâm đãi khách ngon hay dở, nhiều hay ít cũng đều mang giá trị tình cảm rất cao, được xem như một tập tục văn hóa đẹp trong ngày tết cổ truyền. “Cùng với các món ẩm thực, trên mâm tết dọn khách không thể thiếu rượu cần, rượu tà vạt hoặc nếp than. Dù sống trong thời hiện đại nhưng người Cơ Tu luôn giữ được nét truyền thống trong ngày tết. Điều đó không chỉ thể hiện ở không gian sinh hoạt đón tết, mà còn hiện hữu ngay trên mâm đãi khách của đồng bào trong suốt 3 ngày xuân”

Trên mâm tết đãi khách của người Cơ Tu bao giờ cũng được dọn rất nhiều món ẩm thực truyền thống, từ bánh sừng trâu, thịt nướng ống, thịt xông khói… cho đến cơm lam, thịt cá, thịt đông và các loại rượu cho chính đồng bào tự làm. Tất cả được chế biến theo hương vị truyền thống rất đặc trưng, cùng hương thơm của tiêu rừng, lá rau rừng tự nhiên. Họ cùng ăn, cùng uống, cùng vui chơi suốt 3 ngày tết, như một dịp tự thưởng cho mình sau một năm làm lụng vất vả công việc nương rẫy. Khách đến nhà, ngoài thăm hỏi sức khỏe, chúc phúc cho gia chủ nhân dịp năm mới, còn là dịp để thưởng thức những món ăn truyền thống được chế biến bởi tài năng của các thành viên trong gia đình chủ nhà. Đây cũng là cách để đồng bào Cơ Tu gìn giữ những món ẩm thực truyền thống của dân tộc mình trước nguy cơ thất truyền. Theo ông Hôih G’ong ở làng Tu Ngung, xã Arooih, huyện Đông Giang, cùng với chương trình vui xuân, các món ẩm thực truyền thống của đồng bào Cơ Tu sẽ tạo nên không gian ấm cúng, độc đáo và thú vị trong ngày tết. Vì thế, mâm cỗ ngày tết càng nhiều món và hấp dẫn càng đem lại nhiều niềm vui cho cả chủ nhà lẫn khách đến thăm. “Người Cơ Tu không phân biệt khách lớn hay nhỏ, khách quen hay không quen, hễ đến thăm nhà trong ngày tết, mâm cỗ được dọn như nhau và luôn là những món ăn ngon nhất mà chủ nhà có”.

Ngày nay, theo xu thế hội nhập, trên mâm cỗ đón khách ngày tết của đồng bào Cơ Tu bài trí xen kẽ giữa các món truyền thống và món ăn hiện đại. Bánh kẹo, mứt gừng, hạt dưa, dưa món… cũng dần xuất hiện trên mâm cỗ, tạo thêm sự đa dạng, đáp ứng với nhu cầu của thực khách. Dù vậy, món ẩm thực truyền thống của đồng bào vẫn luôn là “lựa chọn số 1” đối với mọi người mỗi khi tết đến, xuân về. Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

Tóm lại ăn uống là nhu cầu tất yếu của cuộc suống con người. Tuy nhiên các dân tộc do sống trong những điều kiện tự nhiên khác nhau nên đã hình thành những cách kiếm sống, cách ăn uống, cách chế biến và cách tổ chức bữa ăn khác nhau. Người Cơ Tu ở Quảng Nam trải qua quá trình tồn tại và phát triển lâu dài của mình đã hình thành nên những đặc tính riêng trong văn hóa ẩm thực.

Một số đặc sản

Kdal um

Kdal là một ấu trùng của một loại ấu trùng của loại ve sầu núi trước khi trở thành chú ve, có thân bằng ngón tay út người lớn, màu trắng ngà, hoặc trắng xanh, đầu và răng cứng, có hai cái răng nằm ngang, sống ở các bãi bồi ven sông hoặc tại các vùng đất pha các và nhiều lá mục. Đào được Kdal, nếu không biết xử lý ngay thì bị mất phẩm chất.

Khi đào được nó, phải nhanh chóng dùng tay phải nắm đầu, tay trái dùng móng tay xé khúc cuối da đuôi ra và dùng tay phải rảy mạnh, phần ruột đen sẽ văng ra ngoài, phần còn lại trong lớp vỏ mềm là chất dịch như sữa đặc, tương tự chất dịch trong con nhộng. Kết thúc buổi đào, mang Kdal xuống suối để rửa sạch .

Hằng năm khi đến vụ Đông Xuân, bà con nông dân, cày đất nà tỉa đậu, họ thường mang giỏ đi theo sau đường cày để nhặt Kdal, vừa bảo vệ hoa màu sau này, vừa có tí mồi đặc biệt để bồi dưỡng và nhâm nhi vào buổi chiều với các nhà nông để ‘tính chuyện làm ăn “…Kdal um, không cần dầu ăn, người ta bắc xoong lên bếp cho nóng, cho nó vào khuấy đều, mỡ từ Kdal tươm ra, đủ để nấu chín… Không gì hấp dẫn hơn vào ngày đông rét mướt, hương thơm Kdal xào lan toả bên bếp lửa hồng ấm áp của đồng bào và xúm xít người già, trẻ con quây quần thưởng thức …

Kdal um với đọt cây Thiên niên kiện là món ăn truyền thống, hấp dẫn của đồng bào Cơ Tu. Kdal chỉ xuất hiện trong thời gian ngắn trong năm và sau mùa mưa lụt, nên rất hiếm và ít người có dịp thưởng thức. Hiện nay, một số người Kinh đã biết thưởng thức món ăn dân dã và ngon miệng này, xuất phát từ món ăn truyền thống của đồng bào dân tộc Cơ Tu và không quên trồng trong vườn nhà vài bụi Thiên niên kiện vừa để làm cảnh, vừa để um, xào…Kdal, thưởng thức hương vị thơm ngon của món ăn đậm đà truyền thống dân tộc này. * Mối rang

Sau những cơn mưa chiều tháng tư (âm lịch), nhất là vào tầm chạng vạng tối, không khí ở miền núi thường rất mát mẻ. Vì vậy, hàng đàn mối dày đặc từ tổ chui ra với đôi cánh mỏng, bay lấp lánh, chập chờn trong bóng hoàng hôn, tụ vào những nơi có ánh sáng. Người dân gọi nhau bắt mối, dí dỏm trêu đùa: “Con ơi bắt mối đem rang /Nhanh tay không kẻo mối sang nhà người”.

Công đoạn bắt mối chỉ diễn ra nhanh chóng trong khoảng nửa giờ. Thường ở những vùng có điện, khi phát hiện có mối, đồng bào lập tức tắt các bóng trong nhà và chỉ để lại một bóng duy nhất giữa sân, thu hút mối. Dưới bóng điện người Cơ Tu để một chậu nước để bẫy mối.

Đối với những vùng chưa có điện, khi phát hiện có mối đang bay ra, người ta thắp một cây đèn dầu, hoặc đèn cầy, cắm giữa cái thau lớn đặt ở nơi thuận tiện ngoài sân, trong thau đổ nước ngập một phần cây đèn. Mối thấy ánh sáng, mối cùng nhau sà xuống, gặp nước, ướt cánh chúng không bay lên được nên nằm lại trong thau. Khi thau nhiều mối thì vớt bỏ vào bao nilon.

Sau khi đã bắt mối, đồng bào Cơ Tu dùng nước suối rửa nhẹ nhàng và nhiều lần cho sạch rồi vớt ra một để ráo nước. Mối thành phẩm còn nguyên cánh mỏng, thân dài khoảng 1 cm, bụng lớn bằng sợi bún tươi, có viền đen quanh thân màu vàng nâu, ngực và đầu.

Chế biến mối hết sức đơn giản. Chảo được đặt lên bếp chờ đến khi nóng đều thì cho mối, nêm thêm muối vào, đảo tới khi mối có mùi thơm và những tiếng nổ lẹt đẹt nho nhỏ là đã chín. Lúc này, người Cơ Tu đổ mối ra mẹt, lấy các ngón tay đảo nhẹ và sảy cho cánh mối bay đi, chỉ còn lại phần thân vàng ươm, béo ngậy. Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

Khách, chủ cùng rôm rả bên đĩa mối rang, trò chuyện về mùa màng, cấy hái hay thảnh thơi lắng nghe và hát theo tiếng đàn Hroa, một loại nhạc cụ độc đáo của đồng bào Cơ Tu và rỉ tai nhau nói rằng: “Không gì thú vị bằng sau những ngày lên nương, rẫy được thưởng thức hương vị thơm lừng, béo ngậy và ngọt bùi của món clap padieng, chiêu thêm vài ly rượu Tà vạt “. * Rượu Tà Vạt

Đó là loại rượu lấy chất dịch thơm, ngọt từ buồng trái của cây Tà Vạt, cho lên men, uống rất thơm ngon và bổ dưỡng. Rượu có vị ngọt, đắng nhẹ, cay cay làm tê tê đầu lưỡi, là loại rượu “khai vị” không thể thiếu trong các lễ hội, ngày Tết của đồng bào dân tộc Cơ Tu.

Quy trình sản xuất rượu Tà Vạt khá phức tạp. Thường thường, mỗi cây Tà Vạt có bốn, năm buồng, nhưng chỉ chọn buồng có trái lớn cỡ đầu ngón tay cái vì cho nhiều nước và phẩm chất tốt nhất. 3 ngày một lần, người ta leo lên gần buồng, dùng dùi cui đẽo bằng cây rừng đập nhẹ xung quanh cuống của buồng trái. Mỗi lần đập khoảng một vài giờ. Sau 4 hoặc 5 lần đập, cắt ngang cuống bu ồng trái.

Sau đó dùng cọng cây môn nước giã dập và bịt ngay đầu mới cắt, bên ngoài bọc bằng lá rừng và buộc lại. Động tác này gọi là “nhử nước”. Tuỳ theo cây, có thể nhử ba hoặc bốn lần mới ra nước, khi thấy mặt vết cắt nhỏ giọt nhanh, đều thì gạt bỏ lớp “chất nhử” và treo một cái can 10 lít để hứng. Có thể dùng ống nhựa, lồ ô, giang … để dẫn nước vào can.

Chất nước này lúc vừa chảy ra thì hơi trong, thơm và ngọt, hấp dẫn các loại côn trùng như kiến, ong… nên phải đậy kín. Để dung dịch này lên men, người Cơ Tu dùng vỏ cây chuồn (một loại cây chắc, nặng), đập cho mềm rồi bỏ vào can rượu. Tùy theo khẩu vị mà đưa vỏ cây chuồn vào can nhiều hay ít. Muốn rượu có nồng độ cao hơn, vị đắng, thì cho vỏ chuồn nhiều và ngược lại. Khi rượu đã lên men thì nước có màu đục, trắng

Một cây Tà Vạt cho từ 10 đến 15 lít rượu, mỗi ngày, hai lần, sáng và chiều người ta đi lấy rượu. Cây Tà Vạt có thể cho rượu trong thời gian 2-3 tháng, với số lượng khoảng 300 lít. Tà Vạt ra hoa, có trái liên tục nên rượu Tà Vạt có thể sản xuất quanh năm, nhưng rượu có chất lượng tốt nhất là cuối tháng tư âm lịch. Cây Tà Vạt giống như cây dừa nên người Kinh đặt tên là “dừa núi” hay còn gọi là cây đoát, có tên khoa học: Arrenga sacchariferasp. Tà Vạt là loại cây thân to, nhiều đốt dày, lá thưa, rễ chùm và sống ở gần khe, hố, để hút nước nuôi cây. Lá cây Tà Vạt còn dùng để lợp nhà, lợp chuồng gia súc, trâu, bò… Tất nhiên, cái đặc sắc và hấp dẫn nhất của cây là làm rượu tà vạt.

Một số luật tục trong ăn uống

Nếu ăn uống của người Kinh đã trở thành một nghệ thuật thì đối với người Cơ Tu, họ quan niệm ăn uống chỉ là điều kiện để sinh tồn và nhất là đảm bảo nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng. Vì thế, đi liền với vấn đề ăn uống không phải là kỹ thuật chế biến mà những quy định về kiêng kị.

Về thức ăn

Kiêng ăn những con vật như rắn, trăn, những con thú có hình dạng và màu sắc lạ thường. Theo đồng bào quan niệm, đó là hiện thân của ma quỷ, ăn vào sẽ bị độc; hoặc những con thú chết bất thường (không phải do đánh bẫy), nhất là con mang ăn vào sẽ biến thành ma lai.

Không giết thịt những loài thú gắn với sự tích dòng họ (vật tổ), đồng bào tin rằng nếu ăn những con vật này thì sẽ bị đau, ốm, bệnh tật,…

Những thực phẩm dùng trong cúng bái chỉ người nhà ăn mà tuyệt đối không được mời khách (cúng lợn: phần đầu, đuôi, ruột, gan và hai miếng thịt lưng không mời khách), đồng bào cho rằng nếu mời khách thì không linh ứng.

Lúa mới tuốt xong, chưa làm lễ thì không được nấu ăn vì nếu ăn thì năm sau sẽ khó được mùa.

Về cách thức trong ăn uống

Trước khi uống rượu cần, người chủ tế phải lấy một ít gạo rải lên bàn thờ xin Yàng Pua, người phù hộ cho ché rượu thơm ngọt, nếu không lần sau sẽ bị hỏng.

Khi làng có lễ hội, người lớn tuổi, chức sắc luôn được ưu tiên ngồi nơi cao nhất, ăn những thức ăn ngon, uống trước, sau đó mới đến lượt các thành viên.

Trong hôn nhân; những đồ lễ nhà gái mang sang, nhà trai không được đem ra tiếp họ nhà gái. Đồng thời, nhà trai không được ăn những thứ mình chuẩn bị bởi nếu không, họ cho đó là hành vi trả lễ cưới, một cách từ chối khéo, khi mà hai gia đình có mâu thuẫn.

Trong tiếp khách: khi làng có khách, mọi gia đình trong làng đều có nghĩa vụ đưa cơm đã khách (mỗi gia đình một bữa), để đáp lại khách phải ăn mỗi nhà một ít mà không được thiên vị.

Ăn uống gắn với lao động: nếu làm bẫy vượn, khi ăn không được ngẩng đầu lên để dấu mặt; làm bẫy thắt, khi ăn không được cầm chén nếu không thú sẽ tuột; đi rừng tránh ăn thịt mang để tránh tai nạn.

Những qui định trên, không phải điều nào cũng hợp lý, cũng giải thích được, bởi có những qui định hình thành từ quan niệm tín ngưỡng hoặc từ kinh nghiệm thực tế, lâu dần trở thành tập quán bắt buộc mọi người phải tuân theo.

2.4.2. Trang phục Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

Người Cơ Tu (còn gọi là người Ca Tu, Gao, Hạ, Phương, Ca-tang) là một dân tộc sống ở trung phần Việt Nam và Hạ Lào. Dân số người Cơ Tu có khoảng trên 76 nghìn người. Tại Việt Nam người Cơ Tu là một trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.

Người Cơ Tu có cá tính riêng trong tạo hình và trang trí trang phục, khác các tộc người khác trong khu vực, nhất là trang phục nữ.

Nam giới người Cơ Tu đóng khố, ở trần, đầu hoặc vấn khăn hoặc để tóc ngắn bình thường. Khố có các loại bình thường (không trang trí hoa văn và ít màu sắc), loại dùng trong lễ hội dài rộng về kích thước và trang trí đẹp với màu sắc và hoa văn trên nền chàm. Mùa rét, họ khoác thêm tấm choàng dài hai, ba sải tay. Tấm choàng màu chàm và được trang trí hoa văn theo nguyên tắc bố cục dải băng truyền thống với các màu trắng đỏ, xanh. Người ta mang tấm choàng có nhiều cách: hoặc là quấn chéo qua vai trái xuống hông và nách phải, thành vài vòng rồi buông thõng xuống trùm quá gối. Lối khoác này tay và nách phải ở trên, tay và vai trái ở dưới hoặc quấn thành vòng rộng từ cổ xuống bụng, hoặc theo kiểu dấu nhân trước ngực vòng ra thân sau.

Phụ nữ Cơ Tu để tóc dài búi ra sau gáy, hoặc thả buông. Xưa họ để trần chỉ buộc một miếng vải như chiếc yếm che ngực. Họ mặc váy ngắn đến đầu gối, màu lanh khoác thêm tấm chăn.

Họ thường mặc áo chui đầu khoét cổ, thân ngắn tay cộc. Về kỹ thuật đây có thể là một trong những loại áo giản đơn nhất (trừ loại áo choàng chỉ là tấm vải). Áo loại này chỉ là hai miếng vải khổ hẹp gập đôi, khâu sườn và trừ chỗ tiếp giáp phía trên làm cổ. Khi mặc cổ xòe ra hai vai thoạt tưởng như áo cộc tay ngắn. Áo được trang trí ở vai, ngực, sườn, gấu, với các màu đỏ, trắng trên nền chàm. Váy ngắn cũng được cấu tạo tương tự như vậy: theo lối ghép hai miếng vải khổ hẹp gập lại thành hình ống. Họ ưa mang các đồ trang sức như vòng cổ, vòng tay đồng hồ (mỗi người có khi mang tới 5,6 cái), khuyên tai bằng gỗ, xương, hay đồng xu, vòng cổ bằng đồng, sắt cũng như các chuỗi hạt cườm, vỏ sò, mã não.. Nhiều người còn đội trên đầu vòng tre có kết nút hoặc những vòng dây rừng trắng (rơnơk) và cắm một số loại lông chim. Một vài vùng có trục cưa răng cho nam nữ đến tuổi trưởng thành khi đó làm tổ chức lễ đâm trâu. Ngoài ra người Cơ Tu còn có tục xăm mình, xăm mặt.

Trang phục lễ hội của người Cơ Tu

Trang phục trong lễ hội hay ngày tết của các dân tộc đều thể hiện bản sắc văn hóa và giá trị truyền thống, người Cơ Tu cũng vậy, mỗi khi tết đến xuân về, họ lại diện những bộ trang phục truyền thống với hoa văn, màu sắc rực rỡ trên nền vải thổ cẩm tạo nên vẻ đẹp trong sáng và thánh thiện, như đóa hoa rừng khoe sắc giữa núi rừng đại ngàn Tây Nguyên.

Trang phục lễ hội của các thiếu nữ Cơ Tu hầu hết trang phục lễ hội của người Cơ Tu đều được bố trí các hoạ tiết hoa văn thành từng mảng nhưng không đơn điệu. Chiếc áo cột tay của đàn ông, thanh niên trang trí những dãy hoa văn đối xứng, với những vạch sọc có khoảng cách đều nhau được dệt bởi ba màu: vàng, đỏ và trắng trông nổi bật trên nền vải chàm đen. Chiếc khố của đàn ông được bố trí các hoạ tiết đường nét hoa văn thành từng mảng lớn. Váy dài của phụ nữ có nhiều hoa văn cách điệu, tập trung thành mặt phẳng lớn ở phần dưới của thân váy. Các hoạ tiết hoa văn ở phần thân váy thường đứng riêng lẻ bằng cách vạch sọc như: hoa văn ablơm (hoa tình yêu), lá trầu, dây buộc nhà gươl, múa da dá… màu sắc đơn giản, các hoạ tiết hoa văn được thể hiện dưới dạng hình học hoá. Sau đó được dệt hoàn toàn bằng thủ công với những đường nét và hoa văn tinh tế, thể hiện tính thẩm mỹvà tài năng sáng tạo của người phụ nữ Cơ Tu từ xưa đến nay.

Một điều dễ dàng nhận thấy là trang phục lễ hội của người Cơ Tu khá đơn giản, không cầu kỳ về màu sắc nhưng phản ánh đậm chất nhân sinh quan và thế giới quan sâu sắc về vũ trụ, trời đất, vạn vật cũng như phong tục -tập quán, sinh hoạt của cộng đồng… của dân tộc mình. Màu chủ đạo của trang phục người Cơ Tu là màu chàm đen, đây cũng là màu nền chính của trang phục. Người Cơ Tu quan niệm rằng: Màu chàm đen là màu của đất (Abhuyh-Catiếc), màu đỏ là màu của mặt trời (Abhuyh-plêếng). Đây là hai màu sắc của hai vật thiêng không thể thiếu trong đời sống của người Cơ Tu. Vì vậy trang phục của họ không thể thiếu hai màu nói trên. Màu vàng trên trang phục được người Cơ Tu dùng rất ít chỉ là những nét mảnh để tạo nên những hoạ tiết, những đường nét hoa văn tinh tế.

Trang phục của người Cơ Tu còn ẩn chứa nhiều nét hoang dã của một cư dân sống trên vùng Trường Sơn. Với họ, trang phục là cội rễ để hình thành nên một bản sắc văn hoá riêng-Văn hoá Cơ Tu. Từ những nét riêng biệt và độc đáo đó đã làm cho trang phục của người Cơ Tu vùng Trường Sơn không giống bất kỳ trang phục lễ hội nào của cộng đồng 54 dân tộc anh em sống trên đất Việt Những nét biến đổi trong trang phục của Người dân tộc Cơ Tu. Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

Biến đổi về nguyên liệu dệt 

Trước đây, sợi bông là nguyên liệu chính để dệt thổ cẩm, trang phục; cây bông vì thế được trồng khắp nương rẫy của mọi gia; cách nhân sợi, bí quyết nhuộm vải trở thành kinh nghiệm được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo nên nét văn hóa riêng và độc đáo của người Cơ Tu. Tuy nhiên, hiện nay quá trình giao lưu, buôn bán với các dân tộc khác, đặc biệt là với người Kinh ở miền xuôi đã mang đến cho đồng bào những nguyên liệu mới, vừa rẻ, vừa có sẵn như: sợi nhân tạo, len, chỉ, hạt cườm. Trong điều kiện đó, phần lớn người phụ nữ Cơ Tu đã tìm đến sợi nhân tạo, để thay thế cho chất liệu sợi bông truyền thống; các loại sợi này khiến quá trình dệt thổ cẩm của người Cơ Tu diễn ra nhanh hơn do không mất công thu hoạch, nhân sợi; lại không phải tốn công nhuộm do sợi nhân tạo và len có rất nhiều màu sắc để lựa chọn. Hạt cườm bằng nhựa cũng là sự lựa chọn mới cho đồng bào Cơ Tu, dùng để thay thế cho hoa văn kết bằng chì hoặc “bằng hạt apờ roong, arắc từ một loại cây trong rừng để làm cườm” phí sản xuất bỏ ra cho việc sử dụng hạt cườm bằng nhựa khá thấp, công đoạn tạo hoa văn không tiêu tốn nhiều công sức như chất liệu chì, lại bền hơn hạt cây.

Qua khảo sát điền dã cho thấy, chỉ còn rất ít làng của người Cơ Tu sử dụng nguyên liệu bông một cách thuần túy trong dệt thổ cẩm, trang phục. Việc sử dụng nguyên liệu bằng chì để tạo hoa văn chỉ còn ở một số ít sản phẩm dệt của những gia đình khá giả hoặc làm theo yêu cầu của những cá nhân có nhu cầu. Ở thôn Công Dồn, xã Zhuôil, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam, một địa phương được xem là còn bảo lưu một cách đầy đủ những yếu tố nghề dệt của đồng bào Cơ Tu, người phụ nữ bên cạnh việc sử dụng sợi bông truyền thống để dệt còn sử dụng thêm sợi len để tạo nên những tua trang trí cho áo quần, thổ cẩm. Có gia đình còn sử dụng len đan xen với sợi bông để tạo nên họa tiết trang trí trên nền vải; việc sử dụng hạt cườm bằng nhựa để tạo hoa văn cho sản phẩm trở nên phổ biến. Còn tại các địa phương khác như Kon Tơ Rơn (xã La Dê, huyện Nam Giang), A Dinh (xã Chà Val, huyện Nam Giang), Bhơhôông (xã Sông Kôn, huyện Đông Giang), Aré (xã Tà Lu, huyện Đông Giang) tỉnh Quảng Nam, Dỗi (xã Thượng Lộ, huyện Nam Đông) tỉnh Thừa Thiên Huế, phần lớn sản phẩm làm ra đều được dệt bằng sợi tổng hợp, hoặc bằng len, khó có thể tìm thấy sản phẩm đươc sử dụng bằng nguyên liệu bông truyền thống hoàn toàn ở thời điểm hiện tại.

Nguyên liệu nhuộm vải về cơ bản không có sự thay đổi lớn trong cách chế biến và sử dụng (đối với ch t liệu dệt là sợi bông), người Cơ Tu vẫn sử dụng những gam màu truyền thống của mình, là những màu sắc có thể tìm thấy dễ dàng trong môi trường tự nhiên của núi rừng: màu đen từ thân cây ta râm, vỏ ốc (pa châu), màu xanh từ lá cây (a nách và tà râm), màu đỏ, vàng được lấy từ củ (achất, marơc, arác hoặc abial)… Tuy nhiên, việc chế biến và nhuộm màu không còn là công việc chủ yếu, quan trọng như trước đây trong nghề dệt của đồng bào. Thay vào đó, người dân sử dụng những nguyên liệu hiện đại, vừa rẻ vừa tiện dụng, đầy đủ màu sắc, đồng thời có thể rút ngắn thời gian hoàn thành sản phẩm.

Biến đổi về hoa văn trang trí

Đối với người Cơ Tu, hoa văn trang trí trên thổ cẩm đóng một vai trò quan trọng, không những làm đẹp cho sản phẩm dệt mà còn có ý nghĩa trong đời sống tinh thần, thể hiện thế giới quan cũng như khả năng tư duy, khả năng thẩm mỹ của người Cơ Tu. Những hoa văn truyền thống được trang trí trên trang phục, thổ cẩm vì vậy mang những ý nghĩa văn hóa xã hội nhất định, như lá atút một loại lá khá gần gũi với đời sống hằng ngày của đồng bào, được cách điệu nhìn như hình chiếc chong chóng; hay điệu múa ting tung, padil ya yã, motif hàng rào; motif cửa sổ tình yêu, các loại hình hoa văn như chông, lá atút, múa ting tung, padil ya yã, mã não…

Với bản chất thích tìm tòi, sáng tạo những cái mới; hơn thế nữa là sự xâm nhập của các yếu tố hiện đại vào đời sống hằng ngày của đồng bào thông qua các phương tiện thông tin đại chúng đã mang đến những ý tưởng mới trong cách thể hiện hoa văn trang trí theo lối tư duy mở so với trước đây. Không còn bị bó hẹp trong những motif truyền thống, thổ cẩm trở thành miếng đất màu mỡ cho người nghệ nhân Cơ Tu gi o nên những hạt ý tưởng của bản thân. Lồng vào những hình ảnh của hoa văn truyền thống là những dạng thức hoa văn mang đầy màu sắc hiện đại, như hình ảnh của nhà gươl cách điệu, nhà văn hóa, máy bay, con robot… tùy vào sự sang tạo của mỗi cá nhân mà tạo nên những loại hình hoa văn mới phù thuộc sở thích và ý tưởng của mỗi người, thậm chí ở một số sản phẩm như tấm đắp, rèm cửa hoặc sản phẩm được đặt hang đồng bào còn lồng vào những câu khẩu hiệu, những suy nghĩ cá nhân như “Quyết tâm xây dựng nếp sống văn hóa”, “Ơn Bác suốt đời”… Vì thế có rất nhiều motif chưa bao giờ hoặc ít xuất hiện trước đây, ngày nay trở nên không còn xa lạ đối với trang phục thổ cẩm của người Cơ Tu. Đây có thể xem là một sự biến đổi tích cực không những góp góp phần làm phong phú thêm hệ thống các hoa văn trên các loại hình sản phẩm mà còn đáp ứng nhu cầu th hiếu của đồng bào Cơ Tu, các dân tộc cận cư và khách du lịch.

Biến đổi loại hình trang phục thổ cẩm

Sự biến đổi trong loại hình trang phục thổ cẩm của người Cơ Tu ít có biểu hiện rõ nét, đa phần là trang phục của nữ giới với các loại áo được cải tiến theo kiểu áo của người Kinh với cổ áo được cắt xẻ theo hình trái tim hoặc kiểu áo pull chui đầu mà phụ nữ Kinh thường mặc. Tại một số địa phương, người Cơ Tu ở Quảng Nam đồng bào đã dệt những kiểu áo nam giới có nú lồng như áo của người Hoa, người Lào (dệt theo đơn đặt hàng của thương nhân Lào), bên cạnh đó người dân cũng đã dệt những túi thổ cẩm nhỏ có công dụng như ví tiền, những chiếc khan trải bàn, mành cửa, võng… vừa để sử dụng trong gia đình, vừa để bán cho những đối tượng có hu cầu hoặc đặt hàng từ trước.

Về cơ bản, sự biến đổi trong loại trang phục và sản phẩm dệt của người Cơ Tu xuất pháttừ nhu cầu sử dụng của những dân tộc cận cư, trong đó chủ yếu là người Kinh, lái buôn từ Lào với những mặt hàng như: áo, tấm ra, màn cửa, túi xách… Vì vậy, không làm ảnh hưởng nhiều đến loại hình trang phục truyền thống của người dân Cơ Tu. Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

Biến đổi về ý thức sử dụng

Trang phục truyền thống ngoài chức năng sử dụng để mặc, để làm đẹp, để thể hiện sự giàu có của các gia đình còn trở thành lễ vật trong cưới xin: váy, xà lùng, tấmm choàng, khố…Thường là lễ vật nhà gái chuẩn bị cho nhà trai. Một lễ cưới dù lớn hay nhỏ bắt buộc phải có thổ cẩm, trang phục của cô dâu mang tặng cho gia đình nhà chồng. Trang phục, sản phẩm từ dệt thổ cẩm vì vậy là lễ vật quan trọng trong dựng vợ gả chồng, là tài sản riêng của con cái khi trưởng thành, lập gia đình, là vật dụng biểu thị sự ấm no, hạnh phúc, là thứ không thể thiếu trong các nghi thức, lễ hội của cộng đồng người Cơ Tu. Ý nghĩa này của trang phục, của sản phẩm thổ cẩm truyền thống cho đến bây giờ vẫn còn được bảo lưu. Tuy nhiên khác một điều là trước đây, thổ cẩm được xem như tiêu chí đánh giá sự giàu có, sang trọng của một gia đình, sự chênh lệch về giàu nghèo giữa các gia đình thể hiện rõ thông qua số lượng và chất lượng trang phục, thì ngày nay điều đó đã không còn, bởi lẽ hầu như gia đình nào của người Cơ Tu cũng sở hữu trang phục, đồ thổ cẩm kết cườm thậm chí đổ chì hẳn hoi.

Ngày nay, rất khó bắt gặp hình ảnh người Cơ Tu mặc trang phục thổ cẩm trong laođộng, sinh hoạt hằng ngày mà thay vào đó, đồng bào mặc những trang phục may sẵn của người Kinh, vừa tiện lợi vừa có giá thành rẻ lại dễ dàng mua được bất kỳ ở đâu. Chính vì vậy, hầu như chỉ có những cụ già trên 60 tuổi và trẻ nhỏ là còn sử dụng thường phục trong đời sống hằng ngày. Điều này biển hiện quan niệm về giá tr thẩm mỹ và giá trị sử dụng của trang phục truyền thống ở đồng bào Cơ Tu đã có những đổi thay rõ rệt. Hiện tại, hầu như phần lớn người Cơ Tu chỉ mặc trang phục truyền thống trong các dịp quan trọng mà thôi, như: tang ma, cưới xin, lễ hội…

Trang phục của người Cơ Tu trước đây thường được sử dụng với mục đích tặng, biếu, làm của hồi môn, hoặc có đi chăng nữa sự trao đổi sản phẩm vì mục đích kinh tế thì cũng chỉ biểu hiện dưới hình thức “hàng đổi hàng”, “vật ngang giá”.

Hiện tại, trang phục thổ cẩm đã có vai trò đáng kể trong đời sống kinh tế của người Cơ Tu, là sản phẩm mang lại nguồn thu nhập quan trọng cho các hộ gia đình thông qua buôn bán, trao đổi; như vậy có nghĩa rằng trang phục, sản phẩm thổ cẩm đã có thêm một chức năng mới trong mục đích sử dụng của đồng bào, trở thành hàng hóa mang tính chất giao dịch thương mại.

Đối với người Cơ Tu trước đây, chỉ có những gia đình khá giả mới có đủ điều kiện để dệt hoặc mua những trang phục, đồ thổ cẩm được kết cườm bằng cách đổ chì; trang phục kết nhiều cườm hoặc được kết bằng chì là tiêu chí để đánh giá sự giàu có của một gia đình.

Biến đổi về trao đổi sản phẩm

Trước đây, khi người dân chưa làm qu n với đồng tiền, quá trình trao đổi được áp dụng bằng vật ngang giá. Một tấmm tút dài và đẹp có thể đổi được một con trâu (bò), hoặc một, hai cái chiêng tùy theo kích thước. Hiện nay, sản phẩm dệt thường được quy đổi ra tiền, một tấm tút loại tốt, có trang trí hoa văn hạt cườm, nếu dệt khéo, đẹp có thể bán được từ 4-5 triệu đồng, một tấm xà lùng kết cườm cũng có giá từ 700 nghìn – đến 1 triệu đồng, hay một chiếc khố nếu có giá vừa thì cũng phải đến 500 nghìn – 600 nghìn đồng.

Chính nhờ thông qua trao đổi, có những gia đình nhờ dệt thổ cẩm, trang phục đẹp mà có trong tay gia sản rất lớn, đồng thời nhiều cư dân không biết dệt cũng thông qua đó mà có những sản phẩm dệt, trang phục đáp ứng cho nhu cầu của bản thân và gia đình.

Trang phục, sản phẩm dệt một khi đã trở thành hàng hóa có tính chất thương mại cũng đồng nghĩa với việc phải có sự bao tiêu, trao đổi sản phẩm giữa cộng đồng dân tộc Cơ Tu với các cộng đồng dân tộc khác. Trong một thời gian dài, quá trình trao đổi này diễn ra một cách manh mún, nhỏ lẻ; phần lớn trang phục, sản phẩm thổ cẩm được bán theo quy mô hộ gia đình gia đình nào sản xuất gia đình đó sẽ phải mang đi tiêu thụ tùy theo khả năng của từng hộ, chứ chưa có sự liên kết giữa các hộ. Lượng sản phẩm tiêu thụ lại phụ thuộc phần lớn nhu cầu của các dân tộc cận cư và của số ít khách tham quan, du lịch nên đã phần nào hạn chế quá trình trao đổi sản phẩm của đồng bào.

Thức được vấn đề trên, hiện nay một bộ phận người Cơ Tu đã biết kết hợp với thương lái (đa phần là người Kinh hoặc từ Lào sang) để thực hiện việc bao tiêu sản phẩm với những đối tượng có nhu cầu. Quá trình này khiến cho trang phục, thổ cẩm được làm ra không những tiêu thụ mạnh trong nội bộ người Cơ Tu và các dân tộc cận cư mà còn được trao đổi rộng rãi trên nhiều địa phương trong cả nước và một bộ phận lớn nhân dân ở các vùng biên giới với Lào. Sự biến chuyện trong ý thức bao tiêu, trao đổi sản phẩm thổ cẩm, trang phục đã góp phần không nhỏ trong việc khắc phục và cải thiện đời sống kinh tế của người Cơ Tu ở các huyện miền núi Quảng Nam và Thừa Thiên Huế.

2.4.3. Văn hóa cư trú của người Cơ Tu Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

Kiến trúc nhà cửa là sáng tạo văn hoá vật chất quan trọng của cộng đồng, liên quan chặt chẽ đến chất lượng sống, không gian sinh tồn, sinh hoạt văn hoá của đồng bào. Kiến trúc nhà cửa gắn với qui hoạch làng bản, xây dựng mô hình nông thôn mới, giữ gìn di sản kiến trúc… Đó chính là yêu cầu bức thiết của cuộc sống bà con dân tộc miền núi. Đi tìm những giải pháp để bảo tồn và phát huy kiến trúc nhà cửa của đồng bào Cơ Tu là chủ đề Hội thảo do Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại TP. Huế, Thư Viện tỉnh Quảng Nam và Phòng VHTT huyện Tây Giang tổ chức vào tháng 3 năm 2014 tại Tây Giang.

Các dân tộc ở miền núi Quảng Nam đều có nhiều loại hình kiến trúc truyền thống, trong đó nổi bật và phổ biến nhất là nhà ở. Riêng dân tộc Cơ Tu có đến nhiều loại nhà như nhà làng truyền thống (gươl), nhà ở (moong, đông, nhà dài), nhà kho, chòi rẫy, túp lều thổ cẩm, nhà mồ… Nhìn vào công trình kiến trúc người ta biết được ít nhiều về tập quán, văn hoá, sức sống của dân tộc ấy.

Nhà cửa của dân tộc Cơ Tu phần lớn là nhà sàn cách mặt đất từ một mét trở lên, có cầu thang lên xuống. Loại hình kiến trúc này phù hợp với điều kiện địa hình, không gian, môi trường tự nhiên của miền núi. Tất cả vật liệu xây dựng đều tận dụng và khai thác từ thiên nhiên nơi họ cư trú. Vật liệu phổ biến là gỗ rừng, tre nứa, cỏ tranh, dây rừng… Với bàn tay khéo léo, đồng bào biết làm cho bền chắc và đẹp mắt những bộ phận của ngôi nhà từ bộ mái đến phần sàn nhà và các phần phụ khác. Các công trình kiến trúc dân gian đã tạo dấu ấn văn hoá truyền thống được lưu truyền qua bao thế hệ. Đặc biệt, nhà làng là một công trình kiến trúc đa năng, vừa là nơi hội họp, xử kiện theo luật tục, là nơi tổ chức lễ hội cộng đồng vừa là bảo tàng nghệ thuật trang trí, điêu khắc, chứa đựng nhiều tác phẩm tạo hình của tập thể các nghệ nhân tài hoa trong làng. Ngoài ra, nhà làng truyền thống là nơi tổ chức các hoạt động tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị, xã hội tại địa phương. Nó thực sự là thiết chế văn hóa cần thiết, có sức sống lâu bền ở bản làng miền núi.

Tuy nhiên, kiến trúc nhà cửa của đồng bào Cơ Tu nói riêng, các dân tộc thiểu số đang bị biến đổi rất nhanh, di sản kiến trúc dần bị mai một. Ngay trong chiến tranh, nhà ở của đồng bào một số thôn bản cũng phải thay đổi… Để tránh các cuộc đánh phá, càn quét của giặc, đồng bảo phải thực hiện “chuyển nếp sống ở nhà sàn sang nhà đất, có công sự chống may bay oanh tạc”. Ngày nay, dưới áp lực của phát triển miền núi, không gian cư trú, kiến trúc truyền thống, vật liệu xây dựng nhà ở của vùng đồng bào các dân tộc càng bị biến đổi nhiều hơn. Những năm gần đây do thực hiện định canh định cư, tái định cư để thực hiện các công trình giao thông, thuỷ điện, đồng bào xây nhà bằng vật liệu mới, kiểu cách kiến trúc mới.

Do tác động nội tại qua nhu cầu muốn học hỏi, thay đổi nếp sống cũ và tác động của chính quyền trong việc thực hiện định canh định cư, tái định cư xây dựng các công trình giao thông, thuỷ lợi, thuỷ điện, kiên cố hoá nhà ở, xoá bỏ những ngôi nhà tạm tranh, tre, nứa, lá… đã làm cho bản làng miền núi có nhiều thay đổi căn bản. Sự chuyển biến về điều kiện cư trú càng nhanh chóng hơn khi tỉnh thực hiện chủ trương xoá nhà tạm, hỗ trợ nhà ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo Quyết định 134/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Từ đây, những yếu tố ngoại lai bắt đầu chi phối đời sống tinh thần và vật chất của đồng bào ở các bản làng xa xôi. Xã hội cổ truyền đang biến đổi hết sức nhanh chóng cho nên kiện điều ăn ở, cư trú của đồng bào cũng phải thay đổi theo. Chẳng những các thôn bản nằm trên trục giao thông lớn bị biến dạng, “lạ hoá” mà các thôn bản vùng sâu vùng xa cũng đã và đang mất dần những yếu tố truyền thống. Kiến trúc là một trong những thay đổi rõ rệt nhất trên các vùng cao. Những ngôi nhà sàn đã bị “trệt hoá”, mái tranh mái nứa cũng bị “tôn hoá”. Mặc dù, trong quá trình thực hiện xoá nhà tạm, các nhà chức trách đã vận động và hướng cho các hộ dân lợp tôn có màu xanh để hợp với cảnh quan, thiên nhiên miền núi nhưng thực tế hoàn toàn không như mong muốn. Điều đáng nói là, khi thực hiện dự án, hầu như rất ít người quan tâm đến việc hướng dẫn người dân bảo lưu phong cách kiến trúc truyền thống của dân tộc mình. Những bất hợp lý về quy hoạch diện tích đất ở, canh tác gắn với thói quen và điều kiện sản xuất, việc phá vỡ môi trường sinh thái, mà thiết kế nhà sàn bê tông, mái tôn là sự “hủy hoại” quá lớn đến kiến trúc nhà ở của người Cơ Tu.

Sự thay đổi là điều tất yếu, tuy nhiên thay đổi theo hướng bất lợi làm ảnh hưởng nhiều đến việc bảo tồn văn hoá truyền thống, kiến trúc xưa cổ của các dân tộc thì cần phải xem xét, có những giải pháp khắc phục. Nếu không nghiên cứu cẩn thận, hợp lý sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của đồng bào miền núi nhất là việc bảo tồn văn hoá truyền thống, giữ gìn môi trường sinh thái. Ngôi nhà sàn là sự lựa chọn lý tưởng của đồng bào để thích nghi với môi trường miền núi, chống lại thú dữ, ẩm thấp, khắc phục độ dốc…Chúng ta đã vận động và cấp măng, tôn, sắt thép cho bà con làm nhà kiên cố, vô tình đã xoá bỏ nhiều giá trị văn hoá được con người tích luỹ, chọn lọc từ rất lâu đời. Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

Nhiều năm gần đây, tỉnh đã hỗ trợ xây dựng nhà làng truyền thống và mang lại những thành công đáng phấn khởi. Hiện nay toàn tỉnh có 167 ngôi nhà Gươl truyền thống được xây dựng Tuy nhiên, đã đến lúc đặt vấn đề bảo tồn di sản này không chỉ là phục giữ nguyên dạng về mặt kiến trúc mà quan trọng hơn là tinh thần linh hồn ẩn chứa trong nội thất, trong mỗi nét điêu khắc, hình tượng trang trí. Cần sưu tầm các hệ thống tri thức bản địa liên quan đến quá trình xây dựng, từ việc khai thác nguyên liệu, đến việc dựng nhà, các khâu đoạn hoàn thành; sưu tầm hệ thống hình tượng, motif, họa tiết, tượng điêu khắc trang trí trên toàn bộ kiến trúc Gươl; có chế độ đãi ngộ và sử dụng các thế hệ nghệ nhân dân gian đã từng tham gia, biết các tri thức kỹ thuật xây dựng, thực hiện điêu khắc các hình tượng trang trí,… Xây dựng Gươl trở thành một không gian lưu giữ, bảo tồn, bảo tàng, đáp ứng nhu cầu hoạt động tham quan du lịch, tìm hiểu, trải nghiệm văn hóa tộc người. Trên quan điểm bảo tồn nguyên dạng, Gươl sẽ tồn tại như những dạng “nhà bảo tàng” dành cho khách tham quan và nghiên cứu trong định hướng xây dựng mô hình “Làng du lịch văn hóa tộc người”. Khi đó, việc phục dựng phải đảm bảo theo những tiêu chí truyền thống cả về vật liệu, kỹ thuật, công cụ, nghệ nhân, các cấu kiện, bộ phận và cấu trúc nội thất.

Quy hoạch lại dân cư và bản làng của đồng bào phải phù hợp với tập quán, các quan hệ xã hội và tâm lý tộc người. Trong công tác xoá nhà tạm, không nên áp đặt kiên cố hoá, kinh hoá toàn bộ vật liệu, kiến trúc mà cần thiết giữ lại những giá trị truyền thống. Bà con dân tộc thích ở nhà sàn thì cứ để họ ở nhà sàn, khuyến khích làm nhà sàn để thích ứng với những điều kiện về thiên nhiên, môi trường miền núi. Chúng ta hướng dẫn xây nhà kiên cố, sử dụng vật liệu mới hợp lý, đúng mức. Bên dưới nhà sàn không được dùng làm chỗ nuôi gia súc mà chỉ để nông cụ và đồ dùng gia đình. Cần tạo những mẫu nhà và mẫu quy hoạch làng phù hợp, lấy cái được, cái hay để thuyết phục đồng bào và chính quyền ở nông thôn, đồng thời tìm ra phương hướng cho chúng đi vào đời sống. Bởi vì, dù có tiến hoá, phát triển đến đâu đi nữa, loài người đang có xu hướng quay lại cái mà ngày hôm kia mình đã từ bỏ, chỉ khác là cải tiến cho nó văn minh hơn.

Thực hiện chính sách nhà ở cho đồng bào miền núi nói chung, đồng bào Cơ Tu nói riêng là một chủ trương đúng đắn, đầy tính nhân văn, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, phải vận dụng, nghiên cứu và thực hiện một cách khoa học, hợp lý để bảo tồn những giá trị truyền thống trong kiến trúc nhà ở theo hướng phát triển bền vững. Phải giữ cho chúng không bị thoái hoá về vật chất, tinh thần lẫn thẩm mỹ, phải giữ gìn cái hay cái đẹp, nét khác biệt trong lối ăn, cách ở của người miền núi, bảo tồn di sản nhân văn tộc người.

Gươl gắn với cuộc sống lao động làm nương rẫy và đây cũng là nơi lưu giữ nhiều nét văn hóa độc đáo của người Cơ Tu ở vùng núi Quảng Nam. Theo tiếng Cơ Tu, Gươl là nhà rẫy.

Tìm hiểu về lai lịch của Gươl theo phong tục tập quán, xưa người Cơ Tu thường phát rẫy tận trong rừng già để canh tác và trồng các loại cây hoa màu như: lúa, bắp, rau, đậu… Ngoài ra, họ còn làm bẫy để bắt thêm con thú rừng, săn bắn các loài chim, chuột, hái thêm các loại măng, đọt mây rừng… Nhằm đảm bảo nguồn thức ăn quanh năm cho gia đình. Vì vậy, gia đình Cơ Tu nào cũng làm cho mình một Gươl không những để trú mưa, trú nắng mà còn để bảo vệ nương rẫy không cho chim, chuột và các loài thú vào phá hoại, nhất là vào mùa lúa chín.

Từ khi phát rẫy, đốt rẫy rồi gieo trồng lúa, bắp và các loại hoa màu những đàn ông Cơ Tu thường ở lại Gươl nhiều hơn ở nhà, chỉ đến khi thu hoạch xong, hoặc mỗi khi làng có lễ hội, vào dịp tết, gia đình có tang ma, đám cưới… Thì họ mới rời Gươl về nhà. Khi vào mùa giáp hạt thiếu ăn, đàn ông Cơ Tu thường rủ nhau lên Gươl ngủ lại có khi cả tháng trời để đặt bẫy chim, thú, săn bắt, hái măng… Để có thêm nguồn thực phẩm cho gia đình.

Gươl của đồng bào Cơ Tu có diện tích trung bình khoảng 8 – 10 m2, tùy thuộc vào địa hình mà sàn của Gươl cao so với mặt đất khoảng 1 – 1,2m nhằm để phòng thú dữ và mưa lụt. Cũng như nhà ở truyền thống, Gươl được làm bằng các nguyên vật liệu sẵn có của núi rừng như: gỗ, tre, nứa, tranh, mây… khai thác từ rừng. Nhìn chung Gươl gần giống như một nhà ở thu nhỏ. Trong Gươl có nơi đựng lúa, có chỗ cất măng, rau củ quả từ rừng, có nơi để nghỉ ngơi, có bếp lửa, có bầu đựng nước, có chỗ dành đan lát, chế tác nhạc cụ và các công cụ lao động (rìu, rựa, cào cỏ, cuốc, ống đựng lúa giống, cây chọc lỗ trỉa hạt), có chỗ cất chiếc ná, tên, giáo mác để hộ thân và talét – một loại gùi dành riêng để đàn ông Cơ Tu đựng các loại vật dụng cần thiết

Gươl của mỗi gia đình Cơ Tu thường cách nhau một con suối, ngọn đồi. Muốn đến Gươl người khác chơi có khi mất hàng giờ đồng hồ đi bộ. Tuy cách xa như vậy, nhưng mọi vấn đề liên quan về làng, gia đình, họ đều thông tin cho nhau biết. Người Cơ Tu có tính cộng đồng rất cao, nên trong những ngày phát rẫy, đốt rẫy, gieo hạt đến khi thu hoạch, các gia đình thường hỗ trợ công giúp nhau cùng làm. Đặc biệt, những khi gặp khó khăn, hoạn nạn như đau ốm, tai nạn, hoặc thú dữ về phá rẫy, đồng bào Cơ Tu đều quan tâm, giúp đỡ nhau một cách chân tình như người trong một nhà.

Ngày xưa, các con trai và cháu trai luôn được ông nội, người cha dẫn vào Gươl ở cùng. Ngày nay, ít thấy gia đình đồng bào Cơ Tu dẫn con của họ vào ở cùng trong Gươl mà để chúng ở nhà đến trường học cái chữ. Vào những lúc rảnh rỗi, họ thường bày cho con cháu cách đặt bẫy chim, thú, săn bắt đến truyền nghề đan lát, cách làm tên ná, dạy chế tác các loại nhạc cụ truyền thống của người Cơ Tu… vào những đêm trăng sáng, người già thường kể cho các con cháu họ nghe những câu chuyện về nguồn gốc tộc người hoặc những truyện cổ Cơ Tu.

Gươl cũng là nơi để đàn ông Cơ Tu gặp nhau qua mỗi lần đi săn bắt được con heo, chim, các loài cá ở sông suối… Ngoài phần để dành dự trữ ra, họ thường tụ tập đến Gươl để vui chơi, ăn và uống rượu. Đây là hình thức sinh hoạt gắn với cuộc sống lao động làm rẫy và gắn với không gian núi rừng, nó giúp cho mọi người có thời gian thư giãn, phấn khởi lao động đạt hiệu quả cao hơn để làm ra nhiều lương thực, thực phẩm phục vụ cho gia đình.

Theo đó Gươl, luôn có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống và sinh hoạt hàng ngày, trong lao động sản xuất, săn bắn, hái lượm mang sắc thái đặc thù tộc người và nó sẽ không bao giờ mất đi mà sẽ mãi mãi trường tồn với người Cơ Tu như chính họ đã sinh sống lâu đời trên vùng trường sơn bao la và rộng lớn.

Gươl gắn với cuộc sống lao động làm nương rẫy và đây cũng là nơi lưu giữ nhiều nét văn hóa độc đáo của người Cơ Tu ở vùng núi Quảng Nam. Theo tiếng Cơ Tu, Gươl là nhà rẫy. Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

Tìm hiểu về lai lịch của Gươl, một số người già Cơ Tu cho biết: theo phong tục tập quán, xưa người Cơ Tu thường phát rẫy tận trong rừng già để canh tác và trồng các loại cây hoa màu như: lúa, bắp, rau, đậu… Ngoài ra, họ còn làm bẫy để bắt thêm con thú rừng, săn bắn các loài chim, chuột, hái thêm các loại măng, đọt mây rừng… Nhằm đảm bảo nguồn thức ăn quanh năm cho gia đình. Vì vậy, gia đình Cơ Tu nào cũng làm cho mình một Gươl không những để trú mưa, trú nắng mà còn để bảo vệ nương rẫy không cho chim, chuột và các loài thú vào phá hoại, nhất là vào mùa lúa chín.

Từ khi phát rẫy, đốt rẫy rồi gieo trồng lúa, bắp và các loại hoa màu những đàn ông Cơ Tu thường ở lại Gươl nhiều hơn ở nhà, chỉ đến khi thu hoạch xong, hoặc mỗi khi làng có lễ hội, vào dịp tết, gia đình có tang ma, đám cưới… Thì họ mới rời Gươl về nhà. Khi vào mùa giáp hạt thiếu ăn, đàn ông Cơ Tu thường rủ nhau lên Gươl ngủ lại có khi cả tháng trời để đặt bẫy chim, thú, săn bắt, hái măng… Để có thêm nguồn thực phẩm cho gia đình.

Gươl của đồng bào Cơ Tu có diện tích trung bình khoảng 8 – 10 m2, tùy thuộc vào địa hình mà sàn của Gươl cao so với mặt đất khoảng 1 – 1,2m nhằm để phòng thú dữ và mưa lụt. Cũng như nhà ở truyền thống, Gươl được làm bằng các nguyên vật liệu sẵn có của núi rừng như: gỗ, tre, nứa, tranh, mây… khai thác từ rừng. Nhìn chung Gươl gần giống như một nhà ở thu nhỏ. Trong Gươl có nơi đựng lúa, có chỗ cất măng, rau củ quả từ rừng, có nơi để nghỉ ngơi, có bếp lửa, có bầu đựng nước, có chỗ dành đan lát, chế tác nhạc cụ và các công cụ lao động (rìu, rựa, cào cỏ, cuốc, ống đựng lúa giống, cây chọc lỗ trỉa hạt), có chỗ cất chiếc ná, tên, giáo mác để hộ thân và talét – một loại gùi dành riêng để đàn ông Cơ Tu đựng các loại vật dụng cần thiết.

Gươl của mỗi gia đình Cơ Tu thường cách nhau một con suối, ngọn đồi. Muốn đến Gươl người khác chơi có khi mất hàng giờ đồng hồ đi bộ. Tuy cách xa như vậy, nhưng mọi vấn đề liên quan về làng, gia đình, họ đều thông tin cho nhau biết. Người Cơ Tu có tính cộng đồng rất cao, nên trong những ngày phát rẫy, đốt rẫy, gieo hạt đến khi thu hoạch, các gia đình thường hỗ trợ công giúp nhau cùng làm. Đặc biệt, những khi gặp khó khăn, hoạn nạn như đau ốm, tai nạn, hoặc thú dữ về phá rẫy, đồng bào Cơ Tu đều quan tâm, giúp đỡ nhau một cách chân tình như người trong một nhà.

Ngày xưa, các con trai và cháu trai luôn được ông nội, người cha dẫn vào Gươl ở cùng. Ngày nay, ít thấy gia đình đồng bào Cơ Tu dẫn con của họ vào ở cùng trong Gươl mà để chúng ở nhà đến trường học cái chữ. Vào những lúc rảnh rỗi, họ thường bày cho con cháu cách đặt bẫy chim, thú, săn bắt đến truyền nghề đan lát, cách làm tên ná, dạy chế tác các loại nhạc cụ truyền thống của người Cơ Tu… vào những đêm trăng sáng, người già thường kể cho các con cháu họ nghe những câu chuyện về nguồn gốc tộc người hoặc những truyện cổ Cơ Tu.

Gươl cũng là nơi để đàn ông Cơ Tu gặp nhau qua mỗi lần đi săn bắt được con heo, chim, các loài cá ở sông suối… Ngoài phần để dành dự trữ ra, họ thường tụ tập đến Gươl để vui chơi, ăn và uống rượu. Đây là hình thức sinh hoạt gắn với cuộc sống lao động làm rẫy và gắn với không gian núi rừng, nó giúp cho mọi người có thời gian thư giãn, phấn khởi lao động đạt hiệu quả cao hơn để làm ra nhiều lương thực, thực phẩm phục vụ cho gia đình.

Theo đó Gươl, luôn có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống và sinh hoạt hàng ngày, trong lao động sản xuất, săn bắn, hái lượm mang sắc thái đặc thù tộc người và nó sẽ không bao giờ mất đi mà sẽ mãi mãi trường tồn với người Cơ Tu như chính họ đã sinh sống lâu đời trên vùng trường sơn bao la và rộng lớn .

Ngày nay, kiểu nhà ở của người dân Cơ Tu là kiểu nhà đất với sự hội nhập điều kiện sống mới. Tuy nhiên, trước đây ngôi nhà sàn hoặc nưa nhà sàn nửa đất đã từng tồn tại trên vùng đất này.

Với ngôi nhà sàn, sau khi gia chủ chọn được đất ở trong làng để xây dựng họ báo cho chủ làng biết và sau đó làm lễ xin gặp thần linh. Nếu được thần linh đồng ý thì họ bắt đầu xây nhà.

Đầu tiên là việc chuẩn bị nguyên liệu. Vật liệu chủ yếu được khai thác từ núi rừng, đó là gỗ tranh,lá nón, mây, tre, nứa,…Tuy nhiên, một số cây có đặc điểm khác biệt sẽ không được chọn như cây có giây leo quấn quanh vào, cây bị sét đánh, cây mọc ở rừng thiêng… Vì những cây này là nơi cư trú các thần và ma quỷ, cây sẽ rất độc, nếu bị sử dụng sẽ bị thần trừng phạt.

Việc xây dựng nhà được tiến hành vào một ngày tốt. Là nhà của mỗi gia đình nhưng việc xây dựng lại được góp sức của cả cộng đồng như nhà gươil nhưng ở một qui mô nhỏ hơn.

Trước khi dựng, chủ nhà đứng ra xin thần linh làm lễ dựng cột với lễ vật gồm một con gà và ché rượu cần, nhà giàu có thể là một con lợn. Khi làm nhà xong thì chủ nhà cúng tạ ơn thần linh và ông bà tổ tiên. Nếu thiếu nghi thức này thần linh sẽ bỏ đi, người trong nhà sẽ bị ốm đau bệnh tật hoặc có thể bị chết xấu. Sau lễ cúng này, người trong làng sẽ được chủ nhà mời đến cảm ơn bằng cuộc chè chén thâu đêm.

Sau khi có đủ vật liệu những người đàn ông giàu kinh nghiệm và khéo tay trong làng sẽ đến lo việc dựng đặt. Các cột nhà được chôn sâu xuống đất để tạo sự vững chắc. Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

Sàn nhà được làm bằng tre, nứa đập dập, lát ở hai đầu hồi nhằm tạo sợi cố định và liên kết các cột. Người ta thường tạo một cánh cung bằng gỗ để liên kết các cột đầu hồi với hai cây cột ở hàng trước, sau kề sát và được uống cong khi gỗ còn tươi để khỏi nứt vỡ.

Bao quanh khung nhà là các tiếp tre hoặc nứa nối liền từ sàn đến bờ mép mái. Mái được lợp bằng tranh, lá nón, lá kè,…trên hệ thống đòn tay, rui, mè…bằng tre, nứa uốn hình bầu dục phía hai bên đầu hồi. Bên dưới những thanh nứa uốn cong này là các thanh gỗ nhỏ xếp thành hình rẽ quạt nối từ đòn nóc đến các cột. Ngôi nhà sàn thường có hai cửa ra vào thông gió ở phía đầu hồi, nhưng nhìn chung không gian bên trong thường chật hẹp.

Nhà sàn Cơ Tu cũng được trang trí bằng một số hình đặc thù như những mảnh gỗ hình mặt trăng khuyết, cặp sừng trâu, tượng chim. Những hình trang trí này còn là sự biểu hiện cho văn hóa tộc người. Bên dưới ngôi nhà, phía sau cột cái thường được cài rất nhiều sừng hươu, nai, đầu thú, lông chim để minh chứng cho sức mạnh, tài nghệ của người đàn ông trong gia đình. Ở gần cửa ra vào là nơi giắt các côbg cụ săn bắn. Phía trên các bức vách, chỗ tiếp nối với mái nhà được làm những giàn bằng tre, nứa để cất giữ những đồ sinh hoạt trong gia đình. Cầu thang lên xuống của ngôi nhà được làm khá đơn giản bởi những thanh gỗ đẽo hay các thanh tre hoặc có thể là cả cây gỗ có bậc thang.

Nhà sàn truyền thống của người Cơ Tu thường có hai bếp lửa: một bếp dành cho đàn ông và một bếp dành cho phụ nữ. Ở khoảng không gian từ cây cột cái đến vách sau là nơi thiên liêng nhất, là nơi cất giữ nhiều đồ vạt quý của gia đình như chiêng, ché, gùi, lúa giống,…, là nơi thực hiện những nghi lễ cúng bái.

Nếu như trước đây các gia đình Cơ Tu sống trong các ngôi nhà sàn thì theo thời gian, kiến trúc nhà dần dần có sự thay đổi cho phù hợp với đời sống mới. Ngày nay, người Cơ Tu sống trong những ngôi nhà đất kiên cố, nhưng để có được những ngôi nhà đất kiên cố ấy còn có một bước chuyển tiếp từ kiểu nhà sàn, đó là kiểu nhà nửa sàn nửa đất. Có thể nói đây là một quá trình thích ứng dần của cộng đồng người Cơ Tu nói riêng, các dân tộc người miền Trung nói chung.

So với ngôi nhà sàn truyền thống, cấu trúc và kỹ thuật xây dựng của kiểu nhà nửa sàn nửa đất cũng khá đơn giản: cột chôn xuống đất, bộ mái khum tròn…Vật liệu cũng được lấy từ nuid rừng quen thuộc. cái khác ở đây là một phần sàn đã được hạ thấp. Phần đất và sàn nối kết với nhau bằng 1 – 2 cầu thang ngắn, nhỏ phía bên trong ngôi nhà. Trong không gian ngôi nhà, khoảng cách từ sàn nhà đến đất được che chắn bằng những tấm đan, chuồng trại chăn nuôi được tận dụng ở không gian bên dưới sàn.

Nhìn chung, các vật dụng sinh hoạt được bố trí trong nhà không có gì thhay đổi so với nhà sàn trước nhưng do một nửa không gian không còn sàn nên khu vực này được làm nơi tiếp khách và cất giữ các phương tiện sinh hoạt trong gia đình. Ngày nay, người Cơ Tu với cuộc sống ổn định, được sự quan tâm của Nhà nước và chính quyền địa phương với những chủ trương, chính sách mới, nhà ở của đồng bào Cơ Tu đã được cải thiện. Những ngôi nhà sàn hay nửa sàn nửa đất đã được thay thế bởi những ngôi nhà đất kiên cố, chủ yếu là bằng bê tông cốt thép như nhà người Kinh hoặc toàn bằng gỗ. Đó là sự hội nhập điều kiện sống mới của người dân Cơ Tu. Tuy nhiên, dù ngôi nhà mới có tiện nghi nhưng kiến trúc này vẫn giữ gần như trang trí nội thất của ngôi nhà sàn truyền thống.

2.4.4. Phong tục hôn nhân Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

Tục ngủ duông độc đáo của người Cơ Tu

Đối người Cơ Tu, hôn nhân là một sự kiện quan trọng không chỉ cho gia đình, họ hàng cô dâu, chú rể mà cho cả buôn làng. Nhà trai phải tốn của cải nộp cho nhà gái và tổ chức cưới. Việc lấy vợ phải trải qua các bước nghi thức: Hỏi, đính hôn, lễ cưới và sau này, khi đã khá giả thường tổ chức thêm lễ cưới lần nữa. Phổ biến hình thức con trai cô lấy con gái cậu, vợ goá lấy anh hoặc em chồng quá cố. Người Cơ Tu còn tồn tại một phong tục mà chỉ ở cư dân này mới có, đó là tục ngủ duông (lướt zướng). Tục ngủ duông là một thông điệp gửi gắm những mối tình trai gái Cơ Tu nên vợ nên chồng để hôm nay nó vẫn còn trường tồn mãi với thời gian.

Trong những công việc nương rẫy, hay đi chơi ở nhà bạn bè, người thân hay vào dịp Tết đến xuân về hoặc trong những dịp lễ hội lớn của buôn làng như: Lễ ăn mừng được mùa (Bhuối Aví), lễ ăn mừng nhà GươI (Lang tơrí), lễ ăn mừng lúa mới (Cha ha roo tơmêê), lễ hội Pơ Ngoót (lễ ăn thề kết nghĩa anh em giữa hai làng người Cơ Tu với nhau)…, nam nữ Cơ Tu tự tìm đến nhau lựa chọn cho mình một người hợp lòng, ưng ý. Và để làm được việc này, họ phải đợi đến tháng 9, tháng 10, khi đã thu hoạch lúa xong, lúa được đem cất vào nhà kho, đây là thời gian để bà con làm lễ ăn mừng lúa mới và là dịp để người con trai làm nhà ngủ duông.

Nhà ngủ duông được làm ở nương rẫy hoặc ở bìa rừng, gọi là nhà nhưng thực chất đây là một chòi được làm bằng các vật liệu tạm bằng cây lá và nhà này được cả làng đều biết và được người Cơ Tu gọi là nhà ngủ duông.

Tuỳ ở mỗi đôi nam nữ Cơ Tu mà có thể từ 3 đến 5 đêm hoặc hơn thế nữa để họ tự do tìm hiểu mà không phải lén lút, thầm kín… Tuy đôi nam nữ có quyền tự do tìm hiểu nhưng luật tục Cơ Tu cũng quy định rất rõ và rất nghiêm khắc xử lý những trường hợp quan hệ tình dục bừa bãi hoặc có thai trước khi cưới. Nếu trường hợp này xảy ra, tuỳ ở mức độ vi phạm, thường thì chàng tai bị phạt rất nặng, làng bắt người con trai đó phải giết heo có khi là trâu, bò mang từng phần đến từng gia đình trong làng để tự thú tội và chia cho cả làng cùng ăn (Lươl hơpoong a coó á oóc) đôi khi phải đền bù cho nhà gái nào là ché, chiêng, đồ trang sức quý… hoặc phải chịu nợ truyền kiếp từ đời này sang đời khác và đôi khi bị cộng đồng ruồng bỏ không ai tiếp xúc với những con người phạm tục. Sự phạt nặng này từ xa xưa đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người cho nên nam nữ Cơ Tu khi tiếp xúc, quan hệ tình cảm với nhau đều luôn có ý thức giữ gìn, tôn trọng đạo đức.

Tục ngủ duông của người Cơ Tu là sự hội tụ của những nét đẹp văn hoá đặc sắc còn bảo lưu nhiều yếu tố truyền thống trong nghi thức đám cưới truyền thống của người Cơ Tu. Và với yếu tố này, vừa phản ánh đặc điểm tộc người, vừa có nghĩa giáo dục cộng đồng trong lĩnh vực hôn nhân được họ giữ gìn trân trọng từ bao đời. Người Cơ Tu ngày nay không chỉ tiếp nhận những yếu tố văn hoá của cuộc sống văn minh, hiện đại mà tục ngủ duông mang đậm bản sắc của một cư dân miền núi sống qua ngàn đời mà vẫn tồn tại như nguyên vẹn. Đây là kết quả của ý thức về cội nguồn của cộng đồng dân tộc Cơ Tu.

2.5. Việc bảo tồn và phát triển văn hóa của người Cơ Tu ở Quảng Nam Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

Văn hóa tộc người Cơ Tu nói chung và người Cơ Tu ở Quảng Nam nói riêng rất đa dạng, phong phú. Trong đó, nghệ thuật điêu khắc cũng đặc sắc như điêu khắc của các dân tộc anh em, đã được phát huy và phát triển tốt. Sau một thời gian tưởng như bị mai một, khi phong trào xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư phát triển thì làng văn hóa truyền thống, gươl và nhà mồ điêu khắc gỗ ở trung tâm huyện được khôi phục lại. Công đóng góp của nhiều người, nhưng vai trò lớn nhất là các nghệ nhân dân gian Cơ Tu, là những người uy tín trong cộng đồng, dòng họ. Họ vừa làm vừa hướng dẫn, truyền nghề điêu khắc cho lớp trẻ để góp phần bảo tồn và phát huy tích cực các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu.

Bên cạnh việc xây dựng mái gươl và các thiết chế văn hóa, huyện cũng chú trọng bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa phi vật thể của người Cơ Tu. Được biết, trong năm 2009, nhân khánh thành Khu làng văn hóa truyền thống, lần đầu tiên, huyện tổ chức lễ hội mừng lúa mới với quy mô toàn huyện. Lễ mừng lúa mới được phục dựng đã tạo ra niềm vui lớn cho tộc người Cơ Tu cũng như các tầng lớp nhân dân trong huyện.

Việc sưu tầm các loại nhạc cụ truyền thống của dân tộc, các điệu dân ca, hát lý đã được Phòng Văn hóa – Thông tin huyện phối hợp với các cơ quan, đơn vị và các địa phương triển khai thường xuyên. Đội cồng chiêng của huyện và các xã được xây dựng với trình độ biểu diễn ngày càng được nâng cao để phục vụ các hoạt động văn hóa và lễ hội tại địa phương.

Cùng với các hoạt động trên, năm 2012, huyện đã đầu tư hơn 400 triệu đồng từ nguồn ngân sách của huyện để mua sắm và sưu tầm một số nhạc cụ, trống, chiêng, khố, váy, trang sức, khung dệt thổ cẩm… Các ấn phẩm về vùng đất, văn hóa, con người và ngôn ngữ Cơ Tu được xuất bản, nhằm nâng cao ý thức gìn giữ và phát huy nét đẹp văn hóa, tình đoàn kết anh em của cộng đồng các dân tộc trên địa bàn huyện.

Cùng với Tây Giang, huyện Đông Giang cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc huy động đội ngũ trí thức, già làng, trưởng bản, các nghệ nhân dân gian người Cơ Tu vào quá trình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Theo báo cáo của huyện Đông Giang, qua 3 năm triển khai thực hiện Đề án khôi phục, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa Cơ Tu giai đoạn 2009-2015, công tác khôi phục, bảo tồn và phát huy văn hóa Cơ Tu trên địa bàn huyện đã có nhiều khởi sắc.

Về văn hóa vật thể: Các nghề thủ công truyền thống của người Cơ Tu được đội ngũ trí thức, già làng, trưởng bản, các nghệ nhân dân gian người Cơ Tu khảo sát bảo tồn, phát triển trong cộng đồng dân cư như: nghề dệt thổ cẩm tại xã Tà Lu, xã A Ting, đan mây tre tại xã Sông Kôn. Khôi phục nghề chế biến rượu cần tại thôn A dinh, thị trấn Prao và khôi phục, gìn giữ các loại nhạc cụ dân tộc như: Trống, cồng, chiêng, khèn. Một số vật dụng trong đời sống sinh hoạt, lao động sản xuất hằng ngày mang đậm bản sắc người Cơ Tu được sưu tầm lưu giữ như: công cụ bảo vệ săn bắt, dụng cụ lao động sản xuất, các đồ dùng trang sức, trang phục. Về văn hóa ẩm thực, có các sản phẩm được làm ra từ lao động và có sẵn trong tự nhiên như: Cơm lam, bánh sừng trâu, rượu tà đin, tà vạt đã khuyến khích cho nhân dân tại các địa phương khai thác chế biến để dùng trong các ngày lễ hội, ngày Tết hoặc đãi khách. Đội ngũ trí thức, già làng, trưởng bản, các nghệ nhân dân gian người Cơ Tu cũng tham gia tích cực vào việc xây dựng mô hình Gươl. Đến nay, toàn huyện có 77/95 thôn có Gươl và nhà sinh hoạt cộng đồng, trong đó có mô hình Gươl và Moong tại thôn Bờ Hôồng 1, xã Sông Kôn là làng du lịch văn hóa cộng đồng-đã thu hút khoảng 2.000 lượt khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan, giao lưu tìm hiểu về văn hóa Cơ Tu. Về điểm di tích lịch sử đã triển khai khoanh vùng, đặt mốc, gắn bia 3 di tích được xếp hạng cấp tỉnh (làng Đào tại xã Sông Kôn; Bờ sông A Vương tại xã A Rooi; Dốc Gợp tại xã Mà Cooih). Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

Vai trò của già làng, trưởng thôn trong việc lưu giữ, bảo tồn các giá trị văn hóa của đồng bào Cơ Tu cũng được phát huy. Toàn huyện có 72 trưởng thôn, già làng có uy tín, đa số là cán bộ nghỉ hưu, đảng viên. Nhiều già làng, trưởng thôn

Tây Giang có đóng góp rất tích cực cho địa phương trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Điển hình là các già làng: Cơlâu Năm (thôn Pơh ning) và Bh’ríu Pố (thôn Arởh), xã Lăng; Ker Tíc (thôn Ka noon, xã A Xan); Cơlâu Blao (thôn Voòng, xã Tr’Hy); Alăng Ave (thôn Tà Làng, xã Bha Lêê); Alăng Đàn (thôn A rớt) và Arất Đút (thôn Anoooh), xã A Nông…

Đội ngũ trí thức, già làng, trưởng bản, các nghệ nhân dân gian người Cơ Tu cũng đã có nhiều đóng góp trong bảo tồn và phát huy văn hóa phi vật thể. Tại một số xã trên địa bàn huyện đã tổ chức sưu tầm các truyện cổ dân gian, làn điệu dân ca, tổ chức các buổi nói lý, hát lý ghi âm lưu giữ. Về ngôn ngữ tiếng nói, chữ viết người Cơ Tu, trong năm 2011, UBND huyện phối hợp với Trường Trung cấp nghề Thanh niên dân tộc – miền núi Quảng Nam tổ chức mở dạy tiếng Cơ Tu cho cán bộ, công chức trên địa bàn. Đây là hoạt động có ý nghĩa trong việc khôi phục, bảo tồn và phát huy tiếng nói và chữ viết của người Cơ Tu. Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, già làng, trưởng bản, các nghệ nhân dân gian người Cơ Tu, huyện Đông Giang đã phối hợp với Đài Tiếng nói Việt Nam-cơ quan thường trú tại khu vực miền Trung tổ chức tiếp âm và phát sóng chương trình phát thanh tiếng Cơ Tu. Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh phục dựng ghi hình để lưu giữ và phát huy một số lễ hội như: lễ hội mừng lúa mới, lễ hội Cồng chiêng. Triển khai xây dựng mô hình du lịch thôn văn hóa cộng đồng, thành lập các đội văn nghệ Cồng chiêng. Hiện nay trên địa bàn huyện có 11/11 xã, thị trấn có đội Cồng chiêng, 95/95 thôn có đội văn nghệ, trong đó 74 thôn có đội Cồng chiêng. Đặc biệt đội Cồng chiêng của huyện Đông Giang đã tham gia biểu diễn chương trình nghệ thuật tại các lễ hội lớn của tỉnh như: Tuần lễ văn hóa Quảng Nam tại Hà Nội, giao lưu kỷ niệm kết nghĩa giữa hai tỉnh Quảng Nam và Thanh Hóa và tham gia chương trình văn nghệ nhân kỷ niệm 15 năm tái lập tỉnh Quảng Nam, 10 năm tái lập huyện.

Hầu như tất cả các gươl trên địa bàn huyện đều có sự tham gia đóng góp công sức, trí tuệ của những già làng, trưởng thôn. Họ là những người cần cù, chịu khó tạo ra các công cụ, nhạc cụ, nghệ thuật điêu khắc nhằm lưu giữ, bảo tồn và truyền lại các giá trị văn hóa phi vật thể như nói lý, hát lý, các loại truyện cổ, cồng chiêng, đan lát của dân tộc Cơ Tu…

Cùng với việc xây dựng mái gươl, nhà làng truyền thống của đồng bào Cơ Tu, những năm qua, huyện còn thường xuyên tổ chức nhiều hoạt động có ý nghĩa thiết thực như: Ngày hội đại đoàn kết, chợ ẩm thực Cơ Tu, ngày hội văn hóa Cơ Tu tại Đà Nẵng, về thăm khu địa đạo Axòo… nhằm quảng bá, giới thiệu nét văn hóa, vùng đất và con người Quảng Nam để thúc đẩy phát triển văn hóa, du lịch, góp phần phát triển kinh tế – xã hội huyện nhà.

Những việc làm nói trên rất có ý nghĩa đối với sự nghiệp phát triển văn hóa Cơ Tu nói riêng, phát triển kinh tế, xã hội huyện nhà nói chung, đồng thời, đây cũng là chương trình, hành động cụ thể mà Huyện ủy đã ban hành Nghị quyết về tiếp tục bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa Cơ Tu.

2.6. Khả năng khai thác văn hóa của người Cơ Tu để phục vụ du lịch Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

Nhiều du khách, nhất là khách quốc tế, khi đến Quảng Nam, ngoài việc tham quan các địa điểm nổi tiếng như phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm … họ còn muốn du lịch về miền sơn cước, nơi cư trú chủ yếu của đồng bào các dân tộc Cơ Tu, Kor, Gỉe-Triêng, Xơ Đăng để khám phá những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể mang sắc thái riêng của từng dân tộc. Đây chính là những điểm nhấn trong chuỗi các điểm nhấn của Dự án phát triển du lịch vào vùng sâu trong đất liền, miền núi của tỉnh Quảng Nam.

Du khách tìm đến làng Bhôông là đến với đại ngàn hùng vĩ, đến với những phong tục tập quán, đến với bản sắc văn hóa của người Cơ Tu, đến với điệu múa Tung tung ja já làm mê hoặc lòng người. Từ ngày người Cơ Tu tham gia làm du lịch cộng đồng, điệu múa Tung tung Ja Já như được tiếp thêm sức sống mới, du khách nước ngoài rất thích điệu múa này. Điệu múa Tung tung ja já được nhiều nhà nghiên cứu ví như món quà của người Cơ Tu dâng lên trời đất, điệu múa gắn kết cộng đồng. Điệu múa Tung tung Ja já không chỉ là món quà của người Cơ Tu dâng lên thần linh, mà còn là điệu múa của tình yêu lứa đôi, là bản sắc văn hóa của dân tộc Cơ Tu. Người con trai thường chủ động trong việc thể hiện tình cảm với người khác giới nên chủ động “tấn công” bằng các động tác mạnh mẽ dứt khoát qua từng động tác của điệu múa Tung tung. Việc kết hợp các dụng cụ trong cuộc sống hằng ngày như cung tên, giáo mác, khiên che chắn, sử dụng các lọai nhạc cụ như cồng, chiêng…làm đạo cụ múa cũng nhằm mục đích chính là tăng thêm vẻ đẹp về sức mạnh cơ bắp của người con trai. Còn người con gái vốn thường e thẹn hơn trong tình yêu, có khi “tình trong như đã, mặt ngòai còn e” nên “chống trả quyết liệt” sự tấn công của người con trai bằng điệu “ja já” nhẹ nhàng, kín đáo nhưng không kém phần quyến rũ, nữ tính, dào dạt xuân thì

Không chỉ níu chân du khách bằng các điệu múa truyền thống, người Cơ Tu còn “chinh phục” lòng người bằng những món ăn hết sức dân dã nhưng Huyện Đông Giang đã xác định 3 nhiệm vụ trọng tâm trong việc phát triển du lịch cộng đồng là: Bảo tồn và phát huy có hiệu quả các giá trị văn hóa của người Cơ Tu dưới nhiều hình thức như tận dụng khả năng hiểu biết về các điệu múa truyền thống, các làn điệu dân ca như hát ru, hát giao duyên của các già làng, người lớn tuổi để truyền lại cho thế hệ trẻ. Huyện cũng đã có đề án trong việc sưu tầm các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu trước sự tác động của các loại hình nghe nhìn hiện đại đối với thế hệ trẻ. Bảo tồn và phát huy các lễ hội văn hóa của cộng đồng các dân tộc thiểu số trên địa bàn. Trong thời gian tới, huyện sẽ dành một khoản kinh phí phù hợp để đầu tư cho việc đào tạo về nghiệp vụ du lịch cho đồng bào để phát triển du lịch cộng đồng. Huyện Đông Giang sẽ đề nghị tỉnh tiếp tục có những cơ chế ưu đãi để thu hút các doanh nghiệp làm du lịch mạnh dạn đầu tư vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng để qua đó hình thành các tour du lịch văn hóa, lịch sử, du lịch sinh thái. Về lâu dài, để du lịch cộng đồng thực sự trở thành một kênh giải quyết việc làm, tạo sinh kế bền vững cho đồng bào, huyện Đông Giang sẽ đề nghị tỉnh và Trung ương đầu tư nâng cấp quốc lộ 14G để rút ngắn khoảng cách giữa đại ngàn Đông Giang nói riêng và miền tây Quảng Nam nói chung với các di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Quảng Nam để Đông Giang không chỉ trở thành một điểm đến trong phát triển du lịch giữa các địa phương trong tỉnh mà còn trở thành một mắt xích không thể thiếu trong chuỗi liên kết phát triển du lịch giữa các tỉnh, thành trong khu vực. Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

Khai thác các giá trị văn hóa của cộng đồng người Cơ Tu để phát triển du lịch cộng đồng giống như ánh lửa bập bùng trong đêm gái trai Cơ Tu say sưa trong điệu múa Tung tung ja já không dễ quên. Đó là bánh sừng trâu, một loại bánh làm bằng nếp nương có thể dùng trong nhiều ngày nhưng vẫn không làm mất chất dẻo thơm. Đó là món cơm lam đựng trong ống lồ ô đã lột vỏ ngoài. Đặc biệt là món thịt Drúa thường chỉ dùng khi nhà có khách đến thăm. Gìa làng YKông cho biết, xưa kia chỉ có những gia đình giàu có trong làng mới được dùng món Drúa thường xuyên. Khi làm thịt gia súc như trâu, bò, lợn dê hay bẫy được thú rừng, sau khi làm lễ cúng dâng lên thần linh, sông núi, chủ nhà lựa những súc thịt ngon nhất và một số bộ phận nội tạng của con vật để làm món Drúa. Thịt nạc và một số bộ phận nội tạng của con vật được trộn đều vào nhau, giã nhừ với lá rau rừng, ớt rừng và tiêu rừng, ngày nay người làm Drúa còn trộn thêm một số gia vị như muối, bột nêm để món Drúa khi đem ra đãi khách có vị thơm ngon, mặn mà hơn. Món Drúa vừa có vị béo, vừa có vị chua cay, ăn kèm với cơm lam hay bánh sừng trâu và uống rượu tà-vạt là sự kết hợp nhuần nhị trong văn hóa ẩm thực của người Cơ Tu ở miền tây tỉnh Quảng Nam.

Xác định việc bảo tồn và khai thác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của cộng đồng các dân tộc thiểu số phục vụ phát triển du lịch cộng đồng là một kênh giải quyết việc làm, tạo sinh kế bền vững cho đồng bào.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Để giữ gìn bản sắc văn hóa của các hoạt động của người Cơ Tu trong xu hướng hiện nay là điều không phải dễ dàng. Việc phát huy những nét văn hóa độc đáo, giữ gìn và lưu truyền nó đòi hỏi một chính sách nhất quán để tộc người hiểu và nhận thức được vốn văn hóa quý báu của mình, có ý thức giữ gìn và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Có như vậy mới tránh được tình trạng dần mất đi bản sắc dân tộc của người mình. Muốn làm được điều này đòi hỏi sự đầu tư và quan tâm đến vấn đề văn hóa tộc người. Đây là một vấn đề chung được đặt ra cho cả những tỉnh khác.

Qua chương II đã cho chúng ta hiểu thêm về món ăn tinh thần tâm linh, các giá trị văn hóa không thể thiếu của người Cơ Tu. Các cấp chính quyền liên quan

khi muốn đưa du lịch đến với tỉnh Quảng Nam họ đã nhận định được tầm quan trọng của văn hóa người Cơ Tu và đang dần dần đưa nó thành sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh Quảng Nam nói chung và của người Cơ Tu nói riêng.

Muốn tìm hiểu về một tộc người, trước hết hãy hiểu về những tín ngưỡng riêng của họ. Xu hướng du lịch tìm hiểu về văn hóa tộc người ngày càng phát triển, đây sẽ là một lợi thế nếu chính quyền đưa ra định hướng phát triển và tồn hợp lý nhất. Để phát triển và không bị dàn trải quá nhiều, tránh sự nhàm chán thì khi đưa sản phẩm du lịch này vào, trước hết là đối với các nghi lễ , chúng ta sẽ chỉ biểu diễn trong thời gian ngày giờ cố định với hình thức biểu diễn tái hiện lại, để ủng hộ tinh thần của các nghệ nhân thì khi tham gia các chương trình này du khách sẽ mất vé tham gia.

Khi các giá trị văn hóa của người Cơ Tu được đưa vào du lịch sẽ giúp cho người dân tự ý thức được sự quan trọng của nét văn hóa dân tộc. Từ đó các cấp chính quyền và người Cơ Tu sẽ có những biện pháp phối hợp với nhau để tránh được tình trạng mai một những nét văn hóa này. Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY

===>>> Khóa luận: Tổng quan về phong tục và lễ hội của người Cơ Tu

One thought on “Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

  1. Pingback: Khóa luận: Khái quát Lịch sử của người Cơ Tu ở Quảng Nam

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464