Khóa luận: Khái quát Lịch sử của người Cơ Tu ở Quảng Nam

Chia sẻ cho các bạn sinh viên ngành luật bài Khóa luận: Khái quát Lịch sử của người Cơ Tu ở Quảng Nam cho các bạn đang chuẩn bị làm bài khóa luận cùng nhau tham khảo nhé. khóa luận môn học là một trong những yêu cầu bắt buộc của các trường đại học, và Cao Học. Đối với sinh viên hay học viên tất cả các khóa học đều bắt buộc phải làm một bài khóa luận, với đề tài bắt buộc hoặc là một đề tài cụ thể nào đó ví dụ như đề tài Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa của người Cơ Tu ở Quảng Nam các bạn cùng  tham khảo đề tài khóa luận dưới đây nhé.

2.1. Lịch sử hình thành tộc người Cơ Tu Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa của người Cơ Tu

Người Cơ Tu ở miền núi Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng và ở tỉnh Sê-kông nước bạn Lào là chủ nhân của một vùng rừng núi rộng lớn có nền văn hóa lâu đời và đặc trưng của tộc người mình. Một trong những đặc trưng đó là người Cơ Tu có các dòng họ, tộc họ (Ca Bhu, Tô-Theo cách gọi của người Cơ Tu).

Không phải duy nhất chỉ người Cơ Tu có dòng họ mà một số tộc người thiểu số khác ở vùng miền núi Trường Sơn – Tây Nguyên có dòng họ nhưng số này không nhiều như Ba Na, Gia Rai… Ca Bhu, Tô – của người Cơ Tu đã cho thấy từ rất xa xưa, người Cơ Tu đã có một hệ thống thân tộc, thích tộc rất rõ ràng, nghĩa là có dòng bên cha và dòng bên mẹ, dòng trai, dòng gái sau khi lập gia đình. Ca Bhu, tô của người Cơ Tu là cội nguồn của tộc người mà theo truyền thuyết thì một dòng họ, tộc họ đều có một sự tích, câu chuyện cổ hình thành nên tên gọi của dòng họ, tộc họ của mình.

Sự tích, câu chuyện cổ, truyền thuyết ấy có thể là một sự kiện đặc biệt trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng, đời sống xã hội từ thời xa xưa; là khởi đầu từ một hiện tượng đặc biệt của tự nhiên hay một sự kiện khác thường từ sản xuất của con người. – Việc người Cơ Tu có sự tích, lý giải sự hình thành nên các dòng họ, tộc họ của mình theo như các nhà nghiên cứu lịch sử, dân tộc học, văn hóa dân gian… là sự phản ánh quy luật phát triển của lịch sử tộc người đó là có sự hình thành từ các tô-tem (vật tổ, sự tích tổ tiên).

Truyền thuyết người Cơ Tu huyện Đông Giang, Tây Giang ở những người mang họ hiêng kể lại rằng tổ tiên họ vào thời xa xưa bị ong đốt trong một mùa rẫy thất bát phải bỏ chạy vào phương nam tìm đất mới sinh cơ lập nghiệp (du canh du cư); nhớ chuyện xưa ấy dân làng tự đặt mình là Ca Bhu, Tô Hiêng – nghĩa là dòng họ “con ong”. Dòng họ cơ lâu lại bắt nguồn từ câu chuyện cổ vì con trâu của mình chết, quá thương tiếc con vật quý giá nên người chủ con trâu đã khóc lóc thảm thiết; từ chuyện khóc con trâu chết nên có dòng họ cơ lâu-dòng họ “khóc”. Dòng họ Ria ra đời bởi từ một câu chuyện cổ tích một chàng trai trong cuộc thi tài đã đi qua dòng suối không bị ướt vì chàng trai đã đào đường ngầm bên dưới dòng suối để đi qua và đã thắng cuộc thi, dân làng nói nó như “cái rễ cây” trong đất, nó là ria – rễ cây; chàng trai đó lấy họ Ria truyền mãi cho đến sau này. Người Cơ Tu có dòng họ Zơrâm cho mình là dòng họ “con chó” bởi từ sự tích cội nguồn từ chuyện xa xưa trời mưa, lũ lụt nước dâng ngập hết núi rừng, chỉ còn một ngọn núi và trên ấy có một người đàn bà và một con chó sống sót, sau đó họ lấy nhau và sinh ra con cháu như bây giờ; nhớ chuyện xa xưa ấy, họ đặt mình là dòng họ Zơrâm. Lại có cội nguồn một dòng họ từ câu chuyện tình yêu, chuyện vợ chồng đó là dòng họ Pơloong – Dòng họ “Trôi”. Người già kể lại rằng, có một chàng trai khi đi rẫy về, đến con suối ngoài làng rửa ráy, hái một trái ươi thả xuống dòng suối, trái ươi trôi xuống bám vào chân một cô gái trong nhiều cô gái cũng đang rửa ráy phía dưới dòng suối, cô gái ném đi nhưng trái ươi cứ bám vào chân, tức mình cô gái ăn trái ươi. Sau đó tự nhiên cô có mang và sinh ra một bé trai, dân làng bất bình vì không có chồng mà lại có con, đem ra xử theo luật tục và khi ấy thì đứa con chạy đến chàng trai đã thả trái ươi trôi trên dòng suối năm xưa và nói rằng đây là cha tôi, nhờ trái ươi trôi trên dòng suối nên mẹ đã sinh ra tôi; già làng gọi nó là Pơloong- là “Trôi”; từ đó có dòng họ Pơloong.

Đi kèm với việc gốc gác để hình thành nên các dòng họ, tộc họ với nhiều sự tích khác nhau là mỗi một dòng họ, tộc họ có những điều kiêng cử mà người mang dòng họ, tộc họ ấy không được vi phạm như Zơrâm thì không ăn thịt con chó, Riah thì không được đào rễ cây… theo một khảo sát, điều tra và nghiên cứu mới đây ở huyện đông giang và liên hệ mở rộng đến các nghiên cứu ở các huyện Tây giang, Nam Giang của các nhà dân tộc học, văn hóa học và các giấy tờ tư pháp thì ở người Cơ Tu hiện tại có gần 60 dòng họ với tên gọi khác nhau. Trong đó có 33 dòng họ với cách gọi và cách viết thuần Cơ Tu, có 11 dòng họ xưa kia là một và sau này tách ra làm hai; số còn lại người Cơ Tu lấy theo họ người kinh, từ các cuộc hôn nhân với các dân tộc khác và kể cả tên dòng họ tự đặt. Ông nguyễn bằng – bí thư huyện ủy đông giang, tại một cuộc hội thảo khoa học về tộc họ người Cơ Tu vào cuối năm 2014 cho rằng: việc cần làm là xác định rõ nguồn gốc các dòng họ của người Cơ Tu, có bao nhiêu dòng họ và từ đó cách nói và cách viết thế nào là đúng nhất; mà vấn đề này không chỉ với Đông Giang mà còn với Tây Giang, Nam Niang, nơi có đồng bào Tơ Tu sinh sống, tập trung lâu đời. Khóa luận: Khái quát Lịch sử của người Cơ Tu ở Quảng Nam

Chuyện các dòng họ, tộc họ của người Cơ Tu còn nhiều điều để tìm hiểu như chuyện dòng họ Con Kiến (Bhing), dòng họ Con Cá (Abing), dòng họ con Tắc Kè (Arất), con Gấu (Arâl), con Vượn (Avô)… nhưng có một điều thật đặc biệt là mỗi dòng họ, tộc họ đều có một sự tích hình thành tên gọi để kế truyền từ đời này sang đời khác và là niềm tự hào của những người mang họ đó. Một tộc người có các sự tích về cội nguồn, về tên gọi của các dòng họ, tộc họ của mình là không nhiều trong cộng đồng các dân tộc ở đất nước ta. Gìn giữ dòng họ, tộc họ là gìn giữ một phần hồn cốt văn hóa của dân tộc mình mà người Cơ Tu đã, đang và sẽ mãi mãi làm.

Tên gọi Cơ Tu đã được biết đến từ rất lâu trong lịch sử dân tộc. Chính người Cơ Tu cũng thừa nhận đó là tên chung của dân tộc mình. Bởi “Cơ” có nghĩa là ở, nơi “Tu” có nghĩa là nguồn (là ở trên cao). “Cơ Tu” là người sống ở núi rừng, đầu nguồn nước.

Tộc người Cơ Tu còn có nhiều tên gọi khác nhau như: Ka Tu, Kà Tu, Cờ Tu… chỉ là cách phiên âm và phát âm của mỗi vùng khác nhau. Cùng với người Tà Ôi, Bru – Vân Kiều, Cơ Tu là tộc người thiểu số có ngôn ngữ thuộc ngành Cơ Tu thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơme, hệ Nam Á, phân bố ở phía bắc dãy Trường Sơn. Ở Việt Nam, tính đến ngày 01/04/1999, có 50.458 người Cơ Tu và dân tộc này chiếm 0,1% số toàn quốc. Riêng ở Quảng Nam, năm 2004 có 42.558 người Cơ Tu, đứng thứ hai về dân số sau người Kinh, họ có vai trò quan trọng trong phát triển vùng chiến lược phía tây của tỉnh. Người Cơ Tu chính là hậu duệ của người nguyên thuỷ Anhđônêdiên, có mặt ở khu vực tây dãy Trường Sơn, họ là cư dân của bán địa vùng miền núi phía tây Quảng Nam và một phần phía đông tỉnh Xê Kông Lào, và kéo dài ra phía tây tỉnh Thừa Thiên uế. Do vậy, người Cơ Tu là chủ thể của vùng núi Quảng Nam.

Địa bàn cư trú: trong 54 tộc người anh em ở nước ta, tộc Cơ Tu được xếp thứ 26 trong danh mục các thành phần dân tộc ở Việt Nam. Theo số liệu của ủy ban dân tộc trung ương đến ngày 31/7/2003 người Cơ Tu ở Việt Nam là: 56.569 người chủ yếu quần cư ở phía tây của 3 tỉnh, thành phố: Quảng Nam, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế. Trong đó, tập trung nhiều nhất ở tỉnh Quảng Nam, chủ yếu ở các huyện: Tây Giang, Đông Giang, 6 xã ở huyện Nam Giang. Về tổng thể, vùng dân tộc Cơ Tu là địa bàn miền núi, nằm trên sườn đông của dãy Trường Sơn hùng vỹ, hiểm trở (còn gọi là Trường Sơn Đông). Phần lớn xứ sở Cơ Tu có địa hình bị chia cắt mạnh, độ dốc lớn, thung lũng vừa hẹp vừa sâu; có nhiều vùng núi cao trên dưới 1000m, đặc biệt ở gần biên giới Việt – Lào về phía bắc huyện Tây Giang có những ngọn núi cao trên 1.500m, đỉnh cao nhất 2.053m. Mùa mưa thường từ tháng 8 năm trước đến tháng giêng năm sau, mưa nhiều nhất vào tháng 10 và 11; mùa khô kéo dài từ tháng 2 đến tháng 7, nắng nóng nhất trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 7. Ở vùng Đông Giang và Tây Giang lượng mưa trung bình hằng năm là 2.800mm, nhiệt độ trung bình trong năm 18,30c; các số liệu tương ứng ở nam giang là 3.468 mm và 24,50c. Đây cũng là nơi ít dân cư, mật độ trung bình ở Tây giang – Đông Giang năm 1986 là 11 người/km2 , ở Nam Giang năm 1989 gần 8 người/km2. Miền núi Quảng Nam chiếm 81,27% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, được xác định là một địa bàn chiến lược quan trọng về phương diện: chính trị, kinh tế, quốc phòng của tỉnh và là một bộ phận trong địa bàn chiến lược rộng lớn Trường Sơn – Tây Tguyên. Miền núi Quảng Nam không chỉ là căn cứ địa vững chắc về quốc phòng, mà là nơi sẽ nằm trên con đường xuyên đông dương, đường Hồ Chí Minh – huyết mạch của tổ quốc. Tộc người Cơ Tu là cư dân bản địa cư trú lâu đời có mối quan hệ qua lại từ xa xưa với người Kinh, người chăm và các dân tộc anh em khác trong vùng. Do đặc điểm địa bàn cư trú và cố kết cộng đồng bà con giữ được nhiều đặc điểm văn hóa truyền thống mang bản sắc văn hóa tộc người. Người Cơ Tu sinh sống ở vùng địa lý có địa hình phức tạp, hiểm trở, bị cắt xẻ bởi nhiều sông, suối, núi cao và thung lũng hẹp. Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, độ ẩm cao nên khí hậu khắc nghiệt. Đây cũng là vùng có nhiều tài nguyên rừng, nhất là gỗ và các loại động vật quý hiếm

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Khóa Luận Ngành Du Lịch

2.2. Điều kiện tự nhiên Khóa luận: Khái quát Lịch sử của người Cơ Tu ở Quảng Nam

Địa hình

Quảng Nam có hướng địa hình nghiên dần từ Tây sang Đông hình thành 3 kiểu cảnh quan sinh thái rõ rệt là kiểu núi cao phía tây, kiểu trung du ở giữa và dải đồng bằng ven biển. Vùng đồi núi chiếm 72% diện tích tự nhiên với nhiều ngọn cao trên 2.000m như núi lum heo cao 2.045m, núi tion cao 2.032m, núi gole – lang cao 1.855m (huyện phước sơn). Núi ngọc linh cao 2.598m nằm giữa ranh giới Quảng Nam, Kon Tum là đỉnh núi cao nhất của dãy Trường Sơn. Ngoài ra, vùng ven biển phía đông sông Trường Giang là dài cồn cát chạy dài từ Điện Ngọc, Điện Bàn đến Tam Quan, núi Thành. Bề mặt địa hình bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi khá phát triển gồm sông Thu Bồn, sông Tam Kỳ và sông Trường Giang.

Khí hậu

Quảng Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, chỉ có 2 mùa là mùa mưa và mùa khô, chịu ảnh hưởng của mùa đông lạnh miền bắc. Nhiệt độ trung bình năm 25,4oc, mùa đông nhiệt độ vùng đồng bằng có thể xuống dưới 20oc. Độ ẩm trung bình trong không khí đạt 84%. Lượng mưa trung bình 2000-2500mm, nhưng phấn bố không đều theo thời gian và không gian, mưa ở miền núi nhiều hơn đồng bằng, mưa tập trung vào các tháng 9 – 12, chiếm 80% lượng mưa cả năm; mùa mưa trùng với mùa bão, nên các cơn bão đổ vào miền trung thường gây ra lở đất, lũ quét ở các huyện trung du miền núi và gây ngập lũ ở các vùng ven sông. Khóa luận: Khái quát Lịch sử của người Cơ Tu ở Quảng Nam

Hệ thống sông ngòi

Do nằm trong vùng có lượng mưa lớn, hệ thống sông ngòi trong tỉnh khá phát triển. Hệ thống sông Thu Bồn là một trong những hệ thống sông lớn của Việt Nam với tổng diện tích lưu vực khoảng 9.000 km2. Sông Tam Kỳ với diện tích lưu vực 800 km2 là sông lớn thứ hai. Ngoài ra còn có các sông có diện tích nhỏ hơn như sông Cu Đê 400 km2, Tuý Loan 300 km2, Lili 280 km2 …,

các sông có lưu lượng dòng chảy lớn, đầy nước quanh năm. Lưu lượng dòng chảy sông vu gia 400m3/s, thu bồn 200m3/s có giá trị thủy điện, giao thông và thủy nông lớn. Hiện tại trên hệ thống sông Thu Bồn, nhiều nhà máy thủy điện công suất lớn như sông Tranh 1 và 2, sông A Vương, sông Bung… Đang được xây dựng góp phần cung cấp điện cho nhu cầu ngày càng tăng của cả nước.

Tài nguyên đất

Tổng diện tích tự nhiên của Quảng Nam là 1.040.683ha được hình thành từ chín loại đất khác nhau gồm cồn cát và đất cát ven biển, đất phù sa sông, đất phù sa biển, đất xám bạc màu, đất đỏ vàng, đất thung lũng, đất bạc màu xói mòn trơ sỏi đá,… Nhóm đất phù sa ven sông là nhóm đất quan trọng nhất trong phát triển cây lương thực, thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày. Nhóm đất đỏ vàng vùng đồi núi thuận lợi cho trồng rừng, cây công nghiệp và cây ăn quả dài ngày. Nhóm đất cát ven biển đang được khai thác cho mục đích nuôi trồng thủy sản.

Trong tổng diện tích 1.040.683ha, diện tích đất lâm nghiệp chiếm tỷ lệ lớn nhất (49,4%), kế tiếp là đất dành cho sản xuất nông nghiệp, đất thổ cư và đất chuyên dùng. Diện tích đất trống đồi trọc, đất cát ven biển chưa được sử dụng còn chiếm diện tích lớn.

Tài nguyên rừng

Tỉnh Quảng Nam có 425.921 ha rừng, tỷ lệ che phủ đạt 40,9%; trữ lượng gỗ của tỉnh khoảng 30 triệu m3. Diện tích rừng tự nhiên là 388.803 ha, rừng trồng là 37.118 ha. Rừng giàu ở Quảng Nam hiện có có khoảng 10 nghìn ha, phân bố ở các đỉnh núi cao, diện tích rừng còn lại chủ yếu là rừng nghèo, rừng trung bình và rừng tái sinh, có trữ lượng gỗ khoảng 69 m3/ha. Các khu bảo tồn thiên nhiên trên địa bàn tỉnh nằm ở sông thanh thuộc huyện Nam Giang. Tháng tư năm 2011 nhà chức trách tỉnh Quảng Nam cho thành lập khu bảo tồn thiên nhiên Sao La (tiếng anh: saola nature reserve), mở hành lang cho các sinh vật vùng núi giữa lào và việt nam, nhất là loài Sao a đang bị đe dọa.

Điều kiện kinh tế- xã hội

Lưu vực sông có nền kinh tế đa dạng, bao gồm những thay đổi về tỷ trọng khu vực nông – lâm – ngư nghiệp và tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ. Nền kinh tế địa phương phụ thuộc rất nhiều vào nông nghiệp. Tuy nhiên, sản xuất hàng hóa và trao đổi còn nhiều hạn chế, thương mại và dịch vụ phát triển với tốc độ tương đối thấp.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, trồng trọt chiếm khoảng 70% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Lúa là cây lương thực chiếm ưu thế và được trồng chủ yếu ở vùng đồng bằng. Các loại cây lương thực khác như ngô, khoai, sắn có diện tích tương đối nhỏ, chủ yếu được trồng ở các huyện đồng bằng và một số huyện trung du. Cây công nghiệp hàng năm đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế địa phương, đặc biệt là đậu phộng, chiếm 2/3 tổng diện tích 14,500 ha đất trồng cây hàng năm của Quảng Nam. Trong khi đó, cây lâu năm (chẳng hạn như điều, chè, tiêu, dừa) không phải là hoạt động kinh tế chính của địa phương.

2.3. Điều kiện kinh tế- xã hội Khóa luận: Khái quát Lịch sử của người Cơ Tu ở Quảng Nam

Kinh tế

Tỉnh Quảng Nam phấn đấu trở thành tỉnh công nghiệp trước năm 2020. Năm 2015, tỉnh có cơ cấu kinh tế: công nghiệp và dịch vụ chiếm 85%, nông-lâm-nghư nghiệp 15%. Tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bình quân giai đoạn 2010-2015 là 16,3% (năm 2015 là 11,53%). Quảng Nam có 13 khu công nghiệp, kinh tế mở (khu kinh tế mở chu lai). Do đó Quảng Nam hiện nay đang thiếu rất nhiều lao động-một nghịch lý khi tỷ lệ sinh viên không có việc làm trên cả nước rất lớn, tổng sản phẩm nội địa 2010 khoảng hơn 23.000 tỷ đồng tăng lên hơn 69.900 tỷ đồng năm 2016.thu ngân sách nhà nước tăng cao, năm 2015 thu ngân sách ướt đạt xấp xỉ 15.000 tỷ đồng (đứng 12/63 tỉnh thành, đứng thứ 2 các tỉnh miền trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận chỉ sau Quảng Ngãi và trên thành phố Đà nẵng. Năm 2016 chứng kiến nền kinh tế phát triển mạnh mẽ chỉ trong 9 tháng đầu năm thu ngân sách ướt đạt 14.300 tỷ đồng bằng 103,5% dự toán năm 2016 dự kiến 2016 thu ngân sách khoảng xấp xỉ 20.000 tỷ đồng. Tuy nhiên thu ngân sách chủ yếu dựa vào khu phức hợp sản xuất và lắp ráp ô tô trường hải.

Xuất khẩu 2015 ướt đạt trên 500 triệu usd. Tỉnh có cảng kỳ hà, sân bay quốc tế Chu Lai. Phấn đấu đến năm 2020 GDP bình quân đầu người từ 3.400-3.600 USD (75-80 triệu đồng). Năm 2016 tỉnh này đón gần 4,4 triệu lượt khách du lịch (xếp thứ 2 miền trung sau thành phố Đà nẵng với gần 5,1 triệu lượt).

Tiềm năng thủy điện

Quảng Nam có hệ thống sông suối dày đặc với tiềm năng thủy điện lớn. Hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn với phần lớn lưu vực nằm trong địa giới tỉnh được đánh giá là có tiềm năng thủy điện lớn thứ tư cả nước đang được đầu tư khai thác. Hiện nay tỉnh có các nhà máy thủy điện đã và đang xây dựng như nhà máy thủy điện A Vương (210 mw – Tây Giang), sông Bung 2 (100 mw), sông Bung 4 (220 mw), sông Giằng (60 mw), Đak Mi 1(255 mw), Đak Mi 4(210 mw), sông Kôn 2 (60 mw), sông Tranh 2 (135 mw)…đa phần các nhà máy thủy điện nằm trên lưu vực sông vu gia nơi có địa hình dốc và tiềm năng thủy điện lớn. Khóa luận: Khái quát Lịch sử của người Cơ Tu ở Quảng Nam

Việc xây dựng các công trình thủy điện thượng lưu vu gia – thu bồn ảnh hưởng lớn đến dòng chảy hạ lưu. Việc thủy điện đăk mi 4 chuyển nước từ vu gia sang thu bồn làm suy giảm đáng kể dòng chảy hạ lưu vu gia. Vào mùa kiệt từ tháng 2 đến tháng 8, vùng ven sông vu gia thường đối mặt với thiếu nước cho sinh hoạt và trồng trọt. Dòng chảy bị suy giảm là nguyên nhân chính làm cho mặn xâm nhập sâu vào hạ lưu vu gia, thu bồn và vĩnh điện.

Văn hóa xã hội

Lễ hội

Lễ hội Bà Thu Bồn là một lễ hội dân gian của cư dân ven sông Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam với mục đích cầu nguyện một năm mới đất trời thuận hòa, người dân ấm no hạnh phúc. Lễ hội được tổ chức hằng năm vào ngày 12 tháng 2 âm lịch. Xen lẫn các tiết mục văn nghệ dân gian là tiếng hò reo cổ vũ của cư người xem hội hai bên bờ. Nghi thức quan trọng nhất là lễ tế bà và lễ rước nước về đền. Đền thờ Bà Thu Bồn nằm trong một vùng đồng bằng ven sông thuộc huyện Duy Xuyên. Phần hội quan trọng nhất là hội đua thuyền lệ Bà (nam-nữ), hội thả hoa đăng và đốt lửa thiêng trên những bãi bồi của dòng Thu Bồn.

Lễ hội Bà Chiêm Sơn là lễ hội của cư dân làm nghề nuôi tằm dệt vải của xã duy trinh, huyện Duy Xuyên. Lễ được tổ chức ngày 10-12 tháng giêng âm lịch tại dinh bà chiêm sơn. Lễ hội là dịp bày tỏ niềm tôn kính với người đã khai sinh ra nghề ươm tằm dệt lụa cho địa phương. Người tham gia lễ hội có cơ hội thưởng thức các món ăn đặc trưng của người Quảng Nam. Lễ hội còn là dịp để tham gia các trò chơi dân gian như đá gà, ném bóng vào rổ, hát bài chòi. Khóa luận: Khái quát Lịch sử của người Cơ Tu ở Quảng Nam

Carneval Hội An là lễ hội đường phố được tổ chức lần đầu tiên tại thành phố Hội An vào giao thừa năm 2009 (dương lịch). Lễ hội mô phỏng theo các lễ hội Carneval đường phố vốn rất nổi tiếng tại các nước Châu Âu và Mỹ Latin.

Lễ hội rước Cộ Bà Chợ được được tổ chức hằng năm vào ngày 11 tháng giêng (âm lịch) tại xã Bình Triều, huyện Thăng Bình. Đây là một kiểu lễ hội tâm linh để tỏ lòng tôn kính với bà Nguyễn Thị Của. Theo tài liệu “thần nữ linh ứng truyện”, bà sinh năm 1799 tại huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Bà mất năm 1817, hưởng dương 18 tuổi. Theo cư dân địa phương, bà rất linh thiêng. Trong một lần ngao du đến làng phước ấm (nay là chợ Được, xã Bình Triều), thấy cảnh sông nước hữu tình, bà chọn nơi này họp chợ để giúp cư dân có cuộc sống sung túc hơn. Bà hóa thân thành một thiếu nữ xinh đẹp chừng 18 tuổi làm nghề bán nước đổi trầu. Dần dần cư dân xung quanh tập trung buôn bán, chợ được được hình thành và phát triển. Để ghi nhớ công ơn bà, cư dân trong vùng lập đền thờ “Lăng Bà” và được triều đình phong tặng sắc phong “thần nữ linh ứng-Nguyễn Thị Đẳng thần”.

Lễ hội Nguyên Tiêu là lễ hội của hoa kiều tại Hội An. Lễ được tổ chức tại hội quán Triều Châu và Quảng Triệu vào ngày 16 tháng giêng (âm lịch) hằng năm. Lễ hội đêm rằm phố Cổ được tổ chức vào ngày 14 âm lịch hằng tháng tại đô thị cổ Hội An. Tại thời điểm đó, cư dân trong thành phố sẽ tắt hết điện chiếu sáng, thay vào đó là ánh sáng rực rỡ từ đèn lồng. Thành phố sống trong không gian tĩnh mịch của quá khứ. Các phương tiện có động cơ không được tham gia lưu thông. Đường phố được dành cho người đi bộ thưởng lãm.

Làng nghề truyền thống

  • Làng gốm Thanh Hà (ngoại ô Hội An)
  • Làng mộc Kim Bồng
  • Làng đúc đồng Phước Kiều (xã điện phương, huyện điện bàn)
  • Làng dệt Mã Châu (Duy Xuyên)
  • Làng dâu tằm Đông Yên – Thi Lai (xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên)
  • Làng dệt chiếu cói Bàn Thạch (xã Duy Vinh, Duy Xuyên)
  • Làng rau Trà Quế (xã Cẩm Hà, Hội An)
  • Làng trống Lam Yên (xã Đại Minh, huyện Đại Lộc)
  • Làng nghề làm bún (Tân Thạnh, Thành phố Tam Kỳ)

Làng nghề truyền thống nước mắm cửa khe

Giao Thông

Quảng Nam có hệ thống giao thông khá phát triển với nhiều loại hình như đường bộ, đường sắt, đường sông, sân bay và cảng biển. Quảng Nam có tuyến quốc lộ 1a đi qua.

Đường bộ

Hệ thống đường quốc lộ và tỉnh lộ trên địa bàn tỉnh được xây dựng theo hướng Bắc – Nam và Đông – Tây. Quốc lộ 1a đi qua địa phận các huyện, thành phố: núi Thành, Tam Kỳ, Phú Ninh, Thăng Bình, Quế Sơn, Duy Xuyên và Điện Bàn. Quốc lộ 14 đi qua địa phận các huyện: Phước Sơn, Nam Giang, Đông Giang và Tây Giang. Quốc lộ 14b đi qua địa phận các huyện Đại Lộc và Nam Giang. Quốc lộ 14e đi qua địa phận các huyện: Thăng Bình, Hiệp Đức và Phước Sơn. Ngoài ra tỉnh còn có 1 hệ thống đường bộ gồm các tỉnh lộ như 604, 607, 609, 610, 611, 614, 615, 616, 617, 618 (mới và cũ), 620 và nhiều hương lộ, xã lộ…. Khóa luận: Khái quát Lịch sử của người Cơ Tu ở Quảng Nam

Quốc lộ 1a: điểm đầu tại km 942 là ranh giới giữa thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Điểm cuối tại km 1027 là ranh giới giữa tỉnh Quảng Nam và tỉnh Quảng Ngãi.

Tổng chiều dài 85 km, tiêu chuẩn đường cấp III đồng bằng với bề rộng nền đường 12 m, mặt đường 11 m kết cấu mặt bê tông nhựa.

Đường Hồ Chí Minh: điểm đầu tại a tép ranh giới giữa tỉnh Thừa Thiên Huế và tỉnh Quảng Nam, điểm cuối tại cầu Đắc Zôn ranh giới giữa tỉnh Quảng Nam và tỉnh Kon Tum.

Tổng chiều dài toàn tuyến 190 km tiêu chuẩn đường cấp iv miền núi với bề rộng nền đường 7,5 m, mặt đường 5,5 m kết cấu bê tông nhựa. Đoạn qua thị trấn, thị tứ có mặt cắt 22,5 m.

Quốc lộ 14b: điểm đầu tại km 32 là ranh giới giữa thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam thuộc địa phận 2 huyện Hòa Vang và huyện Đại Lộc. Điểm cuối tại km 74 điểm giao với đường Hồ Chí Minh thuộc huyện Nam Giang.

Tổng chiều dài toàn tuyến 42 km tiêu chuẩn cấp iv với bề rộng nền đường 9 m, mặt đường 8 m kết cấu mặt bê tông nhựa.

Quốc lộ 14d: điểm đầu lý trình km 0 tại bến Giằng nối với đường Hồ Chí Minh, điểm cuối lý trình km 74,4 tại cửa khẩu Đắc Ốc (huyện Nam Giang) ranh giới giữa tỉnh Quảng Nam – việt nam với tỉnh Xê kông – Lào.

Tổng chiều dài toàn tuyến 74,4 km tiêu chuẩn đường cấp v với bề rộng nền đường 6,5 m, mặt đường 3,5 m kết cấu mặt đá dăm láng nhựa.

Quốc lộ 14e: điểm đầu lý trình km 0 tại ngã ba cây cốc (huyện Thăng Bình) giao với quốc lộ 1a (lý trình km 972 + 200). Điểm cuối lý trình km 78 + 432 giao với đường hồ chí minh tại thị trấn Khâm Đức (huyện Phước Sơn).

Tổng chiều dài toàn tuyến 78,4 km, đoạn km 0 – km 23 tiêu chuẩn đường cấp v nền đường 6,5 m, mặt 3,5 m kết cấu bê tông nhựa; đoạn km 23 – km 78,4 tiêu chuẩn đường cấp iv đồng bằng nền 9 m, mặt 6 m kết cấu bê tông nhựa.

Quốc lộ 40b

Quốc lộ 24c

Đường sắt

Trục đường sắt bắc nam đi qua tỉnh Quảng Nam. Ngoài nhà ga chính ở Tam Kỳ, còn có ga Nông Sơn, ga Phú Cang (Bình Quý, Thăng Bình), ga Núi Thành (núi Thành), ga Trà Kiệu (Duy Xuyên)…

Đường hàng không

Năm 1965, người Mỹ xây dựng sân bay Chu Lai, nhằm mục đích phục vụ các hoạt động quân sự ở miền Trung và Tây Nguyên. 40 năm sau, ngày 02 tháng 3 năm 2005, sân bay Chu ai đón chuyến bay thương mại đầu tiên từ thành phố Hồ Chí Minh, đánh dấu một sự kiện lịch sử của tỉnh. Năm 2010, Vietnam Airlines có tuyến bay Chu Lai – Hà Nội. Việc sân bay Chu Lai vào hoạt động thương mại sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển không chỉ của Quảng Nam (với khu công nghiệp Chu lLai) mà còn của tỉnh Quảng Ngãi (với khu công nghiệp Dung Quất). Xa hơn nữa, sân bay Chu Lai sẽ được phát triển thành sân bay quốc tế phục vụ cho việc trung chuyển hành khách và hàng hóa trong khu vực. Ngoài ra, việc đưa sân bay Chu Lai vào hoạt động sẽ giúp cho du khách đến với hai di sản văn hóa thế giới Hội An và Mỹ Sơn dễ dàng hơn.

Đường sông

Quảng Nam có 941 km sông ngòi tự nhiên, đang quản lý và khai thác 307 km sông (chiếm 32,62%), gồm 11 sông chính. Hệ thống sông hoạt động chính gồm 2 hệ thống: sông Thu Bồn và sông Trường Giang, hai hệ thống sông này đều đổ ra biển đông theo 3 cửa sông: sông Hàn, cửa Đại và Kỳ Hà Khóa luận: Khái quát Lịch sử của người Cơ Tu ở Quảng Nam

Sông trung ương quản lý: dài 132 km, gồm: đoạn 1 sông Thu Bồn, sông Trường Giang.

Toàn bộ đường sông đang khai thác vận tải thuỷ của tỉnh Quảng Nam dài 207 km, gồm 11 tuyến: sông Thu Bồn, sông Trường Giang, sông Vu Gia, sông Yên, sông Vĩnh Điện, sông Hội An, sông Cổ Cò, sông Duy Vinh, sông Bà Rén, sông Tam Kỳ và sông An Tân.

Sông Thu Bồn: dài 95 km gồm đoạn: đoạn 1 dài 65 km, điểm đầu là Nông Sơn, điểm cuối là Cửa Đại, do trung ương quản lý. Đoạn 2: dài 30 km, điểm đầu là ngã ba sông Tranh, điểm cuối là Nông Sơn, do địa phương quản lý.

Sông Trường Giang: dài 67 km, điểm đầu là ngã ba An Lạc và điểm cuối là Kỳ Hà, do trung ương quản lý. Trong đó có 16 km thuộc sông cấp V, 51 km là sông cấp VI. Tuyến sông chạy dọc theo bờ biển phía đông tỉnh Quảng Nam, nối liền với thị xã Hội An, Tam Kỳ và các huyện Duy Xuyên, Thăng Bình, núi Thành. Là tuyến sông có luồng lạch không ổn định do lòng sông bị bồi cạn, nguyên nhân do việc hình thành đập cổ linh làm ảnh hưởng đến chế độ thuỷ triều từ cửa đại tới cửa kỳ hà. Hiện tại trên tuyến có nhiều chướng ngại vật và nhiều bãi cạn do các công trình vượt sông như Cầu, đập thuỷ lợi, đường điện… Không đảm bảo các thông số kỹ thuật.

Sông vu gia: dài 52 km, điểm đầu là ngã ba Quảng Huế, điểm cuối là Bến Giằng, do địa phương quản lý. Là hợp lưu của sông Thu Bồn đạt tiêu chuẩn sông cấpVI, tuyến sông này chạy trên địa bàn huyện Nam Giang và huyện Đại Lộc. Đây là tuyến sông có vai trò quan trọng trong vận tải hàng hoá và hành khách đường sông của tỉnh Quảng Nam. Trên tuyến sông, vào mùa nước trung thì tàu thuyền có thể khai thác thuận lợi, sang mùa cạn chỉ khai thác được đến ngã ba Thượng Đức với chiều dài 23 km. Tuyến sông vu gia được chia thành 4 đoạn:

Sông Yên: dài 12 km, có điểm đầu là ngã ba Quảng Huế và điểm cuối là ranh giới thành phố Đà Nẵng, do địa phương quản lý. Tuyến sông trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có dòng sông hẹp, nhiều đoạn cạn và có đập pa ra an trạch chắn ngang. Đoạn từ ngã ba sông yên đến Đại Hiệp đạt tiêu chuẩn VI.

Sông Vĩnh Điện: dài 12 km, điểm đầu tại km 43 + 500 sông Thu Bồn và điểm cuối là cầu Tứ Câu, do địa phương quản lý. Là sông cấp V, chảy qua 5 xã và 1 thị trấn thuộc huyện Điện Bàn. Đoạn sông này hẹp, có dòng chảy ổn định, thuận lợi cho việc khai thác vận tải thủy. Sông Vĩnh Điện nối giữa sông Thu Bồn và sông Hàn tạo thành tuyến vận tải thủy giữa thị xã Hội An, Vĩnh Điện và Đà Nẵng.

Sông Hội An (sông Hoài): dài 11 km, điểm đầu là ngã ba sông Thu Bồn tại km 54 + 400 và điểm cuối là km 63 + 00 sông Thu Bồn, do địa phương quản lý. Nằm trên địa phận thị xã Hội An, lòng sông có độ sâu ổn định thuận tiện cho các loại phương tiện hoạt động. Đạt tiêu chuẩn kỹ thuật sông cấp III.

Sông Cổ Cò (sông Đế Võng): dài 27,5 km có điểm đầu tại cửa đại và điểm cuối nối vào sông hàn thành phố Đà Vẵng do địa phương quản lý, tuyến chạy dọc bờ biển phía bắc của tỉnh Quảng Nam bắt đầu từ ngã ba sông Hàn đến Cửa Đại, được phân làm hai nhánh. Khóa luận: Khái quát Lịch sử của người Cơ Tu ở Quảng Nam

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY

===>>> Khóa luận: Thực trạng văn hóa và ẩm thực của người Cơ Tu

One thought on “Khóa luận: Khái quát Lịch sử của người Cơ Tu ở Quảng Nam

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464