Chia sẻ cho các bạn sinh viên ngành luật bài Khóa luận: Giải pháp khai thác di tích của Phạm Tử Nghi cho các bạn đang chuẩn bị làm bài khóa luận cùng nhau tham khảo nhé. khóa luận môn học là một trong những yêu cầu bắt buộc của các trường đại học, và Cao Học. Đối với sinh viên hay học viên tất cả các khóa học đều bắt buộc phải làm một bài khóa luận, với đề tài bắt buộc hoặc là một đề tài cụ thể nào đó ví dụ như đề tài Khóa luận: Thực trạng và giải pháp khai thác di tích và lễ hội thờ Phạm Tử Nghi phục vụ hoạt động du lịch các bạn cùng tham khảo đề tài khóa luận dưới đây nhé.
3.1 Sự biến đổi trong lễ hội thờ Phạm Tử Nghi hiện nay
3.1.1 Biến đổi về nhận thức của người dân đối với việc thờ Phạm Tử Nghi Xã hội Việt Nam mấy thập kỉ trở lại đây đã trải qua nhiều biến động Khóa luận: Giải pháp khai thác di tích của Phạm Tử Nghi
Sâu sắc, chiến tranh kết thúc, hòa bình lập lại, con người chung tay xây dựng lại đất nước sau một thời gian khủng hoảng lâu dài về nhiều mặt. Những biến cố lịch sử đã tác động sâu sắc đời sống con người trên mọi mặt, trong đó có cả vấn đề văn hóa. Cụ thể ở đây là việc hệ thống các thần linh một thời được nhà nước phong kiến phong thần sẽ tìm được chỗ đứng nào trong lòng xã hội mới, xã hội công nghiệp hiện đại, khoa học kĩ thuật phát triển, trái ngược với xã hội cũ mà con người sống đùm bọc trong làng xã, quanh năm không ra khỏi lũy tre làng.
Người Việt từ lâu trong tiềm thức đã luôn duy trì cho mình một thế giới tinh thần đặc sắc, cách giải thích về tự nhiên và vũ trụ của họ tạo ra vô số các vị thần, vị thánh, ở đâu cũng tồn tại thần thánh, các cụ có câu “thần cây đa ma cây gạo cáo cú cây đề”. Tâm lý và ý thức về sự tồn tại của thể phách, tinh anh khi con người mất đi là khá sâu đậm trong rất nhiều dân tộc. Bởi vậy mà qua những biến động của thế sự, có những quan niệm vẫn khó có thể từ bỏ được. Việc người dân vẫn phụng thờ thần thánh trong khắp các đình, chùa, đền, miếu trên khắp mọi miền đất nước dù trải qua muôn vàn biến động đã minh chứng cho điều này. Trong thời điểm chuyển giao giữa cái cũ và cái mới, đã có lúc người ta phá bỏ các công trình tâm linh – chốn cư ngụ, nương náu của thần vì cho rằng nó thuộc về cái cũ. Nhưng cái vỏ vật chất bị hủy hoại ấy không làm mất đi cái tinh thần còn in đậm trong tâm trí của nhân dân.
Truyền thống là những giá trị đã được chắt lọc trong lịch sử và được con người lựa chọn để lưu giữ và tiếp tục trao truyền cho thế hệ mai sau. Việc phụng thờ các vị thần nói chung trên cả nước và việc người dân Lê Chân vẫn tôn thờ Thánh Phạm Tử Nghi nói riêng là một lựa chọn của chính họ, chỉ khác là sự biến đổi về mặt nhận thức giữa người trước và người sau. Trong một xã hội mà lúc bấy giờ chỉ có làm nông, dựa vào tự nhiên là chính, trời cho bao nhiêu thì làm ăn được bấy nhiêu thì vị thần mà người dân kêu cầu ắt hẳn phải có sức mạnh vô cùng to lớn, đôi khi làm người ta sợ hãi cái oai linh ấy. Cứ mỗi kì lễ hội hàng năm thời xưa việc tế Thánh Phạm Tử Nghi phải có mặt quan tri huyện – người đứng đầu, cai quản cả một vùng lúc bấy giờ về làm chủ tế, đấy là vào những năm có lễ cầu mưa, kỳ tế nào linh ứng, về trích tiền công của nhà nước ra sắm lễ tạ [5,tr.5]. Như vậy Đức Thánh Niệm – Phạm Tử Nghi không chỉ là vị thần bảo trợ cho xóm làng Vĩnh Niệm xa xưa mà còn là một vị thần nước uy nghi hiện lên giúp dân cày cấy, phát triển mùa màng. Chẳng thế mà trong văn khấn của Ngài mang thần hiệu là Bản cảnh Thành Hoàng, nam dương, đông nguyên soái, lưỡng quốc tiết chế thuỷ bộ, chư doanh phò mã, đô uý, thái uý, Thành quốc công, Nam Hải linh ứng đại vương, Thượng đẳng phúc thần [105,tr.2]. Phạm Tử Nghi khi còn sống là một dũng tướng oai phong, lẫm liệt, dám đem cả quân lính vào bờ cõi nhà Minh quấy phá làm giặc khiếp sợ, đến lúc chết bị chặt đầu mà cứ đem đến đâu thì sinh ôn dịch đến đó làm người Minh phải đem trả về chính quốc, theo như sách Đại Việt sử kí toàn thư đã dẫn. Oai danh của thần trên đất ngoại quốc là thế khi về đến quê hương vẫn không kém phần uy nghiêm. Cứ nơi nào có hòm quách đá chứa thủ cấp của Ngài trôi qua đều lập đền thờ. Quách đá trôi đến Đầm Hồng thì có ông chài được thần báo mộng, đem rước lên thuyền, thuyền không cần chèo cứ thế trôi đi đến bến sông Niệm thì dừng lại. Sấm dậy, gió nổi ầm ầm trong làng từ quan viên đến trai tráng, tề chỉnh ra rước hòm đá về lăng Đôn Nghĩa hiện nay làm lễ an táng. Rồi dân xây miếu lập từ thờ cúng, càng ngày càng rõ rệt là linh ứng [5,tr.5]. Chi tiết được ghi chép lại từ ngọc phả, dù mang nhiều yếu tố huyền bí được dân gian thêm thắt vào nhưng cũng cho thấy tâm thức về vị thần linh thiêng của địa phương. Hơn thế nữa vị thần được nhân dân tôn thờ còn mang ý nghĩa thiêng liêng tới mức nếu không làm vừa lòng thần có thể bị quở phạt mà cái tai họa ấy không một người trong làng nào muốn. Vì thế, cứ đến ngày hội làng, mọi thành viên đều cố gắng hết sức, cống hiến, phô bày những gì tinh túy đẹp đẽ nhất để dâng lên thần linh. Từ đó, lễ hội làng mang một sức mạnh cố kết đặc biệt. Khóa luận: Giải pháp khai thác di tích của Phạm Tử Nghi
Thần trong làng xã xưa là như vậy, nay thần ở trong phố xá, đô thị còn thấy sự linh thiêng như vậy nữa không? Thực chất tính thiêng của việc thờ phụng thần linh chưa bao giờ mất đi, bởi nếu mất đi thì ngày nay người ta đã không còn thờ cúng nữa. Mà ở đây sự tin tưởng, ngưỡng mộ đối với vị thần linh ấy còn tồn tại ở mức độ nào trong thế giới tinh thần của người hiện đại. Làng quê Vĩnh Niệm xưa kia sau cuộc bể dâu đổi dời được chia tách thành ba làng Nghĩa Xá, Niệm Nghĩa, Đôn Nghĩa, sau này trở thành các phường của một quận nội thành Hải Phòng. Sự chia tách về mặt hành chính cũng là lúc nhân dân cùng một làng nay tách rời nhau, cộng với việc dân ngụ cư từ nơi khác về cư trú, bộ mặt nông thôn biến đổi trở thành phố xá…những yếu tố này tác động lên ứng xử văn hóa của nhân dân khá rõ nét. Người dân nay đâu còn làm nông nữa, bộ mặt đô thị những Nghĩa Xá, Niệm Nghĩa, Vĩnh Niệm…nay bao trùm là các cửa hàng kinh doanh buôn bán, dịch vụ, nghề nghiệp của nhân dân cũng vô cùng đa dạng từ công nhân, viên chức nhà nước đến người làm việc tự do. Lúc này thì ông thần làng xưa kia làm gì còn có công việc ban mưa, ban tạnh, cho mùa màng bội thu nữa. Thần bây giờ vẫn là đấng linh thiêng, tuy chỉ ban phúc, lộc, bình an, may mắn cho nhân dân mà thôi. Bây giờ hỏi người dân ông Phạm Tử Nghi là ai chắc chắn có nhiều người sẽ trả lời không biết, nhưng nếu nói đến đường Thiên Lôi thì ai cũng biết và đặt thêm một vấn đề nữa là ông Thiên Lôi và ông Phạm Tử Nghi có phải là một không chưa chắc họ dám khẳng định. Từ đó mà ý nghĩa của lễ hội truyền thống tại Từ Nghĩa Xá nói riêng và khắp các di tích thờ Phạm Tử Nghi nói chung ở quận Lê Chân đã không còn mang tính thiêng liêng như xa xưa. Xưa kia ở vùng này hễ có lễ hội là Từ Nghĩa Xá vào đám trước, rồi sau đấy mới đến các di tích còn lại như Lăng Đôn, Đình Niệm. Đến ngày hội thì đêm trước khai hội các kiệu bát cống từ các di tích xung quanh phải về chầu tại sân Từ Nghĩa Xá rồi sáng hôm sau mới quay về di tích của mình để mở hội. Nay thì những phong tục mang ý nghĩa đó không còn duy trì nữa. Quan niệm trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ, việc của nơi nào thì cứ làm tốt ở nơi ấy đã, dẫn đến những tách biệt trong việc sinh hoạt văn hóa, mà ở đây là lễ hội tại từng phường xã trong quận. Dịp lễ hội mùa thu kỉ niệm ngày Thánh hóa vừa qua, Đình Niệm Nghĩa, phường Vĩnh Niệm đã khai hội từ ngày 12 – 9 âm lịch, sớm hơn Từ Nghĩa Xá một ngày. Các hoạt động giữa hai lễ hội tại hai địa điểm này cũng không giống nhau. Ở đây không hề có mâu thuẫn nào giữa hai phường trong việc tổ chức cả, mà do đặc thù mỗi phường mà họ có cách tổ chức khác nhau. Có chăng những ai còn chút hoài niệm về câu ca xưa thể hiện mối thâm tình giữa ba làng Nghĩa Xá, Niệm Nghĩa và Đôn Nghĩa thì có chút tiếc nuối mà thôi.
Như vậy có thể thấy rằng trong bối cảnh hiện nay khi mà những hội nhập, phát triển kinh tế, lo toan cho cuộc sống diễn ra từng ngày từng giờ thì mối quan tâm của nhân dân về vị thần làng hay lễ hội để tôn vinh thần cũng không được như thuở xa xưa nữa. Ngày nay, việc duy trì sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, lễ hội truyền thống được coi như một cách thức để khơi dậy tâm lý dân tộc, tâm thức uống nước nhớ nguồn, cân bằng đời sống tâm linh cho con người trong thế giới hiện đại.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Bảng Giá Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Du Lịch
3.1.2 Biến đổi về không gian cảnh quan di tích nơi diễn ra lễ hội Khóa luận: Giải pháp khai thác di tích của Phạm Tử Nghi
Không gian của di tích là một nhân tố quan trọng tạo nên một lễ hội truyền thống, nơi đây được coi là diễn trường cho lễ hội. Trong các loai hình di tích thì ngôi đình thường được ví von với những gì có quy mô to lớn, đồ sộ như to như cái đình, rộng như sân đình, sau đấy rồi mới đến các di tích như đền, chùa, miếu, từ, phủ…Đình làng với quy mô đồ sộ nên không gian cũng rộng rãi và thoáng đãng hơn hẳn các di tích còn lại, nhất là vào dịp mở hội, sân đình phát huy tác dụng tối đa làm nơi tế lễ sau đấy là chơi trò chơi…Tuy nhiên, ngày nay có khá nhiều ngôi đình đã bị thu hẹp lại nhất là phần sân do xu thế đô thị hóa. Nói như vậy để thấy rằng không những ngôi đình bị ảnh hưởng bởi kiến trúc đô thị mà tất cả các loại loại hình di tích còn lại đều có xu hướng này nếu nằm trong phố.
Từ Nghĩa Xá nơi thờ Phạm Tử Nghi ở quận Lê Chân cũng đang ở tình trạng “di tích trong phố” như vậy. Phố xá chật chội, đồng nghĩa với việc dân cư đông, dân ngụ cư nhiều, dẫn đến nhà cửa mọc lên san sát, thậm chí tồn tại ngay sát cạnh di tích đã không còn là điều mới mẻ. Từ việc người dân tránh ở gần nơi linh thiêng như đền, chùa, miếu, phủ vì sợ phạm vào hướng tối kị trong kiến trúc nhà ở cho đến việc làm “hàng xóm” của thần linh là câu chuyện không mới trong xã hội ngày nay. Khi diện tích đất ở khan hiếm, đặc biệt là ở vùng đô thị, thì người dân càng linh động hơn trong việc chọn chỗ ở, không kể ở vị trí không thuận lợi cho lắm.
Vấn đề ở đây chúng tôi đang đề cập đến là sự thu hẹp không gian cho diễn trường của lễ hội tại Từ Nghĩa Xá, một mặt mặt do bằng di tích hẹp, mặt khác do con đường Thiên Lôi bên ngoài luôn tấp nập người qua kẻ lại, mua bán trao đổi tại chợ Đôn ngay bên ngoài. Trước tiên, điều này sẽ ảnh hưởng đến sự yên tĩnh của Từ Nghĩa Xá, mà đối với các di tích luôn cần một sự yên ắng nhất định để tránh bị pha tạp những thứ trần tục, đời thường kia. Thứ hai với một lối dẫn vào Từ vô cùng hẹp như vậy có ảnh hưởng rất lớn đến khâu tổ chức lễ hội. Ban tổ chức rất mong muốn trong ngày hội làng là dịp được thể hiện sự hoành tráng trong quy mô đám rước. Tuy nhiên với đường giao thông qua lại tấp nập và một phần cổng ngõ hẹp khiến cho đám rước lễ hội không được to đẹp nữa. Điều đáng tiếc nhất là không còn tiết mục rước kiệu bát cống, cỗ kiệu to đẹp trên có tượng thần ngự hoặc linh vị của thần. Đặc biệt là kiệu bát cống hiện đang lưu giữ tại Từ Nghĩa Xá đã được Bảo tàng Hải Phòng khảo sát, nhận định là một trong những di vật mang phong cách nghệ thuật thế kỉ 18 hiện còn ở Hải Phòng. Đám rước hội Từ Nghĩa Xá được tổ chức với quy mô vừa phải, gọn nhẹ, trên tinh thần thể hiện sự thành tâm là chính. Mặc dù ban tổ chức rất mong muốn có thể khôi phục lại được phong tục rước giao hiếu giữa các di tích trong vùng cùng thờ Thánh Phạm Tử nghi vào ngày mở hội. Khóa luận: Giải pháp khai thác di tích của Phạm Tử Nghi
Một vấn đề hạn chế nữa đang tồn tại làm biến đổi không gian di tích di tích do sự bất cập trong công tác cưỡng chế di dời, mà ngay trong khuôn viên Từ vẫn có nhà dân sinh sống. Điều này ít nhiều làm ảnh hưởng đến tính thiêng liêng của cảnh quan di tích. Một mặt điều này vừa ảnh hưởng đến di tích nhưng ngược lại mặt khác nó cũng tác động đến cuộc sống của chính những hộ dân này. Đến ngày có hội, những âm thanh ồn ào, náo động bên ngoài kia chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến đời sống của họ. Có thể vào ban ngày, khi những việc đám rước, tế lễ diễn ra, họ có thể đang đi làm, đóng cửa nhà ra ngoài, nhưng đến buổi tối, phần văn nghệ diễn ra, với những âm thanh huyên náo phát ra từ loa máy, thử hỏi họ có hài lòng không. Bởi đáng chú ý ở đây là họ đi chung lối vào Từ, để ngăn cách giữa không gian di tích và cửa vào nhà các hộ dân, ban quản lý đã phải cho làm một cổng sắt, đảm bảo sự an toàn về an ninh cho di tích.
Khi đất nước còn đang gặp chiến tranh, Từ Nghĩa Xá lúc bấy giờ được dùng làm nơi đóng quân của quân đội và thanh niên xung phong.
Chiến tranh đồng nghĩa với hủy hoại là điều không tránh khỏi. Có một khoảng thời gian dài, theo những gì ông Luy – trưởng ban quản lý di tích trình bày trong tham luận tại hội thảo Phạm Tử Nghi tại Từ Nghĩa Xá, Từ không có người trông nom, dẫn đến việc dân vào chiếm đất cư ngụ, lâu dần mua đi bán lại nhiều lần, làm ảnh hưởng nặng nề đến không gian di tích. Mặc dù, trong tình cảnh đó, dân làng cũng cắt cử một hai người vào trông nom di tích nhưng mâu thuẫn vẫn tồn tại giữa một bên là thiêng một bên là tục, một bên là thần và một bên là người. Cho đến năm 2005, khi Từ Nghĩa Xá được nhập về phường Nghĩa Xá ngày nay thì ban quản lí di tích lúc này do phường chỉ định đã tiến hành công tác tu bổ lại các hạng mục công trình trong di tích. Năm 2005, Ban quản lý di tích đã trùng tu lại toàn bộ khu di tích và từ năm 2008 đến nay đã lần lượt mua lại được 2 căn hộ dân cư ngụ trên đất giải vũ phía tây. Năm 2012 xây dựng nhà giải vũ 5 gian, với tổng số tiền đã đưa vào xây dựng từ năm 2005 cho đến nay là 1.720.500.000đ (Một tỷ bảy trăm hai mươi triệu năm trăm nghìn đồng). Tất cả đều là tiền công đức của bách gia trăm họ.
Bằng sự nỗ lực của ban quản lí di tích và sự hợp tác của nhân dân và chính quyền mà phần nào đã trả về cho di tích vẻ phong quang, tính thiêng liêng. Thiết nghĩ, xưa kia chốn tâm linh là nơi tối kị người phàm không dám phạm vào. Các cụ đã đúc kết kinh nghiệm xây nhà ở là phải tránh “góc ao, đao đình”, những nơi này tuyệt xấu, là tối kị, vì khi ở vào những những hướng này, gia chủ không tránh khỏi trong nhà lục đục, xảy ra tai họa. Vậy mà ngày nay, người trần mắt thịt đã chẳng còn để ý đến câu chuyện đó nữa. Không phải họ không hiểu điều đó, chẳng qua vì điều kiện, vì khả năng không đáp ứng được mà họ đành phải chấp nhận cùng chung sống với một “người hàng xóm” có “thế lực” mà thôi.
3.1.3 Biến đổi trong nội dung lễ hội thờ Phạm Tử Nghi
3.1.3.1 Về công tác tổ chức Khóa luận: Giải pháp khai thác di tích của Phạm Tử Nghi
Lễ hội Từ Nghĩa Xá hiện mới được khôi phục từ chục năm trở lại đây sau một thời gian dài bị gián đoạn do chiến tranh và do cảnh quan di tích bị biến dạng. Từ khi được phục hồi lại, lễ hội lại là khoảng thời gian ghi dấu ấn của cộng đồng người dân phường Nghĩa Xá nói riêng và quận Lê Chân nói chung. Xưa kia, lễ hội được tổ chức do người dân làm chủ là chính, có sao thì tổ chức vậy, họ tự bảo nhau làm, theo những gì cha ông truyền lại. Các ghi chép về lễ hội Từ Nghĩa Xá trước năm 1945 còn lại rất ít, không đáng kể, chủ yếu dựa trên hồi ức của các cụ cao niên trong làng. Vào những năm đầu thập kỉ 90, các cán bộ Bảo tàng Hải Phòng đi điền dã, khảo sát để làm hồ sơ di tích Từ Nghĩa Xá cũng như các di tích trong vùng khác cũng thờ Phạm Tử Nghi, đã có một chút thông tin về việc tổ chức lễ hội của dân các làng Nghĩa Xá, Niệm Nghĩa, Đôn Nghĩa.
Hội Từ Nghĩa Xá ngày nay được ấn định tổ chức vào hai thời điểm ngày sinh và ngày mất của Thánh, như những gì được ghi chép trong ngọc phả. Công việc tổ chức lễ hội hiện nay có sự tham gia của chính quyền và nhân dân, chính quyền làm công tác định hướng, chỉ đạo, tổ chức thực hiện do ban quản lí điều hành. Ban quản lý di tích cho họp bàn và thành lập ban tổ chức trong đó có đại diện của các hội, các nhóm, người của ban quản lí, đại diện chính quyền. Mô hình tổ chức lễ hội theo hướng xã hội hóa với sự tham gia của mọi tầng lớp như hiện nay là mô hình thường thấy trong các lễ hội dân gian truyền thống được tổ chức. Như vậy vấn đề đặt ra là có hiện tượng tranh giành quyền lợi, lợi ích của giữa các nhóm trong quá trình tổ chức và điều hành lễ hội Từ Nghĩa Xá hay không? Từ quá trình nghiên cứu chúng tôi nhận thấy rằng, trong khâu tổ chức lễ hội đã có sự hài hòa giữa quan hệ của các nhóm người tham gia.
Hiện nay có ý kiến cho rằng, khi có sự can thiệp của chính quyên, của nhà nước vào các sinh hoạt văn hóa dân gian, đặc biệt là lễ hội, thì không tránh khỏi xảy ra những biến đổi về mặt nội dung của nó. Nhưng vấn đề là, họ can thiệp đến đâu, đến mức độ nào? Công tác quản lý văn hóa đang thu hút sự quan tâm của nhà nước rất lớn. Quản lý ở đây là để đảm bảo cho quá trình hoạt động văn hóa đó diễn ra theo đúng tinh thần, định hướng của Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên ở một vài nơi, sự can thiệp này là quá sâu, dẫn đến mất đi cái chất cái hồn của người dân trong đó. Theo chúng tôi xu hướng này xảy ra là không tránh khỏi. Cần thiết phải có một sự định hướng là chủ trương đúng đắn của chính quyền, từ đó người dân thực hiện và làm theo. Nếu giải quyết được mấu chốt vấn đề là sự hợp tác giữa người dân và chính quyền ra sao thì hiệu quả đem lại mới to lớn nhất. Trường hợp lễ hội Từ Nghĩa Xá đã giải quyết tốt mối quan hệ đó. Ban tổ chức lễ hội vẫn là những người điều hành chính, chính quyền tham gia vai trò định hướng. Bản thân người dân họ cũng mong muốn, nhận thấy rằng có sự chứng giám của chính quyền là niềm vinh dự, tự hào đối với họ. Những việc làm long trọng, trang nghiêm, đẹp đẽ ấy của họ trước tiên để phụng sự thần thánh, nhưng đồng thời cũng là để trình diễn, để phô bày cái đẹp của họ cho chính quyền công nhận, đánh giá. Mối quan hệ giữa quan và dân ở đây không xa cách là mấy. Ông chủ tịch phường có thể ban đầu vừa lên đọc diễn văn khai mạc lễ hội trên bục cao trọng vọng ấy. Thoáng đến hôm tất hội đã có thể ngồi vui vẻ ăn uống cộng cảm với nhân dân. Chúng tôi nhớ lại trong bữa ăn ấy, có cụ đã bày tỏ rằng, cụ rất tự hào khi lễ hội được chính quyền đến tham dự, chứng kiến cho công tác tổ chức của nhân dân chu đáo đến mức nào. Họ vui vì ngày hội không chỉ là ngày tế thần, nhớ ơn công lao của tiền nhân mà còn là ngày hội tôn vinh sức mạnh đoàn kết của tập thể, cộng đồng, giữa các nhóm trong xã hội với nhau.
Cùng với sự có mặt của bên chính quyền là sự góp công, góp sức của các đoàn thể trong phường tạo nên ngày hội vui tươi, sinh động nhất. Hội làng xưa là sự tham gia của các giáp, các dòng họ trong làng thì nay cũng tương tự như vậy là ngày hội đoàn kết toàn dân. Lễ hội có sự tham gia của Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội hưu trí, người cao tuổi, Dân quân phường…các nhóm xã hội đó tạo nên tinh thần thống nhất, đoàn kết trong ngày hội. Nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh đã nhận định rằng hội lễ chính là thời điểm mạnh trong đời sống của cộng đồng rằng thời điểm mạnh là thời điểm mà nhân dân thuở xưa tin rằng có giá trị đặc biệt, có ý nghĩa thiêng liêng, khác hẳn với thời gian bình thường của đời sống hàng ngày Thực chất ý nghĩa ngày hội là thời điểm nhân dân cùng nhau chịu sự chi phối về mặt số mệnh và về mặt tình cảm dưới bóng của một vị thần cao cả vẫn còn mãi.
Như vậy chúng ta thấy rằng công tác tổ chức lễ hội hiện nay tại Từ Nghĩa Xá đã có một sự phối hợp, điều hành mang tính chuyên nghiệp, bài bản. Nội dung công việc có được sự phân công rõ ràng, cụ thể, trong đó có cả yếu tố truyền thống, lẫn yếu tố sáng tạo mà ở mục dưới đây chúng tôi xin được bàn thêm.
3.1.3.2 Về diễn trình Khóa luận: Giải pháp khai thác di tích của Phạm Tử Nghi
Những thay đổi lớn lao nhất trong lễ hội dân gian hiện nay chính là trong phần diễn trình của hội. Mỗi thời mỗi khác, không có một sự vật, hiện tượng nào là bất biến trong xã hội cả, tương tự, sinh hoạt lễ hội truyền thống cũng như vậy. Chúng tôi xin đi vào bàn luận ở hai nội dung chính mà hiện nay khi nghiên cứu về các lễ hội có sự phân biệt một cách tương đối là phần lễ và phần hội.
Trong phần lễ của lễ hội Từ Nghĩa Xá, chúng tôi nhận thấy rằng ban tổ chức và toàn thể nhân dân rất cố gắng trong việc giữ gìn và khôi phục được hình thức tế Tứ Linh theo đúng phong tục cổ truyền của vùng An
Dương xưa. Bốn ngôi đền linh thiêng được dân gian gọi dưới cái tên Tứ Linh Từ mà đến tận ngày nay tất cả vẫn còn tồn tại ở Hải Phòng là một điều hiếm thấy. Việc duy trì được tục tế Tứ Linh này nếu nói về mặt giá trị văn hóa nó mang một ý nghĩa to lớn, khi mà cổ lệ của cha ông được giữ gìn bao đời nay. Tế Tứ Linh bao gồm các vai tế do nam giới đảm nhiệm cho thấy vai trò, vị trí của người đàn ông theo quan niệm Nho giáo ngày trước, “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” có nghĩa nôm na là có mười người phụ nữ chẳng bằng một người đàn ông. Phụ nữ theo quan niệm phong kiến là người không sạch sẽ, cho nên không được tham gia vào công việc tế tự ở làng xã, việc cúng Thành hoàng làng là việc của người nam và người nữ cũng không được cho phép bước vào đình. Tế Tứ Linh được tổ chức vào ngày đầu tiên của kì lễ hội kéo dài ba ngày tại Từ Nghĩa Xá, với ý nghĩa như là việc tế mở cửa di tích để vào lễ hội. Tuy ngày 13 – 9 âm lịch chưa phải là ngày chính hội Từ Nghĩa Xá vào dịp mùa thu nhưng dấu vết về quan niệm Nho giáo vẫn còn đâu đây trong ngày lễ hầu thần thánh này. Ông chủ tế kính cẩn đứng lên quỳ xuống, lễ bái xì xụp, khẩn mời thần linh về dự hội với nhân dân trong làng. Khóa luận: Giải pháp khai thác di tích của Phạm Tử Nghi
Ngày nay bên cạnh đội tế Tứ Linh tại từ Nghĩa Xá tế phục vụ thần trong ngày lễ hội, còn xuất hiện đội tế Nữ quan, giống như tại nhiều lễ hội khác. Tế Nữ quan lại bao gồm toàn người nữ, từ bà chủ tế, đến bà Đông xướng, Tây xướng, các bà bồi tế, chấp sự. Từ bao giờ vai trò của người phụ nữ lại lên cao như vậy trong một xã hội trọng nam theo quan niệm Nho giáo như Việt Nam? Thực ra ở nước ta từ xưa đến nay song song với quan niệm Nho giáo là quan niệm dân gian “lệnh ông không bằng cồng bà”. Người phụ nữ không hoàn toàn là lực lượng yếu thế trong quan niệm người Việt mà ngược lại có cả một nguyên lý Mẫu – Mẹ trong văn hóa Việt Nam mà rất nhiều các nghiên cứu của các nhà nghiên cứu văn hóa như Trần Quốc Vượng, Ngô Đức Thịnh đã chỉ ra. Người Việt có cả một thứ Đạo Mẫu, mà trong đó có hàng loạt các vị Thánh Mẫu, các vị Chầu Bà, các Cô…Đạo Mẫu ra đời nhanh chóng hòa nhập vào dân gian được nhân dân đón nhận một cách nhiệt thành. Điện Mẫu thâm nhập vào ngôi chùa làng, đền, miếu, thậm chí cả các ngôi đình làng về sau cũng có ban Mẫu. Đạo Mẫu như một thứ cứu cánh cho người nữ giới, nâng cao hơn vai trò của họ trong thế giới tâm linh. Do vậy trong lễ hội Từ Nghĩa Xá hiện nay đội tế Nữ quan của Từ nổi lên đóng vai trò chính trong việc tế lễ hầu thánh. Nếu đội tế Tứ Linh chỉ được tế vào ngày trước hội, đảm bảo đúng thủ tục của cha ông ngày trước thì nay đội tế của các bà các cô có mặt trong ngày chính hội, làm lễ tế khai hội. Chúng tôi phải nhấn mạnh rằng trong chính hội 14 – 9 là ngày mà có các vị đại biểu, quan khách đại diện chính quyền và các ban ngành đoàn thể của phường đến tham dự, dâng hương. Có lẽ việc để các bà các cô làm công việc tế lễ hầu thánh trong ngày vào đám sẽ làm ngày hội trở nên lung linh, tươi vui hơn. Tế Nữ quan còn làm lễ tế tạ vào ngày hôm sau để tất hội, đóng cửa Từ nữa. Như vậy, ở đây chúng tôi nhận thấy có vai trò của người nữ đã được đẩy lên cao trong một sinh hoạt văn hóa trước kia hầu như có sự tham gia của nam giới. Tương tự như từ Nghĩa Xá, Đình Niệm Nghĩa, hay lăng Đôn Nghĩa đều thờ thánh Phạm Tử Nghi chúng tôi cũng thấy hiện tượng có đội tế Nữ quan như vậy.
Bên cạnh đó trong phần nghi lễ chúng tôi cũng nhận thấy đã có một vài thủ tục khác xưa, nay mới có. Chúng tôi lại bắt gặp thấy sự xuất hiện của phụ nữ, lần này là các chị các cô trẻ tuổi hơn đội tế lễ, duyên dáng trong tà áo dài dân tộc, màu sắc giống nhau. Đây là ban lễ tân, các chị mặc áo dài xanh lá, quần vàng, gương mặt trang điểm tươi tắn, công việc của họ tiếp đón đại biểu. Làm cho người đến dự hội có cảm giác như đi hội nghị, được mời vào bàn đại biểu trải khăn trắng, có mời nước hẳn hỏi. Nhưng đây không phải buổi hội nghị thông thường, bên trên chính giữa “sân khấu” không phải là khánh tiết với cờ tổ quốc, tượng Bác Hồ mà là hương án với hương, hoa thơm ngát. Tuy vậy vẫn xuất hiện một chiếc bục gỗ để phát biểu, tăng tính trang trọng. Khi buổi lễ khai hội được cử hành đâu đây cũng có cảm giác rằng giống một hội nghị với những tuyên bố lí do, giới thiệu đại biểu, diễn văn khai mạc…Chúng tôi cũng không chứng kiến lễ chào cờ, vì nghi thức này không có trong chương trình lễ hội mà ban tổ chức công bố. Chúng tôi nêu lên vấn đề này vì gần đây các phương tiện truyền thông cũng như các nhà nghiên cứu đang lên tiếng cảnh báo việc chương trình lễ hội đang bị biến thành kiểu hội nghị hóa, đại hội hóa, với ảnh Bác, cờ Tổ quốc, có nghi thức chào cờ hát quốc ca…Vấn đề này xảy ra cũng là do chúng ta còn đang lúng túng trong vấn đề sáng tạo truyền thống. Sáng tạo không có gì là sai trái, nhưng cái mới ở mức độ nào thì phù hợp với cái truyền thống đang tồn tại kia mới là điều cần phải đạt được. Những nội dung mới được đưa vào lễ hội thờ Phạm Tử Nghi ở Từ Nghĩa Xá kia là lựa chọn của cả nhân dân và chính quyền, một sự đồng thuận và kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Chúng tôi chưa nhận thấy những nội dung này có gì là quá mới, là không phù hợp cho một buổi lễ để nó phải giảm bớt đi tính thiêng liêng của ngày hội làng. Bởi ngay sau phần diễn văn khai mạc này là phần dâng hương của đại biểu và tế nữ quan khai hội bình thường, không hề có văn nghệ chào mừng, biễu diễn múa hát như kiểu hội nghị. Sự xuất hiện của chính quyền ở đây chỉ mang tính chất vừa đủ, đủ để thấy rằng đây thực sự là ngày tôn vinh nhân vật có công với quê hường đất nước, ngày hội sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân. Khóa luận: Giải pháp khai thác di tích của Phạm Tử Nghi
Các cụ ta đã đã đúc kết câu nói thể hiện tính chất của các cuộc vui chơi giải trí thời xưa là “vui xem hát, nhạt xem bơi, tả tơi xem hội”. Vậy hội Từ Nghĩa Xá xem xong có “tả tơi” không, thật buồn là chưa được vui đến mức “tả tơi”. Hội làng xưa là dịp tưởng nhớ, tạ ơn vị thần đã ban phúc cho dân làng trong cả năm, mở hội vừa để tế thần, làm thần vui lòng, cũng vừa để nhân dân có dịp vui chơi sau khoảng thời gian lao động đồng áng mệt nhọc. Do vậy kết thúc phần nghi lễ trang nghiêm, mở ra phần hội tươi vui, khỏe khoắn, với nhiều trò chơi để người dân được thi thố khả năng, trổ tài khéo léo của mình. Đáng tiếc là trong hội Từ Nghĩa Xá các cuộc vui này trở nên vắng bóng, thay vào đó là biểu diễn chèo vào buổi tối, phục vụ người nghe người xem là chính. Như vậy không cứ phải hội là đã được chơi, được vui một cách “tả tơi”. Muốn vui chơi được, ắt phải có không gian chơi, với quy mô nhỏ của di tích Từ Nghĩa Xá, điều này khó có thể thực hiện được. Theo các cụ cao niên kể lại ngày hội xưa ở làng Nghĩa Xá có hát chèo, hát nhà tơ, tổ chức đấu vật, thi chọi gà, chơi cờ tướng. Những cuộc vui này thường sẽ diễn ra trong dịp lễ thánh đản vào mùa xuân, khi con người có thời gian rỗi hơn vì vào dịp đầu xuân, đang kì nghỉ Tết. Đối với ngày lễ thánh hóa, thường rơi vào lúc mọi người còn đang mải đi làm, đi học không có thời gian dự hội được. Vì thế không có nhiều trò chơi dân gian được tổ chức trong dịp này là điều dễ hiểu.
Vấn đề con người đi dự hội cũng là một biến đổi đáng phải quan tâm. Lễ hội dân gian mặc dù vẫn mang ý nghĩa là ngày hội để nhân dân tham gia lễ bái thần linh, vui chơi giải tỏa căng thẳng, cân bằng đời sống tâm linh. Nhưng sự phổ biến, tầm phổ quát của lễ hội truyền thống dường như đã thu hẹp lại chỉ còn ở một một bộ phận dân chúng, ở đây là lớp người đã có tuổi trong cộng đồng. Khi vào dự hội Từ Nghĩa Xá, chúng tôi dễ dàng nhận ra sự vắng bóng của các bạn trẻ. Không kể đến phần đám rước, nơi mà có nhóm các bạn Đoàn viên trong phường tham gia góp sức. Phải chăng thế hệ trẻ đã bỏ qua mất thời điểm thiêng của cộng đồng? Thực chất, trong một thế giới như hiện nay khi có quá nhiều việc phải làm, phải quan tâm thì một bộ phận bỏ quên cái hiện hữu là điều không tránh khỏi. Nhưng văn hóa truyền thống không phải là thứ dễ dàng mất đi, mà nó vẫn tàng ẩn trong cộng đồng, khi con người đến thời điểm nhận thức được sự tồn tại của nó thì lại tôn vinh. Chúng tôi tin rằng, ngày hôm nay trong buổi lễ hội làng có bạn trẻ nào đó không đi xem hội, nhưng tới khi họ đến cái tuổi như người ông, người bà của họ ngồi trên hàng ghế dự hội kia, chắc chắn rồi họ lại kế tục những gì tiền nhân đã làm. Có thể người trẻ họ không đi hội, nhưng khi ông bà, cha mẹ họ mang về gói lộc thánh, tờ công đức ghi danh của chính họ do cha mẹ làm cho thì họ vẫn tồn tại ý thức về vị thần làng, về thế giới tâm linh bao bọc quanh thế giới vật chất họ đang sống. Xét cho cùng, lễ hội được tổ chức hàng năm là sinh hoạt văn hóa mà phải lấy lớp người cao tuổi trong cộng đồng làm trung tâm bởi từ những con người này mà các giá trị truyền thống mới được đem ra thực hành, từ đó trao truyền cho thế hệ mai sau.
Từ đây, có thể thấy rằng, lễ hội dân gian truyền thống khi đặt trong một bối cảnh xã hội như ngày nay sẽ không tránh khỏi có những thay đổi để phù hợp với diện mạo của thời đại. Biến đổi giúp cho sinh hoạt văn hóa này đi vào đời sống của con người trong xã hội hiện đại, để làm sao vừa ghi nhớ truyền thống ông cha, vừa đưa hơi thở thời đại vào trong nó. Khóa luận: Giải pháp khai thác di tích của Phạm Tử Nghi
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>>> Khóa luận: Sự phát triển kinh tế và việc hưởng thụ văn hóa
Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com