Tiểu luận: Tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế trên thế giới

Chia sẻ đề tài Tiểu Luận: Tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế trên thế giới cho các bạn đang chuẩn bị làm bài tiểu luận cùng nhau tham khảo nhé. Tiểu luận môn học là một trong những yêu cầu bắt buộc của các trường đại học, và Cao Học. Đối với sinh viên hay học viên tất cả các khóa học đều bắt buộc phải làm một bài tiểu luận, với đề tài bắt buộc hoặc là một đề tài cụ thể nào đó ví dư như đề tài: Tiểu Luận: Biện pháp phòng chống về tham nhũng và vấn đề tụt hậu xa hơn về kinh tế các bạn cùng tham khảo đề tài tiểu luận dưới đây nhé.

1. Tình trạng một số nước trên thế giới

1.1. Tandania:

Thực trạng tham nhũng không bắt đầu với việc giành độc lập từ sự thống trị của thực dân, mà nó cũng không phản ánh một khuynh hướng của châu Phi về hành vi sai như đôi khi người ta vẫn cho là thế. Trên thực tế, tham nhũng và sự thiếu vắng tinh minh bạch trong chính phủ được ghi nhận là những đặc điểm của sự thống trị thực dân ở Tandania, cũng như tình trạng chung trên toàn châu Phi. Trách nhiệm đối với người dân địa phương, gần như chắc chắn là thiếu vắng trong suốt thời kỳ thuộc địa. Chính phủ có tính chất đàn áp và nó nhận được quyền lực từ sự ưng thuận của những người bị cai trị.

Nền độc lập của Tandinia năm 1964 không thông báo sự gia tăng rõ rệt của các thông lệ tham nhũng. Trong những năm qua ngay sau độc lập, tham nhũng có chiều hướng bị hạn chế trong những quan chức cấp thấp. Tham nhũng chưa tràn lan tới những cấp cao hơn trong khu vực công chức và tác động của nó vẫn còn đủ nhẹ để không làm xói mòn hiệu quả tổng thể của khu vực công chức Nhà nước. Sự tồn tại về bộ luật về ban lãnh đạo xã hội chủ nghĩa và cam kết mạnh mẽ của tổng thống đấu tranh chống tham nhũng, kết hợp với mức lương trả cao cho công chức nhà nước và tốc độ tăng trưởng kinh tế vững chắc, đã giúp cho việc hạn chế tình trạng tham nhũng quá quắt và kiểm soát ở mức độ lớn hơn những hành vi tồi tệ. “Tiểu luận: Tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế trên thế giới”

Tuy nhiên, cuối những năm 1960 và những năm 1970 là thời kỳ bắt đầu suy giảm mạnh và phải trả giá đắt về các phương diện hiệu quả tính chuyên nghiệp và sự toàn vẹn của dịch vụ công cộng của Tandania. Nhiều nhân tố kết hợp lại đã tạo ra một môi trường thích hợp cho sự phát triển và tràn lan của tham nhũng trên quy mô lớn. Người ta cho rằng một trong các nguyên nhân quan trọng nhất của tình trạng lan tràn tệ nạn tham nhũng trong những năm 1970 là chương trình xây dựng chủ nghĩa xã hội được đề xướng trong tuyên bố chính thức Arusha tháng 2 năm 1967 và theo đó là sự bành trướng của nhà nước trong hầu như mọi khu vực đời sống ở Tandania. Khu vực công cộng ở Tandania phát triển với tốc độ nhanh, buộc vai trò của khu vực tư nhân trong nền kinh tế tương ứng phải thu hẹp. Từ năm 1966-1979 con số các cơ quan, tổ chức công cộng ở Tandania tăng từ 43 lên 380.

Trên thực tế, công cuộc quốc hữu hoá các tập đoàn tư nhân vào năm 1967 đã khiến chính phủ trở thành người thuê nhân công lớn nhất và duy nhất trong đất nước, liên quan tới tất cả các lĩnh vực từ bán lẻ cho tới xuất nhập khẩu, thậm chí là cả việc nướng bánh. Vì phạm vi quyền lực của chính phủ tăng lên, nên các bậc thang trong bộ máy công chức nhà nước và những cơ hội để cho các cá nhân quan chức đó khai thác quyền lực mới được thiết lập của họ để mưu lợi cá nhân cũng tăng theo. Và việc làm tăng gấp bội các thủ tục quan liêu phiền hà trong hầu hết mọi giao dịch với chính phủ đã gây ra những chậm trễ không cần thiết và những bảo bối về phía những người tiếp nhận những loại dịch vụ công cộng. Ngoài ra sự lan tràn của tham nhũng, được trợ lực mạnh mẽ bởi tình trạng suy giảm liên tục trong tăng trưởng trong những năm 1970, sự quản lý lệch lạc trong nội bộ nền kinh tế cũng phải chịu trách nhiệm một phần. Các chính sách của chính phủ thường bóp nghẹt tăng trưởng kinh tế. Trước tình trạng khủng hoảng ngày càng nặng nề thì sự giám sát và tính chịu trách nhiệm, đạo đức công chức nhà nước bắt đầu suy yếu, khiến cho nhiều nhân viên có ấn tượng rất sai lầm rằng họ không phải chịu trách nhiệm trước bất kỳ ai, và có quyền chỉ thực thi những nhiệm vụ của mình khi họ thấy là phù hợp. Điều đó làm tăng đáng kể những cơ hội cho sự lạm dụng quyền lực.

Và vấn đề này ngày càng nghiêm trọng trong những năm 1980 và bắt đầu những năm 1990. Những nỗ lực của chính phủ để hạn chế tham nhũng ở một mức độ lớn là không có hiệu lực. Chúng bao gồm chủ yếu việc ử lý những vụ việc riêng lẻ, giữa vô số tiếng kèn lệnh mà không nhằm tới bối cảnh tổng thể đã tạo điều kiện và kích thích tham nhũng lan tràn. Dù Chính phủ đã ban hành một số thông tư đưa ra các nguyên tắc chung cho các chiến lược phát hiện tham nhũng và những biện pháp để đảm bảo rằng các chính sách và thủ tục của khu vực công chức nhà nước sẽ phản ánh cao nguyên tắc và minh bạch và có trách nhiệm. Song vẫn bế tắc. Khi Tandania chuyển từ chế độ một đảng sang chế độ đa đảng vào giữa những năm 1990. Cả chính phủ lẫn công chúng đều giành sự quan tâm sâu sắc hơn cho vấn đề tham nhũng đặc biệt là ngay trong quá trình bầu cử cũng bị đặt vào tình thế nguy hiểm bởi các thông lệ tham nhũng.

Do đó cuộc chiến ở Tandania có thành công hay không vẫn là một dấu hỏi. Tuy nhiên, đối với Tandania thì rõ ràng đều kỳ vọng ở đó là rất lớn và không liên quan tới cái gì khác là những triển vọng phát triển của đất nước và nhân dân Tandania.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Tiểu Luận Môn

1.2. Uganda “Tiểu luận: Tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế trên thế giới”

Uganda ngày nay là một xã hội đang chuyển đổi, sau 2 thập kỷ nội chiến dữ dội, tham nhũng nghiêm trọng, mất ổn định và suy thoái kinh tế, giờ đây Uganda có vẻ như đang chuyển động hướng đến khôi phục lại sự tăng trưởng kinh tế và một nền dân chủ cao hơn. Giới báo chí giừo được tự do và ồn ào. Các cuộc bầu cử được tổ chức từ năm 1996, một bản Hiến pháp mới được ban hành vào T10/1995 sau vài năm tranh luận kịch liệt, một chương trình cải cách khu vực công cộng có ảnh hưởng sâu rộng đang được tiến hành. Những thách thức to lớn vẫn còn nằm ở phía trước. Một chính phủ minh bạch có trách nhiệm, là cơ sở cho việc xây dựng một nhà nước dân chủ chưa từng có trong lịch sử của đất nước Uganda độc lập. Từ thời kỳ thực dân sự áp bức và tham nhũng đã là đặc trưng rõ ràng của sự cai trị. Chính quyền thực dân Anh, không có trách nhiệm giải trình trước nhân dân Uganda và không điều hành công việc theo nguyên tắc công khai, minh bạch và trách nhiệm. Các chính sách thực dân cũng làm tăng thêm những căng thẳng xã hội và sắc tộc trong nước, từ đó góp phần khuấch động xung đột và sẽ xác định tính chất nền chính trị ở Uganda trong ba thập kỷ sau đó.

Kể từ khi giành độc lập, tháng 10 năm 1962, Uganda trở thành một đất nước độc lập, nhưng không hoàn toàn, với một nền văn hoá chính trị không thích hợp cho sự tồn tại của một hệ thống chính quyền công khai và dân chủ. Vào năm 1996 khi tổng thông mới Obate lên nắm quyền kéo theo đó là sự tăng lên nhanh chóng các đơn vị quốc doanh đã báo trước sự gia tăng của tệ nạn tham nhũng lan tràn khắp Uganda. Các hợp tác xã quốc doanh thâu tóm các tổ chức độc quyền chế biến và tiếp thị nông sản phẩm vốn đã nằm trong các công ty Châu Âu, cũng như hàng loạt các hoạt động chủ yếu trong cung cấp điện năng, sản xuất xi măng, và du lịch. Thậm chí trong một số trường hợp còn bị xếp vào loại “khu vực tư nhân” nhưng, các hợp tác xã này vẫn được nhà nước bao cấp và những người quản lý hợp tác xã do chính phủ bổ nhiệm. Với sự kiểm soát trực tiếp đối với giá cả của nhà sản xuất, thuế đánh vào các loại hàng hoá và dịch vụ, giấy phép xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ và vô số các loại giấy phép khác được đòi hỏi với ngay cả những khía cạnh trần tục nhất của cuộc sống hàng ngày, các đơn vị quốc doanh và các cơ quan và các cơ quan nhà nước khác đều ngả về phía tham nhũng. Và những năm sau đó sự tham ô và những hành động cướp đoạt trắng trợn không hề bị kiểm soát. Với chính sách trục xuất những người châu á không phải là công dân Uganda, tịch thu tài sản cá nhân và doanh nghiệp của họ rồi phân phát chúng cho giới quân nhân, những kẻ có thế lực và các đơn vị quốc doanh. Từ đó dẫn đến trong vòng chưa đến một thập kỷ, giá trị thực của tiền công, tiền lương bị mất đi đến 90% (do lạm phát). Cuộc khủng hoảng thu nhập được phản ánh qua sự xuất hiện của nền kinh tế song song, hay là kinh tế ngầm. “Tiểu luận: Tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế trên thế giới”

Công chức Uganda chiếm một tỷ lệ lớn trong những người làm công ăn lương và tỷ lệ lạm phát tăng vọt buộc nhiều người phải tìm kiếm những nguồn thu nhập phụ thêm. Một số hoạt động thậm chí còn rõ ràng là bất hợp pháp hơn. Các kho dự trữ do chính phủ sở hữu bị bán đi một cách kín đáo. Tài sản công được cung cấp cho việc sử dụng tư để đổi lấy một khoản kinh phí, và những khoản lại quả 10-15% trở thành thông lệ trên các bản hợp đồng ký với doanh nghiệp nước ngoài và trong các dự án viện trợ. Không mấy lo sợ về chuyện bị truy tố, các quan chức trao hợp đồng xây dựng các công trình công cộng cho những công ty tư nhân do chính bản thân họ đứng ra làm chủ hoặc thuộc sở hữu của gia đình, bạn bè họ.

1.3. Xiera Leôn

Ngày nay, đối với người dân Xiera Leôn thì tham nhũng là một cách để sống, bất chấp vô số sự thay đổi trong chính phủ, cả công dân lẫn quân sự, nạn tham nhũng và những hoạt động phi đạo đức đang hoành hành và lan tới tất cả các cấp chính quyền thì hầu như không có sự thay đổi. Trong cả khu vực công cộng lẫn khu vực tư nhân, những hoạt động phi đạo đức đã khiến cho các cuộc khủng hoảng kinh tế vốn đã nghiêm trọng và kéo dài của đất nước lại càng nghiêm trọng thêm. Kể từ những năm 1980, Xiera Leôn đã trải qua tình trạng suy thoái kinh tế và khắc nghiệt nhất trong lịch sử quốc gia này.

Nhiều người ở những vị trí có trọng trách đã đặt quyền lợi cá nhân của họ lên trên hết và đặt quyền lợi chung của đất nước xuống hàng cuối cùng. Thất bại liên tiếp của các chiến lược cải cách trước đây, ở một mức độ lớn là do sự thiếu hiểu biết về những căn nguyên và động lực của tham nhũng. Những biện pháp được sử dụng trước đây đều thiếu sự phối hợp, ý chí chính trị, sự lãnh đạo và sự tham gia của công chúng.

Năm 1992 Xiera Leôn đã thành lập các uỷ ban điều tra để nhận diện những quan chức nhà nước và doanh nhân, những người đáng lên án do cực kỳ thiếu trung thực, tắc trách và lạm dụng chức quyền để mưu lợi ích riêng. Các uỷ ban đã phanh phui vô số vụ tham nhũng móc nối chằng chịt, trong đó có cái gọi là cướp ngày của các chính khách và công chức nhà nước, trộm cắp và lừa đảo các bên ký hợp đồng của chính phủ và âm mưu của các doanh nghiệp nước ngoài, trong nước, của các nhà chính trị, công ty xuyên quốc gia. Những kẻ phạm tội này với phương thức cá nhân tập thể đã đục khoét tiền của, hàng hoá và dịch vụ của nhà nước. “Tiểu luận: Tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế trên thế giới”

Cho dù chính quyền đã bàn nhiều về tính minh bạch và trách nhiệm, nhưng cũng chẳng được bao nhiêu để biến những lời hứa cam kết thực sự nhằm phát hiện và trừng phạt những hành vi vô đạo đức. Chính phủ bị ngập trong những lời tố giác từ khắp nơi.

Và từ năm 1996, dân chúng Xiera Leôn đã bầu ra một cách dân chủ một chính phủ mà cũng giống như những người tiền nhiệm của nó, tuyên bố rằng, họ muốn chống tham nhũng và phục hồi tính toàn vẹn. Nhưng các cải cách đã gây thất vọng, một chính phủ phình to (45 bộ, thứ trưởng) trong 1 đất nước chưa đầy 5 triệu dân, một nền kinh tế teo dần làm cạn kiện các nguồn lực công cộng. Ngày 27 tháng 5 -1997, cuộc đảo chính ở Freeoun là lần cưỡng chế thay đổi chế độ thứ 3 thành công trong vòng 5 năm là cuộc đảo chính đẫm máu và tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử Xiera Leôn. Những người chiến đấu đã tuyên hứa sẽ hành động vì lợi ích của quốc gia. Họ đưa ra những lý do mang màu sắc dân tuý cho sự can thiệp: tham nhũng, chủ nghĩa thiên vị khu vực… Những động lực và hành nổi loạn gần như hoàn toàn mang tính tự thân và người ta đã gây ra sự tàn phá nặng nề trong những ngày sau tiếp quản. Quyền lực quân sự được áp đặt đối với người dân, làm cho nền kinh tế bị tê liệt. Và đầu năm 1998 trở về đây các lực lượng kinh tế đã can thiệp thành công để lật đổ quyền lực của chính phủ quân sự và dần dần đưa nền kinh tế Xiera Leôn về đúng quỹ đạo của nó là phát triển.

2. Khoảng cách về kinh tế giữa các nước trên thế giới “Tiểu luận: Tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế trên thế giới”

Theo “World Economic Outlook” của IMF trong thời gian 1900-2000. GDP toàn thế giới (theo giá hiện hành) tăng 19 lần so với những năm đầu thế kỷ XX, bình quân tăng 3,7%. Còn dân số thế giới tăng 4 lần. Sự gia tăng GDP và dân số thế giới ở thế kỷ XX gây ra nhiều nghi ngờ về khả năng ổn định ở khuynh hướng này. Đó là nhìn vào tổng thể còn nhìn vào các khía cạnh của nền kinh tế từng nước thì ta thấy sự chênh lệch rất lớn giữa các nước về kinh tế cùng với sự tăng trưởng của kinh tế thế giới.

Thực vật, các tài liệu tổng hợp tình hình phát triển kinh tế xã hội thế giới thế kỷ XX của IMF cho biết rằng trong 100 năm qua. GDP/người của 1/4 dân số giàu nhất thế giới tăng 6 lần và của 1/4 dân số nghèo nhất thế giới tăng 3 lần.

Những nước nghèo nhất thế giới (đầu thế kỷ XX) – 19000: gồm Gana, Ai Cập, Băng La Đet, ấn Độ và Trung Quốc, ngoài ra còn một số nước nữa ở Châu Phi, Châu á, Châu Mỹ. Còn những nước giàu nhất thé giới đầu thế kỷ 20 bao gồm những nước trong câu lạc bộ nhà giàu OEDC, Hungari, Tiệp Khắc (cũ). Như Bồ Đào Nha – GDP/người là: 1410 USD, cao nhất ở Anh: 4600 USD/người. Bình quân GDP/người của nhóm này đầu thế kỷ là 3200 USD. Những nước giàu nhất cuối thế kỷ XX gồm các nước đầu thế kỷ và thêm nhiều nước khác Achentina, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan. Trong đó thu nhập thấp nhất là ở Hungari – GDP/người là 2050 USD và cao nhất ở Mỹ – GDP/người là: 27270 USD và bình quân GDP/người của nhóm này năm 2000 là: 18.000 USD. “Tiểu luận: Tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế trên thế giới”

Trong số các nền kinh tế lớn của thế giới ở đầu thế kỷ XX thì ấn Độ (diện tích 3,270 triệu Km2), dân số 1.005,3 triệu người) vẫn ì ạch trong cảnh đói nghèo: Brêdin (diện tích 8.312 triệu Km2, dân số 169,6 triệu người) vẫn nằm trong khu vực các nước có thu nhập/người dưới trung bình của thế giới đầu và cuối thế kỷ XX. Thu nhập/người bình quân ở nhóm dưới trung bình của đầu thế kỷ 20 là 675 USD và cuối thế kỷ là 2400 USD. Nga (diện tích 17 triệu km2, dân số 147,2 triệu người) lại ở vào tình trạng bi đát hơn, từ nước có GDP/người (1220 USD) được xếp trên mức trung bình thế giới, cho đến năm 2000 bị tụt xuống nhóm nước có thu nhập dưới mức trung bình của thế giới – GDP/người của Nga năm 2000 là 3685.

Đến cuối thế kỷ 20 (năm 2000) GDP/người ở nhiều nước nghèo vẫn còn thấp hơn GDP/người ở các nước phát triển đầu thế kỷ 20 (năm 1900). Vid dụ, nếu GDP/người toàn châu Phi năm 2000 là 1290 USD (theo giá cả và sức mua của đồng nội tệ của mỗi nước năm 1995 – tính chuyển ra USD) thì GDP/người năm của các nước Tây Âu là 3090 USD, của các nước dân Châu Âu nhập cư (Mỹ, Canada, Oxtraylia, Niu Dilân) là 4020 USD.

GDP/người ở Châu Phi vào năm 1990 là500 USD, nghĩa là thấp hơn 9,2 lần GDP/người của Anh. Còn đến năm 2000, chỉ tiêu này của châu Phi thấp hơn của Mỹ – nước giàu nhất thế giới từ năm 1900 đến nay – là 20 lần (GDP/người của Mỹ năm 2000 là 27.270 USD).

Nếu dùng GDP/người để so sánh mức độ bình đẳng về thu nhập giữa các nước và khu vực trong khi kinh tế ngày càng phát triển, của cải xã hội ngày càng gia tăng, thì có thể nói rằng, nét nổi bật nhất của nền kinh tế thế giới thế kỷ 20 là khoảng cách thu nhập giữa giàu và nghèo giữa các nước và các khu vực ngày càng doãng ra và tỷ lệ theo thời gian.

Bảng trên cho thấy rằng, trong thời gian 1870 – 1900 (thời kỳ vàng son cổ điển) GDP/người ở những nước độc lập của Mỹ latinh, đặc biệt là ở những nước có dân châu Âu nhập cư (Mỹ, Canada và Niu Dilân) dần dẫn đuổi kịp Anh Châu Phi và Châu á (trừ Nhật) mãi sau thế chiến thứ 2 mới dần dần thoát khỏi ách đô hộ của thực dân, cho nên bị mất bình đẳng trong quan hệ kinh tế và thương mại với các nước đế quốc, do vậy GDP/ người của các nước ở khu vực này thua xa Anh và Mỹ suốt 30 năm cuối thế kỷ XIX cho đến năm 2000. Tuy nhiên , thời gian 1870 – 1900 là thời kỳ thương mại va vốn được di chuyển tương đối dễ dàng qua các biên giới góp phần thúc đẩy giao lưu hàng hoá, phát triển sản xuất, làm cho GDP bình quân năm trong thời gian này của thế giới tăng 1,5%. “Tiểu luận: Tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế trên thế giới”

Tiếp theo là thời kỳ đại khủng hoảng kinh tế thế giới và 2 lần chiến tranh thế giới. ở thời kỳ này, thương mại thế giới và các dòng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế bị suy giảm, làm GDP/ người toàn thế giới bị suy giảm dần và thua xa Mỹ: Thời kỳ khôi phục kinh tế sau thế chiến thứ 2. Cho đến năm 1973 GDP các nước Tây Âu, Nhật tăng nhanh gần đuổi kịp Mỹ về GDP/ người: Đông Âu và Liên Xô, mặc dù thua các nước OECD về phát triển kinh tế, nhưng GDP/ người cùng đang có chiều hướng đi lên. Mỹ Latinh và Châu á (trừ Nhật, Trung Quốc) GDP/ người về cơ bản vẫn tăng chậm, Châu Phi lại càng thấp hơn, GDP/ người ngày càng thua xa Mỹ.

Sau năm 1973 đến năm 2000 một số nước Châu á , trong đó phải kể đến Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo và Malaixia bước vào thời kỳ hưng thịnh, kinh tế phát triển liên tục, ổn định cho tới trước cuộc khủng hoảng thị trường tài chính Châu á (trước tháng 7 năm 1997). Còn Mỹ Latinh và Châu Phi trong thời kỳ kinh tế vẫn tăng trưởng chậm.

8 năm cuối cùng của thế kỷ XX là thời kỳ kinh tế Mỹ tăng trưởng liên tục và ổn định cho tới tháng 3 năm 2001, thời kỳ kinh tế Mỹ có dấu hiệu bị trì trệ. Đây cũng là thời kỳ Đông Âu và nước Nga đang trong thời kỳ chuyển đổi từ chế độ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, cho nên GDP/ người ở khu vực này thua xa các nước OEDC và lại càng thua xa Mỹ.

Và vào thời điểm chuyển giao giữa hai thiên niên kỷ, Mỹ nổi lên như là siêu cường số 1 thế giới cả kinh tế lẫn quân sự. Câu hỏi đặt ra là trong các thập kỷ đầu của thiên niên kỷ mới liệu Mỹ có duy trì được vai trò đầu tầu trong nền kinh tế thế giới. Liệu các nước EU có vượt Mỹ không? Đông á có trở thành trung tâm kinh tế năng động của nền kinh tế thế giới không? Đó là những mục tiêu và là thách thức đối với tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển trong các thập kỷ tới.

Các trung tâm khoa học kinh tế lớn đã đưa ra nhiều dự báo mang tính định lượng và định tính về nền kinh tế thế giới trong các thập kỷ đầu cảu thế kỷ XXI. Nhìn chung các dự báo đều đánh giá triển vọng, khả quan của nền kinh tế thế giới với mức tăng trưởng bình quân 3% /năm trong giai đoạn 1990 – 2010 và 3,3% cho giai đoạn 1996 – 2010. Còn các dự báo của các nhà kinh tế Nga là trong thời kỳ 2001 – 2005: 4,4%/năm, còn giai đoạn 2006 – 2010 là 4,6%/năm. Và sự tăng trưởng này phù hợp với chu kỳ dài hạn của nền kinh tế thế giới. “Tiểu luận: Tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế trên thế giới”

3. Những vấn đề tồn tại, khó khăn trong việc rút ngắn tụt hậu xa hơn về kinh tế

Tăng trưởng cao nhưng chất lượng thấp. Nói đến tăng trưởng là nói đến hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế ở 3 cấp: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia.

Tăng trưởng kinh tế góp phần giảm số người nghèo đói, nhưng khoảng cách giàu nghèo tăng. Có 2 yếu tố giúp cho Việt Nam thành công trong việc giảm nghèo đói trong thời kỳ 1993 – 1998 là tỷ lệ tăng trưởng cao, nhiều nguồn lực cho tăng trưởng được huy động tích cực trong việc giảm nghèo đói. Hơn 10 năm qua, mức sống của đại đa số tầng lớp dân cư được nâng lên. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 58% xuống 37% thời kỳ 1993 – 1998. Tuy nhiên chênh lệch giàu nghèo tăng ở các vùng, các tầng lớp dân cư. Quá trình phân tầng xã hội hiện nay đang hình thành có nhiều đặc điểm khác trước. Theo số liệu điều tra, mức sống dân cư năm 1998 của tổng cục thống kê thì chênh lệch mức sống thể hiện qua mức chi tiêu giữa nhóm 20% số dân giàu nhất và 20% số dân nghèo nhất tăng từ 4,58 lần trên 5,52 lần trong thời kỳ 1993 – 1998. Chênh lệch về thu nhập giữa 2 nhóm này cũng tăng từ 7 lần đến 11,3 lần trong cùng thời kỳ. Đặc biệt nếu chỉ xét 10% dân số giàu nhất và 10% dân số nghèo nhất thì mức chênh lệch lên tới 20 lần vào năm 1998. Do đó 20% số người giàu nhất hiện tại chiếm 45,2% tổng thu nhập xã hội và 20% số dân nghèo nhất chỉ chiếm chưa tới 8,6%. “Tiểu luận: Tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế trên thế giới”

Phần lớn số người giàu có việc làm trong các cơ quan Nhà nước, tham gia các hoạt động kinh tế chính trị và làm việc trong các doanh nghiệp nước ngoài. Còn số người nghèo đói chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn. Số chiếm tới 90% số người nghèo của các nước. Do vậy với đà của tăng trưởng kinh tế thì hậu quả là chênh lệch về mức sống giữa khu vực nông thôn và thành thị vẫn tiếp tục tăng. Nó lại là khó khăn trong việc phát triển kinh tế.

Chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, nguy cơ tụt hậu xa hơn còn lớn. Tiêu hao vật chất và xuất vốn trong đơn vị sản phẩm còn quá lớn. Xuất đầu tư cho xây lắp công trình tăng nhanh hơn tỷ lệ lạm phát : 10 – 15%. Năng suất lao động còn thấp đặc biệt là trong khu vực nông nghiệp, ngành chiếm hơn 70% lao động ở nước ta. Kinh tế quốc doanh đã sắp xếp một bước nhưng hậu quả của việc phát triển lan tràn trong thời kỳ bao cấp vẫn chưa khắc phục hết. Tình trạng nợ nần dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn nhau khá phổ biến, nhiều doanh nghiệp không có khả năng thanh toán. Trong khi đó nhà nước không kiểm soát được chặt chẽ các hoạt động của doanh nghiệp gây thất vọng lớn về vốn, về tài sản quốc gia, tạo ra sự chênh lệch quá lớn về thu nhập không chính đáng giữa các xí nghiệp, giữa các vùng, các ngành.

Ngoài ra còn vấn đề bảo hộ sản xuất trong nước. Chủ trương bảo hộ một cách có chọn lọc, trong thời hạn nhất định, đối với một số ngành sản xuất trong nước là đúng đắn. Song việc thực hiện trong thực tế lại chưa có hiệu quả và có nhiều ý kiến khác nhau về chủ trương này. Với việc ngày càng mở rộng thị trường và việc chuẩn bị tích cực để thích ứng với đòi hỏi của tự do hoá mậu dịch, thì việc bảo hộ nhiều sản phẩm sẽ là một cản trở lớn. Ngoài ra tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước về mua, bán trên một lĩnh vực sản xuất kinh doanh còn rất nặng nề, như trong ngành điện, bưu chính viễn thông, xi măng, xăng dầu và một loạt những sản phẩm dịch vụ khác. Thêm vào đó hệ thống thuế ở nước ta dù được cải tiến thường xuyên bổ sung sửa đổi song vẫn còn nhiều yếu kém, chưa phù hợp với nề kinh tế thị trường, vẫn còn tồn tại nhiều thuế suất khác nhau với khoảng cách quá lớn làm cho hệ thống thuế trở lên quá phức tạp và tạo điều kiện thuận lợi cho sự lạm dụng kẽ hở trong áp dụng thực tế. “Tiểu luận: Tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế trên thế giới”

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464