Tiểu luận: Một số biện pháp kiềm chế tham nhũng

Chia sẻ đề tài Tiểu Luận: Một số biện pháp kiềm chế tham nhũng và tránh tụt hậu xa hơn về kinh tế cho các bạn đang chuẩn bị làm bài tiểu luận cùng nhau tham khảo nhé. Tiểu luận môn học là một trong những yêu cầu bắt buộc của các trường đại học, và Cao Học. Đối với sinh viên hay học viên tất cả các khóa học đều bắt buộc phải làm một bài tiểu luận, với đề tài bắt buộc hoặc là một đề tài cụ thể nào đó ví dư như đề tài: Tiểu Luận: Biện pháp phòng chống về tham nhũng và vấn đề tụt hậu xa hơn về kinh tế các bạn cùng tham khảo đề tài tiểu luận dưới đây nhé.

1. Một số bài học của các nước trên thế giới

1.1. Kinh nghiệm của Hồng Kông

Hồng Kông đã gặt hái được rất nhiều thành công bằng một cuộc cách mạng thầm lặng đó là cuộc cách mạng đã làm thay đổi các suy nghĩ và tình cảnh, và tạo nên những kết quả rực rỡ. Đó là năm 1974 đã thành lập uỷ ban độc lập chống tham nhũng (ICAC). Cơ quan này đã kiểm soát rất tốt tình trạng tham nhũng. Ngoài ra thái độ của dân chúng đối với tham nhũng cũng thay đổi rõ rệt với quan điểm thịnh hành coi tham nhũng là xấu xa và có tính phá hoại. Trong cuộc điều tra năm 1994 có tới 63% số người sẵn sàng tố cáo tham nhũng nếu họ gặp phải và 2,9% số người nói là dung thứ cho tham nhũng.

Ngoài ra khu vực tư nhân (hay thương mại) không những ý thức được mối nguy hiểm của tham nhũng mà còn sẵn sàng làm một điều gì đó về vấn đề này. Con số các tổ chức thuộc khu vực tư nhân tìm kiếm sự hướng dẫn của ICAC trong việc cải thiện kệ thống của họ nhằm chống tham nhũng đã tăng lên.

Vào tháng 5 năm 1994, ICAC bắt đầu chiến dịch đạo đức kinh doanh chỉ sau hơn 18 tháng, hơn 1200 công ty có niêm yết trên thị trường chứng khoán hoặc công ty tư nhân lớn và các hiệp hội thương mại đã thông qua một tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp công ty, trong lúc 670 công ty và hiệp hội đang tích cực soạn thảo. Từ những thành công đó thì nguyên nhân từ đâu. Đó là việc nhận rõ vấn đề và cam kết giải quyết, một cơ quan chống tham nhũng không thể chê trách, một chiến lược lâu dài và được tổ chức tốt, quan tâm tới tất cả các báo cáo về tham nhũng, thiết lập những điều kiện hợp lý và tính bảo mật cho những người báo cáo về những vi phạm.

1.2 Kinh nghiệm của Singapo “Tiểu Luận: Một số biện pháp kiềm chế tham nhũng”

Năm 1951. Cục điều tra hoạt động tham nhũng (GPIB) ra đời để ngăn chặn tình trạng này ở Singapo. Năm 1959, khi Singapo giành được chính quyền độc lập, tham nhũng đang hoành hành ở tất cả các khu vực công cộng. Tham nhũng liên kết đặc biệt phổ biến với các quan chức thi hành luật, trả tiền cho các dịch vụ là một sự “bắt buộc” và hối lộ họ là quy tăc.

Có một số vấn đề dần đến tình trạng này. Thứ nhất, các luật ngăn chặn tham nhũng rất yếu. Những người vi phạm không bị tịch thu tài sản và các nhân viên của GPIB không đủ quyền lực cưỡng chế thi hành nhiệm vụ của mình. Thứ 2, thu thập bằng chứng rất khó khăn do sự yếu kém của luật pháp chống tham nhũng và do thực tế có nhiều công chức nhà nước thường xuyên dính líu đến các hoạt động tham nhũng. Thứ 3, dân chúng nói chung có trình độ học vấn thấp. Họ hầu hết là dân di cư, những người đã quen với sự đối xử không công bằng của quan chức nhà nước. Họ đã phục tùng những người có quyền lực và không dám tố cáo sợ bị trả đũa. Họ không biết về các quyền của mình và cách duy nhất họ biết để có được mọi thứ là bằng con đường hối lộ. Thứ tư, công chức nhà nước được trả lương thấp hơn công nhân ở khu vực tư nhân, và kết quả là sự chính trực của họ bị giảm sút. Và cuối cùng, các nhân viên của CPIB được lấy từ lực lượng cảnh sát Singapo để biệt phái trong thời gian ngắn. Vì vậy, họ không được chuẩn bị đầy đủ về tâm lý để cống hiến hoàn toàn cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng.

Từ những thực tế trên, ta có thể nhận thấy hết được những khó khăn trong việc chống tham nhũng ở Singapo. Nhưng sau khi giành chính quyền các nhà lãnh đạo chính trị mới ngay lập tức đã thể hiện những tấm gương mẫu mực của công chức nhà nước. Họ đã tự thoát khỏi các ràng buộc về tài chính và thương mại, thể hiện một đạo đức nghiêm minh trong công việc. Vì vậy bằng tấm gương của chính bản thân họ đã tạo ra một tin tưởng về sự trung thực và chính trực. Các nhà lãnh đạo mới cũng đã bắt đầu thực hiện những biện pháp xử lý ban đầu. “Tiểu Luận: Một số biện pháp kiềm chế tham nhũng”

Năm 1960, luật đã được sửa đổi nhằm trao thêm quyền lực cho các nhân viên CPIB và gia tăng hình phạt đối với kẻ vi phạm.

Năm 1973, theo sự tư vấn của thủ tướng chính phủ về việc làm thế nào để CPIB có thể gia tăng các nỗ lực của mình để loại bỏ tham nhũng trong các khu vực dịch vụ công cộng, uỷ ban tư vấn chống tham nhũng ACAC đã được thành lập. Chức năng chính của nó bao gồm việc đưa ra các hướng dẫn cho các bộ, ngành và các cơ quan khác của chính phủ để xử lý các việc tham nhũng đảm bảo tiến hành các biện pháp mạnh mẽ, nhất quán.

Năm 1989, đạo luật về tham nhũng (tịch thu các lợi ích) ra đời. Đạo luật này cho toà án quyền tịch thu các nguồn tiền khi một người bị buộc tội là tham nhũng. Không thể giải thích một cách thoả đáng về những khoản tiền đó. Nó cũng cho phép tịch thu những lợi ích nhận được từ tham nhũng.

Ngoài ra, những quy định bảo vệ của hiến pháp, những biện pháp đối với công chức tham nhũng. Các quan chức tham nhũng họ được xử lý theo 2 cách: bị buộc tội trước toà hoặc bị quy về trách nhiệm hành chính rất nặng.

Việc liên kết với các tổ chức bên ngoài cũng rất thành công. Chức năng tham nhũng không chỉ thuộc về một mình CPIB mà thuốc cả các bộ, ngành tương ứng của chính phủ và nhiều cơ quan khác có thể đảm nhiệm được.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Tiểu Luận Môn

2. Biện pháp của Đảng và nhà nước ta về phòng chống tham nhũng

Những năm qua, cuộc đấu tranh chống tham nhũng tuy chưa đạt kết quả như mong muốn, nhưng rõ ràng từ các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, văn bản pháp luật nhà nước, qua phát hiện thanh tra, kiểm tra và xử lý…nhận thức của cán bộ và nhân dân về cuộc đấu tranh này ngày một nâng cao. Các cơ chế chính sách, quy định ngày được ban hành đồng bộ và phù hợp hơn, đã cảnh báo và từng bước khắc phục sơ hở mà kẻ tham nhũng lợi dụng. Việc tiến hành kê khai nhà đất và tài sản đối với cán bộ có chức vụ, tuy đang còn mang tính hành chính, nhưng cũng có ý nghĩa đề cao tinh thần tự giác và tinh thần kỷ luật Đảng, góp phần răn đe, giáo dục, phòng ngừa. Kết quả rõ nhất là qua các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết đơn, thư khiếu tố của công dân, các cơ quan chức năng đã thu hồi được tài sản bị thất thoát và xử lý những người tham nhũng. Tất nhiên so với mong muốn thì còn xa mới đạt so với yêu cầu còn nhiều bất cập. Nhưng một sự thật không thể phủ nhận là nếu không có thanh tra, kiểm tra và xử lý kiên quyết thì tham nhũng còn ngang nhiên đến mức nào. “Tiểu Luận: Một số biện pháp kiềm chế tham nhũng”

Hiện nay tham nhũng, tiêu cực vẫn còn diễn biến phức tạp, với những thủ đoạn cực kỳ tinh vi. Nó không chỉ diễn ra trong lĩnh vực kinh tế mà các loại hoạt động đấu thầu xây dựng, đầu tư, tín dụng, đất đai, ngân sách… mà còn diễn ra ở lĩnh vực như chạy chức quyền, chạy việc làm, chạy bằng cấp, chạy tội… trong các hoạt động giáo dục, y tế, bảo vệ pháp luật… tình trạng vòi vĩnh tinh vi sách nhiễu, gây phiền hà trong một bộ phận công chức khi thi hành công vụ ở các cấp đang gây bất bình nhức nhối trong nhân dân. Nghị quyết trung ương 4 khoá IX đã nêu 6 nguyên nhân của tham nhũng rất đúng. Đấu tranh chống tham nhũng tiêu cực là một cuộc chiến thực sự trên mặt trận đầy khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải kiên quyết, khẩn trương và bền bỉ, phối hợp nhiều biện pháp đồng bộ và sự tham gia của toàn xã hội.

Các giải pháp mang tầm chiến lược của cuộc đấu tranh này là xây dựng trên phạm vi toàn xã hội lối sống lành mạnh, hoàn thiện cơ chế chính sách, cải cách bộ máy và thủ tục hành chính, đổi mới cơ bản chế độ tiền lương, kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật, tăng cường các cơ quan kiểm tra, kiểm soát đảm bảo nghiêm kỷ cương phép nước…

Nhưng trước mắt chính phủ cần thực hiện các biện pháp: xử lý dứt điểm các vụ việc nổi cộm, bức xúc. Những vụ án có liên quan đến cán bộ lãnh đạo, quản lý, dù ở cấp nào, đương chức hay nghỉ hưu hoặc chuyển công tác cũng phải được xem xét đầy đủ về trách nhiệm hình sự. Không một ai can thiệp trái pháp luật quá trình điều tra, truy tố, xét xử. “Tiểu Luận: Một số biện pháp kiềm chế tham nhũng”

Việc kê khai nhà đất, tài sản của cán bộ, công chức cần được sửa đổi, bổ sung các quy định theo hướng đề cao tự giác, trung thực và minh bạch về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Bản kê khai tài sản được coi là bản cam kết của cán bộ, công chức các đơn vị. Trường hợp nghi vấn có tài sản bất minh thì thủ trưởng các cơ quan, đơn vị yêu cầu người đó phải giải trình, từ đó xem xét kết luận xử lý. Khi cần thiết thì yêu cầu các cơ quan chức năng thẩm tra, xác minh để xử lý theo pháp luật.

Tình trạng dùng tiền của nhà nước, của tập thể để làm quà biếu, nhằm tranh thủ cán bộ lãnh đạo, quản lý, tham mưu… tìm kiếm cơ hội tiến thân tìm ưu ái cho đơn vị đầu tư, đấu thầu, ngân sách, lao động việc làm… đang trở thành tệ nạn xã hội. Do vậy, chính phủ yêu cầu các cấp, các ngành các đơn vị phải thực hiện nghiêm chỉnh quy định. Đối với những người cơ quan đơn vị tham nhũng thì cấp trên cũng phải chịu trách nhiệm liên đới. Bằng các biện pháp đấu tranh cơ bản nêu trên trong đấu tranh chống tham nhũng tiêu cực, chính phủ đang thực hiện tư tưởng chủ đạo của hội nghị trung ương 4 theo tinh thần nghị quyết đại hội IX của Đảng là “Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị ở các cấp từ các ngành từ trung ương đến cơ sở, gắn chống tham nhũng với chống lãng phí quan liêu, buôn lậu, đăc biệt là chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính.

Ngày nay khi Việt Nam tiếp vào nền kinh tế thị trường một cách thì tham nhũng lại diễn ra một cách rộng lớn và tinh vi hơn. Nó có thể xuất hiện ở bất kỳ ai có chức vụ và quyền hạn và ở bất kỳ nước nào. Tham nhũng làm cho đất nước chậm phát triển và nghèo đói. Tham nhũng là nguyên nhân chủ quan, cơ bản gây ra lãng phí tài sản của nhà nước và của toàn xã hội. Tham nhũng gắn liền với trốn thuế, giảm nguồn thu ngân sách nhà nước, nó làm lãng phí nguồn lực của toàn xã hội, tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh, làm cho các nguồn lực của xã hội bị phân bố kém hiệu quả, làm nản lòng các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tham nhũng làm băng hoại đạo đức, gây bất bình, mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước và pháp luật, làm thui chột tình thân ái, làm cho công lý bị đảo lộn, cái thiện sô cái ác “chân, mỹ, thiện” bị lãng quên, chạy theo đồng tiền và lợi ích vật chất, làm cho xã hội bất ổn, đe hoạ sự tồn vong của chế độ. Thấy rõ nguy cơ đe doạ của tham nhũng Đảng, nhà nước và toàn dân ta vẫn đang ra sức ngăn chặn và đẩy lùi quốc nạn này. Hội nghị trung ương 6 (lần 2) khoá VIII ra nghị quyết số 10 ngày 2/2/1999 về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong việc xây dựng Đảng. Trong đó nêu nhiệm vụ tập trung chỉ đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu có hiệu quả. “Tiểu Luận: Một số biện pháp kiềm chế tham nhũng”

Tháng 4 năm 2001, Đại hội lần thứ IX của Đảng quyết định về phải tiếp tục các nghị quýêt về xây dựng Đảng, nhất là nghị quyết trung ương 6 (lần 2) khoá VIII, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, lãng phí. Kết luận yêu cầu phải đi sâu thực hiện có nội dung cơ bản của nghị quyết, trong đó chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt, nhận rõ đây là cuộc đấu tranh khó khăn, quyết liệt, gắn liền với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc và được tiến hành bằng nhiều biện pháp đồng bộ thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật phòng chống tham nhũng như: pháp lệnh chống tham nhũng ngày 9 tháng 3 năm 1998 và được sửa đổi bổ sung ngày 28 tháng 4 năm 2000: Bộ luật hình sự; pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính; pháp lệnh cán bộ công chức; pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí… tham nhũng không chỉ còn ở phạm vi quốc gia, mà là hiện tượng phổ biến trên toàn thế giới. Vì vậy, Việt Nam đã ký công ước Liên hiệp quốc về chống tham nhũng tại hội nghị quốc tế ở Mêhicô ngày 11 tháng 12 năm 2003 và kế hoạch chống tham nhũng khu vực Châu á tại Philippin ngày 5 tháng 7 năm 2004.

Về giải pháp phòng và chống tham nhũng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đưa ra chiến lược 2001 – 2010: “Nghiêm trị những kẻ tham nhũng, vô trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; người lãnh đạo cơ quan để xảy ra tham nhũng cũng phải bị xử lý về trách nhiệm. Bảo vệ những người kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Thực hiện những biện pháp ngăn chặn tham nhũng, quan liêu; đổi mới và hoàn thiện thể chế, thủ tục hành chính, kiên quyết chống tệ cửa quyền, sách nhiễu, “xin- cho” và sự tắc trách, vô kỷ luật trong công việc. Cụ thể là các biện pháp sau:

Một là, các biện pháp phòng ngừa được áp dụng một cách thường xuyên và có tác dụng rộng khắp đến nhiều đối tượng. Khi đó nó sẽ ngăn chặn được mầm mống của nạn tham nhũng.

Hai là: Phòng ngưà tham nhũng sẽ làm giảm bớt tác hại rất nhiều nếu để tham nhũng xảy ra.

Ba là: Việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng nhiều khi đồng nghĩa với biện pháp đổi mới và cải cách mà chúng ta thực hiện theo yêu cầu chung của quá trình hoàn thiện bản thân bộ máy quản lý và phương thức điều hành, cơ chế quản lý nền kinh tế nói riêng, xã hội nói chung.

Trong hội nghị lần thứ tư ban chấp hành trung ương (khoá IX) đã đưa ra 10 biện pháp phòng chống tham nhũng bao gồm; 1: Tăng cường giáo dục chính trị với cán bộ Đảng viên; 2: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách; 3: Khẩn trương giải quyết những vụ nổi cộm trước mắt; 4: Kê khai nhà đất, cơ sở sản xuất kinh doanh của cán bộ công chức; 5: Nghiêm cấm việc lấy tiền của Nhà nước; 6: Thực hành tiết kiệm chống lãng phí; 7: Thực hiện đầy đủ nghiêm túc những điều Đảng viên không được làm; 8: Xử lý trách nhiệm với lãnh đạo để xảy ra các vụ tiêu cực, tham nhũng; 9: Hoàn thiện cơ chế dân chủ cơ sở; 10: Về tổ chức, chỉ đạo: ban bí thư đứng đầu là đồng chí Tổng bí thư trực tiếp chịu trách nhiệm chỉ đạo cuộc xây dựng chỉnh đốn Đảng và cuộc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng.

Nhưng để chống tham nhũng thành công ngoài các biện pháp trên, ta còn phải có những giải pháp đột phá trong việc: Đầu tư về lực lượng con người đề phòng và chống tham nhũng; đầu tư về vật chất để phòng và chống tham nhũng; và ba vấn đề cần bán và hóc búa nhất đó là: Chế độ tiền lương; chế độ thưởng và quy định pháp luật.

3. Biện pháp của Đảng ta trong việc tránh tụt hậu xa hơn về kinh tế “Tiểu Luận: Một số biện pháp kiềm chế tham nhũng”

Việc tránh tụt hậu xa hơn về kinh tế cũng đồng nghĩa với việc tăng trưởng kinh tế một cách toàn diện, để nâng cao đời sống của nhân dân và bắt kịp với đà phát triển của kinh tế toàn thế giới.

Chất lượng tăng trưởng do nhiều yếu tố tạo nên, nhưng năng lực cạnh tranh lại là yếu tố quyết định. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cần phải xoá bỏ cơ chế hỗ trợ kinh doanh độc quyền đã tồn tại trong nền kinh tế nước ta.

Xoá bỏ hệ thống giá độc quyền của nhà nước. Hiện tại hầu hết các loại nguyên vật liệu, hàng hoá tiêu dùng được điều tiết bởi cơ chế thị trường. Nới lỏng việc kiểm soát giá cả là một bước phải làm trong nền kinh tế thị trường.

Hình thành cơ cấu đa số hữu và tạo điều kiện cho cơ cấu này phát triển nhanh. Việc giảm tỷ trọng của sở hữu nhà nước đến mức cho phép sẽ tạo tác động tích cực cho sự phát triển.

Loại bỏ các rào cản hành chính đối với cạnh tranh. Đó là những hành vi lạm dụng quyền lực hành chính để hạn chế cạnh tranh bình đẳng.

Thứ hai: Khu vực tín dụng của Việt Nam hiện nay là do các ngân hàng quốc doanh thống trị, chiếm tới 3/4 thị phần tín dụng. Các ngân hàng quốc doanh đang gặp những vấn đề khó khăn, song không bị nhiều áp lực cạnh tranh, trừ sự cạnh tranh yếu ớt từ sự cạnh tranh của một vài ngân hàng tư nhân và ngân hàng cổ phần nước ngoài. Giải pháp của vấn đề là gia tăng cạnh tranh và chừng nào mà hệ thống ngân hàng Việt Nam còn chưa được cải cách thì Việt Nam còn gặp khó khăn trong việc thực hiện một hệ thống quản lý vĩ mô. “Tiểu Luận: Một số biện pháp kiềm chế tham nhũng”

Thứ ba: Như đã nói ở trên, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam còn chậm. Muốn đẩy nhanh quá trình này cần ưu tiên phát triển hợp lý các vùng. Cần đầu tư ở mức cao hơn cho các dự án chế biến nông – lâm – ngư nghiệp, dự án sản xuất hàng suất khẩu, dự án sử dụng công nghệ cao, khó khăn trong chuyển dịch cơ cấu không phải xuất phát từ nguồn vốn đầu tư, bởi vì vốn có thể vay được nhiều hơn nếu sử dụng hiệu quả và Việt Nam phải nỗ lực cải cách, cơ cấu lại các ngành công nghiệp. Cái khó chính là chuyển dịch cơ cấu lao động. Chỉ có con đường chuyển lao động nông thôn sang khu vực kinh tế và dịch vụ mới có thể thu hẹp được khoảng cách về phát triển và thu hẹp khoảng cách nhanh chóng.

Thứ tư: Theo báo cáo phát triển con người năm 2001, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chủ yếu do vốn đóng góp với tỷ trọng 78%, còn chỉ có 22% do năng suất kéo dài tình trạng này tăng trưởng của Việt Nam sẽ không bền vững. Do đó muốn có bước phát triển mới cần phải đầu tư nhiều hơn vào hoạt động nghiên cứu và phát triển.

Thứ năm: Tỷ lệ thất thoát vốn đầu tư hiện chiếm 30%. Thất thoát, lãng phí, tham nhũng đang làm nghèo đất nước, gia tăng xung đột xã hội giảm lòng tin của dân đối với Đảng và các cơ quan công quyền, làm nản lòng các nhà đầu tư. Nghiêm trọng hơn, gần đây xuất hiện sự cấu kết giữa các bọn gian thương, trục lợi, tội phạm với các cán bộ bảo vệ pháp luật, các vị lãnh đạo gây thiệt hại lớn cho tài sản nhà nước. Do đó vấn đề này cần được giải quyết một cách đúng đắn và triệt để.

Thứ 6: Hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương còn thấp. Để khắc phục tình trạng này cần phải chọn những cán bộ có năng lực thật sự thông qua kinh nghiệm và cống hiến của họ cho sự phát triển chứ không chỉ dựa vào bằng cấp và các chứng chỉ. “Tiểu Luận: Một số biện pháp kiềm chế tham nhũng”

Ngày nay trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, tiến tới năm 2020 là một nước công nghiệp. Thì Việt Nam phải nỗ lực phải tiến hành các chính sách công nghiệp hoá nhằm tạo sự chuyển đổi căn bản trong cơ cấu kinh tế xã hội. Điều đó nghĩa là Việt Nam đang phải thực hiện một sự chuyển đổi kép. Việc công nghiệp hoá để chuyển dịch sâu sắc và toàn diện cơ cấu nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, chiến lược này tỏ ra rất hứa hẹn trong việc xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nông thôn, mở rộng thị trường tiêu thụ, khắc phục tình trạng mất cân đối giữa các vùng, đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh, trữ lượng cao và bền vững; khắc phục sự tụt hậu kinh tế đưa Việt Nam thành nước công nghiệp sánh vai với các cường quốc trong khu vực.

Kết luận

Mỗi nước hay mỗi khu vực đều là sự tổng hợp đặc thù của lịch sử và văn hoá riêng, có hệ thống chính trị và những niềm tin riêng và đều ở vào một giai đoạn phát triển kinh tế và xã hội riêng của nó. Những gì có tác dụng chống tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế ở nơi này lại có thể không có giá trị ở nơi khác. Nhưng đôi khi kinh nghiệm gặt hái được trong cuộc chiến đấu lại là vấn đề hiện diện rộng khắp này có thể cung cấp sự hướng dẫn có một nơi khác.

Trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước ta hiện nay dù Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được rất nhiều thành tựu, nhưng những khó khăn ở tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế luôn là những nguy cơ tiềm ẩn, cần Đảng và Nhà nước ta luôn phải chủ động phòng ngừa và giải quyết. Để đất nước ta phát triển một cách toàn vẹn. Để Việt Nam được sánh ngang với các cường quốc năm châu. “Tiểu Luận: Một số biện pháp kiềm chế tham nhũng”

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464