Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Luận văn: Thực trạng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hồ Chí Minh dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo

2.1.1. Tổng quan pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo

Pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo với tính chất là các quy định, cơ chế, chính sách và cách thức can thiệp từ góc độ Nhà nước để hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, qua đó thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp khởi nghiệp. Đây chính là tổng thể các biện pháp về thể chế pháp luật, tài chính và phi tài chính nhằm giúp doanh nghiệp khởi nghiệp thành lập doanh nghiệp, quản trị doanh nghiệp, đào tạo nhân lực, nghiên cứu, phát triển ý tưởng, sản phẩm, tham gia thị trường và phát triển thị trường, trở thành những doanh nghiệp thực thụ, mang lại doanh thu cho chủ sở hữu và các nhà đầu tư.

Thành phần trước tiên và cũng quan trọng nhất của việc pháp luật quy định về hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo đó là chính sách của Chính phủ. Điều này không chỉ liên quan đến các lĩnh vực quan hệ trực tiếp với doanh nghiệp vừa và nhỏ hay tinh thần khởi nghiệp, mà đối với một phạm vi rộng các chính sách liên quan đến hệ thống thuế, các dịch vụ tài chính, viễn thông, giao thông, thị trường lao động, nhập cư, hỗ trợ công nghiệp, giáo dục và đào tạo, cơ sở hạ tầng và y tế. Phần lớn mối quan tâm của các Chính phủ liên quan đến chính sách doanh nghiệp nhỏ và chính sách khởi nghiệp là các dự án khởi nghiệp mạo hiểm, cộng với các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp khởi nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong tạo việc làm.

Theo khoản 2 Điều 17 Luật SME năm 2017, các nội dung mà doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo gồm được hỗ trợ bao gồm: Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

  • Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao công nghệ; hỗ trợ sử dụng trang thiết bị tại cơ sở kỹ thuật; hỗ trợ tham gia cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung; hướng dẫn thử nghiệm, hoàn thiện sản phẩm mới, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới;
  • Hỗ trợ đào tạo, huấn luyện chuyên sâu về xây dựng, phát triển sản phẩm; thu hút đầu tư; tư vấn về sở hữu trí tuệ; thực hiện các thủ tục về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng;
  • Hỗ trợ thông tin, truyền thông, xúc tiến thương mại, kết nối mạng lưới khởi nghiệp sáng tạo, thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo;
  • Hỗ trợ thực hiện thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ;
  • Trong từng thời kỳ, Chính phủ quyết định chính sách cấp bù lãi suất đối với khoản vay của doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo. Việc cấp bù lãi suất được thực hiện thông qua các tổ chức tín dụng.

Việt Nam đang hết sức quan tâm đến việc tạo điều kiện, đưa ra các chính sách hỗ trợ cho các Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo do đây chính là nơi khởi nguồn Đổi mới sáng tạo trong kinh doanh và cũng là cầu nối đưa các kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ vào thực tiễn cuộc sống. Phong trào KNST ở Việt Nam thời gian vừa qua đã bùng nổ và phát huy hết sức mạnh mẽ. Nhà nước cũng nhận thấy năng lực cạnh tranh quốc gia nằm ở chính các loại hình Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo khi các doanh nghiệp này có thể đưa ra những sản phẩm, dịch vụ mới có tính cạnh tranh về giá và chất lượng – điều mà chỉ có ở Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo. Theo đó, Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo nhận được sự ủng hộ đồng bộ từ tư tưởng, chủ trương của Đảng và các chính sách, quyết sách từ các cơ quan chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Điển hình như nội dung hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa Đổi mới sáng tạo đã được quy định trong Luật và một số Nghị định, Thông tư, Quyết định, Đề án được thiết kế nhằm thúc đẩy phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo trên cơ sở hình thành và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo, bền vững và thân thiện. Các văn bản, quy định pháp luật về hỗ trợ khuyến khích các Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo mới được xây dựng và ban hành trong một vài năm gần đây tại Việt Nam. Các văn bản pháp luật chính thức bao gồm:

  • Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 (số 04/2017/QH14);
  • Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/03/2018 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa;
  • Nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 11/03/2018 quy định chi tiết về đầu tư cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo; Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.
  • Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa;
  • Nghị định số 39/2019/NĐ-CP ngày 10/05/2019 về tổ chức và hoạt động của quỹ phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa;
  • Nghị định 55/2019/NĐ-CP ngày 24/06/2019 về hỗ trợ pháp lý cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Trước đó, một số cơ chế, chính sách, đã được Thủ tướng Chính phủ và các Bộ ngành, địa phương ban hành nhằm cụ thể hóa các quy định liên quan đến hỗ trợ phát triển các Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo

Một điểm nhấn nổi bật là việc chiến lược khởi nghiệp quốc gia được các Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo đánh giá cao. Cụ thể, chiến lược khởi nghiệp quốc gia được các doanh nghiệp tham gia đánh giá là phù hợp và hỗ trợ tích cực cho hoạt động của khởi nghiệp và kinh doanh của họ. Có đến 74,24% doanh nghiệp đánh giá các chính sách này phù hợp và hỗ trợ tích cực hoạt động khởi nghiệp. Điểm trung bình của yếu tố này là 3,38/5. Bên cạnh đó, đa phần các doanh nghiệp cũng đồng ý rằng, chiến lược khởi nghiệp quốc gia gắn kết chặt chẽ với các chính sách hỗ trợ sản xuất – kinh doanh khác nhà nước với 77,27% số Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo tham gia hài lòng và chấp nhận được. Tuy nhiên, 32,32% Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo cho rằng, chiến lược khởi nghiệp quốc gia chưa thực sự chú trọng vào lĩnh vực và nguồn nhân lực phục vụ khởi nghiệp, điểm đánh giá trung bình của yếu tố này chỉ đạt 3,12/5.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Du Lịch

2.1.2. Thực trạng pháp luật về điều kiện để doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo được nhận hỡ trợ

Như đã phân tích ở trên, pháp luật giới hạn các trường hợp Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo được nhận hỗ trợ. Theo đó, đối với Luật SME 2017 thì phải đáp ứng các điều kiện sau:

  • Là doanh nghiệp nhỏ và vừa: bao gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa, có lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và có tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng hoặc tổng doanh thu của năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng;
  • Có thời gian hoạt động không quá 05 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu;
  • Đối với công ty cổ phần thì chưa thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng.

Đối với một số lĩnh vực cụ thể, Điều 6 Nghị định 39/2018/NĐ-CP có những tiêu chí riêng dành cho các ngành nghề được xác định là doanh nghiệp nhỏ và vừa để được hỗ trợ. Cụ thể như sau:

Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 3 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng.

Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều này.

Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 50 người và tổng doanh thu của năm không quá 100 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 50 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều này.

Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và tổng doanh thu của năm không quá 200 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này.

Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 300 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này.

2.1.3. Thực trạng quy định pháp luật về hỗ trợ vốn Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Vấn đề về tài chính, vốn cho đến nay vẫn là vấn đề nóng bỏng nhất của khởi nghiệp Việt Nam. Trong khi đó, nguồn vốn hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm: Nguồn vốn tín dụng có hỗ trợ, bảo lãnh của Nhà nước, nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước; nguồn vốn hỗ trợ từ miễn, giảm thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất, tiền sử dụng đất và các khoản khác nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật; nguồn vốn hợp tác từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.

Việc xây dựng hành lang pháp lý, mở cửa cho các quỹ đầu tư nước ngoài (quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, các nhà đầu tư “thiên thần”, tạo cơ hội cho việc gọi vốn của các Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo. Ngoài ra, các chính sách đã được ban hành kịp thời nhằm đa dạng hóa hình thức huy động vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận nhiều hơn với hình thức huy động vốn hiện nay. Cụ thể:

  • Chính sách huy động vốn qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp theo hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp khi huy động vốn trên thị trường trái phiếu. Việc hoàn thiện chính sách này đã tác động tích cực đến vấn đề huy động vốn của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; Thị trường trái phiếu đã có sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp và cho thấy sự tăng trưởng rõ rệt cả về quy mô thị trường và số lượng.
  • Chính sách huy động vốn qua thị trường chứng khoán được xây dựng với nhiều nội dung đổi mới, phù hợp với thực tiễn phát triển. Hiện tại, khung pháp lý cho hoạt động của thị trường chứng khoán đã cơ bản hoàn thiện, góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, trở thành kênh huy động vốn trung, dài hạn cho doanh nghiệp.

Theo Nghị định 39/2019/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, kể từ 1-7-2019 doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo đáp ứng đủ điều kiện sẽ được vay vốn của quỹ này với thời hạn không quá 7 năm. Lãi suất cho vay trực tiếp chỉ bằng 80% mức thấp nhất lãi suất cho vay thương mại (tính theo 4 ngân hàng thương mại có vốn nhà nước lớn). Doanh nghiệp được vay đến 80% vốn đầu tư mỗi dự án, phương án. Tuy nhiên, mỗi doanh nghiệp không được vay quá 15% vốn điều lệ của quỹ. Theo đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo được vay vốn của Quỹ khi đáp ứng được các điều kiện như: có dự án, phương án sản xuất kinh doanh khả thi; bảo đảm nguồn vốn chủ sở hữu tham gia dự án, phương án sản xuất kinh doanh và phải đảm bảo đủ nguồn vốn để thực hiện dự án, phương án sản xuất kinh doanh.

 Còn doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành được vay vốn của Quỹ khi có dự án sản xuất kinh doanh khả thi, nằm trong khu vực địa lý của cụm liên kết ngành và có hợp đồng hợp tác, kinh doanh với doanh nghiệp khác trong cụm liên kết ngành hoặc cùng xây dựng sử dụng thương hiệu vùng. Doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia chuỗi giá trị được vay vốn của quỹ khi đáp ứng các điều kiện có dự án sản xuất kinh doanh khả thi, được triển khai để trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm của chuỗi giá trị. Hoặc, có hợp đồng hợp tác sản xuất kinh doanh với doanh nghiệp trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm của chuỗi giá trị. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Ngoài ra, nguồn vốn hỗ trợ sẽ dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị đáp ứng quy định tại Điều 6 Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và Điều 23 Nghị định số 39/2019/ NĐ-CP ngày 10/5/2019 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhu cầu vay vốn của Quỹ.

Thực hiện Đề án 844 của Chính Phủ, Bộ tài Chính ban hành Thông tư số 45/2019 vào ngày 19 tháng 7 năm 2019 về việc quản lý tài chính thực hiện đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”. Theo đó quy định cụ thể các nội dung và mức chi cho hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Bao gồm:

  • Tổ chức sự kiện ngày hội khởi nghiệp đối mới sáng tạo
  • Phát triển hoạt động đào tạo, năng cap năng lực và dịch vụ cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
  • Kinh phí phát triển cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
  • Hỗ trợ hoạt động truyền thông về khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
  • Hoạt động kết nỗi mạng lưới khởi nghiệp
  • Hỗ trợ đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo

Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời gian thu hồi vốn, khả năng trả nợ của doanh nghiệp và điều kiện cụ thể của từng dự án, phương án sản xuất kinh doanh, nhưng tối đa không quá 7 năm. Thời hạn ân hạn cho một dự án vay vốn trung và dài hạn tối đa là 2 năm. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

2.1.4. Thực trạng quy định pháp luật về ưu đãi tín dụng

Chính sách tín dụng của Nhà nước đã có nhiều thay đổi quan trọng, được điều chỉnh, sửa đổi cho phù hợp với biến động của nền kinh tế. Cụ thể, Chính phủ ban hành Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31 tháng 03 năm 2017 về tín dụng đầu tư của Nhà nước. Theo đó, khách hàng có dự án đầu tư thuộc ngành nghề hạ tầng kinh tế – xã hội; nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp được vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước không phân biệt địa bàn đầu tư.

Mức vốn cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước tối đa đối với mỗi dự án bằng 70% tổng mức vốn đầu tư của dự án (không bao gồm vốn lưu động). Thời hạn cho vay được xác định theo khả năng thu hồi vốn của dự án và khả năng trả nợ của khách hàng, phù hợp với đặc điểm sản xuất, kinh doanh của dự án (tuy nhiên, không quá 12 năm).

Cùng với các chính sách trên, chính sách tín dụng nhà nước cũng được sửa đổi nhằm phát huy tác dụng đối với những ngành nghề, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, chuyển dịch kinh tế, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh.

Đối với chính sách hỗ trợ tín dụng ưu đãi, doanh nghiệp khởi nghiệp phải có dự án, phương án sản xuất kinh doanh khả thi thuộc lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích của Nhà nước thông qua Quỹ bảo lãnh tín dụng cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tại Thông tư số 15/2019/TT-BTC ngày 18 tháng 03 năm 2019 hướng dẫn cơ chế tài chính cho Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc lĩnh vực ưu tiên nếu đáp ứng đủ điều kiện thì được vay vốn tại Quỹ với mức vay tối đa là 30 tỷ đồng, lãi suất vay 7%/năm, thời hạn vay tối đa 7 năm.

Các Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo là doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các ngành công nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp chế biến, chế tạo…; đáp ứng đủ các điều kiện:

  • Dự án đầu tư có hiệu quả, có khả năng hoàn trả vốn vay;
  • Có tối thiểu 15% vốn chủ sở hữu tham gia dự án đầu tư;

Tại thời điểm đề nghị bảo lãnh, không có nợ xấu tại các tổ chức tín dụng thì được Ngân hàng Phát triển Việt Nam bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ khoản vay của doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại (tối đa 85% tổng mức vốn đầu tư dự án) với thời hạn bảo lãnh theo thời hạn vốn. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Bên cạnh đó, nếu Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo đáp ứng về quy mô lao động hoặc nguồn vốn là doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc đáp ứng các tiêu chí cho vay của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thì sẽ được vay vốn ưu đãi từ quỹ này. Quỹ Đổi mới công nghệ Quốc gia thành lập theo Quyết định 1342/QĐ-TTg ngày 05/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ và thực tế đi vào hoạt động từ 8/1/2015 với vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng. Năm 2015, Quỹ đã chi 300 tỷ đồng hỗ trợ không hoàn lại với mức tối đa là 30% giá trị của dự án, các năm tiếp theo ngoài việc hỗ trợ không hoàn lại, quỹ cho vay từ 30-70% tổng kinh phí các hợp đồng chuyển giao của dự án công nghệ với các mức ưu lãi suất khác nhau, thấp hơn lãi suất vay từ các ngân hàng thương mại. Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia thành lập theo Nghị định số 122/2003/NĐ-CP ngày 22/10/2003. Quỹ cho vay không lãi suất đối với các dự án ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tạo ra trong nước và có tạo việc làm, thu nhập cho từ 500 lao động trực tiếp trở lên tại các cùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; cho vay với lãi suất bằng 70% lãi suất cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước trong từng thời kỳ đối với các dự án ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ khác; cho vay với lãi suất bằng lãi suất cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước trong từng hời kỳ đối với các dự án ứng dụng, chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đầu tư nước ngoài.

Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thành lập theo quyết định số 601/2013/QĐ-TTg ngày 17/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ và thực tế đi vào hoạt động ngày 22/4/2016 với số vốn điều lệ 2.000 tỷ đồng. Mức cho vay tối đa 70% tổng vốn đầu tư của dự án, phương án sản xuất kinh doanh (không bao gồm vốn lưu động), tối đa 30 tỷ đồng.

Đối với các Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo công nghệ, theo Điều 57 Luật Khoa học và Công nghệ số 29/2013/QH13 ngày 18/6/2013 quy định “doanh nghiệp ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, sức mạnh của sản phẩm, hàng hóa được quỹ của Nhà nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ tài trợ, cho vay với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất cho vay, bảo lãnh để vay vốn, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao được hưởng ưu đãi ở mức cao nhất theo quy định của pháp luật về công nghệ cao. Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ trong nước được hỗ trợ lãi suất vay vốn tại ngân hàng”. Như vậy, nhằm khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, các Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo ứng dụng và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu được vay vốn với lãi suất ưu đãi, được bảo lãnh vay vốn.

Song song các chính sách tín dụng trực tiếp từ phía Chính phủ, thông qua hệ thống Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam, nhiều chương trình, dự án tín dụng chính sách được thực hiện như: Chương trình cho vay phát triển kinh tế hộ gia đình; Hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn; Chương trình cho vay thương nhân hoạt động tại vùng kinh tế khó khăn miền núi… Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng chính sách được tiếp cận vay vốn để duy trì, phát triển, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

2.1.5. Thực trạng quy định của pháp luật về ưu đãi thuế

Chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp thành lập mới hoặc thực hiện các dự án đầu tư mới, trong đó tập trung vào đầu tư, phát triển khoa học và công nghệ, sản phẩm công nghệ cao, sản xuất năng lượng tái tạo, bảo vệ môi trường như: nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; ứng dụng công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển theo quy định của Luật Công nghệ cao; ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; đầu tư mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên phát triển theo quy định của pháp luật về công nghệ cao; đầu tư phát triển nhà máy nước, nhà máy điện, hệ thống cấp thoát nước; cầu, đường bộ, đường sắt; phát triển công nghệ sinh học; dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực bảo vệ môi trường… Các chính sách thuế được thiết kế hỗ trợ theo nhiều kênh: hỗ trợ trực tiếp, hỗ trợ gián tiếp, hỗ trợ theo địa bàn, hỗ trợ theo đối tượng…

Đặc biệt, tại các quy định của Nghị định 13/2019/NĐ-CP về doanh nghiệp khoa học và công nghệ, trong đó có nhiều chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này như miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước; ưu đãi tín dụng… Cụ thể, Nghị định mới nêu rõ sẽ miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo thuế thu nhập doanh nghiệp. Thu nhập của doanh nghiệp khoa học và công nghệ từ hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ được hưởng ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp như doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Bên cạnh đó, doanh nghiệp khoa học và công nghệ được miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước theo quy định của pháp luật về đất đai.

Nghị định mới cũng sẽ ưu đãi tín dụng cho doanh nghiệp khoa học và công nghệ thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và sản xuất kinh doanh theo quy định. Doanh nghiệp khoa học và công nghệ thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ, sản xuất, kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ được Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tài trợ, cho vay với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất vay và bảo lãnh để vay vốn. Đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ có tài sản dùng để thế chấp theo quy định của pháp luật được Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho vay với lãi suất ưu đãi hoặc hỗ trợ lãi suất vay tối đa 50% lãi suất vay vốn tại ngân hàng thương mại thực hiện cho vay. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Ngoài ra, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 214/2015/TT-BTC hướng dẫn cơ chế, chính sách ưu đãi về hỗ trợ ngân sách nhà nước, thuế và tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước theo quy định tại Quyết định số 1193/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Vườn ươm công nghệ công nghiệp Việt Nam – Hàn Quốc tại TP. Cần Thơ nhằm tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp hình thành và phát triển. Tại Điều 6 Nghị định này, ngoài các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, còn có các ưu đãi về thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và các ưu đã về tiền thuê đất.

Không chỉ dừng lại ở việc ưu đãi thuế, để hỗ trợ và khuyến khích sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân, các công cụ kế toán, kiểm toán cũng được Bộ Tài chính kịp thời hoàn thiện và triển khai áp dụng cho các doanh nghiệp theo hướng tiệm cận với chuẩn mực quốc tế về kế toán, kiểm toán. Đối với doanh nghiệp khởi nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ, các quy định về chế độ kế toán riêng cũng được nghiên cứu để ban hành đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế – tài chính và phù hợp với khả năng trình độ của người lao động trong doanh nghiệp. Theo đó, báo cáo tài chính của các doanh nghiệp siêu nhỏ được hướng dẫn đơn giản, gọn nhẹ giúp dễ dàng thực hiện, góp phần tiết kiệm chi phí kế toán và tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.

Ngày 28/12/2018, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 132/2018/TT-BTC hướng dẫn chế độ kế toán cho DN siêu nhỏ. Thông tư gồm 4 chương, 20 điều, hướng dẫn việc ghi sổ kế toán, lập và trình bày báo cáo tài chính của doanh nghiệp siêu nhỏ và có hiệu lực ban hành kể từ ngày 15/02/2019, áp dụng cho năm tài chính bắt đầu hoặc sau ngày 01/4/2019. Với những quy định mới đặc thù riêng đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ vừa và siêu nhỏ, Thông tư số 132/2016/TT-BTC được kỳ vọng sẽ giúp cho hoạt động kế toán của các DN siêu nhỏ đơn giản gọn nhẹ hơn. Các doanh nghiệp siêu nhỏ được ký hợp đồng với đơn vị kinh doanh dịch vụ kế toán để thuê dịch vụ làm kế toán hoặc dịch vụ làm kế toán trưởng theo quy định của pháp luật. Theo quy định Thông tư này, doanh nghiệp siêu nhỏ được tự xây dựng biểu mẫu chứng từ kế toán phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh của mình, đảm bảo rõ ràng, minh bạch, dễ kiểm tra, kiểm soát (trừ hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ). Đối với sổ kế toán, doanh nghiệp siêu nhỏ được tự xây dựng biểu mẫu sổ kế toán phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh của mình, đảm bảo rõ ràng, minh bạch, dễ kiểm tra, kiểm soát. Trường hợp doanh nghiệp siêu nhỏ không tự xây dựng được biểu mẫu sổ kế toán cho riêng đơn vị mình thì được áp dụng biểu mẫu và phương pháp ghi chép sổ kế toán hướng dẫn tại Thông tư.

Có thể thấy, từ năm 2004 đến nay, với việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về thuế, các chính sách ưu đãi thuế đối với DN có vốn đầu tư nước ngoài và DN đầu tư trong nước cơ bản được thống nhất và kiện toàn, góp phần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về thuế. Đây là giai đoạn cải cách thuế được triển khai khá toàn diện, triệt để thể hiện trong việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách thuế theo cơ chế kinh tế thị trường, tăng cường hội nhập với các nền kinh tế khu vực và thế giới.

2.1.6. Thực trạng các hình thức hỗ trợ khác Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp về các vấn đề khác gồm cơ sở vật chất, hạ tầng giao thông, chuyển giao khoa học công nghệ, đào tạo nhân lực, sở hữu trí tuệ thông qua việc hỗ trợ phát triển hệ thống vườn ươm công nghệ, các khu làm việc, nghiên cứu chung. Tổ chức các khóa đào tạo nhằm tạo điều kiện ban đầu để các doanh nghiệp khởi nghiệp có đủ phương tiện, thiết bị, hạ tầng để thực hiện dự án kinh doanh của mình với chi phí hợp lý nhất.

Điều quan trọng là cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa trong lĩnh vực tài chính, trọng tâm là lĩnh vực thuế, hải quan, kho bạc nhà nước, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, khuyến khích khởi nghiệp; Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc tổ chức thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ về cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển doanh nghiệp theo hướng: mở rộng ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa phương thức quản lý, mở rộng phạm vi hoàn thuế điện tử, hóa đơn điện tử và hệ thống hải quan điện tử… Thực tế, thủ tục hành chính vẫn đang là trở ngại đối với tất cả các doanh nghiệp nói chung và Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo nói riêng. Tuy nhiên, đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo vẫn còn ít nguồn lực, thiếu kinh nghiệm và kỹ năng nên sẽ gặp những khó khăn nhất định.

Ngày 24 tháng 6 năm 2019, Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2019/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo định nghĩa của khoản 1 Điều 3 Nghị định này, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là việc bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh thực hiện các hoạt động xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật cơ sở dữ liệu về pháp luật; xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao hiểu biết, ý thức và thói quen tuân thủ pháp luật, hạn chế rủi ro, vướng mắc pháp lý trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật. Định nghĩa ghi nhận và cụ thể hóa hai hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, đó là: Xây dựng, quản lý, duy trì cập nhật cơ sở dữ liệu về pháp luật và xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp luật.   Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

  • Liên quan đến cơ sở dữ liệu về vụ việc, vướng mắc pháp lý bao gồm:

Thứ nhất là các bản án, quyết định của tòa án; phán quyết, quyết định của trọng tài thương mại; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; quyết định xử lý vi phạm hành chính liên quan đến doanh nghiệp có hiệu lực thi hành và được phép công khai hoặc kết nối với cổng thông tin điện tử công khai các văn bản này; Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Thứ hai là các văn bản trả lời của Bộ, cơ quan ngang Bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với các vướng mắc pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong quá trình áp dụng pháp luật;

Thứ ba là các văn bản tư vấn pháp luật của mạng lưới tư vấn viên pháp luật đối với các vụ việc, vướng mắc pháp lý theo yêu cầu của doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Có thể thấy, nếu có thể thực hiện được trên thực tế, đây là cơ sở dữ liệu rất quý, là mỏ “vàng mười” cho doanh nghiệp. Bởi lẽ, doanh nghiệp sẽ rất dễ dàng tiếp cận được các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, bởi các văn bản này được công khai rất rộng rãi. Việc xây dựng và cung cấp đến doanh nghiệp các vụ việc và giải đáp các vướng mắc pháp lí một cách có hệ thống sẽ cho phép doanh nghiệp dự đoán trước được những hệ quả mà những hành xử của mình có thể mang lại, theo quy định của pháp luật. Việc đoán định trước được những hệ quả pháp lý sẽ giúp ích rất nhiều cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh trên thực tế.

  • Đối với chương trình hỗ trợ pháp luật cho doanh nghiệp nhỏ và vừa gồm có:

Hoạt động cung cấp thông tin, bao gồm thông tin pháp luật trong nước, thông tin pháp luật nước ngoài, pháp luật quốc tế, cảnh báo rủi ro pháp lý và chính sách của ngành, lĩnh vực, địa phương liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa (nếu có);

Hoạt động bồi dưỡng kiến thức pháp luật, bao gồm bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho người làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa và bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho mạng lưới tư vấn viên pháp luật; Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Hoạt động tư vấn pháp luật, bao gồm đối thoại, giải quyết các vướng mắc pháp lý cho doanh nghiệp và các hoạt động tư vấn pháp luật khác phù hợp với các quy định của pháp luật trên cơ sở nhu cầu của doanh nghiệp nhỏ và vừa và nguồn lực của các cơ quan, tổ chức tiến hành hỗ trợ pháp lý.

Thời hạn thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tối đa là 5 năm.

Ngoài ra, trong bối cảnh hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt Nam phát triển mạnh mẽ, việc hoàn thiện hệ thống các quy định về sở hữu trí tuệ đóng vai trò gia tăng trong số lượng và chất lượng của các Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo. Ngày 22/08/2019, Thủ tướng chỉnh phủ phê duyệt theo Quyết định số 1068/QĐ-TTg với mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam thuộc nhóm các nước dẫn đầu ASEAN về trình độ sáng tạo, bảo hộ và khai thác quyền sở hữu trí tuệ. Quyết định cũng đề cập về các nhiệm vụ, giải pháp về sở hữu trí tuệ bao gồm:

  • Hoàn thiện chính sách, pháp luật về sở hữu trí tuệ;
  • Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ;
  • Tập trung đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ;
  • Thúc đẩy các hoạt động tạo ra tài sản trí tuệ;
  • Khuyến khích, nâng cao hiệu quả khai thác tài sản trí tuệ;
  • Phát triển các hoạt động hỗ trợ về sở hữu trí tuệ;
  • Tăng cường nguồn nhân lực cho hoạt động sở hữu trí tuệ;
  • Hình thành văn hóa sở hữu trí tuệ trong xã hội;
  • Tích cực, chủ động hợp tác và hội nhập quốc tế về sở hữu trí tuệ.

Như vậy, việc hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo được quy định tại nhiều văn bản khác nhau, mỗi văn bản pháp luật thể hiện một vai trò hỗ trợ; cho thấy việc Nhà nước đang không ngừng quan tâm và nỗ lực hỗ trợ thành phần kinh tế quan trọng này.

2.1.7. Đánh giá quy định pháp luật hiện hành về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

2.1.7.1. Những kết quả đạt được của pháp luật hiện hành về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo  

Thứ nhất, pháp luật về khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo đã tạo lập khuôn khổ pháp lý bình đẳng trong việc huy động nguồn vốn như các doanh nghiệp tuỳ thuộc vào loại hình doanh nghiệp mà nhà đầu tư lựa chọn.

Ở giai đoạn thành lập doanh nghiệp, nếu nhà đầu tư lựa chọn loại hình doanh nghiệp tư nhân thì vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân do chủ doanh nghiệp tự đăng ký. Chủ doanh nghiệp tư nhân có nghĩa vụ đăng ký chính xác tổng số vốn đầu tư, trong đó nêu rõ số vốn bằng Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng và tài sản khác; đối với vốn bằng tài sản khác còn phải ghi rõ loại tài sản, số lượng và giá trị còn lại của mỗi loại tài sản. Trong trường hợp nhà đầu tư lựa chọn hình thức công ty thì phải làm thủ tục góp vốn, nghĩa là góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty, bao gồm góp vốn để thành lập công ty hoặc góp thêm vốn điều lệ của công ty đã được thành lập. Với các quy định hiện hành về vốn và thực hiện việc góp vốn khi thành lập doanh nghiệp khởi nghiệp cũng được quyền góp bằng Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam; trong đó, vốn góp bằng quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật là tài sản thường gặp đối với doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo.

Trong giai đoạn doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo hoạt động, doanh nghiệp cũng có cơ hội tiếp cận nguồn vốn đa dạng trên thị trường từ nhà đầu tư thông qua thị trường chứng khoán, ngân hàng thương mại thông qua hoạt động cấp tín dụng. Tuỳ thuộc vào quy mô, nhu cầu vốn cho hoạt động khởi nghiệp, nhà đầu tư các thể huy động vốn từ các nguồn khác nhau. Điểm mấu chốt mà doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo hoạt động phải vượt qua là thuyết phục được nhà đầu tư tiềm năng tham gia đầu tư cùng dự án khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo. Đây vừa là cơ hội song cũng là thách thức rất lớn đối với doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Thứ hai, pháp luật về vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo đã thiết lập khuôn khổ pháp luật cho các hoạt động hỗ trợ từ chính sách nhà nước hoặc tài trợ cho các dự án khởi nghiệp sáng tạo.

Để doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo tiếp cận nguồn vốn đa dạng từ chính sách ưu đãi từ nguồn ngân sách nhà nước cho các việc huy động vốn từ các quỹ khởi nghiệp trong nền kinh tế như Quỹ Hỗ trợ khởi nghiệp, vốn tài trợ nghiên cứu và phát triển, vốn vay ưu đãi, Quỹ Bảo lãnh tín dụng của Chính phủ, các đề án, chương trình và các chính sách miễn, giảm, ưu đãi thuế khác tuỳ thuộc vào ngành nghề, lĩnh vực doanh nghiệp khởi nghiệp hoạt động. Từ năm 2000, một số Quỹ Đầu tư mạo hiểm đã hoạt động tích cực tại Việt Nam không chỉ là quỹ có vốn đầu tư nước ngoài như IDG Ventures Vietnam, Cyber Agent, Mekong Capital, DFJ Vina Capital, ESP Capital, Innovatube mà còn cả Quỹ Đầu tư mạo hiểm nội địa đã được thành lập và hoạt động như: SeedCom, FPT Ventures, CMC Innovation Fund, VPBank Startup, VIISA, ESP, VSV, 500 Startups Vietnam… các quỹ đầu tư này sẵn sàng bỏ vốn nếu doanh nghiệp có nền tảng về nguồn vốn tự có cũng như tính khả thi của dự án khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo. Thực tiễn cho thấy, để tiếp cận nguồn vốn từ các quỹ đầu tư trên thị trường tài chính phụ thuộc vào quyết định của nhà đầu tư thông qua tính khả thi của dựa án khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Bởi lẽ, để thu hút nguồn vốn từ các quỹ đầu tư, doanh nghiệp khởi nghiệp phải biết cách thuyết phục nhà đầu tư kinh nghiệm có hiểu biết tốt tương lai thương mại hóa của đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp khởi nghiệp hơn chính bản thân những người sáng lập doanh nghiệp. Đối với nguồn tài chính tài trợ từ Chính phủ tập trung tài trợ cho khởi nghiệp chủ yếu liên quan đến nghiên cứu phát triển, những khoản liên quan đến tìm hiểu thị trường, phát triển sản phẩm thì hiện tại chưa có khoản chính sách hỗ trợ. Ở Hoa Kỳ, các hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua các vườn ươm công nghệ và chương trình tăng tốc khởi nghiệp như chương trình Điều hành doanh nghiệp nhỏ của Chính phủ Hoa Kỳ đã hỗ trợ 2 tỷ USD để đầu tư hỗ trợ tài chính ban đầu cho các doanh nghiệp mới cũng như chính sách thu hút vốn đầu tư và nhân tài tới Hoa Kỳ để khởi nghiệp; trong đó, bí quyết tạo lập được môi trường đầu tư hết sức năng động, thân thiện với nhà đầu tư, nhất là dịch vụ pháp lý minh bạch, rõ ràng, thủ tục đơn giản, nhanh chóng là nhân tố tạo sức hút cho các ý tưởng khởi nghiệp được đơm hoa, kết trái trong thực tiễn. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Thứ ba, thiết lập được khuôn khổ pháp lý cho hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ có thực hiện hoạt khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo. Theo đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo sẽ được hỗ trợ nếu đáp ứng điều kiện sau về thời gian hoạt động không quá 05 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu và chưa thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng đối với công ty cổ phần. Nội dung hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo bao gồm: hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao công nghệ; hỗ trợ sử dụng trang thiết bị tại cơ sở kỹ thuật; hỗ trợ tham gia cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung; hướng dẫn thử nghiệm, hoàn thiện sản phẩm mới, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới; hỗ trợ đào tạo, huấn luyện chuyên sâu về xây dựng, phát triển sản phẩm; thu hút đầu tư; tư vấn về sở hữu trí tuệ; thực hiện các thủ tục về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng; hỗ trợ thông tin, truyền thông, xúc tiến thương mại, kết nối mạng lưới khởi nghiệp sáng tạo, thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo; hỗ trợ thực hiện thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ… Về hoạt động đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, pháp luật hiện hành quy định nhà đầu tư được quyền thực hiện hoạt động đầu tư khởi nghiệp sáng tạo theo các hình thức mà pháp luật không cấm thông qua hai hình thức góp vốn thành lập, mua cổ phần, phần vốn góp của doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo và thành lập, góp vốn vào quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo để thực hiện đầu tư.

2.1.7.2. Những bất cập, hạn chế trong quy định pháp luật về tiếp cận vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp ở Việt Nam

Một là, dù có nhiều chính sách hỗ trợ khởi nghiệp, nhưng đầu tư vào hoạt động khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo chưa trở thành kênh thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư dù có nhiều lợi thế như tạo cơ hội việc làm, tạo động lực cho nền kinh tế thông qua dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành và chuyển động mạnh mẽ theo cơ chế thị trường. Nguyên nhân của tình trạng này do yếu thế mới gia nhập thị trường, chưa có nhiều uy tín (đối với doanh nghiệp khởi nghiệp) và kết quả đổi mới sáng tạo mới được thể hiện “trên giấy”, chưa có trên thị trường hoặc tạo ra một giá trị tốt hơn so với những thứ đang có sẵn nên cần phải có thời gian để kiểm chứng nên các doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo chưa trở thành lựa chọn cho phần lớn nhà đầu. Nói cách khác, đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp không phù hợp với nhà đầu tư chú trọng an toàn mà dành cho nhà đầu tư mạo hiểm; do đó, các dự án khởi nghiệp thường được bắt đầu bằng nguồn vốn tự có hạn hẹp của các thành viên sáng lập, trong khi khả năng vay vốn ngân hàng hoặc kêu gọi các quỹ đầu tư lại rất thấp.

Không những thế, các nhà đầu tư mạo hiểm rất cẩn trọng, khó tính khi thẩm định trước khi ra quyết định đầu tư. Đây là trở ngại lớn nhất cho các quyết định khởi nghiệp cũng như hiện thực hoá các ý tưởng đổi mới sáng tạo. Tình trạng này có thể dẫn đến các hệ quả cản trở cho hiện thực hoá mục tiêu một triệu doanh nghiệp sau nhiều lần sửa đổi Luật doanh nghiệp với mục tiêu đơn giản hoá thủ tục thành lập doanh nghiệp mà thực chất là mới chỉ chú trọng đến sứ mệnh “khai sinh”. Tuy nhiên, để doanh nghiệp “sống” và duy trì sự tồn tại trên thị trường thì doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp khởi nghiệp (mới thành lập) thông qua việc tiếp cận nguồn vốn mới chính là yếu tố quyết định. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Hai là, bản chất của doanh nghiệp đổi mới sáng tạo là không có nhiều kinh nghiệm tham gia thị trường nên có thể gặp nhiều trở ngại trong giới thiệu dự án khởi nghiệp, mô hình đổi mới sáng tạo đến thị trường một cách rộng mở nhất nên không có cơ hội để vươn ra thị trường. Hiện nay, mặc dù nhà nước đã áp dụng cơ chế tài chính, chính sách thuế đặc thù đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hoặc đầu tư cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được áp dụng chính sách ưu đãi đầu tư, ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ… nhưng chưa giải quyết được tận gốc điểm yếu của doanh nghiệp đổi mới sáng tạo là vốn đầu tư dài hạn để có thể “sống cùng” doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Bởi lẽ, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo cần môi trường và vốn để triển khai mô hình khởi nghiệp cũng như ý tưởng sáng tạo. Còn nhà đầu tư không chỉ quan tâm, đánh giá đến độ hấp dẫn của ý tưởng, mô hình khởi nghiệp mà còn quan tâm đến khả năng sinh lời của đồng vốn đầu tư khi ra quyết định đầu tư. Nói cách khác ước mơ tới thời đại dân doanh có những đóng góp quan trọng cho nền kinh rất cần có thêm những biện pháp hỗ trợ từ phía Nhà nước thông qua cơ chế gọi vốn đơn giản, dễ thực hiện của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.

Ba là, thực tiễn thực hiện pháp luật về tiếp cận nguồn vốn cho khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam cũng đã phát sinh nhiều bất cập, hạn chế đối với từng nguồn vốn mà doanh nghiệp đổi mới, sáng tạo có thể tiếp cận.

Về nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước cho thấy, để tiếp cận nguồn vốn từ các chính sách hỗ trợ, doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo phải thực hiện nhiều thủ tục hành chính với nhiều bước, công đoạn xét duyệt với nhiều loại hồ sơ, giấy tờ.

Thực tế này đã làm nản chí không ít các ý tưởng sáng tạo hoặc cản trở các mô hình khởi nghiệp được “ươm mầm” từ bầu sữa ngân sách nhà nước. Nói cách khác, hệ sinh thái khởi nghiệp quốc gia chưa thật sự trở thành động lực đáng kể cho thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam.

Về nguồn vốn tín dụng, doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo rất khó có thể dùng mô hình khởi nghiệp hay ý tưởng đổi mới sáng tạo để làm tài sản bảo đảm khi vay vốn ở ngân hàng mặc dù pháp luật hiện hành đã cho phép chủ sở hữu quyền tài sản phát sinh từ quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin, hoạt động khoa học, công nghệ được dùng quyền tài sản đối với đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng; quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ; quyền khác trị giá được bằng tiền phát sinh từ quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin, hoạt động khoa học, công nghệ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Nói cách khác, để nguồn vốn tự có phát sinh từ dự án khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trở thành tài sản bảo đảm đòi hỏi phải có những hướng dẫn cụ thể, chi tiết cho việc nhận tài sản bảo đảm là quyền tài sản phát sinh từ quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin, hoạt động khoa học, công nghệ không chỉ từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà còn cả các ngân hàng thương mại, đặc biệt là vấn đề định giá tài sản bảo đảm là quyền tài sản phát sinh từ quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin, hoạt động khoa học, công nghệ; tính thanh khoản của tài sản bảo đảm là quyền tài sản phát sinh từ quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin, hoạt động khoa học, công nghệ trong mối tương quan với việc xây dựng và vận hành thị trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Đối với huy động vốn trên thị trường chứng khoán tập trung là tương đối khó khăn do các doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo đa phần có quy mô vừa và nhỏ, chưa phải là công ty đại chúng, đồng thời để trở thành công ty đại chúng và niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung, các doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo hầu tư như không đáp ứng được. Ngoài ra, Nghị định số 38/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết về đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo quy định quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo không có tư cách pháp nhân, do tối đa 30 nhà đầu tư góp vốn thành lập trên cơ sở điều lệ quỹ; quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo không được góp vốn vào quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo khác là rào cản đáng kể trong thu hút nguồn vốn từ cộng đồng cho hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo ở Việt Nam.

Bốn là, chưa có khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hình thức gọi vốn từ cộng đồng dựa trên nền tảng Internet. Thực tiễn cho thấy, ở Việt Nam, hình thức gọi vốn từ cộng đồng còn dè dặt, chưa tạo ra được sự ảnh hưởng đến thị trường khởi nghiệp sáng tạo, nhất là hình thức gọi vốn đổi lấy cổ phần chưa có mặt tại Việt Nam. Đây là khoảng trống pháp lý cản trở doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo tiếp cận nguồn vốn cộng đồng đa dạng. Do thiếu cơ sở pháp lý cho việc gọi vốn từ cộng đồng nên các dự án khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo rất khó có thể đến được với số đông nhà đầu tư có nhu cầu góp vốn, mua cổ phần ở những dự án khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo. Việc gọi vốn từ cộng đồng còn đặc biệt có ý nghĩa đối với các dự án khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo ở khu vực nông thôn, gắn với khai thác giá trị văn hoá bản địa trong hoạt động du lịch sinh thái, khai thác, mở rộng giá trị thương mại sản phẩm của các làng nghề.

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo tại thành phố Hồ Chí Minh Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Tính đến tháng 5/2022, TPHCM có số lượng doanh nghiệp đang hoạt động lớn nhất cả nước (khoảng 268.000 doanh nghiệp, chiếm 31%). Vậy điều gì giúp Thành phố có được cộng đồng doanh nghiệp phát triển cả về số lượng và chất lượng, nơi có môi trường thuận lợi cho cộng đồng khởi nghiệp

2.2.1. Tổng quan những lợi thế cho khởi nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh

Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), hệ sinh thái khởi nghiệp bao gồm những yếu tố cơ bản: Thị trường, nguồn nhân lực, nguồn vốn và tài chính; hệ thống hỗ trợ khởi nghiệp (Mentors, Advisors); khung pháp lý và cơ sở hạ tầng; giáo dục đào tạo; các trường đại học, học viện và văn hóa quốc gia. Vậy hệ sinh thái khởi nghiệp hiện nay ở TPHCM như thế nào.

Thứ nhất, về thị trường, TPHCM là đầu mối giao thông vào loại lớn nhất nước ta với sự có mặt của các tuyến giao thông huyết mạch như đường ô tô, đường sắt, đường biển, đường sông và đường hàng không. Vị trí địa lý đặc biệt giúp kinh tế Thành phố nhanh chóng hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới.

Với tam giác kinh tế Bình Dương – Đồng Nai – TPHCM có kết cấu hạ tầng hoàn thiện, khả năng thu hút đầu tư từ nước ngoài là rất lớn.

TPHCM giữ vai trò đi đầu trong nền kinh tế Việt Nam. Thành phố chiếm 0,6% diện tích và 8,34% dân số của Việt Nam, nhưng chiếm tới 20,5% tổng sản phẩm GDP, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp và 37,9% dự án nước ngoài.

TPHCM có 4 khu chế xuất và 19 khu công nghiệp (3 khu chế xuất Linh Trung và một khu chế xuất Tân Thuận).

Về thu ngân sách trên địa bàn, theo Cục Thống kê TPHCM, năm 2019 đạt 410.416 tỷ đồng; năm 2020 đạt 371.000 tỷ đồng; năm 2021 đạt 383.703 tỷ đồng (vượt hơn 5% dự toán).

Nguồn thu ngân sách của TPHCM tăng chủ yếu từ kết quả kinh doanh khả quan của doanh nghiệp trong khối bất động sản, tài chính ngân hàng, chứng khoán. Đặc điểm quan trọng là thu ngân sách TPHCM đạt và vượt bất chấp 2 năm đại dịch COVID-19 là 2020 – 2021. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Trong chương trình xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng đô thị hoàn chỉnh để phục vụ cho xuất nhập cảng, tạo phát triển thị trường, trong nước và quốc tế; TPHCM chủ trương tiếp tục đầu tư các đường vành đai 1, 2, 3, 4. Mới nhất Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ Đã ký ban hành nghị quyết ngày 16/6/2022, Nghị quyết số 57/2022/QH15; về chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng vành đai 3 TPHCM. Đường vành đai 3 kết nối TPHCM với tỉnh Đồng Nai, tỉnh Bình Dương, tỉnh Long An và các địa phương khác trong vùng. Phạm vi đầu tư khoảng 76,34 km2 khoảng 642,7 ha, tổng mức đầu tư dự án 75.378 tỷ.

Dự án dự kiến sẽ hoàn thành năm 2025 và đưa vào khai thác từ năm 2026 và đây chính là giải pháp hoàn thiện thể chế liên kết vùng kinh tế xã hội.

Từ hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường hàng không hoàn chỉnh sẽ tạo điều kiện cho TPHCM trở thành thị trường giao thương hàng hóa lớn trong nước và quốc tế.

Thứ hai, về nguồn nhân lực, Thành phố là nơi tập trung nguồn nhân lực lớn của đất nước. Tại TPHCM có 53 trường đại học và 49 trường cao đẳng chiếm tỉ trọng 22,17% cả nước (cả nước có 460 trường đại học và cao đẳng – bao gồm 224 trường đại học và 236 trường cao đẳng). Đây là “cái nôi” để đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho Thành phố, khu vực và quốc gia, trong đó hầu hết các trường đều có các khoa, môn học chuyên ngành về khởi nghiệp và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Các trung tâm: Khu công viên phần mềm Quang Trung; các khu nông nghiệp công nghệ cao, tại các cơ sở viện, trường đại học, cao đẳng, các trung tâm công nghệ,… chính là nôi đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho TPHCM và cả nước.

Thứ ba, về nguồn vốn và tài chính: Hiện nay, cả nước có 49 ngân hàng nội địa và 61 ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Phần lớn các ngân hàng này đều có chi nhánh hoặc trụ sở tại TPHCM và hoạt động tại đây. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Thành phố cũng là nơi hội tụ của các Quỹ đầu tư mạo hiểm. Theo Cổng thông tin Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia, hiện tại có 72 quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam. Tất cả các quỹ trên đều có văn phòng/trụ sở và hoạt động đầu tư tại TPHCM.

Thứ tư, về hệ thống hỗ trợ khởi nghiệp (Mentors, Advisord): TPHCM có 34 cơ sở ươm tạo, tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo cũng như 19 không gian sáng tạo đầu tư. Thành phố có khoảng 2.000 start-up, trong đó hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin chiếm đến 65%, kế tiếp là lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, chế biến lương thực thực phẩm chiếm 21%.

Theo Cục Quản lý đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến tháng 5/2022, TPHCM có số lượng doanh nghiệp đang hoạt động lớn nhất cả nước với khoảng 268.000 doanh nghiệp, chiếm 31%. Do đó, Thành phố là nguồn cung cấp Mentors rất lớn, có thực tiễn trong hoạt động sản xuất kinh doanh với cả thất bại và thành công; là trường đào tạo doanh nghiệp khởi nghiệp lớn không chỉ trong nước mà còn của khu vực. Thứ năm, khung pháp lý và cơ sở hạ tầng: Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh cho khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp của nước ta đã được hình thành.

Trên cơ sở chủ trương của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã ban hành một số chính sách triển khai thực hiện (Nghị quyết số 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, với mục tiêu đến năm 2020 xây dựng doanh nghiệp Việt Nam có năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững; Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025…).

Riêng TPHCM, từ những thành tựu đạt được trong giai đoạn 2016-2021, Thành phố đã ban hành kế hoạch triển khai “Đề án hỗ trợ phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo TPHCM giai đoạn 2021 – 2025”. Kế hoạch hướng tới mục tiêu hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của Thành phố phát triển ngang tầm khu vực.

Thành phố cũng xác định 8 nhóm nhiệm vụ chính gồm: Phát triển hạ tầng, dịch vụ hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; nâng cao năng lực cho các thành phần hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của các lĩnh vực, sản phẩm trọng điểm; hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo phát triển sản phẩm và thị trường; hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nâng cao năng suất, chất lượng và đổi mới sáng tạo; thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo trong khu vực công; thúc đẩy hợp tác quốc tế khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; truyền thông khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; đánh giá hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của Đề án. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Thứ sáu, phát triển kinh tế đi đôi với chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, bảo vệ môi trường. Ngoài những yếu tố trên, TPHCM còn là hình mẫu trong phát triển kinh tế đi đôi với chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân bảo vệ môi trường. Tại TPHCM, theo thống kê sơ khảo có 117 bệnh viện gồm 55 bệnh viện công lập, 59 bệnh viện tư nhân và 3 bệnh viện thuộc bộ ngành; chiếm tỉ lệ 8,78% số bệnh viện cả nước (1.332 bệnh viện).

TPHCM hiện có 405 công viên. Tỉ lệ cây xanh trên mỗi người dân hiện ở mức từ 2-3 m2/người. Thực tế này cho thấy tỉ lệ cây xanh đô thị thực tế tại Thành phố chỉ bằng từ 1/5 đến 1/10 so với thế giới (25-30 m2/người). Đây là lý do để UBND TPHCM ban hành kế hoạch trồng rừng và cây xanh giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn. Theo đó, Thành phố đặt mục tiêu triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án trồng 1 tỷ cây xanh giai đoạn 2021 – 2025 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn với sự tham gia của mọi người dân, huy động các nguồn lực xã hội nhằm nâng cao tỉ lệ cây xanh trên mỗi người dân, tạo thêm cảnh quan, bóng mát, điều hòa khí hậu, bảo vệ sức khỏe con người.

Đồng thời, phát động bình quân mỗi người dân Thành phố trồng 1 cây xanh chung sức “Vì một Việt Nam xanh”. Qua đó, Thành phố triển khai trồng 100 triệu cây xanh các loại, nhằm bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện cảnh quan và ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần phát triển kinh tế – xã hội.

  • TPHCM trong nhóm 200 thành phố khởi nghiệp toàn cầu

Ông Nguyễn Việt Dũng, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM, Trưởng ban tổ chức I-Star 2022, cho biết, dù bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, nhưng hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo ở TPHCM vẫn phát triển mạnh mẽ, trở thành cái nôi của cộng đồng khởi nghiệp cả nước. Lượng vốn đầu tư mạo hiểm thu hút được của các Start-up là hơn 1,1 tỷ USD, chiếm 60% lượng vốn và 70% số thương vụ của cả nước về khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. TPHCM cũng là địa phương thuộc nhóm 200 thành phố khởi nghiệp toàn cầu năm 2021 (tăng 46 bậc, chiếm vị trí thứ 179).

Còn theo báo cáo của Saigon Innovation Hub (Sihub), năm 2020, đầu tư khởi nghiệp vào Việt Nam giảm hơn 60%, từ 861 triệu USD năm 2019 xuống 317 triệu USD.

Tuy nhiên năm 2021, Việt Nam ghi nhận sự gia tăng vượt bậc về thu hút đầu tư khởi nghiệp với 1,3 tỷ USD. Đây là con số kỷ lục trong hoạt động đầu tư khởi nghiệp tại Việt Nam, trong đó, phần lớn là các doanh nghiệp khởi nghiệp tại TPHCM.

Bài học rất rõ từ TPHCM là tỉnh, thành phố nào có môi trường kinh doanh, khởi nghiệp thuận lợi, xây dựng được đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp đông đảo, chất lượng thì nơi đó kinh tế sẽ phát triển mạnh mẽ, đóng góp nhiều cho đất nước không chỉ là nộp Ngân sách Nhà nước hàng năm. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Trong bảng xếp hạng hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (startup) các quốc gia năm 2022 do Trung tâm nghiên cứu và lập bản đồ hệ sinh thái khởi nghiệp toàn cầu – StartupBlink công bố, TP Hồ Chí Minh đang tiến gần vào Top 100 thành phố có hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo năng động toàn cầu, hiện Thành phố đang ở vị trí 179.

Theo đánh giá của các chuyên gia, TP Hồ Chí Minh hội đủ nhiều yếu tố thuận lợi để trở thành thành phố khởi nghiệp. Thành phố được xem là trung tâm kinh tế lớn cả nước, có lịch sử phát triển kinh tế lâu đời, tư duy và văn hóa kinh doanh của người dân thành phố đã được xác lập từ lâu. Thành phố có vị trí địa lý thuận lợi, được xem như “trái tim” của miền Nam, dễ dàng kết nối với các khu vực trong vùng bằng nhiều tuyến giao thông huyết mạch như đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông và đường hàng không. TP Hồ Chí Minh cũng là địa phương có số lượng doanh nghiệp đang hoạt động lớn nhất cả nước, trong đó có nhiều doanh nghiệp khoa học công nghệ. Theo số liệu thống kê số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của TP Hồ Chí Minh chiếm hơn 50% cả nước.

2.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hỗ trợ vốn để doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo tại thành phố Hồ Chí Minh được nhận hỗ trợ

Dưới tác động của thực trạng kinh tế hiện tại, quy định pháp luật về hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo tại thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành một phần quan trọng trong việc duy trì và thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp. Kết quả mới đây từ cuộc khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp (DN) TP HCM (HUBA) đã thể hiện một hình ảnh chân thực về sự khó khăn mà nhiều doanh nghiệp đang phải đối mặt. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Với tỷ lệ 41,2% doanh nghiệp gặp khó khăn do thị trường bị thu hẹp, và 17,6% bị ảnh hưởng bởi tăng giá nguyên liệu đầu vào, điều này đưa ra một tín hiệu rõ ràng về sự biến đổi không lường trước của môi trường kinh doanh. Sự khan hiếm nguồn nhân lực phù hợp và thiếu vốn kinh doanh cũng là những vấn đề nan giải mà các doanh nghiệp phải vật lộn. Thêm vào đó, sự thiếu mất cân bằng trong sản xuất kinh doanh và sự sụt giảm trong doanh số cũng tạo thêm áp lực cho doanh nghiệp.

Trong bối cảnh này, các doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa đang phải đối mặt với một thách thức cực kỳ lớn, khi họ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và phải thực hiện các biện pháp tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm giờ làm việc, và cắt giảm lao động để tồn tại. Điều này có thể gây ra những hệ lụy không mong muốn đối với tình hình việc làm và sự ổn định của ngành công nghiệp nội địa.

Tình trạng sức mua yếu của thị trường, sự hoạt động ảm đạm tại các trung tâm thương mại, và sự bỏ trống của các mặt bằng kinh doanh trung tâm thành phố đều là dấu hiệu rõ ràng cho thấy tình hình khó khăn của nền kinh tế. Các biện pháp tái cơ cấu của các tiểu thương chợ truyền thống cũng thể hiện sự thích nghi của họ trong tình hình khó khăn, khi họ phải thay đổi cách tiếp cận để cạnh tranh và tồn tại.

Trong bối cảnh này, cuộc họp kết nối ngân hàng doanh nghiệp TP Hồ Chí Minh năm 2023 đã giới thiệu một loạt biện pháp hỗ trợ từ phía ngân hàng nhằm giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Chương trình hỗ trợ lãi suất, chương trình cho vay ưu đãi dành cho các ngành ưu tiên, chương trình kết nối ngân hàng doanh nghiệp, và chương trình cho vay bình ổn thị trường đều là những nỗ lực quan trọng để cung cấp nguồn vốn và hỗ trợ cho doanh nghiệp trong thời kỳ khó khăn.

Tổng thể, thực trạng khó khăn mà doanh nghiệp đang trải qua tại thành phố Hồ Chí Minh thể hiện một hình ảnh phức tạp về sự biến đổi của môi trường kinh doanh và tác động của nó lên các doanh nghiệp cũng như nền kinh tế. Việc hỗ trợ vốn và các biện pháp kích thích khác là quan trọng để giúp doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn này và đóng góp vào sự phục hồi và phát triển của nền kinh tế. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

2.2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về ưu đãi tín dụng để doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo tại thành phố Hồ Chí Minh được nhận hỗ trợ

Hiện nay, tình hình quy định về ưu đãi tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực khởi nghiệp sáng tạo tại thành phố Hồ Chí Minh đang nhận được sự hỗ trợ tích cực từ các tổ chức tín dụng và cơ quan quản lý tài chính. Trong những tháng đầu năm 2023, chương trình giảm lãi suất vay đã được các Tổ chức tín dụng (TCTD) triển khai mạnh mẽ, mang lại lợi ích thiết thực cho các doanh nghiệp.

Mức giảm lãi suất vay trong khoảng từ 0,5% đến 2% mỗi năm được xem là một bước đi quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều này sẽ giúp giảm bớt gánh nặng tài chính cho các doanh nghiệp trong giai đoạn khởi nghiệp và phát triển ban đầu. Hơn nữa, việc đưa ra nhiều gói tín dụng ưu đãi khác như gói kết nối ngân hàng – doanh nghiệp đã tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế cục bộ.

Gói tín dụng kết nối ngân hàng – doanh nghiệp được quy mô lớn, lên tới hơn 450.000 tỷ đồng, cho thấy cam kết của các Tổ chức tín dụng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp. Đây là một tín hiệu tích cực, đặc biệt khi gói tín dụng này sẽ được liên kết chặt chẽ với các chính sách tín dụng và ưu đãi tài chính từ Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và UBND thành phố. Điều này có thể giúp các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn vay với mức chi phí hợp lý, giúp họ duy trì và mở rộng hoạt động kinh doanh một cách bền vững. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Các tương lai, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh vẫn sẽ là tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tiếp cận các chính sách vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam (VND) với mức lãi suất không vượt quá 5%. Điều này sẽ giúp hạn chế gánh nặng tài chính cho các doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy tạo ra sự ổn định trong môi trường kinh doanh. Cùng với đó, việc giảm thiểu thời gian giải quyết thủ tục và hồ sơ cũng sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn một cách nhanh chóng và hiệu quả.

Nội dung hỗ trợ lãi suất khi vay vốn được quy định tại Điều 27 của Nghị định 80/2021/NĐ-CP rất quan trọng, với mục tiêu tạo ra sự cân đối và công bằng trong việc hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Mức chênh lệch lãi suất được ngân sách nhà nước bù đắp cho các doanh nghiệp tham gia vào các cụm liên kết ngành và chuỗi giá trị, cùng với sự hỗ trợ lãi suất từ các Tổ chức tín dụng, tạo nên một khung hỗ trợ toàn diện cho sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp khởi nghiệp và nhỏ và vừa.

Nhìn chung, việc thúc đẩy ưu đãi tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực khởi nghiệp sáng tạo tại thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Sự hợp tác giữa các tổ chức tín dụng, cơ quan quản lý tài chính và doanh nghiệp đang tạo nên một môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp có thể phát triển và đóng góp vào sự phồn thịnh của nền kinh tế địa phương.

2.2.4. Thực tiễn áp dụng pháp luật về ưu đãi thuế để doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo tại thành phố Hồ Chí Minh được nhận hỗ trợ Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Thực tế quy định về ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc khởi nghiệp và sáng tạo tại thành phố Hồ Chí Minh mang ý nghĩa quan trọng và thể hiện sự quan tâm, ủng hộ từ phía chính phủ. Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đóng góp tỷ lệ lớn trong cơ cấu doanh nghiệp (97-98%), chính là động lực chính cho tăng trưởng và là nền tảng của kinh tế đất nước. Chính vì vậy, việc hỗ trợ và ưu đãi cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa đã trở thành một trong những mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển của Quốc hội và Chính phủ.

Để thúc đẩy sự phát triển của Doanh nghiệp nhỏ và vừa, việc điều chỉnh và nâng cao khả năng cạnh tranh thông qua quy định thuế thu nhập doanh nghiệp là rất cần thiết. Hiện nay, thuế thu nhập doanh nghiệp đang là một khoản chi phí quan trọng đối với các doanh nghiệp, do đó, việc áp dụng chính sách ưu đãi thuế nhằm giảm bớt gánh nặng tài chính và tạo điều kiện thuận lợi cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, việc ưu đãi này vẫn còn chưa được cụ thể hóa cho từng loại hình doanh nghiệp KNST, khiến cho các doanh nghiệp phải áp dụng theo quy định chung về thuế thu nhập doanh nghiệp, dựa trên ngành nghề, doanh thu và địa bàn hoạt động.

Theo quy định tại Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, doanh nghiệp KNST có thể được áp dụng mức thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn 15 năm cho các khoản thu nhập xuất phát từ hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ cao, đầu tư mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao, sản xuất sản phẩm phần mềm và nhiều lĩnh vực công nghệ khác. Điều này tạo ra sự khích lệ mạnh mẽ cho việc đầu tư vào lĩnh vực công nghệ và sáng tạo.

Ngoài ra, chính sách miễn thuế và giảm thuế cũng được áp dụng cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khoản thời gian nhất định, tùy thuộc vào lĩnh vực hoạt động. Điều này thúc đẩy việc đầu tư vào các lĩnh vực có tiềm năng phát triển, đồng thời giúp hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp trong giai đoạn khởi đầu và phát triển ban đầu.

Tuy nhiên, hiện nay, pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp vẫn chưa cụ thể hóa quy định tại điều này nên lợi ích từ việc thực tế vẫn chưa có thể mang lại trong việc thúc đấy cho các nhà đầu tư cho doanh nghiệp KNST.Trong thời gian vừa qua, đặc biệt sau đại dịch Covid-19, hoạt động sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Thành phố Hồ Chí Minh vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Mặc dù Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 đã được triển khai từ năm 2018 quy định về nguyên tắc, nội dung, nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan đến hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đến nay Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017 đã được sửa đổi, bổ sung bởi Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020 và Luật Đầu tư 2020 và đã có sự đồng tình và hỗ trợ từ Chính phủ cùng các cơ quan liên quan, tình hình thực tế vẫn chưa thể khắc phục toàn bộ các khó khăn mà doanh nghiệp nhỏ và vừa đang phải đối mặt. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Theo Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh, số liệu cho thấy có khoảng 264,407 doanh nghiệp nhỏ và vừa đang hoạt động tại thành phố, chiếm tới 97.5% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn. Trong giai đoạn từ 2018 đến 2022, đã có hơn 184,200 doanh nghiệp nhỏ và vừa mới được thành lập, tạo nên tình hình đầy hứa hẹn. Tuy nhiên, tại cùng giai đoạn này, số liệu cũng cho thấy có tới 128,470 doanh nghiệp tạm ngưng hoạt động, đang tiến hành thủ tục giải thể.

Một khảo sát mới đây của Hiệp hội Doanh nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh (HUBA) đã phản ánh thêm tình hình khó khăn của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hơn 30% số doanh nghiệp đang gặp khó khăn về vốn sản xuất và kinh doanh, trong khi 31% bị thu hẹp thị trường. Có tới 51% doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi sự tăng giá của nguyên liệu đầu vào, và 53% cảm thấy thiếu nguồn nhân lực phù hợp để duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, đã ghi nhận rằng, với nhiều khó khăn trong quy định pháp luật, việc cấp vốn tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn gặp nhiều trở ngại. Thậm chí, cho đến thời điểm này, việc triển khai các chính sách cụ thể như cấp bù lãi suất đối với khoản vay khởi nghiệp và tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị cũng vẫn đang bế tắc.

Để giải quyết những vướng mắc này, sự phối hợp giữa các cơ quan và bộ ngành là cực kỳ quan trọng. Việc cập nhật thông tin và cơ sở dữ liệu trên Cổng thông tin quốc gia về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, cùng việc kết nối với các cơ quan địa phương, sẽ giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận thông tin và chính sách cần thiết.

Như vậy, để thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Thành phố Hồ Chí Minh, cần có sự đồng thuận và phối hợp mạnh mẽ từ phía các cơ quan chính quyền và bộ ngành liên quan. Việc thực hiện đơn giản hóa quy trình và thủ tục, cùng việc cung cấp thông tin cụ thể và hiệu quả cho doanh nghiệp, sẽ giúp tạo điều kiện thuận lợi để họ tiếp cận và sử dụng các chính sách hỗ trợ một cách hiệu quả và nhanh chóng.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

Qua các phân tích trên, có thể nhận thấy rằng Chính phủ Việt Nam đang quyết tâm đẩy mạnh việc thực hiện chính sách hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, và coi việc hỗ trợ các Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo là mục tiêu chính trị tiên quyết và quan trọng trong thời kì mới. Mục tiêu quan trọng trong việc này chính là việc hỗ trợ và thúc đẩy các Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu đang chứng kiến sự gia tăng về sự cạnh tranh và biến đổi công nghệ. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVVKNST vẫn còn đối mặt với một số hạn chế và thách thức đáng chú ý. Một trong những rào cản quan trọng nhất đó là thiếu một luật lệ dành riêng cho việc hỗ trợ và quản lý các Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo. Việc này tạo ra sự mất định hướng trong việc thực thi chính sách, gây khó khăn trong việc thu hút đầu tư từ các nguồn tài trợ khác nhau và làm suy yếu tính hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ.

Một thách thức khác đối mặt chính phủ và các địa phương là sự không đồng nhất trong việc thực hiện chính sách. Tại một số địa phương, việc triển khai chính sách vẫn còn mang tính chất chung chung, chưa thể tạo ra sự khác biệt thực sự cho từng doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi sự tăng cường cả trong việc định hình và thực thi chính sách tại cấp địa phương, để đảm bảo rằng mọi Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo đều có cơ hội tương đồng để phát triển. Mặc dù đã có những thành tựu đáng kể, phong trào khởi nghiệp vẫn chưa thể thực sự lan tỏa đều đặn trên toàn quốc. Các thành phố lớn vẫn là nơi tập trung chính của hoạt động khởi nghiệp, trong khi nhiều vùng nông thôn và khu vực khó khăn vẫn chưa thể khai thác hết tiềm năng của mình. Đây là điểm đáng suy ngẫm và đòi hỏi sự đồng tâm và cùng nhau phối hợp của cả Chính phủ và các địa phương.

Vì vậy, việc hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự đổi mới, tăng trưởng kinh tế và sự cạnh tranh của quốc gia. Mặc dù còn những thách thức cần vượt qua, sự quyết tâm của Chính phủ cùng với sự đồng lòng của tất cả các bên liên quan sẽ tiếp tục thúc đẩy việc thực hiện các chính sách hỗ trợ này một cách hiệu quả hơn, đem lại lợi ích to lớn cho cả nền kinh tế và xã hội. Luận văn: Thực trạng pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Luận văn: Giải pháp pháp luật DN nhỏ vừa khởi nghiệp sáng tạo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464