Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng năng lực quản lý ở các trường học công lập hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Thực trạng năng lực quản lý của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường học công lập thuộc quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Khái quát về các đơn vị trường học công lập trực thuộc quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
2.1.1. Đặc điểm vị trí địa lý, dân cư và tình hình phát triển kinh tế – xã hội tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
Quận Cẩm Lệ được thành lập theo Nghị định số 105/2005/NĐ-CP ngày 05 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ trên cơ sở phường Khuê Trung thuộc quận Hải Châu và xã Hòa Thọ, Hòa Phát, Hòa Xuân thuộc huyện Hòa Vang. Sau khi thành lập, quận Cẩm Lệ gồm có 6 phường: Khuê Trung, Hòa Thọ Tây, Hòa Thọ Đông, Hòa Phát, Hòa An, Hòa Xuân với tổng diện tích tự nhiên có 3.330 ha và 71.429 nhân khẩu. Đến năm 2011, quản lý thêm các khu dân cư khu vực phía Đông đường Phạm Hùng thuộc xã Hòa Châu, Hòa Phước thuộc huyện Hòa Vang theo Quyết định tạm giao quản lý địa giới hành chính của Ủy ban nhân dân thành phố, do vậy, diện tích hiện nay là 3.525,27 ha, dân số 100.877 người.
Có vị trí nằm ở của ngõ phía Tây Nam thành phố, cách trung tâm thành phố 7 km, trên địa bàn có nhiều trục lộ giao thông chính như: quốc lộ 1A, quốc lộ 14B, đường sắt Bắc – Nam, có dòng sông Cẩm Lệ chảy dọc theo địa bàn của quận từ Tây sang Đông và dòng sông Vĩnh Điện chảy dọc theo địa bàn quận từ Nam sang Bắc và cùng đổ ra cửa biển sông Hàn, lại là địa bàn trọng điểm để mở rộng không gian đô thị thành phố, quận Cẩm Lệ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế – xã hội.
Trong hơn 12 năm qua, từ khi trở thành đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Đà Nẵng, nền kinh tế của quận Cẩm Lệ đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Kinh tế quận có tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng của ngành dịch vụ, công nghiệp là đúng theo định hướng phát triển đã đề ra. Sự tăng trưởng này đã góp phần tăng thêm nhiều tiềm lực cho nền kinh tế, quy mô kinh tế của quận ngày càng lớn và đã và vị trí các phường trên bản đồ quận Cẩm Lệ.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
2.1.2. Khái quát các đơn vị trường học công lập trực thuộc quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
Là một bộ phận trong ngành GD&ĐT thành phố Đà Nẵng, ngành GD&ĐT quận Cẩm Lệ tiếp tục đạt được những kết quả khá toàn diện. Chất lượng giáo dục có những chuyển biến tích cực. Tình trạng học sinh bỏ học giảm hẳn, không có học sinh bỏ học do có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục được cải thiện; con em các gia đình nghèo, khó khăn, các đối tượng chính sách được quan tâm. Việc đổi mới phương pháp dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin và tiếp cận các phương tiện dạy học hiện đại được đẩy mạnh. Tỷ lệ trường học, thư viện đạt chuẩn quốc gia, tỷ lệ học sinh học 2 buổi/ngày tăng, toàn quận có 100% các trường tiểu học thực hiện dạy học 2 buổi/ngày, tỷ lệ học sinh được học 2 buổi/ngày là 92,91%. Đến nay, toàn quận có 34 trường học, trong đó có 19 trường Mầm non (06 trường MN công lập, 13 trường MN tư thục), 11 trường Tiểu học (01 trường TH tư thục) và 6 trường THCS công lập. Đến tháng 01/2018, toàn quận có 17/34 trường đạt chuẩn quốc gia, trong đó MN có 3 trường (MN Hướng Dương, MN Hoa Ngọc Lan, MN Hương Sen), TH có 8 trường (TH Hoàng Dư Khương, Ngô Quyền, Diên Hồng, Trần Văn Dư, Nguyễn Như Hạnh, Thái Thị Bôi, Ông Ích Đường, Trần Đại Nghĩa) và 6 trường THCS (THCS Nguyễn Văn Linh, Trần Quý Cáp, Nguyễn Công Trứ, Đặng Thai Mai, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thị Định).
Trong những năm qua, ngành GD&ĐT quận luôn luôn có sự chỉ đạo sâu sát, kịp thời của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ quận đến cơ sở, sự phối hợp của các ban ngành, đoàn thể. Hàng năm, Ủy ban nhân dân quận đã dành nguồn ngân sách hàng chục tỉ đồng để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các trường, tạo điều kiện tốt nhất cho việc phát triển sự nghiệp GD&ĐT địa phương. Luận văn: Thực trạng năng lực quản lý ở các trường học công lập.
Bên cạnh đó, được Sở GD&ĐT thành phố Đà Nẵng chỉ đạo kịp thời về chuyên môn; tạo điều kiện cho cán bộ quản lý, giáo viên học tập nâng cao trình độ về chuyên môn, chính trị; đầu tư thích đáng về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học; Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên hằng năm đều được bổ sung về số lượng và nâng cao chất lượng, tích cực học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; năng lực giảng dạy được củng cố và phát triển, hiệu quả đào tạo có những chuyển biến rõ nét.
Hiện nay, ngành GD&ĐT địa phương chịu sự tác động không nhỏ của quá trình phát triển kinh tế – xã hội của thành phố Đà Nẵng. So với các quận, huyện khác trên địa bàn thành phố thì địa phương đang trong giai đoạn xây dựng và chỉnh trang đô thị, việc di dời, giải toả diễn ra thường xuyên, chưa ổn định cuộc sống nhân dân tại một số khu vực lớn thuộc quận.
Tác động dễ dàng thấy đối với ngành GD&ĐT quận là sự phát triển dân số ở địa phương trong những năm qua tăng mạnh, số trẻ em trong độ tuổi đến trường tăng nhanh, gây áp lực về sĩ số học sinh/lớp cho các đơn vị trường học, kế hoạch trường, lớp năm sau luôn cao hơn năm trước.
Đứng trước các vấn đề nêu trên đã đặt ra không ít khó khăn cho công tác quản lý của cơ quan quản lý nhà nước và cho cả đội ngũ cán bộ quản lý trường học phải kịp thời tham mưu, đề xuất giải quyết những vướng mắc, đưa sự nghiệp giáo dục của quận đạt nhiều kết quả cao hơn nữa.
2.2. Phân tích kết quả năng lực của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường học công lập thuộc quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
2.2.1. Số lượng đội ngũ hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường học
Theo bảng thống kế số lượng, chất lượng hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường học công lập thì năm học 2017 – 2018 quận Cẩm Lệ có 22 hiệu trưởng và 31 phó hiệu trưởng các bậc học từ mầm non đến trung học cơ sở. hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường học công lập thuộc quận đa dạng về độ tuổi, trình độ, năm công tác trong ngành. Qua nghiên cứu, số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường học trên địa bàn quận Cẩm Lệ biểu hiện như sau:
Bảng 2.1. Bảng thống kê số trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở công lập thuộc quận Cẩm Lệ (tính đến 15/9/2017)
2.2.1.1. Về độ tuổi của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng Luận văn: Thực trạng năng lực quản lý ở các trường học công lập.
Theo số liệu bảng 2.2, về cơ cấu độ tuổi của đội ngũ hiệu trưởng cho thấy: đội ngũ hiệu trưởng có sự phân bố tương đối hợp lý, đối tượng trẻ tuổi và cao tuổi có tỉ lệ chênh lệch nhau, từ 51-60 tuổi hiện chiếm tỷ lệ 31,8%, dưới 30 tuổi không có đối tượng nào; độ tuổi từ 30-40 tuổi chỉ chiếm 4,5%; từ 41-50 tuổi chiếm tỷ lệ 63,6%. Sự phân hóa này đảm bảo tính ổn định và kế thừa giữa các thế hệ. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng cần tăng cường trẻ hóa đội ngũ để thích ứng với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội và đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. Số lượng hiệu trưởng ở độ tuổi 30-40 và 41-50 tuổi chiếm 68,1%, ở độ tuổi này, hầu hết các hiệu trưởng đều có sức khỏe tốt, có khả năng tiếp cận nhanh những cái mới, có kinh nghiệm và trải nghiệm trong công tác, có cánh nhìn nhận và đánh giá đúng, toàn diện các lĩnh vực xã hội, chín chắn trong việc xử lý các tình huống. Đối với độ tuổi từ 51 trở lên chiếm tỷ lệ tương đối là 31,8%, đây là độ tuổi có rất nhiều kinh nghiệm nên trong công tác quản lý dễ dẫn đến bệnh chủ nghĩa kinh nghiệm, quản lý theo lối mòn, không nhạy bén với những kiến thức mới, ít tiếp thu ý kiến đóng góp của thế hệ trẻ, ngại học tập và nghiên cứu,…
Với tốc độ phát triển ngày càng nhanh về số lượng trường, lớp và nhu cầu học tập ngày càng cao của học sinh đòi hỏi ngành GD&ĐT quận cần phải làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ quản lý trường học trẻ, bổ sung cho các đơn vị để có đủ số lượng, đảm bảo chất lượng nhằm quản lý tốt nhiệm vụ dạy và học ở các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông công lập thuộc quận. Đây là nhiệm vụ quan trọng mà lãnh đạo thành phố, địa phương đặc biệt quan tâm.
Bảng 2.2. Độ tuổi của hiệu trưởng
Theo số liệu bảng 2.3, về cơ cấu độ tuổi của phó hiệu trưởng cho thấy, so với hiệu trưởng độ tuổi của đội ngũ phó hiệu trưởng đảm bảo tỷ lệ hợp lý hơn, độ tuổi trẻ và trong giai đoạn tiếp cận nhanh các kiến thức, kinh nghiệm quản lý từ 30-40 tuổi và 41-50 tuổi chiếm tỷ lệ cao 87,1%. Đồng thời, đội ngũ phó hiệu trưởng trong độ tuổi này là một nguồn quy hoạch lớn, có tính kế thừa cho vị trí hiệu trưởng trường học và cùng với hiệu trưởng san sẻ, hỗ trợ cho công tác quản lý và điều hành nhà trường.
Bảng 2.3. Độ tuổi của phó hiệu trưởng
2.2.1.2. Về giới tính của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng
Với cơ cấu về giới trong đội ngũ hiệu trưởng, phó hiệu trưởng cho thấy: Xuất phát từ thực tế của ngành là hơn 80% cán bộ, giáo viên, nhân viên là nữ, cùng với đặc thù của các bậc học mầm non, tiểu học thì phần lớn cán bộ quản lý trường học là nữ.
Theo thống kê bảng 2.4 thì số hiệu trưởng trường học công lập thuộc quận là nữ với số lượng là 19 người chiếm tỷ lệ 86,4%, hiệu trưởng nam là 3 người chiếm tỷ lệ 13,6%. Như vậy, số hiệu trưởng nam ít hơn rất nhiều so với số hiệu trưởng nữ, ngoại trừ bậc học mầm non thì tại bậc học tiểu học, trung học cơ sở mới có cán bộ quản lý là nam giới.
Đối với phó hiệu trưởng, số lượng và tỷ lệ nữ giới trong bộ máy lãnh đạo, quản lý trường học cũng có đặc điểm giống với hiệu trưởng, số lượng phó hiệu trưởng nữ là 27 người chiếm tỷ lệ 87,1%, nam là 4 người chiếm tỷ lệ 12,9%.
Như vậy, qua phân tích số liệu nêu trên có thể thấy việc phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong các đơn vị trường học hiện nay tại địa phương còn tồn tại, hạn chế như: chính vì đặc điểm về giới nên quá trình luân chuyển công tác đối với cán bộ nữ gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là luân chuyển địa điểm, vị trí công tác với thiên chức làm mẹ, làm vợ trong gia đình; do vậy, thông thường mất nhiều thời gian để quan tâm, lo lắng chăm sóc cho gia đình hơn nam giới, khi ổn định hơn đối với công việc gia đình thì lúc này người phụ nữ đã ngoài 40 tuổi. Thời gian này mới tham gia học tập, làm việc một cách cống hiến, tâm huyết thì có phần hạn chế hơn nam giới. Luận văn: Thực trạng năng lực quản lý ở các trường học công lập.
Bảng 2.4. Tỷ lệ giới tính của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng
2.2.2. Phân tích nội dung năng lực hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường học
2.2.2.1. Trình độ chuyên môn được đào tạo
Bảng 2.5. Trình độ chuyên môn được đào tạo của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng
Theo số liệu bảng 2.5 về trình độ chuyên môn được đào tạo của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường công lập thuộc quận Cẩm Lệ cho thấy:
Về trình độ đào tạo của hiệu trưởng, trong tổng số 22 người năm học 2017-2018 có 6 người đạt trình độ thạc sĩ chiếm 11,3%; đối với phó hiệu trưởng, trong tổng số 31 người có 3 người đạt trình độ thạc sĩ chiếm 5,7%. Phần lớn trình độ đào tạo của đội ngũ cán bộ quản lý đạt chuẩn là đại học với tỷ lệ 83%.
Có thể thấy, việc phần lớn cán bộ quản lý mới chỉ ở mức đạt chuẩn thì đây chỉ mới là bước đầu đảm bảo được điều kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm cán bộ quản lý, về lâu dài cần phải tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn bởi việc tiếp thu kiến thức và kinh nghiệm quản lý của các nước trên thế giới cũng như nâng cao chất lượng giáo dục đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý, nhất là hiệu trưởng phải được đào tạo bài bản, chính quy, có trình độ chuyên môn cao (Số cán bộ quản lý có trình độ chính quy ban đầu chiếm tỷ lệ thấp, đa phần là tự học tập để đạt chuẩn cơ bản là đại học kết hợp với kinh nghiệm công tác để căn cứ đề bạt, bổ nhiệm).
2.2.2.2. Trình độ quản lý nhà nước của đội ngũ hiệu trưởng, phó hiệu trưởng
Bảng 2.6. Số lượng hiệu trưởng, phó hiệu trưởng được bồi dưỡng về kiến thức quản lý nhà nước
Bên cạnh trình độ chuyên môn, về kiến thức quản lý nhà nước (đây là chương trình bồi dưỡng bổ sung kiến thức cho đội ngũ cán bộ quản lý không mang tính bắt buộc như chương trình bồi dưỡng quản lý giáo dục) thì tỷ lệ được bồi dưỡng rất thấp, chỉ chiếm 28,3%, số chưa qua bồi dưỡng là 71,7%. Đây là một trong những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý trường học, dẫn đến hiệu quả quản lý trường học còn thấp. Mặc dù mang tính chất không bắt buộc nhưng hầu hết các kiến thức quản lý nhà nước hiện nay đều hỗ trợ, phục vụ tốt cho công tác quản lý đang ngày càng đòi hỏi sự đổi mới, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu và phối hợp với chính quyền địa phương.
2.2.2.3. Trình độ lý luận chính trị Luận văn: Thực trạng năng lực quản lý ở các trường học công lập.
Bảng 2.7. Trình độ lý luận chính trị của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng
Về trình độ lý luận chính trị: cán bộ quản lý trường học có trình độ lý luận chính trị đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định là Trung cấp chiếm tỷ lệ cao 73,6% với 39/53, tạo thuận lợi cho việc thực hiện mục tiêu phát triển đội ngũ cán bộ quản lý của địa phương. Tuy nhiên, số cán bộ chưa qua đào tạo đảm bảo tiêu chuẩn vẫn còn đến 14/53 người, chiếm tỷ lệ 26,4%. Do đó, trước yêu cầu đổi mới giáo dục và sự phát triển của thành phố nói chung đang đặt ra cho đội ngũ cán bộ quản lý trường học những đòi hỏi, thử thách. Nếu không có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng, đạo đức công vụ trong sáng thì khó vượt qua được.
2.2.2.4. Trình độ tin học, ngoại ngữ
Bảng 2.8. Trình độ tin học, ngoại ngữ của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng
Theo bảng số liệu 2.8 cho thấy: trình độ tin học, ngoại ngữ của đội ngũ cán bộ quản lý đảm bảo theo chuẩn quy định; trong đó, số cán bộ có trình độ trung cấp tin học trở lên chiếm tỷ lệ khiêm tốn là 7,6% với 04 người; có chứng chỉ bồi dưỡng trình độ A, B, C và tương đương là 92,4%; trình độ đại học ngoại ngữ (chủ yếu là Anh văn) khá thấp, với số lượng 03 người chiếm tỷ lệ 5,7%; có chứng chỉ ngoại ngữ là 50 người chiếm tỷ lệ 94,3%.
Qua số liệu thống kê nêu trên, có thể thấy đội ngũ cán bộ quản lý đều được trang bị kiến thức cơ bản về tin học, ngoại ngữ, đủ khả năng sử dụng máy tính trong công tác quản lý. Tuy nhiên, số người có trình độ cao về tin học vẫn còn ít. Thực tế, số liệu thống kê chỉ mang tính tiêu chuẩn của chứng chỉ, còn việc kiểm tra tay nghề trình độ tin học thì có khả năng không tương ứng với trình độ được đào tạo, bồi dưỡng. Đặc biệt, về khả năng ngoại ngữ thì còn rất hạn chế. Do đó, việc áp dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, khả năng nghiên cứu tài liệu ngoại ngữ, tra cứu thông tin để ứng dụng vào thực thi công vụ sẽ không phát huy tốt.
Đội ngũ cán bộ quản lý có vai trò quan trọng trong đổi mới giáo dục; là một trong những lực lượng trực tiếp góp phần hoạch định chủ trương, chính sách, đề án, chiến lược và các nhiệm vụ đổi mới giáo dục; là một nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của đổi mới giáo dục phổ thông. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ quản lý trường học đủ về số lượng, trình độ đào tạo được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục. Phần lớn cán bộ quản lý giáo dục các cấp đều là những giáo viên đã đạt tiêu chuẩn và trên chuẩn trình độ đào tạo quy định trong điều lệ, quy chế về các trường học từ mầm non đến trung học cơ sở.
Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới, trình độ quản lý và tính chuyên nghiệp, đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Trong đó, tính chuyên nghiệp trong việc thực thi công vụ, khả năng tham mưu, xây dựng chính sách, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và đặc biệt là trong việc ứng dụng triển khai các phương pháp quản lý giáo dục theo xu thế phát triển của thời đại còn bất cập. Cán bộ quản lý trường học trên địa bàn quận thiếu chủ động, khó khăn trong việc phát hiện và giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra từ cơ sở do kiến thức và kỹ năng quản lý giáo dục còn hạn chế. Trình độ và năng lực điều hành trong quản lý dựa vào kinh nghiệm cá nhân, ít vận dụng khoa học quản lý, dự báo, xây dựng chiến lược, kế hoạch vào thực tiễn. Ðáng chú ý, kiến thức về pháp luật, tổ chức bộ máy, quản lý nhân sự và tài chính của đội ngũ cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đôi khi còn lúng túng trong thực thi trách nhiệm và thẩm quyền. Trình độ ngoại ngữ, kỹ năng tin học còn nhiều hạn chế trong việc thu thập và xử lý thông tin trong và ngoài nước về giáo dục và những yếu tố tác động khác.
Từ góc độ quản lý các trường học trong bối cảnh hiện nay, cần xây dựng năng lực của cán bộ quản lý trường học về năng lực tổ chức thực hiện và phát triển chương trình; năng lực lập kế hoạch phát triển nhà trường và năng lực hỗ trợ trong quản lý các trường cũng như năng lực quản lý bản thân để đáp ứng yêu cầu đổi mới. Đồng thời, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý cần bảo đảm thực hiện tốt quy trình đào tạo, bồi dưỡng gồm bốn bước cơ bản là: Xác định nhu cầu; lập kế hoạch; thực hiện kế hoạch và đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng.
2.3. Thực trạng năng lực quản lý của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường học công lập thuộc quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
2.3.1. Thực trạng năng lực tổ chức thực thi pháp luật, điều lệ, chủ trương, chính sách quản lý Luận văn: Thực trạng năng lực quản lý ở các trường học công lập.
Nhìn chung, cán bộ quản lý thực hiện nghiêm túc chương trình giáo dục đạo đức, pháp luật đúng theo hướng dẫn của Phòng GD&ĐT, Ủy ban nhân dân quận; Chủ động tìm hiểu, nghiên cứu các văn bản pháp luật để triển khai tuyên truyền trong nhà trường; Tham gia trực tiếp soạn thảo các văn bản thực hiện tổ chức triển khai cho cán bộ, nhà giáo, người lao động và học sinh; thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; theo dõi tình hình thi hành pháp luật và kiểm tra việc thực hiện pháp luật. Đặc biệt, thực hiện tốt về công tác cải cách thủ tục hành chính: Công bố các thủ tục hành chính thuộc phạm vi thực hiện; niêm yết đầy đủ thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết theo quy định của pháp luật tại trường; Niêm yết và công khai nội dung và địa chỉ tiếp nhận, xử lý, phản ánh, kiến nghị về quy định về hành chính đối với cá nhân, tổ chức giải quyết các thủ tục hành chính theo đúng thời hạn.
Bên cạnh những điểm mạnh là triển khai kịp thời các văn bản chỉ thị của cấp trên, hiểu trách nhiệm và quyền hạn của mình thì đội ngũ cán bộ quản lý còn một số hạn chế sau: việc cập nhật văn bản pháp luật chưa cao, hình thức triển khai pháp luật trong đội ngũ viên chức, người lao động trong đơn vị còn mang tính hình thức.
2.3.2. Thực trạng năng lực lập kế hoạch
Quá trình lập kế hoạch của nhà trường được tiến hành theo trình tự các bước quy định.
Trong xây dựng kế hoạch công tác năm học của trường, chậm nhất tháng 9 hàng năm, sau khi thống nhất giữa Hội đồng trường, Hội đồng sư phạm, hiệu trưởng trình kế hoạch năm tới lên Phòng GD&ĐT.
Đối với kế hoạch công tác quý, là cấp độ cụ thể hóa kế hoạch công tác năm (chậm nhất vào ngày 15 tháng cuối quý), Ban Giám hiệu nhà trường trao đổi, lập kế hoạch. Tuy nhiên, đa số các trường đều không xây dựng kế hoạch theo quý.
Đối với kế hoạch công tác theo tháng, nội dung là nhằm cụ thể hóa chương trình kế hoạch công tác quý để căn cứ thực hiện theo từng tháng của quý và những việc cần bổ sung, điều chỉnh trong tháng, trách nhiệm này thuộc về người đứng đầu đơn vị nhưng phần lớn tại đơn vị không có kế hoạch tháng.
Đối với kế hoạch tuần, đây là công việc giải quyết hàng ngày trong tuần, phân công trách nhiệm cho ban giám hiệu nhà trường. Hiện nay, kế hoạch hàng tuần tại các trường học do Tổ Văn phòng tham mưu lãnh đạo nhà trường khá tốt, nhất là tại bậc THCS.
Định kỳ tháng, quý, 6 tháng và năm, trên cơ sở các kế hoạch được xây dựng, hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm rà soát, kiểm tra kết quả thực hiện phần công việc của trường mình, báo cáo Phòng GD&ĐT quận về kết quả xử lý công việc còn tồn đọng, hướng xử lý tiếp theo và những kiến nghị điều chỉnh, bổ sung văn bản.
Việc lập kế hoạch là một nhiệm vụ được cụ thể hóa từ chức năng tham mưu, tổng hợp của Tổ Văn phòng. Tiến hành công việc này gồm: Luận văn: Thực trạng năng lực quản lý ở các trường học công lập.
- Chỉ đạo của hiệu trưởng.
- Soạn thảo văn bản: xây dựng đề cương – Đối chiếu các chương trình, kế hoạch có liên quan – Soạn thảo chi tiết (nhân viên tổng hợp).
- Hiệu trưởng thông qua
- Chế bản
- Trình ký
- Phát hành
Các văn bản ban hành nhìn chung mang tính khả thi, sát thực tiễn. Tuy nhiên, thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản chưa đúng theo quy định hiện hành (Thông tư số 01/2011/TT-BNV ngày 19/01/2011 của Bộ Nội vụ), chưa đảm bảo văn phong hành chính nhưng nội dung thì cụ thể, dễ hiểu.
Qua khảo sát, công tác lập kế hoạch của hiệu trưởng các trường học thuộc quận nói chung trong thời gian đã có sự thay đổi rõ nét, về hình thức dần đảm bảo các quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản, về nội dung đạt yêu cầu về mục tiêu, tính pháp lý, có tính hệ thống, đồng bộ, kịp thời và tạo được sự đồng thuận giữa tập thể lãnh đạo, giáo viên, nhân viên nhà trường, có tính linh hoạt, khả thi.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc lập kế hoạch của nhà trường còn một số tồn tại sau:
Một là, quá trình lập kế hoạch đòi hỏi Tổ Văn phòng phải có hiểu biết rộng và tư duy tổng hợp tốt, hiệu trưởng đưa ra ý tưởng chỉ đạo rõ ràng và khoa học. Tuy nhiên, do nhà trường có nhiều việc đột xuất nên thông thường kế hoạch hoàn chỉnh thường nộp chậm. Khó khăn lớn nhất của vấn đề này là một số trường còn thiếu nhân viên tổng hợp, hoặc có nhưng thiếu kinh nghiệm hoặc lớn tuổi và thiếu kỹ năng soạn thảo văn bản.
Hai là, so với yêu cầu đạt được thì tính khoa học của văn bản chưa cao và tốc độ triển khai còn chậm.
Ba là, chất lượng của kế hoạch chủ yếu phụ thuộc vào trình độ của nhân viên văn phòng.
Bốn là, hằng năm đều phải xây dựng kế hoạch này nhưng công tác này vẫn chưa đạt được kết quả tốt, chưa khắc phục nhưng hạn chế các năm trước. Một kế hoạch từ khi xây dựng đến khi chính thức ban hành phải thông qua nhiều cuộc họp giữa ban giám hiệu, các tổ bộ môn.
Năm là, công tác xây dựng kế hoạch của hiệu trưởng chưa chặt chẽ, có xu hướng buông trôi, thực hiện chậm hay không đúng tiến độ, yêu cầu nhưng không có biện pháp chấn chỉnh; còn làm theo thói quen, tiền lệ, ít có tham mưu mang tính đột phá, chuyên sâu. Công tác phối hợp trong việc xây dựng kế hoạch có tính liên ngành còn nhiều bất cập, thiếu sự hợp tác, cục bộ địa phương, thiếu sự quyết tâm từ phía lãnh đạo.
Có thể chỉ ra một số nguyên nhân của khó khăn trên là:
- Sự phối hợp giữa hiệu trưởng nhà trường với tổ bộ môn còn chưa chặt chẽ, kể cả sự phối hợp trong quá trình chuẩn bị hoàn chỉnh nội dung và thủ tục.
- Mức độ chủ động đề xuất, tham mưu cho Ủy ban nhân dân quận, Phòng GD&ĐT về những vấn đề mang tính chiến lược, giải pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của trường học còn ít; còn bị động chờ giao nhiệm vụ của cấp trên mới triển khai nghiên cứu, đề xuất.
- Việc lập kế hoạch của nhà trường còn hạn chế, trong việc lập kế hoạch, Tổ Văn phòng chưa xác định được 4 thành phần có bản của kế hoạch đó là: mục tiêu của tổ chức, các biện pháp thực hiện, các nguồn lực và thời điểm thực hiện mục tiêu.
2.3.3. Thực trạng năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế hoạt động Luận văn: Thực trạng năng lực quản lý ở các trường học công lập.
Theo khảo sát ý kiến ở các trường học, nhiều giáo viên tính tập thể còn chưa cao. Mối quan hệ cấp trên, cấp dưới, quan hệ đồng nghiệp còn hạn chế, chưa tự mình giải quyết được xung đột, mối quan hệ giữa các cấp. Do đó, quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế hoạt động vẫn còn hạn chế khi các tổ, các đoàn thể, cán bộ chuyên môn nhà trường chưa phối hợp để thi hành, nhất là những công việc yêu cầu sự kết hợp thực hiện.
Cán bộ quản lý các trường mà đứng đầu là hiệu trưởng là người đòi hỏi phải giải quyết hài hòa các mối quan hệ giữa cấp trên, cấp dưới và cơ quan ngang cấp. Thực tế năng lực tổ chức thực hiện quy chế hoạt động của cán bộ quản lý nhà trường còn chưa tốt, có một số biểu hiện cụ thể sau:
Việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ trong nhà trường theo Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/1/2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong các cơ quan hành chính nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công: 100% các trường công lập đã tổ chức hội nghị cán bộ viên chức với tinh thần dân chủ, cởi mở, thẳng thắn, công khai những vấn đề liên quan đến tài chính; quy hoạch, bổ nhiệm các chức danh quản lý (hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, tổ trưởng, tổ phó chuyên môn,…); hoạt động dạy học, tuyển sinh…Tuy nhiên, quá trình thực hiện không ít trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở việc thực hiện dân chủ hình thức, nể nang, thậm chí giáo viên sợ hiệu trưởng là do không minh bạch, công khai, thiếu giám sát, chế tài xử lý. Nhận thức về dân chủ, trách nhiệm thực hiện quy chế dân chủ cơ sở của một số cán bộ lãnh đạo đơn vị và cá nhân chưa đúng, chưa được quan tâm dẫn tới hiểu sai, thực hiện không đúng quy định về dân chủ. Việc thực hiện dân chủ còn hình thức, đối phó với các đoàn kiểm tra cấp trên.
Về thực hiện quy chế thi đua khen thưởng: bên cạnh những mặt tích cực của công tác thi đua khen thưởng mang lại như động viên, tôn vinh kịp thời tập thể, cá nhân đạt thành tích xuất sắc; phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điểm hình tiên tiến theo tinh thần Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 21/5/2004 của Bộ Chính trị thì công tác thi đua khen thưởng còn khá nhiều hạn chế, vướng mắc và bất cập. Kết quả khảo sát, điều tra tại một số trường học thuộc quận cho thấy những hạn chế đó là: Tiêu chí thi đua và cơ cấu điểm còn nhiều bất cập, một số tiêu chí định tính, chưa định lượng; nhiều nội dung khó kiểm tra, so sánh. Việc đánh giá nhận xét, bình chọn còn mang tính chất cảm tính, chưa thực chất, nên danh hiệu thi đua đạt được chưa tương xứng; việc khen thưởng cho người trực tiếp giảng dạy, nhân viên hỗ trợ phục vụ còn ít nên không tạo động lực phấn đấu; thiếu sót trong danh sách đăng ký danh hiệu thi đua; chất lượng hoạt động của Hội đồng thi đua trường học không cao.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém trước hết là sự quan tâm, lãnh đạo của hiệu trưởng – Chủ tịch Hội đồng thi đua khen thưởng trường chưa toàn diện; việc nhận xét trực tiếp về năng lực chuyên môn của phó hiệu trưởng và các trưởng bộ phận chưa sâu sắc, đầy đủ. Luận văn: Thực trạng năng lực quản lý ở các trường học công lập.
2.3.4. Thực trạng năng lực quản lý và sử dụng nguồn nhân lực
Để quản lý đội ngũ giáo viên, nhân viên nhà trường, trước hết phải có quy chế hoạt động của cơ quan, cụ thể là bảng phân công chuyên môn của từng tổ bộ môn (thông thường theo năm học và có sự điều chỉnh, bổ sung nếu có sự thay đổi). Mỗi bộ phận có nhiệm vụ riêng và hoạt động của các bộ phận này nhằm mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ đã được lãnh đạo nhà trường giao, góp phần vào việc đạt mục tiêu chung của toàn trường.
Các cơ sở để phân công: Căn cứ vào chức năng và các nhiệm vụ của nhà trường; hoàn cảnh cụ thể của nhà trường, tùy thuộc vào tổng khối lượng công việc, tính chất hoạt động quản lý và yêu cầu thực hiện các hoạt động đó; Xuất phát từ số lượng người làm việc được giao và cơ cấu đội ngũ viên chức của nhà trường; Trình độ, năng lực, phẩm chất, hoàn cảnh cụ thể cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường. Kết quả của việc phân tích, quản lý đội ngũ nhân sự nhà trường giúp cán bộ quản lý trong việc lập kế hoạch nguồn nhân lực, đào, bồi dưỡng, đánh giá, nhận xét một cách hợp lý.
Các bước tiến hành: Phân tích công việc; Lập bản mô tả công việc; Bản yêu cầu công việc đối với người thực hiện.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc quản lý tổ chức và phát triển nhân sự của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng còn một số tồn tại sau:
Không thực hiện đúng quy trình xây dựng chuẩn phân công chuyên môn nên việc tìm hiểu tâm tư nguyện vọng và các ý kiến xây dựng từ phía giáo viên cho bảng phân công trên của Ban giám hiệu không có hiệu quả, chỉ là việc tháo gỡ vấn đề cá nhân của từng giáo viên khi thấy vướng mắc. Vì vậy dễ dẫn tới sự bằng mặt nhưng không bằng lòng và ảnh hưởng tới bầu không khí tâm lí sư phạm trong nhà trường;
Trong căn cứ phân công mà ban giám hiệu nêu ra trước tập thể giáo viên đôi khi thiếu tính hiệu lực, khó có thể quản lý được các tổ trưởng chuyên môn phân công có đảm bảo công bằng khách quan hay không. Từ đó hiệu trưởng và phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn khó kiểm tra được và giáo viên cũng không có cơ sở để phản ánh nếu thấy vướng mắc trong việc phân công từ phía tổ trưởng. Cách làm này thiếu tính hiệu lực về mặt pháp lý và dễ tạo cho cấp dưới làm việc tùy tiện thiếu cơ sở căn cứ từ văn bản, hiểu thế nào làm thế đó, trách nhiệm đến đâu làm đến đó.
Việc phân công chưa khoa học là một áp lực lên cơ quan quản lý cấp trên khi phân bổ chỉ tiêu số lượng người làm việc cho các đơn vị trường học trực thuộc. Hơn nữa, đây là giai đoạn thực hiện tinh giản biên chế, chỉ đạo của thành phố ở các đơn vị trước hết đều phải tự cân đối số lượng người làm việc được giao trước khi đề xuất bổ sung người làm việc.
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến những tồn tại nêu trên như: do năng lực của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng còn hạn chế, việc chỉ đạo và tham mưu giúp việc để đưa ra chiến lược không mang tính bao quát, chiều sâu; việc thu thập thông tin, xây dựng tiêu chuẩn thực hiện công việc chưa được sử dụng thường xuyên, khoa học.
2.3.5. Thực trạng năng lực quản lý tài chính, tài sản công Luận văn: Thực trạng năng lực quản lý ở các trường học công lập.
Đối với công tác quản lý tài chính, tài sản công của các đơn vị trường học, trách nhiệm người đứng đầu là hiệu trưởng là chính. Thực tế hiện nay, hiệu trưởng các trường vẫn còn lúng túng trước nhiều câu hỏi đặt ra là các khoản thu, chi như thế nào được coi là hợp lý, hợp lệ và hợp pháp; những mục chi nào được phép và không được phép chi; hồ sơ dự toán lập không đúng quy định nhưng vẫn ký (thiếu biểu mẫu, thiếu các căn cứ xác định, không có báo cáo thuyết minh giải trình; áp dụng định mức, tiêu chuẩn vào lập dự toán sai chế độ quy định (tự nâng dự toán lên mà không có căn cứ, tự tính thiếu dự toán mà không biết); có những mâu thuẫn trong nội bộ nhà trường cũng đã xảy ra liên quan đến vấn đề tài chính; có những cán bộ quản lý trường học là chủ tài khoản đã để xảy ra những sai phạm nghiêm trọng khi được thanh tra phát hiện; một số hiệu trưởng đã bị các cơ quan chức năng buộc phải xử lý kỷ luật…Hoặc ở một số trường số vụ việc kiện tụng, tố cáo công tác quản lý và sử dụng tài chính, các khoản thu của một số lãnh đạo nhà trường với tính chất rất phức tạp, mất khá nhiều thời gian để đưa ra kết luận thanh tra, kiểm tra.
Nguyên nhân của những hạn chế này có thể nêu lên đó là:
- Thứ nhất, khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ cương vị lãnh đạo, chủ tài khoản nhà trường, đa số hiệu trưởng thường xuyên bận rộn với nhiều công việc, quản lý tài chính cũng chỉ là một trong những lĩnh vực quản lý. Nhiều hiệu trưởng chưa dành thời gian để học hỏi, nghiên cứu, còn thiếu kiến thức nghiệp vụ về quản lý công tác này. Họ ít hoặc không được học tập, trang bị, đào tạo bài bản về công tác quản lý tài chính, đây là lý do chính khiến nhiều hiệu trưởng làm sai về quản lí thu chi tài chính mà không biết mình làm sai, đôi khi bị xử lý bằng những hình thức kỉ luật…
- Thứ hai, trên cương vị lãnh đạo, quản lý, một số hiệu trưởng có tư tưởng kinh phí của Nhà nước cấp, phụ huynh học sinh đóng góp là do mình định đoạt chi tiêu, “lách” quy định pháp luật; có biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, làm việc thiếu dân chủ, không công khai, minh bạch về tài chính theo qui định, dẫn đến nội bộ mất đoàn kết, khiếu nại, tố cáo.
- Thứ ba, công tác thanh tra ở đơn vị và của cấp trên về mặt quản lý tài chính hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế (số lượng các cuộc thanh tra, kiểm tra, năng lực thành phần đoàn thanh tra,…).
2.3.6. Thực trạng năng lực quản lý sự thay đổi, giải quyết vấn đề và ra quyết định
- Về năng lực quản lý sự thay đổi Luận văn: Thực trạng năng lực quản lý ở các trường học công lập.
Những thay đổi về công nghệ và môi trường đang dẫn dắt những thay đổi về kinh tế – xã hội. Tất cả những khung quy định về tương tác xã hội theo đó cũng cần có phạm vi cho sự phát triển linh hoạt. Đặc biệt khi xã hội luôn luôn phát triển nhanh hơn các quy định của pháp lý. Khoảng cách giữa những điều pháp luật cho phép làm và pháp luật không cấm làm cũng khiến nhiều nhà quản lý khó khăn trong công tác quản lý. Việc có những thay đổi thường xuyên từ phía các cơ quan chủ quản cũng khiến nhà quản lý trường học gặp nhiều sức ép trong việc phải thực thi đáp ứng sự thay đổi nếu họ không được trang bị về tâm lý và năng lực quản trị, dẫn dắt, thích ứng với sự thay đổi.
Có thể thấy một biểu hiện cụ thể của sự thay đổi hiện nay đó là công tác quản lý hoạt động dạy học trong các nhà trường. Tuy nhiên, nhận thức của một số cán bộ quản lý về những chủ trương đổi mới trong công tác quản lý, dạy học ở một số trường còn hạn chế. Số lượng học sinh phát triển mạnh, trong khi số lượng trường lớp, trang thiết bị dạy học không thể ngày một ngày hai đáp ứng kịp thời. Công tác chỉ đạo đổi mới hoạt động dạy học trong một số nhà trường chưa được chú trọng đúng mức dẫn đến chất lượng giáo dục còn có sự chênh lệch giữa các trường.
Do đó, công tác quản lý hoạt động dạy học trong các nhà trường cũng cần được quan tâm, nhất là việc đổi mới cơ chế quản lý nhà trường theo hướng dân chủ hoá, xã hội hoá, nhà trường được tự chủ, được giám sát và chịu trách nhiệm giải trình. Khi quản lý, chỉ đạo đổi mới hoạt động dạy học trong nhà trường trên địa bàn nhất thiết phải vận dụng các kiến thức của quản lý sự thay đổi.
Để thực sự đổi mới công tác quản lý là người quản lý phải biết khơi dậy phong trào đổi mới trong đơn vị mình và biết cách “quản lý sự thay đổi”.
- Về giải quyết vấn đề và ra quyết định
Các vấn đề, tình huống trong thực thi công vụ như: tình huống chuyên môn, tình huống giao tiếp, …đòi hỏi nhà quản lý phải xử lý sao cho có lý và có tình, đảm bảo chuyên môn và phù hợp quy định pháp luật. Thực hiện, các trường học đều xảy ra những vấn đề liên quan đến cá nhân giáo viên, nhân viên, phụ huynh, học sinh nhưng một số cán bộ quản lý trường học xử lý chưa linh hoạt, tùy tiện, chưa căn cứ quy định pháp lý, do đó ảnh hưởng đến quá trình thực thi công vụ.
Những vấn đề, tình huống phát sinh đó không chỉ bằng kinh nghiệm mà còn phải là bản lĩnh, năng lực quản lý để đưa ra quyết định đúng đắn hoặc hạn chế thấp nhất nguy cơ của vấn đề.
Biểu hiện dễ bắt gặp nhất trong quá trình giải quyết vấn đề và đưa ra quyết định của hiệu trưởng trường học như việc không xử lý được hoặc xử lý chưa đúng do chưa hiểu và nắm chắc kiến thức pháp luật, về những điều công chức, viên chức không được làm theo quy định của Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức. Chính những lần xử lý chưa đúng pháp luật này dẫn đến uy tín, sự tin cậy của nhân viên cấp dưới đối với những người quản lý nhà trường.
2.3.7. Thực trạng năng lực xây dựng văn hóa công sở Luận văn: Thực trạng năng lực quản lý ở các trường học công lập.
Theo chuyên gia quản lý giáo dục, xây dựng văn hóa quản lý trong nhà trường phải bắt đầu từ xây dựng văn hóa quản lý của hiệu trưởng. Văn hóa quản lý của hiệu trưởng biểu hiện văn hóa nhà trường, các thành viên trong nhà trường sẽ học tập và làm theo hiệu trưởng từ tác phong làm việc đến ngôn ngữ trong giao tiếp ứng xử với mọi người. Qua khảo sát, điều tra tại một số trường, việc xây dựng Văn hóa công sở cần được khắc phục những nội dung sau:
Các thiết chế văn hóa trong không gian trường học (trường lớp, phòng truyền thống, sân chơi, bãi tập, hệ thống cây xanh, cây cảnh, ghế đá, công trình vệ sinh, lán xe, panô áp phích, công cụ truyền thông, cổng, rào,…): phần lớn được tạo ra môi trường xanh sạch đẹp, an toàn và thân thiện do đa số các trường được đầu tư nâng cấp, xây dựng mới. Tuy nhiên, cảnh quan về hệ thống cây xanh, công trình vệ sinh, cổng, rào trường còn chưa khoa học, thiếu thiện cảm và đôi khi không sử dụng đúng mục đích.
Về chấp hành quy chế công sở: khi thi hành công vụ, cán bộ, viên chức chưa mang phù hiệu hoặc thẻ công chức, viên chức; trong xưng hô thầy – trò đôi khi chưa đúng chuẩn mực; tình trạng bè phái trong hội đồng sư phạm nhà trường khá phổ biến, dẫn đến nội bộ chưa thực sự đoàn kết, bầu không khí làm việc kém hiệu quả;
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên trước hết đến từ năng lực, tầm nhìn và tư duy đổi mới của cán bộ quản lý nhà trường; việc phân công công việc không hợp lý dẫn đến sự không tương thích về năng lực và chức trách.
Bởi sự phù hợp về sở trường, nguyện vọng cá nhân sẽ tác động vào quá trình thực hiện nhiệm vụ của bản thân. Ngoài ra, trong một tập thể sẽ có những cá nhân vừa có phẩm chất, đạo đức tốt và có trình độ, trách nhiệm cao trong công việc nhưng cũng có những cá nhân còn hạn chế, khuyết điểm về nhận thức hoặc trình độ. Do đó, người chịu trách nhiệm duy trì và phát huy nề nếp tốt đẹp có văn hóa, không ai khác, chính là thủ trưởng cơ quan, là tập thể lãnh đạo cơ quan và tất cả công chức, viên chức trong cơ quan.
2.3.8. Thực trạng năng lực tổ chức kiểm tra, đánh giá
Công tác kiểm tra của cán bộ quản lý trường học có sự phân công, phối hợp giữa tập thể ban giám hiệu, đảm bảo cho điều hành của cá nhân và đơn vị đều hướng tới mục tiêu chung.
Qua khảo sát việc kiểm tra, đánh giá tại một số trường, nội dung kiểm tra nội bộ của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng bao gồm: (1) Kiểm tra cán bộ giáo viên, nhân viên (chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ theo quy định, xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực; công tác chủ nhiệm lớp; kiểm tra thực hiện chương trình, nội dung giảng dạy; thực hiện quy chế chuyên môn, soạn bài kiểm tra, cho điểm, đánh giá, xếp loại, xét duyệt học sinh lên lớp, tốt nghiệp,…); (2) kiểm tra tổ, nhóm chuyên môn, các bộ phận công tác (Công tác quản lý của tổ trưởng; hồ sơ chuyên môn; nền nếp chuyên môn; chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động học tập của học sinh; chất lượng giảng dạy của tổ, nhóm chuyên môn); (3) Hiệu trưởng kiểm tra lớp học và học sinh; (4) Kiểm tra cơ sở vật chất, tài chính: (5) Hiệu trưởng kiểm tra các nội dung khác Luận văn: Thực trạng năng lực quản lý ở các trường học công lập.
Một số hạn chế rút ra từ kết quả công tác kiểm tra tại các trường học thuộc quận:
- Về nhận thức: chưa thấy rõ tầm quan trọng của công tác kiểm tra nội bộ, coi kiểm tra nội bộ chỉ là hoạt động phối hợp nằm trong biện pháp động viên thi đua, là biện pháp để đánh giá.
- Về hoạt động: chưa đầy đủ, chưa thường xuyên, chưa có kế hoạch cụ thể, đôi khi còn hình thức.
Những hạn chế trong công tác kiểm tra của cán bộ quản lý trường học sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường, đặc biệt, ở các bậc học mầm non, tiểu học với sự phức tạp của hoạt động dạy học, chăm sóc trẻ, công tác bán trú, chỉ đến khi các đoàn thanh tra, kiểm tra của Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT về kiểm tra, đánh giá hoặc từ ý kiến phản hồi, kiến nghị của phụ huynh học sinh, từ báo chí thì mới phát hiện, khắc phục.
Bảng 2.9. Đánh giá mức độ quan trọng về các kỹ năng quản lý của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường công lập thuộc quận Cẩm Lệ
Số liệu thống kê cho thấy các kỹ năng quản lý đã đề cập trong luận văn chiếm tỷ lệ về mức độ từ quan trọng trở lên rất cao. Trong đó, các kỹ năng, kiến thức về quản lý nhân sự, tài chính chiếm trên 50% mức độ quan trọng nhất, các kỹ năng hành chính như lập kế hoạch, đánh giá, kiểm tra, tổ chức hội họp chiếm tỷ lệ rất quan trọng từ mức 48% đến hơn 78%. Một số kỹ năng mềm như đàm phán, quản lý xung đột, quản lý nhóm làm việc trong thực tế các đơn vị chưa xảy ra nghiêm trọng nên mức độ đánh giá ít quan trọng vẫn còn, chiếm từ 3% đến 5%.
Quá trình điều tra, khảo sát các kỹ năng liên quan đến năng lực quản lý của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng sẽ là cơ sở để xây dựng các giải pháp nâng cao năng cao quản lý của đội ngũ này. Một trong những giải pháp trước hết, đó là cần bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng quản lý.
2.4. Đánh giá thực trạng năng lực quản lý của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các đơn vị trường học công lập thuộc quận Cẩm Lệ Luận văn: Thực trạng năng lực quản lý ở các trường học công lập.
2.4.1. Một số kết quả đạt được và nguyên nhân
2.4.1.1 Những kết quả đạt được
Đội ngũ cán bộ quản lý trường học có sự phân hóa giữa các nhóm tuổi nhưng đảm bảo có tính định hướng, kế thừa. Điều này giúp cho công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy năng lực trong quá trình công tác.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực quản lý, điều hành của đội ngũ hiệu trưởng, phó hiệu trưởng được nâng lên, nhất là về lập trường tư tưởng, quan điểm chính trị, có năng lực tập hợp tinh thần đoàn kết tập thể sư phạm nhà trường, trách nhiệm cao trong công việc và luôn mong muốn, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao. Chính yếu tố này là ưu điểm nổi bật góp phần nâng cao năng lực quản lý, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, đưa sự nghiệp giáo dục và đào tạo địa phương ngày càng phát triển
Đội ngũ cán bộ quản lý các trường tuân thủ các văn bản, quy định của bộ, ngành, thành phố và chỉ đạo của Ủy ban nhân dân quận để vận dụng vào thực tế quản lý, đồng thời đã quan tâm xây dựng và thực hiện tốt mục tiêu, kế hoạch chiến lược của đơn vị.
Năng lực thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ quản lý trường học quận Cẩm Lệ phát huy được năng lực trong thực tiễn công tác quản lý. So với trước đây, năng lực quản lý đã có nhiều thay đổi, tiến bộ rõ rệt, từ các khâu lập kế hoạch hoạt động đến việc thực hiện, tham mưu đề xuất ý kiến cho đến khâu kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động và quản lý các nguồn lực. Đa số cán bộ quản lý tích cực học hỏi, trau dồi và tích lũy kinh nghiệm trong quá trình làm việc để đáp ứng được yêu cầu công tác.
2.4.1.2. Nguyên nhân
Hiện nay, trong công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý, Quận ủy, Ủy ban nhân dân quận đã tổ chức và thực hiện tốt công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ quản lý trường học, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý theo hướng chuẩn hóa về chức danh, trình độ, đảm bảo đủ về số lượng, nâng cao chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, chú trọng nâng cao năng lực công tác, phẩm chất đạo đức. Việc quy hoạch luôn chú trọng phát hiện người có tâm, tầm và tài, theo nhu cầu thực tế của mỗi đơn vị, đảm bảo các tiêu chuẩn, điều kiện chức danh quản lý do Ủy ban nhân dân thành phố ban hành, thực hiện công khai, minh bạch, dân chủ, góp phần tạo động lực để các cá nhân phát huy tối đa năng lực trong công tác.
Thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên tham gia các lớp đào tạo đại học, sau đại học quản lý giáo dục, bồi dưỡng cán bộ quản lý, lý luận chính trị – hành chính, kiến thức giáo dục quốc phòng – an ninh,…
Sự tác động của cơ chế, chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực trong đó có ngành giáo dục đã tạo điều kiện và cơ hội cho đội ngũ cán bộ quản lý tiếp cận nhiều phương pháp, kỹ năng quản lý, ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông vào công tác quản lý; Đồng thời, tuy khối lượng công việc nhiều, áp lực và sự tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường nhưng với lòng yêu nghề, ý thực trách nhiệm là những người đứng đầu đơn vị, đội ngũ cán bộ quản lý trường học luôn chịu khó học hỏi, tìm tòi sáng tạo để vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.
2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân Luận văn: Thực trạng năng lực quản lý ở các trường học công lập.
2.4.2.1 Những kết quả đạt được
Bên cạnh những kết quả đã được được, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý các trường học trên địa bàn quận vẫn còn những hạn chế cần khắc phục:
Đội ngũ cán bộ quản lý các trường chưa được trang bị đầy đủ kiến thức về công tác quản lý, nhất là những kiến thức, kỹ năng về quản lý và phát triển nhân sự, quản lý tài chính và tài sản công, các chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước,…
Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý các trường còn hạn chế về tầm nhìn chiến lược, khả năng dự báo hoạt động nên trong công tác xây dựng kế hoạch của một số đơn vị còn lúng túng, chưa khoa học và chặt chẽ, chủ yếu liệt kê công việc mà không đi đôi với biện pháp thực hiện khả thi.
Trình độ kiến thức và năng lực công tác thực tiễn của đội ngũ cán bộ quản lý chưa đáp ứng kịp với những thay đổi, đôi lúc quản lý bằng kinh nghiệm mà chưa theo dõi, căn cứ các quy định mới để triển khai thực hiện, Những hạn chế này dẫn tới năng lực tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách trong quản lý còn chậm, thậm chí thụ động, máy móc và sai sót. – Hiệu trưởng là người đứng đầu đơn vị nhưng lại thiếu chủ động, sáng tạo và đổi mới trong việc xây dựng cũng như triển khai thực hiện kế hoạch. Chính điều này tạo nên bầu không khí rời rạc, thiếu tinh thần gắn kết, không tập hợp, phát huy được sức mạnh đoàn kết đến đội ngũ cấp dưới.
2.4.2.2. Nguyên nhân
Trình độ, kiến thức và năng lực công tác thực tiễn của đội ngũ cán bộ quản lý chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, còn bất cập trong quá trình quản lý. Vẫn còn trường hợp cán bộ được bổ nhiệm rồi thì mới cử tham gia các lớp bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý do tỉ lệ cử đi đào tạo, bồi dưỡng hằng năm đã được quy định để tránh tình trạng cùng một đơn vị, cùng thời điểm nhưng tất cả cán bộ quản lý lại đều tham gia đào tạo, bồi dưỡng, ảnh hưởng một phần đến công việc quản lý của đơn vị.
Theo kết quả thống kê, có gần 70% cán bộ quản lý trường học thuộc quận chưa qua lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước ngạch chuyên viên, đây là chứng chỉ không bắt buộc nhưng thời gian gần đây, nội dung chương trình này lại khá cần thiết và gắn với thực tiễn quản lý (kiến thức về hệ thống chính trị, tổ chức bộ máy nhà nước, công vụ, công chức, đạo đức công vụ, cải cách hành chính, quản lý tài chính,…đến các kỹ năng về soạn thảo văn bản, lập, lưu trữ và quản lý hồ sơ công việc, kỹ năng làm việc nhóm, giao tiếp hành chính,….); có gần 30% số cán bộ quản lý đã được bổ nhiệm nhưng chưa qua đào tạo trung cấp lý luận chính trị. Bên cạnh đó, qua khảo sát trực tiếp thì trong các lớp tập huấn, bồi dưỡng liên quan đến công tác quản lý, có 27,5% cán bộ quản lý chưa hài lòng với khóa tập huấn, bồi dưỡng, 55% chấp nhận được và 17,5% số người được hỏi hài lòng với khóa tập huấn trong thời gian gần đây. Lý do chưa hài lòng với các lớp bồi dưỡng, tập huấn do thời gian tập huấn ngắn nhưng khá nhiều nội dung truyền tải đến người tham gia (67,7%), nội dung chưa thực tế, cụ thể làm minh chứng (22,6%), phương pháp giảng dạy, báo cáo viên không phù hợp, tương tác tốt với học viên (9,7%). Điều này cho thấy cán bộ quản lý có nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng khá lớn nhưng chủ yếu là tự học hỏi, tích lũy kinh nghiệm để hoàn thành nhiệm vụ. Các lớp bồi dưỡng liên quan đến công tác quản lý thực sự khó đáp ứng nhu cầu của đội ngũ cán bộ quản lý. Luận văn: Thực trạng năng lực quản lý ở các trường học công lập.
Đội ngũ viên chức thuộc nguồn quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý và cán bộ quản lý hiện có trên địa bàn quận có nhận thức đầy đủ về đào tạo và phát triển năng lực bản thân trong quá trình thực thi nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, vẫn còn một số cán bộ quản lý thiếu tinh thần tự học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bằng lòng với công việc hiện tại mà không rèn luyện, học tập tiếp, có học cũng chỉ là đối phó, chưa mang tính tự giác, nhất là cán bộ quản lý có thời gian giữ chức vụ lâu năm.
Cơ sở vật chất và trang thiết bị, môi trường làm việc còn hạn chế cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả công việc của cán bộ quản lý các trường (máy vi tính không được đầu tư phần mềm diệt virut, các thiết bị khác hư hỏng, hoạt động cầm chừng, mất nhiều thời gian khởi động, phòng làm việc nóng bức về mùa hè nhưng không có điều hòa nhiệt độ, bố trí cảnh quan phòng làm việc…).
Chế độ tiền lương, phụ cấp mặc dù đã được cải thiện, tuy nhiên, mức thu nhập chưa đảm bảo đời sống nên gây tâm lý chưa thực sự yên tâm công tác cũng như khuyến khích, động viên cán bộ dành hết tâm huyết thực hiện công vụ, đầu tư trí tuệ vào việc nghiên cứu, cải tiến các hoạt động quản lý, chuyên môn của nhà trường.
Từ những nguyên nhân dẫn đến hạn chế về năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý trường học đòi hỏi các nhà quản lý phải tìm ra các giải pháp khắc phục góp phần nâng cao chất lượng công tác cán bộ hoạt động trong lĩnh vực giáo dục.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 luận văn đã khái quát những nét cơ bản nhất về quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, đặc điểm, quy mô phát triển trường lớp của các trường trên địa bàn quận Cẩm Lệ. Đồng thời thống kê số lượng và phân tích thực trạng phát triển năng lực quản lý của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường học công lập thuộc quận Cẩm Lệ.
Qua khảo sát thực trạng năng lực quản lý của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường cho thấy, năng lực quản lý ở các mặt trình độ chuyên môn, lập trường tư tưởng, quan điểm chính trị vững vàng, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Tuy nhiên, những kỹ năng quản lý như lập kế hoạch, giải quyết vấn đề và ra kế hoạch, quản lý và phát triển nguồn nhân lực, điều hành, sử dụng tài chính, tài sản công và năng lực tổ chức kiểm tra, đánh giá còn những tồn tại, hạn chế.
Kết quả và các nhận định, phân tích ở nội dung chương 2 sẽ là tiền đề cho việc xây dựng các giải pháp góp phần nâng cao năng lực quản lý của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường học công lập thuộc quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới. Luận văn: Thực trạng năng lực quản lý ở các trường học công lập.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Giải pháp năng lực quản lý ở các trường học công lập
Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com