Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Thực trạng quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục trường mầm non của tỉnh Bắc Kạn dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Khái quát về GD&ĐT tỉnh Bắc Kạn
2.1.1. Khái quát về đặc điểm kinh tế – xã hội tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn là tỉnh vùng cao, nằm ở tọa độ 22 độ 40‟30‟‟ đến 24 độ 48 phút 28‟‟ độ kinh Đông, phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên, phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn. Toàn tỉnh có diện tích tự nhiên 4.795,54 km2. Phần lớn diện tích của tỉnh là rừng núi.
Theo các nguồn sử liệu từ xa xưa, thời các vua Hùng, vùng đất Bắc Kạn thuộc bộ Vũ Định, một trong 15 Bộ của nước Văn Lang. Thời Bắc thuộc, từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên đến gần giữa thế kỷ thứ X sau Công nguyên, dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc, vùng đất Bắc Kạn lúc nằm trong quận Giao Chỉ, thuộc Giao Chỉ Bộ…, lúc nằm trong châu Vũ Nga và Châu Long thuộc đất An Nam đô hộ phủ (thế kỷ thứ X).
Từ giữa thế kỷ thứ X, ông cha ta đã khôi phục lại được nền độc lập tự chủ của đất nước đồng thời thay đổi lại các đơn vị hành chính trong cả nước thành các đạo, lộ, trấn, châu… Đời nhà Lý, đất Bắc Kạn thuộc châu Thái Nguyên và châu Vũ Lặc. Năm 1397, Bắc Kạn thuộc trấn Thái Nguyên. Từ khoảng giữa niên hiệu Hồng Đức (1470 – 1497) trở đi, Bắc Kạn được gọi là phủ Thông Hóa, thuộc trấn Thái Nguyên (sau đổi là tỉnh Thái Nguyên).
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, sau khi chúng hoàn tất việc chiếm đóng và đặt ách cai trị lên phạm vi cả nước, ngày 11/4/1900, thực dân Pháp cắt phủ Thông Hóa, bao gồm châu Bạch Thông và huyện Cảm Hóa (nay là huyện Na Rỳ) khỏi tỉnh Thái Nguyên để thành lập tỉnh Bắc Kạn. Ngày 25/6/1901, thực dân Pháp cắt tiếp tổng Yên Đĩnh khỏi huyện Phú Lương, Phủ Thông Hóa sáp nhập về châu Bạch Thông. Đến thời kỳ này, tỉnh Bắc Kạn có 5 châu: Bạch Thông, Chợ Rã, Ngân Sơn, Na Rì, Chợ Đồn bao gồm 20 tổng, 105 xã với tổng số dân khoảng 36.000 người.
Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập. Trong quá trình vận động cách mạng, tỉnh Bắc Kạn đã vinh dự là một trong những tỉnh nằm trong khu giải phóng Việt Bắc, là nơi “Nước Việt Nam mới phôi thai”. Khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, Bắc Kạn là thị xã đầu tiên trong cả nước được giải phóng. Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Ngày 21/4/1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước CHXHCN Việt Nam) ra Quyết định số 103/NĐ-TVQH thành lập tỉnh Bắc Thái trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Ngày 29/12/1978, kỳ họp Quốc hội thứ tư khoá VI đã quyết định phân địa giới Bắc Thái và Cao Bằng, tách 02 huyện Ngân Sơn và Chợ Rã của tỉnh Bắc Thái nhập vào tỉnh Cao Bằng.
Đáp ứng nguyện vọng của nhân dân các dân tộc và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ngày 06/11/1996, Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ X đã phê chuẩn việc chia lại địa giới hành chính của một số tỉnh. Trong đó, tỉnh Bắc Thái được chia thành 2 tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn.
Ngày 01/01/1997, tỉnh Bắc Kạn chính thức được tái lập. Các huyện Ngân Sơn, Ba Bể (Chợ Rã) tái nhập lại vào tỉnh Bắc Kạn. Tháng 8 năm 1998, thành lập thêm huyện Chợ Mới trên cơ sở tách từ phần đất phía Nam huyện Bạch Thông. Ngày 28/5/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định 56/2003/NĐ-CP về việc thành lập huyện Pác Nặm trên cơ sở tách huyện Ba Bể. Như vậy, trải qua không ít những thay đổi về địa dư hành chính, hiện nay, tỉnh có 08 đơn vị hành chính gồm 07 huyện (có 02 huyện thuộc diện 30a là Ba Bể, Pác Nặm) và 01 thành phố; 122 xã, phường, thị trấn với 1421 thôn, bản (58 xã đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 2405/QĐ-TTg ngày 10/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ; 57 thôn đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 582/QĐ-UBDT ngày 18/12/2013 của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc). Dân số 308.296 người với 7 dân tộc Kinh, Tày, Dao, Nùng, Mông, Hoa, Sán chay (dân tộc thiểu số chiếm hơn 80%). Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Cùng với sự phát triển về mọi mặt trong đời sống kinh tế – xã hội, sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo của tỉnh được quan tâm sâu sắc và có những tiến bộ quan trọng. Năm học 2014-2015, toàn tỉnh có 351 trường mầm non và phổ thông (trong đó có 124 trường mầm non với 1.149 nhóm lớp và 21.243 trẻ, 111 trường tiểu học, 19 trường PTCS, 82 trường THCS, 15 trường THPT), 07 trung tâm giáo dục thường xuyên, 01 trung tâm giáo dục thường xuyên- dạy nghề cấp huyện, 01 Trung tâm giáo dục trẻ em khuyết tật, 01 Trung tâm kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp, 122 trung tâm học tập cộng đồng.
Tuy nhiên, do điểm xuất phát thấp, cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn chưa hấp dẫn đầu tư từ bên ngoài; tiềm lực kinh tế của Nhà nước và nhân dân trong tỉnh còn hạn chế… cùng với điều kiện khí hậu, địa lý với địa bàn rộng, dân cư thưa thớt, rải rác với những tập quán du canh, du cư của đồng bào các dân tộc thiểu số; đó là những trở lực chính trong tiến trình phát triển của tỉnh nói chung và GD&ĐT nói riêng.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Nhận Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục
2.1.2. Số liệu phát triển giáo dục MN tỉnh Bắc Kạn
Đến thời điểm tháng 12 năm 2015, số liệu phát triển bậc học MN như sau:
- Bảng 2.1: Số liệu phát triển giáo dục MN
- Bảng 2.2: Số lượng nhà trẻ mẫu giáo
Từ Bảng số 2.1 và 2.2 cho thấy: Trong giai đoạn từ năm học 2005-2006 đến năm học 2014-2015, số lượng trường, lớp (nhóm lớp), học sinh tăng dần qua từng năm. Năm học 2014-2015, 100% các xã đã có trường mầm non; tỷ lệ trẻ trong độ tuổi nhà trẻ đi học đạt 33,51%, tỷ lệ trẻ ở độ tuổi mẫu giáo đi học đã đạt cao (99,42%). Về cơ bản đã đáp ứng nhu cầu đi học của trẻ mầm non các địa phương.
Bảng 2.3: Thống kê trình độ đào tạo của giáo viên MN tỉnh Bắc Kạn
Từ Bảng số 2.3 cho thấy:
Đội ngũ giáo viên mầm non trong những năm qua phát triển nhanh về số lượng, từ 852 giáo viên năm học 2005-2006 tăng lên 1.089 giáo viên năm học 2010-2011; tốc độ tăng 5,56%/năm. Về chất lượng từng bước đáp ứng được yêu cầu:
- Năm học 2005-2006 có 92,25% giáo viên mầm non có trình độ đào tạo đạt chuẩn trở lên, trong đó có 5,16% trên chuẩn.
- Năm học 2010-2011 có 99,72% % giáo viên mầm non có trình độ đào tạo đạt chuẩn trở lên, trong đó 25,71% trên chuẩn.
- Năm học 2014-2015, 100% giáo viên mầm non có trình độ đào tạo đạt chuẩn trở lên, trong đó trên chuẩn 65,89%.
Tuy nhiên, chất lượng giáo viên mầm non còn có sự bất cập, chưa đồng đều giữa các vùng có điều kiện thuận lợi và vùng khó khăn. Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Bảng 2.4: Thực trạng phòng học MN năm học 2014-2015
Toàn tỉnh mới có 407/1.123 phòng học kiên cố (đạt 36,24%); 444/1.123 phòng bán kiên cố (đạt 39,54%), số phòng học tạm 271/1.123 (chiếm 24,22%), tập trung nhiều ở các huyện: Ba Bể, Ngân Sơn, Pác Nặm, Chợ Đồn, có rất ít trường được xây dựng đạt yêu cầu chuẩn. Trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục mầm non.
Việc đầu tư xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia bước đầu có tác dụng thiết thực trong việc tăng cường các điều kiện dạy và học, nâng cao chất lượng giáo dục. Toàn tỉnh số trường mầm non đạt chuẩn quốc gia: năm 2005 có 02 trường, đến năm 2010 có 11 trường và đến hết năm 2015 có 16/124 trường đạt chuẩn, tỷ lệ 12,90%.
2.2. Thực trạng về kiểm định chất lượng giáo dục các trường mầm non tỉnh Bắc Kạn
2.2.1. Thực trạng hoạt động tự đánh giá trường MN theo tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục
Sở GD&ĐT đã chỉ đạo 100% các trường MN trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn triển khai công tác tự đánh giá theo tiêu chuẩn, tiêu chí của Bộ GD&ĐT.
Đến nay 100% các đơn vị đã hoàn thành việc tự đánh giá tại cơ sở, nhận thức về công tác Kiểm định chất lượng giáo dục được nâng lên (coi Kiểm định chất lượng giáo dục là biện pháp để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục).
Bảng 2.5: Khảo sát việc tổ chức thực hiện tự đánh giá trong trường MN
Khảo sát việc tổ chức thực hiện tự đánh giá cho thấy:
Các nhà trường cơ bản đã nhận thức đầy đủ các văn bản và triển khai hoạt động tự đánh giá.
- Cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên các nhà trường, các thành viên hội đồng tư ̣đánh giá cơ bản nắm được kỹ thuật tự đánh giá, có ý thức trách nhiêṃ trong viêc̣ thưc̣ hiêṇ nhiêṃ vu ̣tư ̣đánh giá.
- Việc xây dựng các nội dung tự đánh giá, tiến độ thực hiện các nội dung công việc trong quy trình tự đánh giá chưa được tốt do phân công nhiệm vụ cho các thành viên chưa sát với năng lực thực hiện; phân bổ thời gian cho các nội dung công việc chưa hợp lý. Cụ thể: Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Về việc thành lập hội đồng tự đánh giá
Theo kết quả, tất cả các trường đều thành lập hội đồng tự đánh giá với các thành phần theo quy định. Chủ tịch hội đồng là hiệu trưởng và phó chủ tịch hội đồng là phó hiệu trưởng cùng thư ký và các ủy viên hội đồng tự đánh giá là các tổ trưởng chuyên môn hay giáo viên. Hầu hết các trường chọn thư ký hội đồng trường là thư ký hội đồng tự đánh giá. 100% ý kiến qua khảo sát cho rằng việc thành lập hội đồng tự đánh giá là rất tốt và hoàn toàn thuộc quyền của hiệu trưởng.
Về việc lập kế hoạch tự đánh giá và phân công các thành viên trong hội đồng tự đánh giá
Có 70% ý kiến nhận xét là rất tốt, 20% tốt cho thấy đây là điều thuận lợi cho hiệu trưởng trong việc điều hành. Tuy nhiên, qua phân tích tất cả kế hoạch tự đánh giá của trường MN gửi về Sở cho thấy việc lập kế hoạch còn mang tính hình thức, đối phó, chưa lường hết được sự vất vả, khó khăn khi thực hiện tự đánh giá. Chưa có kế hoạch huy động các nguồn lực liên quan đến từng tiêu chí. Qua phỏng vấn trực tiếp, 56% hiệu trưởng và thư ký hội đồng trường trả lời cho thấy việc thực hiện toàn bộ báo cáo tự đánh giá chỉ phân công chủ yếu ở thư ký. Còn 10% ý kiến từ bảng khảo sát cũng cho thấy việc phân công đúng việc, đúng người để thực hiện báo cáo tự đánh giá là rất khó khăn. Mặc dù có kế hoạch tự đánh giá nhưng hiệu trưởng chưa giám sát chặt chẽ và đảm bảo việc thực hiện có tính hiệu quả. Hiệu trưởng trường MN chưa biết cách tổ chức hoạt động này trong trường, chưa biết cách huy động mọi nguồn lực để thực hiện.
Về tạo sự đồng thuận của cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường Việc này hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực điều hành và sự hiểu biết của hiệu trưởng về Kiểm định chất lượng giáo dục. Qua bảng khảo sát, ta thấy 45% ý kiến cho là rất tốt. Ngoài ra, tác giả đã phỏng vấn sâu các hiệu trưởng và thư ký hội đồng tự đánh giá cho thấy họ đều được dự tập huấn, tiếp thu đầy đủ, hiểu được tính chất công việc nên việc triển khai dễ dàng. Chính vì vậy, lãnh đạo nhà trường dễ dàng tạo được sự đồng thuận trong toàn bộ tập thể nhà trường. Tuy nhiên, có 20% ý kiến cho là tốt và 35% ý kiến cho là đạt cho thấy việc tạo được sự đồng thuận trong toàn thể nhà trường không phải dễ dàng. Để tìm hiểu kỹ hơn nguyên nhân của sự khó khăn này, tác giả luận văn đã phỏng vấn sâu đến các hiệu trưởng. Tổng hợp các ý kiến trả lời từ hiệu trưởng có hai nguyên nhân chính. Một là hiệu trưởng không hiểu hết tính chất công việc và không triển khai được việc. Hai là hiệu trưởng có triển khai nhưng không biết cách làm, dẫn đến đến một số thành viên trong trường không đồng thuận.
Về thu thập, xử lý và mã hóa thông tin minh chứng Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Trường còn nhiều lúng túng, khó khăn trong việc tổ chức thu thập, phân tích và xử lý minh chứng trong quá trình thực hiện tự đánh giá. Qua bảng khảo sát, ta thấy 50% ý kiến cho rằng chưa đạt điều đó chứng tỏ rất khó thu thập minh chứng. Nguyên nhân là do các trường chưa quán triệt và hiểu thấu đáo về nội hàm của từng chỉ số trong từng tiêu chí. Mặt khác, cán bộ làm công tác tự đánh giá chưa biết cách thu thập, phân tích và xử lý minh chứng. Ngoài ra, minh chứng là hồ sơ văn bản, sổ sách, hình ảnh hoạt động của trường trong thời gian 5 năm tính đến thời điểm tự đánh giá nên nhiều trường đã không biết cách tổ chức lưu trữ dẫn đến thất lạc và không còn minh chứng.
Về mã hóa, lập danh mục và lưu trữ minh chứng
Việc mã hóa minh chứng, thư ký hội đồng đã thực hiện theo quy định. Chính vì vậy, việc này đều rất tốt. Nhưng để lập một danh mục minh chứng đầy đủ theo quy định là 5 năm tính đến thời điểm tự đánh giá thì hầu hết các trường đều rất ngại. Từ bảng số liệu ta thấy việc này có 22% ý kiến cho là chưa đạt. Nguyên nhân chủ yếu là nhiều hồ sơ, sổ sách đã bị thất lạc nên thiếu. Hơn nữa, việc lưu trữ của các trường chưa khoa học dẫn đến không ít khó khăn.
Về mô tả hiện trạng nhà trường theo tiêu chí
Qua khảo sát có 60% ý kiến cho là tốt và rất tốt khi thực hiện. Tuy nhiên còn 40% cho là đạt và chưa đạt. Lý do chính là các thành viên hội đồng tự đánh giá không hiểu nội hàm, yêu cầu của từng tiêu chí, yêu cầu của viết báo cáo tiêu chí, thiếu minh chứng, không biết phân tích so sánh được dữ liệu từ minh chứng.
Về phân tích điểm mạnh và điểm yếu của nhà trường theo tiêu chí
Qua khảo sát, có 22% ý kiến cho là đạt và 18% ý kiến là chưa đạt. Thực tế, khi phỏng vấn sâu đến các cán bộ làm thư ký hội đồng tự đánh giá, người mà chịu trách nhiệm viết toàn bộ báo cáo tự đánh giá của nhà trường đã ghi nhận được các lý do chính của nguyên nhân này. Một là thư ký hội đồng không nắm bắt được những hoạt động chính, những việc làm được của trường so với tiêu chí đó và không có minh chứng nên viết không trúng điểm mạnh. Hai là yếu tố tâm lý không thực sự cầu thị, muốn chạy theo thành tích, nêu nhẹ hoặc không nêu điểm tồn tại để đạt yêu cầu mà không hiểu rằng chính ghi được điểm yếu mới là có kế hoạch cải tiến để nâng cao chất lượng giáo dục.
Về lập kế hoạch cải tiến chất lượng theo từng tiêu chí Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Trong báo cáo tự đánh giá, các trường đều đưa ra được kế hoạch cải tiến chất lượng của trường trên cơ sở điểm mạnh và điểm yếu. Vì vậy có 70% ý kiến cho là tốt và tốt, 30% ý kiến cho là đạt và chưa đạt. Việc lập kế hoạch cải tiến chất lượng theo từng tiêu chí này phụ thuộc vào việc phát hiện ra đúng điểm mạnh để phát huy và điểm yếu để cải tiến tốt hơn.
Về thực hiện kế hoạch phát huy điểm mạnh và cải tiến điểm yếu theo báo cáo tự đánh giá
Kết quả Bảng 2.5 có 19% ý kiến nhận xét là chưa đạt. Nguyên nhân của việc này là nhà trường chưa giám sát được việc cải tiến chất lượng của nhà trường sau khi thực hiện báo cáo tự đánh giá. Qua phỏng vấn 60% ý kiến của hiệu trưởng cho rằng có những điểm yếu rất khó cải tiến như diện tích đất của nhà trường (đạt 8m2/1 em học sinh) hay sĩ số lớp không vượt quá 30 học sinh/1 lớp vì đây là những yêu cầu mà tự thân nhà trường khó có thể cải tiến vì phụ thuộc vào việc duyệt chi ngân sách của cơ quan quản lý cấp trên để sửa chữa cải thiện cơ sở vật chất trường lớp…
Thực tế, chúng tôi đã phỏng vấn trực tiếp các hiệu trưởng nhà trường. Có 67% các hiệu trưởng đều cho rằng đã có nhận thức đúng về sự cần thiết của kiểm định chất lượng và 23% hiệu trưởng chưa thật sự quan tâm vấn đề này bởi ngại khó khăn. Chính vì vậy việc các trường có tự đánh giá tốt nộp báo cáo về Sở GD&ĐT còn hạn chế, chỉ chiếm 55,8% trên tổng 124 trường MN.
2.2.2. Thực trạng hoạt động đánh giá ngoài trường MN theo tiêu chuẩn
2.2.2.1. Thực trạng quy trình hoạt động đánh giá ngoài
Hoạt động đánh giá ngoài tại tỉnh Bắc Kạn cơ bản tổ chức qua 6 bước theo văn bản số 6339/BGDĐT-KTKĐCLGD, ngày 05 tháng 11 năm 2014 của Bộ GD&ĐT về hướng dẫn tự đánh giá và đánh giá ngoài trường MN. Để thực hiện các yêu cầu của Bộ GD&ĐT về công tác đánh giá ngoài, Sở GD&ĐT đã tổ chức tập trung tất cả thành viên đánh giá ngoài theo quyết định của Giám đốc Sở, trao quyết định và triển khai công việc ngay buổi họp đoàn đầu tiên. Trong buổi triển khai quyết định này, các thành viên của đoàn đánh giá ngoài cũng được cán bộ Sở tập huấn kỹ hơn về các quy trình và kỹ thuật đánh giá cũng như việc tổ chức và điều hành đoàn đánh giá ngoài. Trưởng đoàn cùng các thành viên nhận hồ sơ đánh giá của trường MN tổ chức phân công và thực hiện kế hoạch đánh giá ngoài. Sau đây là tóm tắt thực trạng 6 bước trong quy trình đánh giá ngoài được thực hiện trong thời gian qua:
Nghiên cứu hồ sơ Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Đây là bước đầu tiên trong quy trình đánh giá ngoài, sau khi có quyết định thành lập đoàn đánh giá ngoài, trưởng đoàn tổ chức họp đoàn để thực hiện các công việc như thống nhất kế hoạch làm việc của đoàn; Chuyển hồ sơ đánh giá cho các thành viên của đoàn. Tất cả thành viên của đoàn đánh giá làm việc cá nhân như nghiên cứu báo cáo tự đánh giá và các tài liệu liên quan; viết báo cáo sơ bộ; Mỗi thành viên trong đoàn viết bản nhận xét về các tiêu chí được phân công. Trước khi khảo sát sơ bộ, đoàn tổ chức phiên họp lần 2. Tại lần họp này, tất cả thành viên đều trình bày kết quả làm việc cá nhân để thống nhất kết quả nghiên cứu hồ sơ và chuẩn bị biên bản khảo sát sơ bộ.
Khảo sát sơ bộ tại trường MN
Trong thực tế, việc khảo sát sơ bộ chỉ diễn ra trong 1 buổi làm việc giữa trưởng đoàn, thư ký cùng toàn thể hội đồng tự đánh giá nhà trường. Buổi làm việc này, trưởng đoàn đánh giá ngoài thông báo kết quả nghiên cứu hồ sơ đánh giá; Hướng dẫn, yêu cầu nhà trường chuẩn bị cho đợt khảo sát chính thức; Kế hoạch khảo sát chính thức của đoàn. Ngoài ra, trưởng đoàn đánh giá ngoài cùng nhà trường thống nhất những nhận xét của đoàn đánh giá về báo cáo tự đánh giá, yêu cầu bổ sung, chỉnh sửa và chuẩn bị hồ sơ, minh chứng, dự kiến các đối tượng được phỏng vấn, dự giờ,… cho ngày khảo sát chính thức. Hơn nữa, các trưởng đoàn đánh giá ngoài cùng thư ký trong ngày khảo sát sơ bộ cũng thường hay khảo sát, kiểm tra qua về cơ sở vật chất, phòng y tế, quang cảnh nhà trường,… để có thể chia sẻ, góp ý cho trường để chuẩn bị tốt cho ngày khảo sát chính thức. Hai bên thống nhất ký vào biên bản khảo sát sơ bộ và kế hoạch khảo sát chính thức.
Khảo sát chính thức tại trường MN
Sau khảo sát sơ bộ, đoàn đánh giá ngoài tiến hành khảo sát chính thức tại trường MN. Trong thực tế, đoàn đánh giá ngoài, tiến hành khảo sát trong thời gian từ 2 ngày đến 3 ngày và thực hiện các nội dung như trao đổi với lãnh đạo nhà trường và hội đồng tự đánh giá về công tác tự đánh giá của trường mình; Xem xét cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhà trường; Nghiên cứu các hồ sơ, tài liệu do nhà trường cung cấp; Quan sát các hoạt động chính khoá và ngoại khoá; Trao đổi, phỏng vấn cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học sinh; Dự giờ, thăm lớp; Viết báo cáo kết quả khảo sát chính thức của đoàn;
Dự thảo báo cáo đánh giá ngoài Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Sau khi khảo sát sơ bộ, trưởng đoàn cùng tất cả thành viên tập hợp các tư liệu như báo cáo sơ bộ và bản nhận xét về các tiêu chí của từng thành viên; Báo cáo kết quả nghiên cứu hồ sơ đánh giá; Các phiếu đánh giá tiêu chí; Biên bản khảo sát sơ bộ; Báo cáo kết quả khảo sát chính thức; Báo cáo tự đánh giá của nhà trường; Các hồ sơ, tài liệu có liên quan; để thư ký viết dự thảo báo cáo đánh giá ngoài theo mẫu. Từng thành viên của đoàn viết báo cáo theo những tiêu chí được phân công và gửi cho trưởng đoàn trong thời gian không quá 5 ngày, sau khi kết thúc khảo sát chính thức. Đối với mỗi tiêu chí, báo cáo phải đánh giá việc xác định điểm mạnh, điểm yếu, việc xác định kế hoạch cải tiến chất lượng giáo dục của trường MN, những nội dung chưa rõ và kết quả đánh giá tiêu chí.
Lấy ý kiến của trường MN về báo cáo đánh giá ngoài
Dự thảo báo cáo đánh giá ngoài sau khi được các thành viên nhất trí thông qua, phải gửi cho trường MN được đánh giá ngoài để lấy ý kiến. Sau khi nhận được dự thảo, trường MN được đánh giá ngoài phải có ý kiến phản hồi bằng văn bản gửi trưởng đoàn; Trong thực tế tại tỉnh Bắc Kạn, sau khi các trưởng đoàn gửi dự thảo đánh giá ngoài đến các trường được đánh giá, thì hầu hết các trường đều phản hồi đồng ý với ý kiến đánh giá của đoàn đánh giá ngoài.
Hoàn thiện báo cáo đánh giá ngoài và toàn bộ hồ sơ theo quy định gửi về Sở GD&ĐT.
Trong thời gian 5 ngày làm việc, sau khi đoàn họp và thống nhất ý kiến, trưởng đoàn hoàn thiện báo cáo đánh giá ngoài, gửi báo cáo và toàn bộ hồ sơ làm việc của đoàn về Sở GD&ĐT. Thực tế tại tỉnh Bắc Kạn, ngoài những quy định gửi toàn bộ tài liệu đánh giá ngoài bằng bảng giấy, đồng thời phải gửi bằng file mềm và được lưu trữ tại Sở GD&ĐT.
2.2.2.2. Thực trạng về nhân sự tham gia đoàn đánh giá ngoài
Giai đoạn 2013-2015, Sở GD&ĐT đã thành lập 16 đoàn đánh giá ngoài trường MN. Theo quy định đoàn có từ 05 đến 07 thành viên, bao gồm 1 trưởng đoàn, 1 thư ký và 04 hoặc 05 ủy viên. Tiêu chuẩn lựa chọn kiểm định viên phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
Có tư cách đạo đức tốt, trung thực và khách quan; Trước đây và hiện tại không làm việc tại trường MN được đánh giá ngoài; có ít nhất 5 năm công tác trong ngành giáo dục; Đã hoàn thành chương trình đào tạo, tập huấn về đánh giá ngoài do Bộ GD&ĐT tổ chức. Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Trưởng đoàn phải là lãnh đạo sở, lãnh đạo chuyên viên phòng KTQLCLGD, phòng GD&ĐT, hiệu trưởng hoặc phó hiệu trưởng trường MN.
Về nhiệm vụ, trưởng đoàn chịu trách nhiệm điều hành các hoạt động của đoàn đánh giá ngoài và phân công nhiệm vụ cho các thành viên. Trưởng đoàn phải thay mặt cả đoàn chịu trách nhiệm trước trường được đánh giá và Sở GD&ĐT về kết quả của đánh giá ngoài.
Qua khảo sát việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ của trưởng đoàn đánh giá ngoài, chúng tôi có số liệu:
Bảng 2.6: Khảo sát việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ của trưởng đoàn đánh giá ngoài
Chúng tôi đã khảo sát năng lực làm việc của trưởng đoàn đánh giá ngoài qua việc thực thi nhiệm vụ. thấy, việc điều hành đoàn, phân công công việc, tổ chức các buổi họp đoàn và phân tích kết quả làm việc của từng thành viên trong đoàn hầu hết được đánh giá ở mức tốt và khá. Đây là điểm đánh giá ở mức cao chứng tỏ năng lực làm việc của trưởng đoàn đáp ứng được công việc cũng như việc lựa chọn.
Tuy nhiên, có 20% ý kiến cho là trung bình ở việc điều hành các thành viên. Tương tự như vậy, 20% ý kiến đánh giá trung bình về yêu cầu trưởng đoàn chỉ đạo việc xây dựng báo cáo kết quả nghiên cứu hồ sơ đánh giá, báo cáo kết quả khảo sát tại cơ sở giáo dục và báo cáo đánh giá ngoài. Thực tế, mặc dù được lựa chọn làm trưởng đoàn nhưng bản thân các trưởng đoàn vẫn còn bỡ ngỡ vì đây là công việc mới.
Ngoài ra chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn đến các thành viên trong đoàn, đến các trường được đánh giá về năng lực của trưởng đoàn, tất cả đều trả lời rất cần xây dựng những yêu cầu riêng về năng lực của trưởng đoàn để chọn lựa được những trưởng đoàn tốt và điều hành thành công đoàn đánh giá ngoài.
2.2.2.3. Thực trạng về năng lực làm việc của đoàn đánh giá ngoài
Để nhận xét về năng lực của đoàn đánh giá ngoài, tác giả luận văn đã tiến hành khảo sát đến thành viên của đoàn đánh giá ngoài và nhà trường được đánh giá ngoài. Với số lượng là 80 ý kiến của thành viên 16 đoàn đánh giá ngoài và 16 ý kiến từ 16 trường MN được đánh giá ngoài. Tổng số người tham gia trả lời cho Bảng khảo sát 96 người.
Bảng 2.7: Khảo sát năng lực làm việc của đoàn đánh giá ngoài Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Về cách nhận định mức độ phù hợp của báo cáo tự đánh giá với quy định tại hướng dẫn tự đánh giá có 59% ý kiến đánh giá tốt. Điều này đúng với thực tế mà tác giả luận văn quan sát và đọc trực tiếp báo cáo đánh giá ngoài. Nếu những thành viên tham gia đánh giá ngoài đã thực hiện tốt báo cáo tự đánh giá của trường mình hoặc là thành viên đánh giá ngoài đến từ trường MN đã được kiểm định thì yêu cầu này đối với họ được đáp ứng. Còn những thành viên chưa thực hiện tự đánh giá tại trường thì gặp khó khăn nhiều hơn. Tuy nhiên, qua phỏng vấn chúng tôi thu được được các ý kiến là việc tham gia đánh giá ngoài, giúp các thành viên về thực hiện tự đánh giá của trường mình tốt hơn.
Về cách nhận xét việc mô tả hiện trạng, xác định điểm mạnh, điểm yếu xác định kế hoạch cải tiến chất lượng của nhà trường dựa trên báo cáo tự đánh giá và khảo sát trực tiếp có 58% ý kiến đánh giá tốt. Thực tế năng lực của đoàn đánh giá ngoài rất cần kinh nghiệm. Những thành viên đi lần thứ nhất thường chưa nhận xét tốt về việc này, phần lớn họ đồng ý với cách đánh giá của nhà trường và ít phát hiện ra các điểm mạnh hay điểm yếu mới của nhà trường qua khảo sát thực tế.
Về cách xem xét, tiếp cận và nhận định minh chứng hay hoạt động thực tế có 56% ý kiến đánh giá rất tốt. Như vậy, ta thấy việc này các thành viên của đoàn đánh giá làm tốt. Tuy nhiên, cần phải chỉ đạo thêm về việc nên xem xét và yêu cầu các minh chứng cốt lõi của các chỉ số. Không nên kiểm tra tất cả minh chứng vì như vậy sẽ không tập trung và tốn nhiều thời gian.
Về cách đánh giá một tiêu chí được xem là đạt hay chưa đạt dựa trên báo cáo tự đánh giá, lập luận và quan sát thực tế có 70% ý kiến đánh giá rất tốt. Việc này, cũng rất cần kinh nghiệm trong quản lý chuyên môn thực tế của trường mình, các kiểm định viên phải hiểu biết thêm lý thuyết về đánh giá định lượng và đánh giá định tính.
Việc thiết kế các phiếu khảo sát chất lượng của đoàn đánh giá ngoài có với 70% ý kiến cho là trung bình. Trong thực tế, việc thiết kế các phiếu khảo sát và xử lý số liệu khảo sát đều được cán bộ quản lý cấp Sở hỗ trợ cho tất cả các đoàn, còn hầu hết các thành viên trong đoàn đều thiếu năng lực thực hiện việc này. Hơn nữa, việc thiết kế các phiếu khảo sát yêu cầu các thành viên phải được tập huấn chuyên sâu hơn nữa về lĩnh vực đo lường đánh giá.
Về năng lực xử lý và viết báo cáo đánh giá ngoài có đến 56% cho là trung bình và rất cần có những khóa bồi dưỡng chuyên về lĩnh vực này.
2.2.2.4. Thực trạng kết quả đánh giá ngoài các trường mầm non
Tính đến thời điểm kết thúc năm học 2014-2015, Sở GD&ĐT đã đánh giá ngoài được 16 trường mần non trên địa bàn tỉnh, kết quả đạt được như sau:
Bảng 2.8: Tổng hợp số liệu đánh giá ngoài trường mầm non Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Nhận xét kết quả đạt được từ Bảng 2.8
Tất cả các trường đều đạt được cấp độ trong đó có 6 trường đạt cấp độ 2 (cấp độ trung bình) và 10 trường đạt cấp độ 1 cấp độ thấp nhất, không có trường nào đạt cấp độ 3 cấp độ cao nhất.
Những tiêu chí các trường không đạt thường là các tiêu chí về trình độ lý luận của lãnh đạo nhà trường thuộc tiêu chuẩn 1, tất cả các đơn vị đều có các tiêu chí thuộc tiêu chuẩn 3 không đạt đó là những chỉ số về cơ sở vật chất, về sĩ số lớp học không quá 30 học sinh/1 nhóm lớp (chỉ số b, tiêu chí 2, tiêu chuẩn 1) cũng không đạt.
Ngoài ra, cũng có tiêu chí yêu cầu phải có phòng giáo dục thể chất, nghệ thuật, bếp ăn, nhà vệ sinh (tiêu chí 4, tiêu chuẩn 3).
Hay là chỉ số về tổng diện tích mặt bằng của nhà trường tính theo đầu học sinh đạt ít nhất 12m2/học sinh trở lên (chỉ số a, tiêu chí 2, tiêu chuẩn 3).
Mặc dù, hầu hết các trường kể trên đều không đạt các tiêu chí khó như diện tích đất cho học sinh, sĩ số học sinh/1 lớp, trình độ lý luận của lãnh đạo nhà trường… nhưng vẫn đạt cấp độ (cấp độ 1), bởi theo quy định hiện hành, các trường đạt 60% tổng tiêu chí trở lên là đạt cấp độ 1, không có các tiêu chí cốt lõi bị khống chế.
2.3. Thực trạng quản lý Kiểm định chất lượng giáo dục trường mầm non của tỉnh Bắc Kạn Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
2.3.1. Thực trạng quản lý tự đánh giá trường mầm non
Như phân tích ở Chương 1, nội dung của Kiểm định chất lượng giáo dục trường MN gồm các khâu cơ bản như tự đánh giá, đánh giá ngoài, công nhận cấp độ đạt được chất lượng và duy trì cải tiến nâng cao chất lượng.
Để khảo sát thực trạng quản lý hoạt động tự đánh giá tại các trường mầm non. Có 276 ý kiến của CBQL 124 trường MN trên địa bàn tỉnh tham gia trả lời theo Bảng 2.9.
Bảng 2.9: Khảo sát thực trạng quản lý hoạt động tự đánh giá ở trường mầm non
Kết quả bảng 2.9 phản ánh một thực trạng là:
Đội ngũ cán bộ quản lý cũng như giáo viên, đều xác định rất tốt mục đích tự đánh giá. Việc thực hiện hoạt động tự đánh giá đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra nhanh hay chậm phụ thuộc vào việc xây dựng đội ngũ giáo viên, chế độ để các trường tham gia nhưng điều này còn yếu.
Về xác định mục đích tự đánh giá trường MN có 90% ý kiến đánh giá rất tốt, cho thấy việc xác định mục đích tự đánh giá được thực hiện rất rõ ràng và được đánh giá cao.
Về việc huy động nguồn lực để thực hiện tự đánh giá trường MN có đến 31% ý kiến cho là chưa đạt yêu câu. Thực ra, việc huy động nguồn lực bao gồm cả nhân lực, vật lực, tài lực cho hoạt động tự đánh giá và các điều kiện đảm bảo chất lượng trường MN bao gồm nhiều yếu tố như cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, CBQL, chương trình dạy học, phương pháp dạy học, cha mẹ, học sinh,… và đây là cả quá trình cần có sự chỉ đạo thống nhất trong toàn ngành để đảm bảo các yêu cầu về chất lượng.
Về xây dựng lộ trình và thời gian thực hiện tự đánh giá trường MN có 11% ý kiến trả lời là chưa đạt. Thực tế qua quan sát, tác giả nhận thấy việc xây dựng lộ trình cho việc tự đánh giá của từng trường chưa có cơ chế hay quy định nào bắt buộc các trường phải hoàn thành tự đánh giá. Dẫn đến một số trường chỉ thực hiện tự đánh giá cho chiếu lệ.
Về ra văn bản hướng dẫn thực hiện kế hoạch cũng như quán triệt chủ trương chính sách Kiểm định chất lượng giáo dục được đánh giá cao. Thực tế qua khảo sát, tác giả cũng đã ghi nhận được sự nỗ lực của Sở GD&ĐT trong việc triển khai các văn bản quy phạm pháp luật của Bộ GD&ĐT. Ngoài ra, Sở cũng đã có 10 văn bản ban hành để chỉ đạo thực hiện Kiểm định chất lượng giáo dục trường MN.
Về công tác tổ chức tập huấn tự đánh giá, bồi dưỡng chuyên môn của trường MN đáp ứng được yêu cầu công việc với 70% ý kiến đánh giá tốt. Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Đối với các phòng GD&ĐT còn có ý kiến đánh giá mức trung bình, điều này chứng tỏ chất lượng công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn về Kiểm định chất lượng giáo dục, hoạt động tự đánh giá, vẫn còn hạn chế. Để nâng cao chất lượng hoạt động tự đánh giá, công tác Kiểm định chất lượng giáo dục trong thời gian tới cần khắc phục điểm hạn chế này với các hình thức tổ chức linh hoạt, phong phú về nội dung.
Tuy nhiên, việc xây dựng và triển khai hoạt động mạng lưới chuyên môn có đến 56% trả lời mức chưa đạt yêu cầu. Đây là một tỉ lệ khá cao, cần lưu ý. Theo quan sát trong thực tế có danh sách các kiểm định viên có chuyên môn Kiểm định chất lượng giáo dục trường MN là 80 thành viên, nhưng mạng lưới này hoạt động chưa hiệu quả và chưa phát huy được chức năng và nhiệm vụ.
Về chế độ khuyến khích để các trường MN tham gia Kiểm định chất lượng giáo dục có 42% ý kiến cho rằng là chưa đạt yêu cầu. Điều này cần lưu ý. Thực tế hiện nay chưa có chế độ tài chính nào để động viên khuyến khích cá nhân hay tập thể tham gia Kiểm định chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, Nhà trường cũng đã nỗ lực đưa hoạt động Kiểm định chất lượng giáo dục vào những hoạt động giáo dục chung. Xét thi đua của cá nhân và tập thể qua việc thực hiện các hoạt động Kiểm định chất lượng giáo dục.
Tổ chức sơ kết, tổng kết công tác Kiểm định chất lượng giáo dục có 37% trả lời chưa đạt yêu cầu. Điều này phản ánh đúng thực trạng, qua 3 năm triển khai thực hiện Kiểm định chất lượng giáo dục tác giả nhận thấy các nhà trường chưa tổ chức hội nghị sơ kết, tổng kết cho hoạt động tự đánh giá để chia sẻ kinh nghiệm từ các thành viên hay các nhà trường khác.
Cùng với việc xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ Kiểm định chất lượng giáo dục, Sở GD&ĐT đã ban hành các văn bản đôn đốc, yêu cầu báo cáo tiến độ thực hiện của quá trình Kiểm định chất lượng giáo dục.
Cử cán bộ, chuyên viên của phòng KT&QLCLGD tham dự hội thảo – hội nghị tự đánh giá của 8/8 huyện, thành phố; 16/124 trường MN để giúp các đơn vị tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Tổ chức kiểm tra 5/8 huyện, thành phố về công tác Kiểm định chất lượng giáo dục, kết thúc đợt kiểm tra có thông báo kết quả đánh giá đến các đơn vị.
Về xây dựng các yêu cầu đánh giá hoạt động tự đánh giá và báo cáo tự đánh giá có 14% ý kiến trả lời ở mức chưa đạt yêu cầu. Để hiểu rõ việc này, tác giả luận văn cũng đã ghi nhận được cả tỉnh có 124 trường MN thực hiện tự đánh giá, nhưng cán bộ chuyên viên về Kiểm định chất lượng giáo dục của phòng Khảo thí và QLCLGD chỉ có vài người nên cũng chưa đủ sức để kiểm tra cụ thể từng trường để giúp các trường thực hiện tốt công tác này.
2.3.2. Thực trạng quản lý đánh giá ngoài trường mầm non Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Trong nội dung của Kiểm định chất lượng giáo dục trường MN, khâu đánh giá ngoài được coi là khâu quan trọng nhất để công nhận cấp độ chất lượng giáo dục trường MN.
Để khảo sát thực trạng quản lý đánh giá ngoài trong Kiểm định chất lượng giáo dục trường MN, tác giả đã khảo sát chức năng quản lý thông qua việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra đánh giá hoạt động đánh giá ngoài trường MN. Có 80 ý kiến của kiểm định viên đánh giá trường MN và 16 kiến của 16 trường mầm non đã đánh giá ngoài trả lời theo Bảng 2.10. 69
Bảng 2.10: Khảo sát thực trạng quản lý hoạt động đánh giá ngoài
Về xác định mục đích đánh giá ngoài trường MN có tỷ lệ cao nhất (100% kiến đánh giá rất tốt), cho thấy việc xác định mục đích đánh giá ngoài được thực hiện rất rõ ràng và được đánh giá cao nhất.
Về việc huy động nguồn lực để thực hiện đánh giá ngoài trường MN có đến 23% ý kiến cho là chưa đạt yêu câu. Việc huy động nguồn lực bao gồm cả nhân lực, vật lực, tài lực cho công tác đánh giá ngoài chưa nhiều mới dừng lại ở nhân lực hiện có.
Về xây dựng lộ trình và thời gian thực hiện đánh giá ngoài trường MN có 11% ý kiến trả lời là chưa đạt. Thực tế qua quan sát, tác giả nhận thấy việc xây dựng lộ trình cho việc đánh giá ngoài của từng trường chưa có cơ chế hay quy định nào bắt buộc các trường phải đăng ký đánh giá ngoài. Dẫn đến một số trường chỉ thực hiện tự đánh giá và không muốn đăng ký đánh giá ngoài.
Về văn bản hướng dẫn thực hiện kế hoạch cũng như quán triệt chủ trương chính sách Kiểm định chất lượng giáo dục được đánh giá cao. Qua nghiên cứu, tìm hiểu các văn bản hướng dẫn và trao đổi trực tiếp với cán bộ phụ trách cấp Sở, chúng tôi nhận thấy Sở GD&ĐT Bắc Kạn đã triển khai các văn bản quy định về Kiểm định chất lượng giáo dục của Bộ GD&ĐT và Sở GD&ĐT cũng đã có văn bản ban hành để chỉ đạo thực hiện.
Việc xây dựng và triển khai hoạt động mạng lưới chuyên môn đánh giá ngoài có đến 56% trả lời mức chưa đạt yêu cầu. Đây là một tỉ lệ khá cao, cần lưu ý. Thực tế mạng lưới này hoạt động chưa hiệu quả và chưa phát huy được chức năng và nhiệm vụ.
Về thành lập đoàn đánh giá ngoài và công nhận cấp độ chất lượng, trao giấy kiểm định chất lượng có 100% ý kiến cho rằng là tốt và rất tốt. Điều này phản ánh đúng thực trạng của Sở GD&ĐT trong vai trò ra quyết định thành lập đoàn đánh giá ngoài và quyết định công nhận trường đạt chuẩn kiểm định. Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Tổ chức sơ kết, tổng kết hay hội thảo về công tác Kiểm định chất lượng giáo dục có 37% trả lời chưa đạt yêu cầu. Điều này phản ánh đúng thực trạng, qua 5 năm triển khai thực hiện Kiểm định chất lượng giáo dục Sở GD&ĐT chỉ mới tổ chức 1 hội nghị sơ kết, chưa tổ chức hội thảo khoa học chuyên biệt cho hoạt động này để chia sẻ kinh nghiệm từ quốc tế hay các địa phương khác.
Về việc động viên khen thưởng kịp thời các cá nhân và tập thể tham gia Kiểm định chất lượng giáo dục có 20% đánh giá đạt, 70% đánh giá tốt và 10% đánh giá rất tốt đã phản ánh được vai trò chỉ đạo cấp Sở trong hoạt động Kiểm định chất lượng giáo dục.
Việc nhân rộng điển hình được đánh giá mức trung bình. Điều này phản ánh đúng thực trạng của Sở GD&ĐT trong vai trò chỉ đạo hoạt động Kiểm định chất lượng giáo dục. Các cá nhân và tập thể làm tốt công tác Kiểm định chất lượng giáo dục mới được nêu gương trong các kỳ tổng kết hay các cuộc hội nghị lớn của toàn ngành và khuyến khích các trường khác tham quan, học tập tại các nơi điển hình này
Về xây dựng các yêu cầu đánh giá hoạt động đánh giá ngoài và báo cáo đánh giá ngoài thấp có 65% ý kiến cho là chưa đạt yêu cầu đây là tỷ lệ cao. Để lý giải cho việc này, tác giả luận văn đã khảo sát trực tiếp đến quy trình tổ chức thực hiện đánh giá ngoài hiện nay do Bộ GD&ĐT ban hành. Cho thấy, kết quả đánh giá ngoài được trưởng đoàn gửi về Sở và chịu trách nhiệm trực tiếp với Giám đốc Sở về kết quả. Nghĩa là kết quả đánh giá ngoài hay báo cáo đánh giá ngoài chưa được thẩm định trước khi trình Giám đốc Sở. Hiện nay, chưa có khâu thẩm định kết quả đánh giá ngoài, dẫn đến kết quả đánh giá ngoài chưa đảm bảo độ tin cậy cao. Hơn nữa, theo Thông tư 25 sau khi hoàn tất đánh giá ngoài, báo cáo đánh giá ngoài phải công khai trên website của Sở GD&ĐT. Nhưng hiện nay, Sở GD&ĐT chưa có thực hiện điều này.
Về việc xem xét và điều chỉnh kế hoạch Kiểm định chất lượng giáo dục đánh giá là thấp và 55% tỷ lệ trả lời chưa đạt yêu cầu là cao. Thực tế quan sát được từ các hoạt động kiểm tra đánh giá cấp Sở GD&ĐT về Kiểm định chất lượng giáo dục cho thấy việc xem xét và điều chỉnh kế hoạch thường ít thực hiện. Hầu hết các kế hoạch về Kiểm định chất lượng giáo dục được xây dựng từ đầu năm học và thực hiện cho đến hết năm học không có việc rà soát và điều chỉnh.
Về việc cải tiến chuyên môn trong hoạt động đánh giá ngoài được đánh giá ở mức đạt. Điều này phản ánh đúng thực trạng về quản lý chuyên môn đánh giá ngoài của Sở GD&ĐT. Đội ngũ CBQL cấp Sở về Kiểm định chất lượng giáo dục được đào tạo chuyên môn và nhiệt tình trong công việc. Luôn có những buổi tập huấn chuyên môn đa dạng về chủ đề phù hợp với tình hình thực tiễn Kiểm định chất lượng giáo dục tại tỉnh Bắc Kạn.
Theo ghi nhận của tác giả luận văn: Các cấp quản lý giáo dục cơ bản đã nhâṇ thức đầy đủ về muc̣ đich, yêu cầu của công tác Kiểm định chất lượng giáo dục. Công tác chỉ đạo của phòng GD &ĐT các huyện, thành phố cơ bản đáp ứng yêu cầu thực tế tại địa phương. Cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên các nhà trường, các thành viên hôị đồng tự đánh giá có ý thức trách nhiệm cao trong việc thực hiện nhiệm vụ Kiểm định chất lượng giáo dục . Nhưng một số đơn vị công tác kiểm tra, giám sát tiến độ thực hiện các công việc theo quy trình Kiểm định chất lượng giáo dục chưa tốt. Chất lượng hiệu quả thực hiện các nội dung công việc theo quy trình Kiểm định chất lượng giáo dục ở một số đơn vị chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.
2.3.3. Thực trạng tập huấn tự đánh giá Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Từ năm 2014 đến nay, Sở GD&ĐT đã tổ chức 3 đợt tập huấn tự đánh giá đến các trường MN. Thành phần tham dự là hiệu trưởng (chủ tịch hội đồng tự đánh giá), thư ký hội đồng tự đánh giá và các thành viên trong hội đồng tự đánh giá.
Nội dung tập huấn phổ biến các văn bản quy định liên quan của Bộ GD&ĐT, bộ tiêu chuẩn đánh giá trường MN, quy trình và chu kỳ Kiểm định chất lượng giáo dục, tổ chức và viết báo cáo tự đánh giá trong nhà trường MN và các thông tin liên quan đến Kiểm định chất lượng giáo dục. Ngoài ra, Sở GD&ĐT tập huấn thực hành làm bài tập về tìm minh chứng, mã hóa minh chứng, viết phiếu đánh giá tiêu chí, viết báo cáo tự đánh giá. Thời lượng tập huấn là một ngày hay ba ngày tùy từng đợt.
Sau khi Sở GD&ĐT tập huấn chung cho tất cả các trường MN, các CBQL được cử đi dự tập huấn về tổ chức tập huấn lại cho chính trường mình. Qua kiểm tra, đôn đốc cũng như khảo sát, luận văn ghi nhận được 24 trường (chiếm 20%) có tổ chức tự tập huấn trong đơn vị.
Ngoài ra, có 10 trường, cũng đã mời trực tiếp các cán bộ, chuyên gia về tập huấn cho toàn thể đội ngũ của trường chiếm tỷ lệ 12% tổng số các trường MN. Rõ ràng, đây là tỷ lệ còn hạn chế chung cả tỉnh. Trong thực tế, việc các trường cử cán bộ đi dự tập huấn cử người không đúng thành phần quy định, dẫn đến về cơ sở rất khó triển khai lại cho đơn vị. Ngoài ra, nội dung triển khai tập huấn chưa chi tiết cụ thể về kỹ thuật đánh giá nhà trường qua bộ tiêu chuẩn. Chưa phân tích kỹ từng tiêu chí và các chỉ số nên có minh chứng số liệu định tính và những minh chứng số liệu định lượng như thế nào là phù hợp.
2.3.4. Thực trạng tập huấn đánh giá ngoài
Theo quy định của Bộ GD&ĐT, tiêu chuẩn của kiểm định viên phải thông qua lớp đào tạo đánh giá ngoài do Bộ GD&ĐT tổ chức và được cấp giấy chứng nhận. Trong những năm qua, Sở GD&ĐT đã tổ chức được 08 đợt đào tạo kiểm định viên đánh giá ngoài. Thành phần được cử đi dự tập huấn là lãnh đạo chuyên viên phụ trách Kiểm định chất lượng giáo dục, hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, chủ tịch công đoàn, tổ trưởng chuyên môn, giáo viên. Yêu cầu các đối tượng này phải có ít nhất 5 năm công tác trong lĩnh vực giáo dục. Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Chương trình tập huấn đánh giá ngoài do Bộ GD&ĐT tổ chức
Về nội dung chuyên đề tập huấn: chuyên đề tập huấn đánh giá ngoài được xây dựng thành từng bài giảng với các nội dung cơ bản theo quy trình hoạt động đánh giá ngoài như:
Tổng quan về Kiểm định chất lượng giáo dục; Quy trình đánh giá ngoài; Hướng dẫn nghiên cứu hồ sơ đánh giá ngoài; Phân tích báo cáo tự đánh giá; Mẫu nhận xét báo cáo tự đánh giá; Khảo sát sơ bộ và chính thức; Viết báo cáo sơ bộ; Viết báo cáo đánh giá ngoài; các kỹ thuật đánh giá.
- Thời gian tập huấn: 30 tiết, trong đó có 25 tiết lý thuyết và 5 tiết thực hành
- Báo cáo viên: là cán bộ của Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục.
- Đối tượng tham gia lớp tập huấn: là CBQL các trường MN
- Giấy chứng nhận: Cuối khóa, các học viên được cấp giấy chứng nhận do Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục cấp.
Nhận xét: Chương trình tập huấn đơn giản, gọn nhẹ bám sát theo các hoạt động tự đánh giá và đánh giá ngoài. Tuy nhiên, chương trình chưa tập trung sâu vào kỹ năng đánh giá, cách đánh giá định tính, định lượng theo từng tiêu chí, thiếu thực hành. Nội dung tập huấn còn mang nặng tính lý thuyết, chưa có thực tế. Ngoài ra, việc làm này của Bộ GD&ĐT chưa tách bạch khỏi quản lý nhà nước và quản lý chuyên môn. Việc đào tạo đánh giá ngoài nên giao quyền về cho các cơ sở đào tạo đủ năng lực. Tránh tình trạng 63 tỉnh thành trong cả nước trông chờ vào cán bộ của Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục xếp lịch tập huấn, chưa kể đến những bất cập trong thủ tục hành chính.
Tổng số CBQL, GV được tập huấn đánh giá ngoài là 80 người. Đây là lực lượng kiểm định viên mà Sở GD&ĐT huy động, ra quyết định thành lập nhân sự các đoàn đánh giá ngoài.
Cùng với việc Bộ GD&ĐT tập huấn và cấp chứng chỉ cho tất cả kiểm định viên, Sở GD&ĐT sau khi triển khai quyết định các đoàn đánh giá ngoài cũng đã tổ chức tập huấn chuyên sâu về kỹ thuật đánh giá chất lượng giáo dục và chia sẽ kinh nghiệm công tác tổ chức, quản lý điều hành đoàn đánh giá ngoài.
Tất cả quy trình, nội dung, biểu mẫu thực hiện hoạt động Kiểm định chất lượng giáo dục theo Văn bản số 6339/BGDĐT-KTKĐCLGD ngày 05/11/2014 của Bộ GD&ĐT về việc Hướng dẫn tự đánh giá và đánh giá ngoài trường mầm non.
2.3.5. Nhu cầu bồi dưỡng chuyên môn trong lĩnh vực kiểm định chất lượng giáo dục mầm non Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Bảng 2.11: Nhu cầu bồi dưỡng chuyên môn trong lĩnh vực Kiểm định chất lượng giáo dục
Qua khảo sát thực tế cho thấy các hiệu trưởng trường mầm non triển khai hoạt động KĐLCGD của nhà trường theo văn bản quy định. Tuy nhiên chất lượng thực hiện từng nội dung chưa đạt như mong muốn.
Về cách lập luận và hành văn để viết báo cáo tự đánh giá cũng như báo cáo đánh giá ngoài có 90% ý kiến cho rằng rất cần thiết việc bồi dưỡng cho họ kiến thức, kỹ năng về cách lập luận và hành văn để viết báo cáo tự đánh giá cũng như báo cáo đánh giá ngoài. Đây là thực tế, bởi qua khảo sát các bản báo cáo tự đánh giá và báo cáo đánh giá ngoài cũng cho thấy rằng năng lực lập luận và hành văn trong báo cáo khoa học là rất cần thiết, bởi lẽ hầu hết các báo cáo đều mắc lỗi này.
Về hiểu biết và vận dụng được yêu cầu, nội hàm của chỉ số, tiêu chí, trong bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng có 70% ý kiến cho là rất cần thiết và 30% ý kiến cho là cần thiết phải được tập huấn để hiểu một cách sâu sắc và thấu đáo từng nội hàm của chỉ số, tiêu chí. Có như vậy, mới tự đánh giá hay đánh giá ngoài mới chính xác, khách quan, công bằng.
Về thiết kế phiếu khảo sát đánh giá chất lượng các hoạt động giáo dục và thống kê phân tích dữ liệu trong đánh giá có 40% ý kiến cho là cần thiết, 40% kiến cho là rất cần. Bởi lẽ, trong thực tế những đánh giá định tính rất cần các phiếu khảo sát, kỹ thuật thiết kế phiếu, thang đo, các dạng câu hỏi,… đều ít được các hội đồng tự đánh giá cũng như đoàn đánh giá ngoài sử dụng vì họ chưa nắm được kỹ thuật thực hiện phiếu khảo sát, xử lý và sử dụng kết quả.
Về tham quan học tập chia sẻ kinh nghiệm từ các trường bạn (xếp hạng cao nhất) có 100% ý kiến cho là rất cần thiết.
Như vậy chúng ta thấy, rất cần thiết việc thiết kế chương trình đào tạo bồi dưỡng kiểm định viên với các yêu cầu được nêu trong bảng khảo sát.
2.3.6. Đánh giá tác động của kiểm định chất lượng giáo dục trường mầm non đến việc cải tiến chất lượng giáo dục
Để đánh giá được tác động của Kiểm định chất lượng giáo dục trường MN đến việc cải tiến chất lượng giáo dục tác giả luận văn đã tiến hành khảo sát đến CBQL và GV trường MN với 276 ý kiến thu được theo Bảng 2.12.
Bảng 2.12: Tác động của Kiểm định chất lượng giáo dục trường MN đến việc cải tiến chất lượng giáo dục
Qua kết quả Bảng 2.12, tác giả nhận thấy Kiểm định chất lượng giáo dục có tác động tích cực đến việc nâng cao các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục như công tác văn thư, lưu trữ hồ sơ minh chứng, lập kế hoạch,… Tuy nhiên, đối với xây dựng kế hoạch và chiến lược phát triển nhà trường có 40% ý kiến tán thành, cũng như 5% ý kiến không đồng ý về việc nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ CB, GV, NV trong việc đảm bảo chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Điều này có nghĩa là còn một số ít CB, GV, NV vẫn coi công tác Kiểm định chất lượng giáo dục như là sự đối phó, chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển nhà trường hướng đến chất lượng. Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Tuy nhiên, để đánh giá được tác động của Kiểm định chất lượng giáo dục là hướng tới xây dựng và phát triển văn hóa chất lượng nhà trường tác giả luận văn đã phỏng vấn các hiệu trưởng MN về điều này. Qua phỏng vấn cho thấy hầu hết là nhận thức của họ chỉ ở mức cơ bản là đáp ứng yêu cầu của Sở GD&ĐT cũng như các cơ quan quản lý. Chỉ có một vài hiệu trưởng có quan tâm đến việc sẽ xây dựng hình ảnh hay “thương hiệu” nhà trường ở mức lâu dài.
Ngoài ra, để đánh giá một cách toàn diện sự tác động của Kiểm định chất lượng giáo dục đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường chúng ta cần phải có thời gian để có các kết quả của nhà trường thông qua các chỉ số như: tỷ lệ bé chuyên cần, số trẻ thể nhẹ cân, hiểu biết của trẻ, số giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn,… Trong khuôn khổ thời gian nghiên cứu của luận văn chưa đủ dài để đo đạt được sự tiến bộ của nhà trường qua các chỉ số trên.
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục trường MN
Qua trao đổi với CBQL cấp Sở, Phòng GD; Kiểm định viên …. chúng tôi được biết các yế tố ảnh hưởng đến thực trạng công tác quản lý hoạt động KĐCL giáo dục trường mầm non của tỉnh BK tập trung ở một số yếu tố sau:
2.4.1. Cơ chế tài chính
Chưa có chính sách thỏa đáng cho các trường tham gia và đạt chuẩn Kiểm định chất lượng giáo dục, nên chưa tạo sự động viên khuyến khích. Chưa có giải pháp, chế tài
cụ thể đối với trường MN chưa thực hiện tự đánh giá. Kinh phí cho hoạt động Kiểm định chất lượng giáo dục trường MN chủ yếu là ngân sách, chưa huy động được các nguồn lực bên ngoài nên rất hạn chế. Chính vì vậy, cũng chưa tạo được động lực cho các trường tham gia.
2.4.2. Tổ chức bộ máy và phân cấp
Chưa hình thành được tổ chức kiêm định độc lập, việc phân quyền cho Sở GD&ĐT tổ chức, quản lý và thực hiện Kiểm định chất lượng giáo dục trường MN chỉ là bước khởi đầu của việc đưa Kiểm định chất lượng giáo dục vào nhà trường. về lâu dài, theo Nghị quyết TW 8, khóa 11 phải hình thành tổ chức Kiểm định chất lượng giáo dục độc lập với Sở GD&ĐT (tách quản lý chuyên môn ra khỏi cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục). Hiện nay, Giám đốc Sở GD&ĐT được phân quyền trong công tác Kiểm định chất lượng giáo dục trường MN, từ khâu tổ chức thực hiện tự đánh giá, đánh giá ngoài và công nhận mức chất lượng. Giám đốc Sở GD&ĐT ký và cấp chứng nhận, dẫn đến tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, như vậy không độc lập và không khách quan.
2.4.3. Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường MN Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường MN thiếu logic và chưa sát với thực tế. Cụ thể, bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường MN tuy đã được qua 2 lần chỉnh sửa, cũng đã thay đổi nhiều cho phù hợp. Tuy nhiên, vẫn rất cần có sự thay đổi để phù hợp hơn so với tỉnh Bắc Kạn. Bởi lẽ, đây là bộ tiêu chuẩn dùng chung cho tất cả các trường MN trên cả nước, do vậy rất cần thiết phải có những tiêu chí linh hoạt cho từng vùng miền. Bộ tiêu chuẩn chưa có các tiêu chí về sứ mạng và tầm nhìn của nhà trường. Chính vì vậy, các trường đạt chuẩn kiểm định nhưng chưa được thể hiện, hoặc có thể hiện cũng chưa được đánh giá về nét riêng biệt, đặc trưng của nhà trường. Theo thông tư 25 “Kiểm định chất lượng giáo dục nhằm giúp cơ sở giáo dục xác định mức độ đáp ứng mục tiêu giáo dục trong từng giai đoạn…” Tuy nhiên, việc này còn mang tính lý thuyết không thực tế. Vì mục tiêu của giáo dục MN theo điều lệ trường MN cũng rất khó xác định do không thể đo lường được.
2.4.4. Năng lực của cán bộ quản lý, giáo viên tại các trường mầm non
Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên nhiệt huyết, có năng lực được xem là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công trong việc đạt được các mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo của mỗi trường. Theo đó, công tác xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên có năng lực thường xuyên được các trường trên địa bàn tỉnh thực hiện.
Về đội ngũ quản lý hiện nay tổng số cán bộ quản lý của 122 trường mầm non của tỉnh Bắc Kạn là 276 người, trong đó: Trình độ trên chuẩn 248, đạt chuẩn 28 người.
Về đội ngũ giáo viên hiện nay tổng số giáo viên tại các trường mầm non trên địa bàn tỉnh là 1559 người, trong đó: Trình độ trên chuẩn 897, đạt chuẩn 662 người.
Qua số liệu trên cho thấy, đội ngũ giáo viên của các trường mầm non trên địa bàn tỉnh có trình độ trên chuẩn rất cao, có đủ năng lực để tham gia đào tạo. Từ đó cho thấy để xây dựng đội ngũ giáo viên có năng lực cần tính đến số giáo viên cần có (số lượng) và trình độ (chất lượng) cần thiết. Các phương pháp xây dựng đội ngũ giáo viên có năng lực một mặt cần chú trọng vào đội ngũ giáo viên hiện có thông qua các biện pháp nâng cao và phát triển, mặt khác cần có các giải pháp hiệu quả cho công tác đào tạo lần đầu hay đào tạo trước khi hành nghề đối với đội ngũ giáo viên.
2.5. Đánh giá chung về những ưu điểm và hạn chế của quản lý kiểm định chất lượng giáo dục trường mầm non của tỉnh Bắc Kạn
2.5.1. Những ưu điểm Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Bộ GD&ĐT và Sở GD&ĐT đã ban hành đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật cũng như văn bản chuyên môn để chỉ đạo, triển khai thực hiện hoạt động Kiểm định chất lượng giáo dục trường MN. Các văn bản chỉ đạo cấp Bộ và cấp Sở phù hợp tương đối với khoa học về Kiểm định chất lượng giáo dục cũng như tình hình thực tế tại tỉnh Bắc Kạn và cả nước.
KĐCLGD trường MN đã thật sự trở thành một hoạt động quản lý chất lượng giáo dục như đã được quy định trong Luật Giáo dục. Kết quả bước đầu của công tác Kiểm định chất lượng giáo dục đã khẳng định được tính đúng đắn và là biện pháp để nâng cao chất lượng trường MN. Kiểm định chất lượng giáo dục trường MN đã giúp cho Sở GD&ĐT trong công tác quản lý các trường MN một cách chặt chẽ và toàn diện. Thông qua Kiểm định chất lượng giáo dục đã thúc đẩy trường MN cải tiến các điều kiện đảm bảo chất lượng của trường. Kiểm định chất lượng giáo dục trường MN đã giúp các trường hình thành văn hóa chất lượng trong nhà trường, thể hiện sự phấn đấu vì chất lượng tránh được bệnh “hình thức” chạy theo số lượng và đối phó với cấp trên. Những trường có các điều kiện đảm bảo chất lượng tốt sẽ dễ dàng tham gia vào quá trình tự đánh giá và đăng ký để được đánh giá ngoài. Việc phân quyền cho Giám đốc Sở ký giấy chứng nhận mức chất lượng thể hiện sự phân quyền trong quản lý từ trung ương đến địa phương.
KĐCLGD trường MN đã giúp nhà trường đánh giá đúng thực trạng của nhà trường thông qua bộ tiêu chuẩn. Việc tham gia đánh giá ngoài đã giúp nhà trường nhìn lại chính mình một cách khách quan nhất bởi sự tư vấn và giúp đỡ của đoàn đánh giá ngoài với tinh thần đánh giá đồng nghiệp. Đoàn đánh giá ngoài cũng học được rất nhiều kinh nghiệm từ trường được đánh giá những vấn đề về quản lý, về chuyên môn. Thông qua Kiểm định chất lượng giáo dục các thành viên trong nhà trường cũng như đoàn đánh giá có dịp rèn luyện hơn về các kỹ năng đánh giá chất lượng giáo dục.
2.5.2. Những hạn chế
- Về kiểm định viên
Để thực hiện được cơ chế quản lý Kiểm định chất lượng giáo dục cần có đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ Kiểm định chất lượng giáo dục được đào tạo chuyên nghiệp. Hiện nay, lực lượng kiểm định viên là những thành viên từ các trường, đang thực thi nhiệm vụ chính là CBQL ở tại trường. Do vậy, được cử đi đánh giá ngoài là kiêm nhiệm nên cũng không ít khó khăn khi điều động. Năng lực của kiểm định viên chưa đáp ứng yêu cầu. Cụ thể là năng lực lập luận và viết báo cáo tự đánh giá cũng như viết báo cáo đánh giá ngoài còn nhiều hạn chế. Cần có chương trình đào tạo bồi dưỡng kiểm định viên chuyên sâu hơn.
- Về quản lý hoạt động tự đánh giá trường MN Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Nhận thức của các trường MN về công tác Kiểm định chất lượng giáo dục: Một số trường MN chưa nhận thức được chất lượng là sự sống còn của nhà trường. Các trường vẫn phụ thuộc vào sự chi phối hoàn toàn của cơ quan quản lý như tuyển sinh đầu vào, ngân sách, tuyển giáo viên, xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị,… nên vẫn còn thụ động. Một số hiệu trưởng rất ngại thực hiện công tác Kiểm định chất lượng giáo dục vì sự vất vả và tốn công sức.
Quy trình và kỹ thuật thực hiện báo cáo tự đánh giá: Thiếu quy trình và kỹ thuật chuyên sâu để tổ chức thực hiện tự đánh giá và viết báo cáo trong trường MN. Thiếu các yêu cầu cụ thể để đánh giá quy trình thực hiện tự đánh giá và viết báo cáo tự đánh giá trường MN.
- Về quản lý hoạt động đánh giá ngoài trường MN
Quy trình và tiêu chí giám sát hoạt động đánh giá ngoài: Thiếu quy trình giám sát và các tiêu chí đánh giá hoạt động đánh giá ngoài. Kết quả đánh giá ngoài từ các đoàn đánh giá ngoài được trình trực tiếp đến Giám đốc Sở GD&ĐT để ra quyết định chứ chưa có bộ phận giám sát.
Trưởng đoàn đánh giá ngoài: Thiếu tiêu chí cụ thể để đào tạo và lựa chọn trưởng đoàn đánh giá ngoài. Cụ thể, các tiêu chí về kiến thức, kỹ năng, thái độ của trưởng đoàn đánh giá ngoài. Chưa bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý đoàn đánh giá ngoài cho các trưởng đoàn đánh giá ngoài.
Kết luận chương 2 Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Sở GD&ĐT Bắc Kạn đã quan tâm đến công tác Kiểm định chất lượng giáo dục và quản lý hoạt động Kiểm định chất lượng giáo dục thông qua việc thực hiện các nội dung: hoàn thiện cơ cấu tổ chức, xây dựng văn bản hướng dẫn, tổ chức tập huấn, hội thảo, kiểm tra đánh giá hoạt động tự đánh giá và đánh giá ngoài, giám sát điều chỉnh kịp thời quá trình thực hiện ở cơ sở.
Các nhà trường mầm non đã tiến hành tự đánh giá theo tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường MN do Bộ GD&ĐT ban hành, xác định được hiện trạng, điểm mạnh, điểm yếu của đơn vị từ đó đề ra kế hoạch cải tiến chất lượng để nâng cao mức độ đáp ứng tiêu chuẩn đánh giá trong thời gian tiếp theo.
Thực tế chỉ đạo thực hiện công tác Kiểm định chất lượng giáo dục còn có một số hạn chế cần khắc phục để nâng cao chất lượng, hiệu quả.
Một số ít cán bộ quản lý, giáo viên trường mầm non của tỉnh Bắc Kan chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa vai trò của công tác KĐLCGD, hoạt động tự đánh giá đối với việc nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà trường và chất lượng giáo dục, còn hạn chế về kỹ thuật đánh giá. Chưa có chương trình bồi dưỡng và tổ chức bồi dưỡng kiểm định viên đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Thiếu hụt quy trình và kỹ thuật chuyên môn sâu để tổ chức thực hiện tự đánh giá và đánh giá ngoài. Chưa ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý Kiểm định chất lượng giáo dục trường MN và thiếu các chính sách đãi ngộ các trường được kiểm định cũng chưa có hợp tác trong lĩnh vực này. Luận văn: Thực trạng hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Biện pháp hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục
Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com