Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường THPT Hiền Đa, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ trong bối cảnh hiện nay dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Giáo dục Kỹ năng sống (KNS) cho thanh thiếu niên là vấn đề được hầu hết các quốc gia trên thế giới quan tâm, chú ý. Điều này càng thể hiện rõ ở các quốc gia phát triển như: Hoa Kì, Pháp, Canada, Thụy Sỹ, Trung Quốc, Singapore…. Ở Việt Nam, thời gian gần đây, vấn đề giáo dục KNS cho HS-SV đã nhận được sự quan tâm nhiều hơn từ các cấp quản lý giáo dục và các nhà khoa học. Đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập đến phương diện lý luận và thực tiễn của việc rèn KNS thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp và các hình thức giáo dục, đặc biệt là các công trình nghiên cứu thực tiễn nhằm khẳng định sự cần thiết phải đẩy mạnh việc giáo dục KNS cho HS-SV ở tất cả các cơ sở giáo dục.

Trên thực tế trong những năm gần đây ở nước ta có một bộ phận không nhỏ học sinh – sinh viên có biểu hiện lệch lạc về nhân cách và về đạo đức, thiếu kỹ năng sống: thụ động trong cuộc sống hàng ngày, không thể hiện được khả năng bản thân, có thái độ tiêu cực khi mâu thuẫn với bè bạn, gia đình, thầy cô giáo, lúng túng khi xử lý các tình huống phát sinh trong cuộc sống, có lối sống không khoa học, hiệu quả… thậm chí còn có xu thế phát triển lệch lạc về nhân cách: thờ ơ, vô cảm trước nỗi đau cũng như trong thiên tai, bệnh dịch, nghèo đói… Đáng lo là có những biểu hiện suy đồi đạo đức và vi phạm pháp luật. Vì vậy, mục tiêu của giáo dục là đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục nước ta đã và đang đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là tiếp cận giáo dục giá trị sống, hình thành kỹ năng sống cho người học đó là: “Học để biết, Học để làm, Học để khẳng định mình và Học để cùng chung sống” [32]. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt” [13].

Điều 2 Luật giáo dục được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 đã ghi rõ: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH); hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [26].

Như vậy, hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong các trường Trung học phổ thông (THPT) là phù hợp với mục tiêu chung của ngành giáo dục và đào tạo, góp phần đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước.

Trường THPT Hiền Đa được thành lập tháng 10 năm 1984, đến nay đã trải qua hơn 30 năm xây dựng và phát triển. Địa bàn tuyển sinh của trường bao gồm 9 xã hạ huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ (2 xã đồng bằng, 7 xã miền núi). Mặc dù điều kiện kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn, nhưng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương vẫn dành sự quan tâm đặc biệt cho sự nghiệp giáo dục. Sự quan tâm này đã giúp cho Trường THPT Hiền Đa đã có những bước đi vững chắc và trở thành địa chỉ học tập tin cậy cho con em nhân dân địa phương.

Trong những năm học gần đây, công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh được xác định là một mục tiêu quan trọng trong hoạt động giáo dục của nhà trường. Kết quả của hoạt động đó được xem là thước đo hiệu quả, chất lượng đào tạo. Sự cố gắng phấn đấu của mỗi giáo viên, học sinh và cũng là chỉ số quan trọng hàng đầu trong việc xác định chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Tuy nhiên, theo báo cáo tổng kết từ năm học 2013-2014 đến 2015-2016 nhận thức về kỹ năng sống cũng như việc thể chế hóa giáo dục kỹ năng sống trong giáo dục phổ thông ở nước ta nói chung và ở trường THPT Hiền Đa nói riêng chưa thật cụ thể. Việc hướng dẫn tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở các cấp học, bậc học còn nhiều hạn chế. Các chương trình giáo dục kỹ năng trong các nhà trường hiệu quả không cao, công tác quản lý chưa sát sao. Các trường có kế hoạch hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nhưng trong quá trình thực hiện còn rất lúng túng, việc quản lý và chỉ đạo thực hiện giáo dục kỹ năng sống chưa triệt để, hình thức tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống còn đơn điệu, chưa thực sự thu hút được học sinh tích cực tham gia hoạt động.

Xuất phát từ những đòi hỏi thực tiễn về giáo dục KNS cho học sinh của nhà trường chúng tôi chọn đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường THPT Hiền Đa, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ trong bối cảnh hiện nay” để nghiên cứu và thực hiện trong thời gian học tập của mình.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục

2. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường THPT Hiền Đa, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ tác giả đề xuất những biện pháp quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường THPT Hiền Đa, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ để nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

  • Nghiên cứu lý luận của việc quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường phổ thông làm cơ sở lý luận của đề tài.
  • Khảo sát, đánh giá thực trạng việc quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường THPT Hiền Đa, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ trong bối cảnh hiện nay.
  • Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường THPT Hiền Đa, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ trong bối cảnh hiện nay nhằm nâng cao kết quả giáo dục toàn diện của nhà trường.

4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

4.1 Khách thể nghiên cứu

Hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở trường THPT

4.2. Đối tượng nghiên cứu

Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường THPT.

5. Câu hỏi nghiên cứu

Làm thế nào để quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở trường THPT Hiền Đa đạt hiệu quả cao?

Thực tế hiện nay các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống có những bất cập và hạn chế gì, điều chỉnh như thế nào?

6. Giả thuyết khoa học

Hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở Trường THPT Hiền Đa trong những năm học qua đã đạt được những thành tích đáng khích lệ, tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, hoạt động này còn gặp phải những khó khăn nhất định dẫn tới việc chưa có hiệu quả cao. Vì vậy, nếu xây dựng được các biện pháp quản lý phù hợp như: kế hoạch hóa hoạt động giáo dục kỹ năng sống phù hợp với đặc điểm của nhà trường, xây dựng chương trình, chỉ đạo phối hợp các lực lượng đồng bộ cùng tham gia thực hiện hoạt động và cập nhật phương hướng đổi mới giáo dục trong quản lý trong hoạt động giáo dục kỹ năng sống thì hoạt động này sẽ đạt được chất lượng, hiệu quả cao, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường.

7. Phạm vi nghiên cứu

  • Biện Pháp quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường THPT Hiền Đa từ năm học 2013- 2014 cho đến nay.
  • Các hoạt động nghiên cứu: Hoạt động lồng ghép giáo dục kỹ năng sống (GDKNS), trong công tác chủ nhiệm lớp, công tác Đoàn thanh niên, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (GDNGLL), hoạt động tích hợp giáo dục KNS vào các môn văn hoá.
  • Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Trường THPT Hiền Đa, huyện Cẩm Khê,
  • Giới hạn khách thể khảo sát: 15 cán bộ quản lý (hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn), 15 đồng chí trong ban chấp hành Đoàn trường, 70 giáo viên, 100 học sinh và 100 phụ huynh học sinh trường THPT Hiền Đa.

8. Phương pháp nghiên cứu Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

8.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Thu thập, nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu như: các văn bản về chủ chương, chính sách, quy định, định hướng của Đảng, chính phủ, của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của Sở Giáo dục và Đào tạo Tỉnh Phú Thọ về việc quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh; các sách báo, các bài viết của các nhà nghiên cứu, các nhà giáo dục học, để xác định vấn đề nghiên cứu.

8.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn

  • Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: xây dựng phiếu hỏi với các loại câu hỏi đóng, mở cho các đối tượng khác nhau nhằm tìm hiểu thực trạng quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường THPT Hiền Đa trong bối cảnh hiện nay.
  • Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động: nhằm phân tích kết quả của hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh để khẳng định tính hiệu quả của các biện pháp quản lý
  • Phương pháp quan sát: quan sát các hoạt động quản lý, việc triển khai công tác giáo dục kỹ năng sống dùng để thu thập thông tin có liên quan đến thực trạng quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường.
  • Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: trao đổi và lấy ý kiến đánh giá, nhận xét từ các chuyên gia về vấn đề nghiên cứu của đề tài.
  • Phương pháp phỏng vấn: tiến hành trò chuyện, tọa đàm, trao đổi với học sinh, với thầy cô giáo và các nhà quản lý giáo dục trong nhà trường về việc triển khai và quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh của trường.
  • Phương pháp thống kê toán học: phương pháp thống kê toán học được sử dụng để xử lý và phân tích các kết quả nghiên cứu. Phần mềm được sử dụng trong đề tài là: Excell.

9. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

9.1. Ý nghĩa lý thuyết của đề tài

Đề tài góp phần tổng kết, bổ sung những lý luận về quản lý hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ở trường THPT.

9.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Đề tài góp phần nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục kĩ năng sống nói riêng, chất lượng giáo dục toàn diện nói chung của Trường THPT Hiền Đa huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng để vận dụng vào điều kiện thực tế của các trường THPT khác trong tỉnh và cả nước.

10. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương

  • Chương 1: Cơ sở Lý luận của quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở Trường Trung học phổ thông trong bối cảnh hiện nay.
  • Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở Trường THPT Hiền Đa huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ trong bối cảnh hiện nay.
  • Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở Trường THPT Hiền Đa huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ trong bối cảnh hiện nay.

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRONG NHÀ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan

1.1.1. Ở ngoài nước

Tổ chức văn hóa khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) đã đưa ra nguyên tắc cơ bản để định hướng giáo dục kỹ năng sống trong thực tiễn: “Tất cả thế hệ trẻ và người lớn có quyền hưởng lợi từ một nền giáo dục chứa đựng các hợp phần học để biết, học để làm, học để chung sống với mọi người và học để khẳng định mình. Giáo dục hướng vào yêu cầu bồi dưỡng năng khiếu tiềm năng và phát triển cá tính người học cần quan tâm kết hợp kỹ năng thực hành và các khả năng tâm lí xã hội, đánh giá chất lượng giáo dục phải bao hàm đánh giá mức độ đạt được các kỹ năng sống và tác dụng của kỹ năng sống đối với xã hội và cá nhân. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Hội nghị giáo dục Thế giới họp tại Dakar – Thủ đô Senegan tháng 4 năm 2004 (17) đã thông qua Kế hoạch hành động Giáo dục cho mọi người – gọi tắt là Kế hoạch Dakar, bao gồm 6 mục tiêu. Trong đó, Mục tiêu 3 nêu rõ: Đảm bảo nhu cầu học tập cho tất cả các thế hệ trẻ và người lớn được đáp ứng thông qua bình đẳng tiếp cận với các chương trình học tập và chương trình kỹ năng sống thích hợp.

Kỹ năng sống được truyền dạy từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua cách truyền miệng cho các thế hệ sau về cách săn bắn, trồng trọt và cách trốn tránh kẻ thù… Với cách truyền khẩu như vậy con người đã ngày càng tiến hóa và mở rộng vốn hiểu biết của mình và xây dựng một xã hội văn minh như ngày nay. Như vậy, có thể khẳng định kỹ năng sống của con người đã được hình thành khi con người hình thành xã hội. Ngày nay xã hội càng ngày càng phát triển thì kỹ năng sống cũng mở rộng phạm vi không chỉ là bản năng sống mà còn là khả năng thích ứng với xã hội. Trong đó, mỗi chế độ xã hội bao giờ cũng có tư tưởng giáo dục chính thống phục vụ cho sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo vệ quyền lợi cho một số ít hoặc số đông các thành viên trong xã hội. Sự phát triển toàn diện nhân cách bao gồm sự phát triển về thể chất (thể lực, thể hình, thể năng), tâm trí (trí tuệ, tình cảm) và năng lực thực tiễn (theo Các Mác thì đó là năng lực kỹ thuật tổng hợp, phương tây gọi là kỹ năng xã hội, UNESCO gọi là KNS). Để đạt được mục tiêu đó, người học (học sinh) không chỉ là khách thể mà cuối cùng phải là chủ thể của quá trình nhận thức và quá trình tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách. Vì vậy mà việc giáo dục không chỉ diễn ra trên lớp, trong trường học mà còn phải được thực hiện ở ngoài lớp, ngoài nhà trường theo phương thức kết hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội thông qua các hình thức hoạt động trong môi trường thiên nhiên, sinh hoạt tập thể…

Ở các nước phương Tây, kỹ năng sống từ lâu đã được quan tâm. Mô hình giáo dục của Pháp thế kỷ XXI theo đề xuất của Edgard Morin là phải giảng dạy về hoàn cảnh con người (hiểu rõ con người là gì, con người sống và hoạt động như thế nào, trong những điều kiện nào, con người xử lý bằng cách nào), và học cách sống. Triết lý giáo dục Mỹ đầu thế kỉ XXI cũng cho rằng cần nâng cao kỹ năng giao lưu qua nói, đọc, nghe, viết, cần phát triển khả năng suy ngẫm… còn người Nhật đi vào thế kỉ XXI với mô hình không đánh giá học sinh, sinh viên qua năng lực hiểu các môn học mà đánh giá khả năng giải quyết các vấn đề của đời sống thực tiễn [3, tr.203].

Tại Mỹ, Bộ Lao động Mỹ (The U.S. Department of Labor) và Hiệp hội đào tạo và Phát triển Mỹ (The American Society of Training and Development) gần đây đã thực hiện một cuộc nghiên cứu về các kỹ năng cơ bản trong công việc. Kết luận được đưa ra là có 13 kỹ năng cơ bản cần thiết để thành công trong công việc:

  1. Kỹ năng học và tự học (learning to learn)
  2. Kỹ năng lắng nghe (Listening skills)
  3. Kỹ năng thuyết trình (Oral communication skills)
  4. Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving skills)
  5. Kỹ năng tư duy sáng tạo (Creative thinking skills)
  6. Kỹ năng quản lý bản thân và tinh thần tự tôn (Self esteem)
  7. Kỹ năng đặt mục tiêu, tạo động lực làm việc (Goal setting, motivation skills)
  8. Kỹ năng phát triển cá nhân và sự nghiệp (Personal and career development skils)
  9. Kỹ năng giao tiếp ứng xử và tạo lập quan hệ (Interpersonal skills)
  10. Kỹ năng làm việc đồng đội (Teamwork)
  11. Kỹ năng đàm phán (Negotiation skills)
  12. Kỹ năng tổ chức công việc hiệu quả (Organizational effectiveness)
  13. Kỹ năng lãnh đạo bản thân (Leadership skills) Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Tại Úc, Hội đồng kinh doanh Úc (The Business Council of Australia – BCA) và Phòng thương mại và công nghiệp Úc (the Australian Chamber of Commerce and Industry – ACCI) với sự bảo trợ của Bộ Giáo dục, Đào tạo và Khoa học (the Department of Education, Science and Training – DEST) và Hội đồng giáo dục quốc gia Úc (the Australian National Training Authority -ANTA) đã xuất bản cuốn “Kỹ năng hành nghề cho tương lai” (năm 2002). Cuốn sách cho thấy các kỹ năng và kiến thức mà người sử dụng lao động yêu cầu bắt buộc phải có. Kỹ năng hành nghề (employability skills), là các kỹ năng cần thiết không chỉ để có được việc làm mà còn để tiến bộ trong tổ chức thông qua việc phát huy tiềm năng cá nhân và đóng góp vào định hướng chiến lược của tổ chức. Các kỹ năng hành nghề bao gồm có 8 kỹ năng như sau:

  1. Kỹ năng giao tiếp (Communication skills)
  2. Kỹ năng làm việc đồng đội (Teamwork skills)
  3. Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving skills)
  4. Kỹ năng sáng tạo và khởi nghiệp (Initiative and enterprise skills)
  5. Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc (Planning and organis ng skills)
  6. Kỹ năng quản lý bản thân (Self-management skills)
  7. Kỹ năng học tập (Learning skills)
  8. Kỹ năng công nghệ (Technology skills)

Việc giáo dục kỹ năng sống ở khu vực đã được nghiên cứu và triển khai ở nhiều nước. Ở Lào, giáo dục kỹ năng sống được lồng ghép vào chương trình đào tạo chính qui, không chính qui và các trường sư phạm đào tạo giáo viên từ năm 1997. Tại Campuchia chương trình giáo dục chính qui đã thực hiện việc tích hợp dạy kỹ năng sống vào bài học của các môn cơ bản từ lớp 1 đến lớp 12. Tại Malaysia, Bộ GD coi KNS là môn kỹ năng của cuộc sống [6].

Tháng 12/2003 tại Bali – Inđônesia đã diễn ra hội thảo về giáo dục KNS trong giáo dục không chính quy với sự tham gia của 15 nước. Qua báo cáo của các nước cho thấy có nhiều điểm chung và cũng có nhiều điểm riêng trong quan niệm về giáo dục KNS của các nước. Mục tiêu của giáo dục KNS trong giáo dục không chính quy ở hội thảo Bali là nhằm nâng cao tiềm năng của con người để có hành vi thích ứng và tích cực nhằm đáp ứng nhu cầu sự thay đổi, các tình huống của cuộc sống hàng ngày đồng thời tạo ra sự thay đổi và nâng cao chất lượng cuộc sống [6].

1.1.2. Ở trong nước Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Việt Nam vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho thế hệ trẻ đã thu hút nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu, trong đó khoa học giáo dục có vai trò, trọng trách lớn cả về nghiên cứu lý luận lẫn triển khai thực tiễn giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên phù hợp với thực tiễn giáo dục nước nhà.

Với Việt nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác giáo dục thiếu nhi. Trong bài báo “1- 6” ký tên C.B đăng trên báo Nhân dân số ra ngày 01-6- 1955, Bác đã đề ra nội dung giáo dục toàn diện đối với học sinh bao gồm: thể dục, trí dục, mỹ dục, đức dục. Bác đã đưa ra quan điểm giáo dục thiếu nhi đó là: “Trong quá trình giáo dục thiếu nhi phải giữ toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng và trong lúc học, cũng cần làm cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học” [20]. Bác yêu cầu: “Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn”. Với nguyên lý giáo dục “Học đi đôi với hành, giáo dục gắn liền với thực tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội”, Bác đã từng nói: “Giáo dục phải theo hoàn cảnh và điều kiện” và “Một chương trình nhỏ mà được thực hành hẳn hoi còn hơn một trăm chương trình lớn mà không làm được”[2].

Trong xu thế hội nhập nhiệm vụ giáo dục của các nước là giáo dục thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, có những nhiệm vụ chủ yếu như: năng lực thích ứng, năng lực tự hoàn thiện, năng lực hợp tác, năng lực hoạt động xã hội…. Nói cách khác là đào tạo một lớp người mới tinh thông về nghề nghiệp, có khả năng thích ứng cao với những biến động của cuộc sống.

Ở Việt Nam, mục tiêu của giáo dục phổ thông đã được qui định tại điều 27 – Luật Giáo dục 2005 như sau: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [26]. Thuật ngữ KNS được người Việt Nam biết đến bắt đầu từ chương trình của UNICEF (1996) [33]: “Giáo dục KNS để bảo vệ sức khoẻ và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường”. Giai đoạn đầu của chương trình, khái niệm KNS được giới thiệu chỉ bao gồm những KNS cốt lõi như: Kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng kiên định và kỹ năng đạt mục tiêu. Ở giai đoạn này chương trình chỉ tập trung vào các chủ đề giáo dục sức khoẻ của thanh thiếu niên. Giai đoạn hai của chương trình mang tên: “Giáo dục sống khoẻ mạnh và KNS” trong đó nội dung của khái niệm KNS và giáo dục KNS đã được phát triển sâu sắc hơn. Ngành Giáo dục đã triển khai chương trình đưa giáo dục KNS vào hệ thống giáo dục chính qui và không chính qui. Nội dung giáo dục của nhà trường phổ thông được định hướng bởi mục tiêu giáo dục KNS. Các nội dung giáo dục KNS cơ bản đã được triển khai ở các cấp THCS gồm năng lực thích nghi, năng lực hành động, năng lực ứng xử, năng lực tự học suốt đời; định hướng học sinh: học để biết, học để làm, học để chung sống và học để tự khẳng định. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Việc giáo dục KNS ở các bậc học THCS và THPT được thực hiện chủ yếu thông qua chương trình các môn học và các hoạt động giáo dục của nhà trường cùng với một số chương trình dự án do nước ngoài tài trợ. Cụ thể với cấp THCS những môn học được khai thác nhằm giáo dục KNS cho học sinh là môn Giáo dục công dân, môn Công nghệ, Sinh học.

Đã có một số công trình nghiên cứu trong nước đề cập đến vấn đề KNS nói chung và kỹ năng trong nhà trường nói riêng như: “Kỹ năng sống cho vị tuổi thành niên” của tác giả Nguyễn Thị Oanh [24]; “Cẩm nang tổng hợp kỹ năng hoạt động thanh thiếu niên” của tác giả Phạm Văn Nhân [22]; Kỹ năng thanh niên tình nguyện” của tác giả Trần Thời. “Giáo dục kỹ năng sống trong môn Giáo dục công dân ở trường THCS” của tác giả Đặng Thúy Anh – Lê Minh Châu. Trong cuốn “Chuyên đề giáo dục KNS” – tác giả Nguyễn Thanh Bình (2009) [6] đã đề cập đến vấn đề xã hội hoá giáo dục Mầm non, Tiểu học và THCS, THPT trên địa bàn xã phường. Các tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Trần Văn Tính, Vũ Phương Liên với tài liệu “Phương pháp giáo dục Giá trị sống – Kỹ năng sống cho học sinh phổ thông” [19] và Bài giảng “Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho học sinh THCS” của các tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc – Đinh Thị Kim Thoa- Đặng Hoàng Minh…[18]. Đặc biệt trong các tài liệu này vấn đề quản lý nhà nước được đề cập đến trong bối cảnh xã hội hoá giáo dục và đặt ra những vấn đề liên quan đến giáo dục pháp luật, giáo dục KNS[15]. Đẩy mạnh và tăng cường giáo dục KNS đồng thời phải tổ chức giáo dục KNS cho các em theo tinh thần xã hội hoá. Có thể nhận thấy ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục KNS, một số công trình đã đi sâu nghiên cứu một số lĩnh vực nội dung và phương thức giáo dục KNS, các đề tài đã phân tích làm rõ thực trạng trước tính cấp bách của vấn đề giáo dục KNS, một số đề tài đã đề cập đến những hình thức giáo dục kỹ năng sống cụ thể trong nhà trường phổ thông, đề xuất các biện pháp giáo dục KNS cho học sinh, sinh viên. Tuy nhiên hiện nay ở các trường THPT việc giáo dục KNS cho học sinh mới chỉ được thực hiện ở mức độ tích hợp ở một số môn học: Giáo dục công dân, Công nghệ, mà chưa khai thác hết nội lực của việc giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động tập thể, hoạt động GDNGLL trong nhà trường để thực hiện có hiệu quả nội dung giáo dục KNS cho học sinh THPT trong bối cảnh hiện nay.

1.2. Một số khái niệm sử dụng để nghiên cứu đề tài Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

1.2.1. Quản lý và quản lý giáo dục

1.2.1.1. Quản lý

Quản lý là gì? Đây là câu hỏi mà bất kỳ người làm công tác quản lý nào cũng muốn biết và mong muốn lý giải, vậy suy cho cùng quản lý là gì?

Quản lý (thuật ngữ tiếng Anh là Management, tiếng latinh. manum agere – điều khiển bằng tay) đặc trưng cho quá trình điều khiển và dẫn hướng tất cả các bộ phận của một tổ chức, thường là tổ chức kinh tế, thông qua việc thành lập và thay đổi các nguồn tài nguyên [1].

Khái niệm “quản lý” được hình thành từ rất lâu và cùng với sự phát triển của tri thức nhân loại cũng như nhu cầu của thực tiễn nó được xây dựng và phát triển ngày càng hoàn thiện hơn. Mọi hoạt động của xã hội đều cần tới quản lý. Quản lý vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật trong việc điều khiển một hệ thống xã hội cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Hoạt động quản lý là hoạt động cần thiết phải thực hiện khi những con người kết hợp với nhau trong các nhóm, các tổ chức nhằm đạt mục tiêu chung.

Chính vì thế quản lý được hiểu bằng nhiều cách khác nhau và được định nghĩa ở nhiều khía cạnh khác nhau trên cơ sở những quan điểm và các cách tiếp cận khác nhau:

Cách tiếp cận theo thực tiễn

Trên cơ sở phân tích sự quản lý bằng cách nghiên cứu kinh nghiệm thông thường qua các trường hợp cụ thể. Từ việc nghiên cứu những trường hợp thành công hoặc thất bại, sai lầm ở các trường hợp cá biệt của những người quản lý cũng như những dự định của họ để giải quyết những vấn đề đặc trưng, để từ đó giúp họ hiểu được phải làm như thế nào để quản lý có hiệu quả trong những hoàn cảnh tương tự.

Cách tiếp cận theo lý thuyết hệ thống

Cách tiếp cận này cho phép xem xét các hoạt động quản lý như một hệ thống hoàn chỉnh bao gồm những yếu tố và mối liên hệ tương tác giữa các nhân tố để đạt được mục tiêu đã xác định.

Cách tiếp cận theo thuyết hành vi Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Dựa trên những ý tưởng cho rằng quản lý là làm cho công việc hoàn thành thông qua con người. Do vậy việc nghiên cứu nên tập trung vào mối quan hệ giữa người với người. Đây là trường hợp phải tập trung vào khía cạnh con người trong quản lý, vào niềm tin khi con người làm việc cùng nhau để hoàn thành các mục tiêu thì “con người nên hiểu con người”. Với học thuyết này giúp con người quản lý ứng xử một cách có hiệu quả hơn với những người dưới quyền.Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: định nghĩa quản lý một cách kinh điển nhất là: “tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [12, tr.9].

Ngày nay hoạt động quản lý được định nghĩa rõ hơn: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo), và kiểm tra”.

Theo tác giả Trần Khánh Đức:“Quản lý là hoạt động có ý thức của con người nhằm định hướng, tổ chức, sử dụng các nguồn lực và phối hợp hành động của một nhóm người hay một cộng đồng người để đạt được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất” [14].

Bất cứ một xã hội nào cũng được xem như là một hệ quản lý: một nhà máy, một xí nghiệp, một trường học hay một quốc gia…Mỗi hệ quản lý bao gồm hai bộ phận gắn bó khăng khít với nhau:

Bộ phận quản lý (giữ vai trò chủ thể quản lý) có chức năng điều khiển hệ quản lý, làm cho nó vận hành với mục tiêu đã đặt ra.

Từ sự phân tích cách tiếp cận và quan niệm của các học giả đã nêu ta có thể hiểu: “Quản lý là tác động có định hướng có chủ định của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hệ thống đạt đến mục tiêu đã định và làm cho nó vận hành tiến lên một trạng thái mới về chất” [12, tr.9].

Quá trình quản lý có thể được khái quát bằng sơ đồ sau đây:

Theo quan điểm của tổ chức UNESCO, hệ thống các chức năng quản lý bao gồm 8 vấn đề sau: xác định nhu cầu – thẩm định và phân tích dữ liệu – xác định mục tiêu kế hoạch hoá (bao gồm cả phân công trách nhiệm, phân phối các nguồn lực, lập chương trình hành động) – triển khai công việc – điều chỉnh – đánh giá – sử dụng liên hệ và tái xác định các vấn đề cho quá trình quản lý tiếp theo. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Theo quan điểm quản lý hiện đại, từ các hệ thống chức năng quản lý nêu trên, có thể khái quát một số chức năng cơ bản sau:

  1. Kế hoạch
  2. Tổ chức
  3. Chỉ đạo (bao gồm cả sửa chữa, uốn nắn và phối hợp)
  4. Kiểm tra (bao gồm cả thanh tra, kiểm soát và kiểm kê).

Như vậy, tuy có nhiều cách phân loại chức năng quản lý khác nhau (khác về số lượng chức năng và tên gọi các chức năng). Suy về thực chất các hoạt động có những bước đi giống nhau để đạt tới các mục tiêu. Ngày nay còn có thể có các tác giả trình bày chức năng quản lý nói chung (hoặc chức năng QLGD nói riêng) theo những quan điểm phân loại khác nhau, nhưng nền tảng của vấn đề vẫn là 4 chức năng cơ bản theo quan điểm quản lý hiện đại.

1.2.1.2. Quản lý giáo dục

Nếu xem quản lý là một thuộc tính bất biến, nội tại của mọi hoạt động xã hội, thì quản lý giáo dục cùng là một thuộc tính tất yếu của mọi hoạt động giáo dục có mục đích.

Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý giáo dục, song thường người ta đưa ra quan niệm quản lý giáo dục theo hai cấp độ chủ yếu:

Quản lý cấp vĩ mô

Quản lý vĩ mô tương ứng với khái niệm về quản lý một nền giáo dục (hệ thống giáo dục) và quản lý vi mô tương ứng với khái niệm về quản lý một nhà trường.

“Ở cấp độ vĩ mô, quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý vào hệ thống giáo dục quốc dân nhằm huy động và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nguồn lực phục vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia”.

Như vậy, quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm làm cho toàn bộ hệ thống giáo dục vận hành theo đường lối nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Tính chất chỉ huy – chấp hành là đặc trưng nổi trội trong quan hệ quản lý. Tuy nhiên, chủ thể quản lý và đối tượng quản lý đều có mục đích chung.

Quản lý giáo dục có nhiệm vụ tạo ra và duy trì một môi trường thuận lợi để mỗi cá nhân có thể hoạt động đạt được hiệu quả cao trong quá trình đạt đến mục đích chung.

Ở cấp độ vi mô

“Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý vào hệ thống tổ chức giáo dục của nhà trường nhằm điều khiển các thành tố trong hệ thống phối hợp hoạt động theo đúng chức năng, đúng kế hoạch, đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt được mục đích, mục tiêu đã xác định với hiệu quả cao nhất”.

Theo khái niệm trên, quá trình quản lý giáo dục được hiểu như một quá trình vận động của các thành tố có mối quan hệ tương tác lẫn nhau trong hệ thống tổ chức của nhà trường. Hệ thống đó bao gồm các thành tố cơ bản là: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, nội dung, phương pháp quản lý, mục tiêu quản lý. Các thành tố đó luôn vận động trong mối liên hệ tương tác lẫn nhau, đồng thời diễn ra trong sự chi phối, tác động qua lại với môi trường kinh tế, chính trị, xã hội chung quanh.

Như vậy, thuật ngữ “quản lý nhà trường” có thể xem là đồng nghĩa với quản lý giáo dục ở tầm vi mô. Song cần nhận rõ tác động của chủ thể quản lý đến nhà trường có hai loại tác động từ bên ngoài và tác động bên trong nhà trường.

Tác động từ bên ngoài nhà trường là tác động của các cơ quan quản lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho các hoạt động dạy học, giáo dục của nhà trường.

Tác động từ bên trong là hoạt động của các chủ thể quản lý của chính nhà trường nhằm huy động, điều phối, giám sát các lực lượng giáo dục của nhà trường thực hiện có chiến lược, có hiệu quả các nhiệm vụ dạy học và giáo dục đặt ra.

Đó là sự tác động của thủ trưởng, người chỉ huy cấp trên đối với các tổ chức cấp dưới thuộc quyền. Sự tác động đó phải có mục đích, có kế hoạch và phải tuân theo các nguyên tắc quản lý.

Tóm lại: Quá trình quản lý giáo dục là hoạt động của các chủ thể quản lý và đối tượng quản lý thống nhất với nhau trong một cơ cấu nhất định nhằm đưa hệ thống giáo dục đạt tới mục tiêu dự kiến và tiến lên trạng thái mới về chất. Quản lý giáo dục vừa là một hiện tượng xã hội (hiện tượng hoạt động, lao động, công tác), vừa là một loại quá trình xã hội (quá trình quản lý) đồng thời cũng là một hệ thống xã hội (hệ thống quản lý).

1.2.2. Quản lý trường học Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

“Quản lý trường học là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường” [34, tr.205].

Có nhiều cấp quản lý trường học, cấp cao nhất là Bộ GD – ĐT, nơi quản lý nhà trường bằng các biện pháp vĩ mô. Có hai cấp trung gian quản lý trường học là Sở GD – ĐT ở tỉnh, thành phố và các Phòng Giáo dục ở các quận, huyện. Cấp quản lý quan trọng trực tiếp của hoạt động giáo dục là cơ quan quản lý trong các nhà trường.

Mục đích của quản lý nhà trường là đưa nhà trường từ trạng thái đang có, tiến lên một trạng thái phát triển mới, bằng phương thức xây dựng và phát triển mạnh mẽ các nguồn lực đó vào phục vụ cho việc tăng cường chất lượng giáo dục.

Công tác quản lý trong nhà trường bao gồm quản lý các hoạt động diễn ra trong nhà trường và sự tác động qua lại giữa nhà trường với các hoạt động ngoài xã hội. Quản lý nhà trường như là quản lý một hệ thống bao gồm các thành tố:

Gồm có ba thành tố đó là thành tố tinh thần, thành tố con người, thành tố vật chất.

Trọng tâm quản lý nhà trường phổ thông là quản lý các hoạt động giáo dục diễn ra trong nhà trường và các quan hệ giữa nhà trường với xã hội trên những nội dung sau đây:

  • Quản lý hoạt động dạy học.
  • Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức.
  • Quản lý hoạt động lao động và hướng nghiệp.
  • Quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
  • Quản lý hoạt động học tập ngoài giờ lên lớp.
  • Quản lý hoạt động xã hội của nhà trường, hoạt động của đoàn thể.
  • Quản lý tài chính và quản lý sử dụng cơ sở vật chất.

Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống của hiệu trưởng có trong tất cả các thành tố nói trên của quản lý nhà trường. Thực chất quản lý hoạt động giáo dục KNS cho học sinh THPT là hướng tới quản lý các hoạt động dạy học và hoạt động giáo d ục giúp học sinh hình thành các khả năng tâm lý xã hội, để học sinh nâng cao hiểu biết, củng cố mở rộng kiến thức đã học với đời sống thực tiễn, củng cố các kỹ năng, hình thành và phát triển các năng lực chủ yếu như: năng lực tự hoàn thiện, năng lực thích ứng, năng lực giao tiếp ứng xử, năng lực tổ chức, quản lý, hợp tác và cạnh tranh, năng lực hoạt động chính trị xã hội…

1.2.3. Kỹ năng sống

Có nhiều quan niệm về KNS do các tổ chức quốc tế, các chuyên gia trong và ngoài nước đưa ra, trong đó có những quan điểm đáng lưu ý sau đây: Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Theo Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hoá liên hiệp quốc (UNESCO):

“KNS gắn với 4 trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI: Học để biết – Học để làm – Học để chung sống – Học để làm người. Theo đó KNS được định nghĩa là những năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày”[32, tr. 62].

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO): “KNS là những kỹ năng mang tính tâm lý xã hội và kỹ năng về giao tiếp được vận dụng trong các tình huống hàng ngày để tương tác một cách có hiệu quả với người khác, giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày”.

Theo Quĩ cứu trợ Nhi đồng liên hiệp quốc (UNICEF): “KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng” [33, tr.113].

KNS là những kỹ năng tâm lý xã hội liên quan đến những tri thức, những giá trị và thái độ, cuối cùng được thể hiện ra bằng những hành vi làm cho các cá nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của cuộc sống.

KNS là một tập hợp các kỹ năng mà con người có được thông qua giảng dạy hoặc kinh nghiệm trực tiếp được sử dụng để xử lý những vấn đề và những câu hỏi thường gặp trong đời sống hàng ngày của con người.

Như vậy KNS được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ bao gồm khả năng năng lực tâm lý xã hội mà còn cả những kỹ năng vận động, KNS được hiểu theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những năng lực tâm lý xã hội.

Từ các khái niệm nêu trên có thể đưa ra khái niệm KNS như sau:“là năng lực cá nhân mà con người có được thông qua giáo dục hoặc kinh nghiệm trực tiếp, nó giúp cho con người có cách ứng xử tích cực và có hiệu quả, đáp ứng mọi biến đổi của đời sống xã hội, sống khoẻ mạnh, an toàn hơn”.

Nói đến KNS là nói đến khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp với cách ứng xử tích cực, giúp cho con người có thể kiểm soát, quản lý có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hàng ngày. Điều đó có nghĩa là người có KNS không chỉ có năng lực thích ứng với những thách thức của cuộc sống mà còn cần phải có sự thay đổi một cách phù hợp và mang tính tích cực. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

“Hoạt động giáo dục là những hoạt động do nhà giáo dục và các cơ sở giáo dục tổ chức theo kế hoạch, chương trình giáo dục, trực tiếp điều hành và chịu trách nhiệm về chúng để tạo môi trường cho người học tiến hành các hoạt động của mình theo những nguyên tắc, mục tiêu, chuẩn mực giá trị chung và những biện pháp chung để đạt được trình độ phát triển nhân cách theo yêu cầu mà xã hội đặt ra tương ứng với độ tuổi và trình độ giáo dục mà người học được thụ hưởng” [15].

1.2.4. Hoạt động giáo dục kỹ năng sống

Giáo dục kỹ năng sống là trang bị cho học sinh những KNS cơ bản, giúp các em vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng được những cơ hội quý giá trong cuộc sống, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội.

Học sinh biết kiềm chế, giải quyết vấn đề theo hướng tích cực, không bị lôi kéo, vững vàng trước những áp lực tiêu cực của cuộc sống đương đại.

Thông qua hoạt động giáo dục kỹ năng sống, học sinh được rèn luyện năng lực tư duy, chất lượng các môn học cũng như chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường được nâng lên.

Có rất nhiều KNS mà con người cần học trong suốt cuộc đời, nhưng đối với học sinh THPT, nội dung giáo dục kỹ năng sống cần tập trung vào một số kỹ năng cơ bản cần thiết sau: kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng từ chối, phòng ngừa cám dỗ, kỹ năng biết sống lành mạnh, phòng chống tai tệ nạn xã hội, kỹ năng biết tự nhận thức đúng bản thân, kỹ năng biết xác định mục tiêu phù hợp, kỹ năng tư duy sáng tạo giải quyết vấn đề, kỹ năng kiên định.

Có hai cách tiếp cận trong giáo dục kỹ năng sống:

Các hoạt động tập trung vào kỹ năng cốt lõi như kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng giao tiếp ứng xử… Theo cách này, bằng hoạt động với chủ đề kỹ năng cụ thể, người học sẽ hiểu về kỹ năng sống đó và vận dụng để giải quyết các tình huống.

Mỗi kỹ năng gắn với một vấn đề nảy sinh trong cuộc sống và cần vận dụng những kỹ năng khác nhau để giải quyết.

1.2.5. Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống

Quản lý hoạt động giáo dục KNS là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới các đối tượng quản lý, nhằm đưa hoạt động giáo dục KNS đạt được kết quả mong muốn một cách hiệu quả nhất. Quản lý hoạt động giáo dục KNS cho học sinh trong nhà trường THPT là quá trình tác động có định hướng của chủ thể quản lý lên tất cả các thành tố tham gia vào quá trình hoạt động giáo dục KNS nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục.

Quản lý hoạt động giáo dục KNS là bộ phận của quản lý trường học, bao gồm hàng loạt những hoạt động tiến hành lựa chọn, tổ chức và thực hiện các nguồn lực, các tác động của nhà quản lý, của tập thể sư phạm, của các lực lượng giáo dục theo kế hoạch chủ động và chương trình giáo dục, nhằm thay đổi hay tạo ra hiệu quả giáo dục cần thiết.

1.3. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường trung học phổ thông Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

1.3.1. Mục đích của giáo dục kỹ năng sống

Theo UNESCO ba thành tố hợp thành năng lực của con người là: kiến thức, kỹ năng và thái độ. Hai yếu tố sau thuộc về kỹ năng sống, có vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách, bản lĩnh và sự thành công của mỗi người. Kỹ năng sống sẽ là hành trang không thể thiếu đối với mỗi cá nhân và đặc biệt là các em học sinh – những chủ nhân tương lai của đất nước.

Mục đích hoạt động giáo dục KNS cho học sinh nhằm thay đổi nhận thức và hành vi của học sinh từ thói quen thụ động, có thể gây rủi ro, mang lại hậu quả tiêu cực thành những hành vi mang tính xây dựng, tích cực, có hiệu quả để nâng cao chất lượng giáo dục và chất lượng cuộc sống

1.3.2. Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường THPT

Theo công văn số 463/BGDĐT-GDTX ngày 28 tháng 1 năm 2015 về việc hướng dẫn triển khai thực hiện giáo dục kỹ năng sống tại các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên thì nội dung giáo dục KNS là:

Giáo dục cho người học những kỹ năng cơ bản, cần thiết, hướng tới hình thành những thói quen tốt giúp người học thành công, đảm bảo vừa phù hợp với thực tiễn và thuần phong mỹ tục Việt Nam vừa hội nhập quốc tế trong giai đoạn công nghiệp hoá đất nước. Nội dung giáo dục KNS phải phù hợp với từng lứa tuổi và tiếp tục được rèn luyện theo mức độ tăng dần. Đối với giáo dục phổ thông, việc giáo dục KNS cần tập trung vào những nội dung sau:

Như vậy có rất nhiều KNS mà con người cần phải học trong suốt cả cuộc đời. Trên cơ sở thực trạng của GDKNS cho học sinh trong nhà trường THPT trong những năm qua và hướng dẫn GDKNS của bộ Giáo dục, có thể đề xuất những nội dung GDKNS cho học sinh THPT bao gồm một số KNS cơ bản sau:

1.3.2.1. Kĩ năng tự nhận thức Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Kĩ năng tự nhận thức là khả năng con người hiểu về chính bản thân mình, như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân; biết nhìn nhận, đánh giá đúng về tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu,… của bản thân mình; quan tâm và luôn ý thức được mình đang làm gì, kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng.

Để tự nhận thức đúng về bản thân cần phải được trải nghiệm qua thực tế, đặc biệt là giao tiếp với người khác.

1.3.2.2. Kĩ năng xác định giá trị

Giá trị là những gì con người cho là quan trọng, là có ý nghĩa đối với bản thân mình, có tác dụng định hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống của bản thân trong cuộc sống. Giá trị có thể là những chuẩn mực đạo đức, những chính kiến, thái độ, và thậm chí là thành kiến đối với một điều gì đó…

Giá trị có thể là giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần, có thể thuộc các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, đạo đức, kinh tế …

Mỗi người đều có một hệ thống giá trị riêng. Kĩ năng xác định giá trị là khả năng con người hiểu rõ được những giá trị của bản thân mình. Kĩ năng xác định giá trị có ảnh hưởng lớn đến quá trình ra quyết định của mỗi người.

1.3.2.3. Kĩ năng kiểm soát cảm xúc

Kiểm soát cảm xúc là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của mình trong một tình huống nào đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân và đối với người khác thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một các phù hợp. Kĩ năng xử lý cảm xúc còn có nhiều tên gọi khác như: xử lý cảm xúc, kiềm chế cảm xúc, làm chủ cảm xúc, quản lí cảm xúc.

Một người biết kiểm soát cảm xúc thì sẽ góp phần giảm căng thẳng giúp giao tiếp và thương lượng hiệu quả hơn, giải quyết mâu thuẫn một cách hài hòa và mang tính xây dựng hơn, giúp ra quyết định và giải quyết vấn đề tốt hơn.

Kĩ năng quản lý cảm xúc cần sự kết hợp với kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng ứng xử với người khác và kĩ năng ứng phó với căng thẳng, đồng thời góp phần củng cố các kĩ năng này.

1.3.2.4. Kĩ năng thể hiện sự tự tin

Tự tin là có niềm tin vào bản thân, tự hài lòng với bản thân, tin rằng mình có thể trở thành một người có ích và tích cực, có niềm tin về tương lai, cảm thấy có nghị lực để hoàn thành các nhiệm vụ.

Kĩ năng thể hiện sự tự tin giúp cá nhân giao tiếp hiệu quả hơn, mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ và ý kiến của mình, quyết đoán trong việc ra quyết định và giải quyết vấn đề, thể hiện sự kiên định, đồng thời cũng giúp người đó có suy nghĩ tích cực và lạc quan trong cuộc sống. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Kĩ năng thể hiện sự tự tin là yếu tố cần thiết trong giao tiếp, thương lượng, ra quyết định, đảm nhận trách nhiệm.

1.3.2.5. Kĩ năng giao tiếp

Kĩ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ cơ thể phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng quan điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm cả bày tỏ về suy nghĩ, ý tưởng, nhu cầu, mong muốn và cảm xúc, đồng thời nhờ sự giúp đỡ và sự tư vấn cần thiết.

Kĩ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả, cởi mở bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc nhưng không làm hại gây tổn thương cho người khác. Kĩ năng này giúp chúng ta có mối quan hệ tích cực với người khác, bao gồm biết gìn giữ mối quan hệ tích cực với các thành viên trong gia đình, nguồn hỗ trợ quan trọng cho mỗi chúng ta, đồng thời biết cách xây dựng mối quan hệ với bạn bè mới và đây là yếu tố rất quan trọng đối với niềm vui cuộc sống. Kĩ năng này cũng giúp kết thúc các mối quan hệ khi cần thiết một cách xây dựng.

Kĩ năng giao tiếp là yếu tố cần thiết cho nhiều kĩ năng khác như bày tỏ sự cảm thông, thương lượng, hợp tác, tìm kiếm sự giúp đỡ, giải quyết mâu thuẫn, kiếm soát cảm xúc.

1.3.2.6. Kĩ năng thể hiện sự cảm thông

Thể hiện sự cảm thông là khả năng có thể hình dung và đặt mình trong hoàn cảnh của người khác, giúp chúng ta hiểu và chấp nhận người khác vốn là những người rất khác mình, qua đó chúng ta có thể hiểu rõ cảm xúc và tình cảm của người khác và cảm thông với hoàn cảnh hoặc nhu cầu của họ.

Kĩ năng này có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường hiệu quả giao tiếp và ứng xử với người khác, cải thiện các mối quan hệ giao tiếp xã hội, đặc biệt trong bối cảnh đa văn hóa, đa sắc tộc. Kĩ năng thể hiện sự cảm thông cũng giúp khuyến khích thái độ quan tâm và hành vi thân thiện, gần gũi với những người cần sự giúp đỡ.

Kĩ năng thể hiện sự cảm thông được dựa trên kĩ năng tự nhận thức và kĩ năng xác định giá trị, đồng thời là yếu tố cần thiết trong kĩ năng giao tiếp, giải quyết vấn đề, giải quyết mâu thuẫn, thương lượng, kiên định và kiềm chế cảm xúc.

1.3.2.7. Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Mâu thuẫn là những xung đột, tranh cãi, bất đồng, bất bình với một hay nhiều người về một vấn đề nào đó.

Mâu thuẫn trong cuộc sống hết sức đa dạng thường bắt nguồn từ sự khác nhau về quan điểm, chính kiến, lối sống, tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa. Mâu thuẫn thường có ảnh hưởng tiêu cực tới những mối quan hệ của các bên.

Có nhiều cách giải quyết mâu thuẫn. Mỗi người sẽ có cách giải quyết mâu thuẫn riêng tùy thuộc vào vốn hiểu biết, quan niệm, văn hóa và cách ứng xử cũng như khả năng phân tích tìm hiểu nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn.

Yêu cầu trước hết của kĩ năng giải quyết mâu thuẫn là phải luôn kiềm chế cảm xúc, tránh bị kích động, nóng vội, giữ bình tĩnh trước mọi sự việc để tìm ra nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn cũng như tìm ra cách giải quyết tốt nhất.

Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn là một dạng đặc biệt của kĩ năng giải quyết vấn đề. Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn cần được sử dụng kết hợp với nhiều kĩ năng liên quan khác như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng ra quyết định…

1.3.2.8. Kĩ năng hợp tác

Hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung.

Kĩ năng hợp tác là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm.

Biểu hiện của người có kĩ năng hợp tác:

Tôn trọng mục đích, mục tiêu hoạt động chung của nhóm; tôn trọng những quyết định chung, những điều đã cam kết.

Biết giao tiếp hiệu quả, tôn trọng, đoàn kết và cảm thông, chia sẻ với các thành viên khác trong nhóm.

  • Biết bày tỏ ý kiến, tham gia xây dựng kế hoạch hoạt động của nhóm. Đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng, xem xét các ý kiến, quan điểm của mọi người trong nhóm.
  • Nỗ lực phát huy năng lực, sở trường của bản thân để hoàn thành tốt nhiệm vụ đã được phân công. Đồng thời biết hỗ trợ, giúp đỡ các thành viên khác trong quá trình hoạt động.
  • Biết cùng cả nhóm đồng cam cộng khổ vượt qua những khó khăn, vướng mắc để hoàn thành mục đích, mục tiêu hoạt động chung.
  • Có trách nhiệm về những thành công hay thất bại của nhóm, về những sản phẩm do nhóm tạo ra.

Có kĩ năng hợp tác là một yêu cầu quan trọng đối với người công dân trong một xã hội hiện đại, bởi vì:

  • Trong xã hội hiện đại, lợi ích của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng đều phụ thuộc vào nhau, ràng buộc lẫn nhau; mỗi người như một cái chi tiết của một cỗ máy lớn, phải vận hành đồng bộ, nhịp nhàng, không thể hành động đơn lẻ.
  • Kĩ năng hợp tác còn giúp cá nhân sống hài hòa và tránh xung đột trong quan hệ với người khác.

Để có được sự hợp tác hiệu quả, chúng ta cần vận dụng tốt nhiều KNS khác như: tự nhận thức, xác định giá trị, giao tiếp, thể hiện sự cảm thông, đảm nhận trách nhiệm, ra quyết định, giải quyết mâu thuẫn, kiên định, ứng phó với căng thẳng…

1.3.2.9. Kĩ năng ra quyết định Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Trong cuộc sống hàng ngày, con người luôn phải đối mặt với những tình huống, những vấn đề cần giả quyết buộc chúng ta phải lực chọn, đưa ra quyết định hành động.

Kĩ năng ra quyết định là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn phương án tối ưu để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống một cách kịp thời.

Mỗi cá nhân phải tự mình ra quyết định cho bản thân; không nên trông chờ, phụ thuộc vào người khác, mặc dù có thể tham khảo ý kiến của những người tin cậy trước khi ra quyết định.

Để đưa ra quyết định phù hợp chúng ta cần:

  • Xác định vấn đề hoặc tình huống mà chúng ta đang gặp phải.
  • Thu thập thông tin hoặc vấn đề về tình huống đó.
  • Liệt kê các cách giải quyết vấn đề/ tình huống đã có.
  • Hình dung đây đủ về kết quả sẽ xảy ra nếu chúng ta lựa chọn mỗi phương án giải quyết.
  • Xem xét về suy nghĩ và cảm xúc của bản thân nếu giải quyết theo từng phương án đó.
  • So sánh giữa các phương án để quyết định lựa chọn phương án tối ưu.

Kĩ năng ra quyết định rất cần thiết trong cuộc sống, giúp cho con người có được sự lựa chọn phù hợp và kịp thời, đem lại thành công trong cuộc sống. Ngược lại, nếu khôn có kĩ năng ra quyết định, con người ta có thể có những quyết định sai lầm hoặc chậm trễ, gây ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ, đến công việc và tương lai cuộc sống của bản thân, đồng thời còn có thể làm ảnh hưởng đến gia đình, bạn bè và những người có liên quan.

  • Kĩ năng ra quyết định là phần rất quan trọng của kĩ năng giải quyết vấn đề.

1.3.2.10. Kĩ năng giải quyết vấn đề Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Kĩ năng giải quyết vấn đề là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn phương án tối ưu và hành động theo phương án đã chọn để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống. Giải quyết vấn đề có liên quan tới kĩ năng ra quyết định và cần nhiều KNS khác như: giao tiếp, xác định giá trị, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, tìm kiếm sự hỗ trợ, kiên định…

Để giải quyết vấn đề có hiệu quả, chúng ta cần:

  • Xác định rõ vấn đề hoặc tình huống đang gặp phải, kể cả tìm kiếm thông tin cần thiết.
  • Liệt kê các cách giải quyết vấn đề/ tình huống đã có.
  • Xem xét về suy nghĩ và cảm xúc của bản thân nếu thực hiện phương án giải quyết đó.
  • So sánh các phương án để đưa ra quyết định cuối cùng.
  • Hành động theo quyết định đã lựa chọn.
  • Kiểm định lại kết quả để rút kinh nghiệm cho những lần quyết định và giải quyết vấn đề sau.

Cũng như kĩ năng ra quyết định, kĩ năng giải quyết vấn đề rất quan trọng, giúp con người có thể ứng phó tích cực và hiệu quả trước những vấn đề, tình huống của cuộc sống.

Một số lưu ý:

Nội dung giáo dục KNS cho HS trong nhà trường phổ thông tập trung vào các kĩ năng tâm lý – xã hội là những kĩ năng được vận dụng trong những tình huống hàng ngày để tương tác với người khác và giải quyết hiệu quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống. Việc hình thành những kĩ năng này không loại bỏ mà ngược lại phải gắn kết và song hành với việc hình thành các kĩ năng học tập (study skills) như: đọc, viết, tính toán, máy tính.

Nội dung giáo dục KNS cần được vận dụng linh hoạt tùy theo từng lứa tuổi, cấp học, môn học, hoạt động giáo dục và điều kiện cụ thể. Ngoài các KNS cơ bản trên, tùy theo đặc điểm vùng, miền, địa phương. GV có thể lựa chọn thêm một số KNS khác để giáo dục cho HS của trường, lớp mình cho phù hợp.

1.3.3. Phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục kỹ năng cho học sinh THPT

1.3.3.1. Phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT

Các tiếp cận chính (phương pháp tiếp cận) trong giáo dục KNS cho học sinh THPT đã được khái quát gồm [6, tr.26]:

Phương pháp tiếp cận cùng tham gia: tạo sự tương tác giữa giáo viên với học sinh, học sinh với học sinh và tăng cường sự tham gia của học sinh trong học tập, thực hành kĩ năng. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Phương pháp tiếp cận hướng vào người học: dựa vào kinh nghiệm sống và đáp ứng nhu cầu của học sinh.

Phương pháp tiếp cận hoạt động: tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động để xây dựng hành vi/ thay đổi hành vi.

Với các phương pháp tiếp cận trên, các phương pháp dạy học cụ thể được sử dụng trong giáo dục KNS cho học sinh THPT là: phương pháp động não, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai, phương pháp nghiên cứu tình huống, phương pháp trò chơi…

Cụ thể phần giới thiệu mục tiêu thường được thực hiện bằng phương pháp thuyết trình, trao đổi giữa giáo viên và học sinh, dưới dạng lấy phiếu nhu cầu, dưới dạng trò chơi, câu đố… Các phương pháp lựa chọn cần tạo ra sự thu hút và nảy sinh động cơ nhu cầu ở người học.

Với mục đích làm cho người học tích cực và chủ động sáng tạo tham gia vào quá trình giáo dục, phương pháp kích não (động não, bão não, khởi động…). Người học phải đưa ra ý kiến của mình về vấn đề đã có chút ít kinh nghiệm, hiểu biết, hoặc về một vấn đề mới trên cơ sở được cung cấp một số thông tin cơ bản, cần thiết. Động não là phương pháp giúp cho người học trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Đây là một phương pháp có ích để thu thập một danh sách các thông tin.

Bên cạnh phương pháp động não, trong bước này còn hay dùng Phương pháp nghiên cứu tình huống. Nghiên cứu tình huống thường là một câu chuyện được viết nhằm tạo ra một tình huống “thật” để minh chứng một vấn đề hay loạt vấn đề. Đôi khi nghiên cứu tình huống có thể được thực hiện qua quan sát băng video hay một băng catsset mà không phải ở dạng văn bản. Tình huống sử dụng cần phản ánh tính da dạng của cuộc sống thực, nó phải tương đối phức tạp, với các dạng nhân vật và những hoàn cảnh khác nhau chứ không phải là một câu chuyện đơn giản.

Phương pháp trò chơi cũng là phương pháp hiệu quả ở bước này.

Phương pháp trò chơi là tổ chức cho người học chơi một trò chơi nào đó để thông qua đó mà tìm hiểu một vấn đề, biểu hiện thái độ hay thực hiện hành động, việc làm.

Phương pháp trò chơi có ưu điểm sau:

Qua trò chơi, người học có cơ hội để thể nghiệm những thái độ, hành vi, bởi con người thể hiện như thế nào trong trò chơi thì phần lớn nó thể hiện như thế trong cuộc sống thực. Chính nhờ sự thể nghiệm này, sẽ hình thành được ở họ niềm tin vào những thái độ, hành vi tích cực, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống.

Qua trò chơi, người học sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong tình huống. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Qua trò chơi, người học được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi.

Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động; không khô khan, nhàm chán. Người học được lôi cuốn vào quá trình học tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời giải trừ được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập.

Trò chơi còn giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa người học với người học, giữa người dạy với người học.

Để tăng cường sự trải nghiệm và để đưa ra cách giải quyết theo kinh nghiệm và hiểu biết ở người học thì các hoạt động ngoài giờ lên lớp được thực hiện trong mối quan hệ cộng đồng, trong đó mối quan hệ giữa các thành viên trong nhóm có một vai trò hết sức quan trọng. Thông thường ở bước này thường sử dụng Phương pháp nhóm. Thực chất của phương pháp này là để người cùng tham gia trao đổi hay cùng làm về một vấn đề nào đó theo nhóm nhỏ. Thảo luận hay cùng làm một việc gì đó theo nhóm được sử dụng rộng rãi nhằm giúp cho mọi người tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho người học có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết một vấn đề có liên quan đến kỹ năng cần hình thành. Các nghiên cứu về phương pháp nhóm đã chứng minh rằng, nhờ hoạt động nhóm nhỏ mà:

  • Ý kiến của người học sẽ giảm bớt phần chủ quan, phiến diện, làm tăng tính khách quan khoa học.
  • Hiểu biết trở nên sâu sắc, bền vững hơn do được giao lưu, học hỏi giữa các thành viên trong nhóm.
  • Nhờ không khí làm việc cởi mở nên người học trở nên thoải mái, tự tin hơn.
  • trong việc trình bày ý kiến của mình và biết lắng nghe có phê phán ý kiến của bạn.
  • Trong làm việc nhóm các thành viên đều phải tham gia thực hiện nhiệm vụ với tinh thần trách nhiệm cao nhất theo tinh thần hợp tác chặt chẽ vì họ sẽ “Cùng chìm, hoặc cùng nổi” với nhau.
  • Khi phân tích tình huống, mỗi cá nhân lại phải sử dụng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo để lựa chọn và ra quyết định chung của nhóm.
  • Việc luân phiên các vai trò đảm nhiệm trong nhóm: nhóm trưởng, thư kí và các vai trò khác cũng là một yếu tố khuyến khích vai trò chủ thể, tích cực của người học.

Những điểm chủ yếu trong làm việc nhóm bao gồm:

  • Các mối quan hệ của người học hình thành một mạng lưới đa dạng và phức tạp.
  • Mỗi người là một thành viên của cộng đồng và là một mắt xích trong quá trình trao đổi thông tin.
  • Sự trao đổi thông tin thể hiện qua cả hoạt động chính thức lẫn không chính thức. Cả cộng đồng tập thể như một đơn vị chuyển tải thông tin chứ không phải mỗi cá nhân học sinh.

Đây chính là bước học cách giải quyết vấn đề, học kỹ năng sống để giải quyết vấn đề trong tình huống đặt ra.

Sau khi đã cùng người học tìm ra mô hình mẫu của hành vi trong tình huống giả định chứa đựng kỹ năng sống cần dạy, cần tiếp tục đặt người học vào tình huống phải vận dụng kỹ năng sống vừa học để thực hành chúng. Trong bước này Phương pháp đóng vai thường hay được sử dụng. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Đóng vai là phương pháp tổ chức cho người học thực hành, “làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp giảng dạy nhằm giúp người học suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự kiện cụ thể mà họ quan sát được. Việc “diễn” không phải là phần chính của phương pháp này mà hơn thế điều quan trọng nhất là sự thảo luận sau phần diễn ấy.

Phương pháp đóng vai có nhiều ưu điểm như:

  • Người học được rèn luyện, thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
  • Gây hứng thú và chú ý cho người học.
  • Phát triển sự sáng tạo của người học.
  • Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của người học theo hướng tích cực.
  • Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn. Trong các bước trên, tư duy phê phán và tư duy sáng tạo luôn luôn được sử dụng.

Từng cá nhân thường thích chấp nhận những hành vi mới nếu họ được lựa chọn nó trong số những phương án có thể trên cơ sở tự phân tích, phê phán và tìm ra phương án phù hợp với mình khi giải quyết những tình huống khó khăn. Cho nên phương pháp giáo dục kỹ năng sống thúc đẩy phát triển kỹ năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo. Chúng vừa là nội dung của kỹ năng sống (nó là 2 kỹ năng sống thuộc về nhóm kỹ năng nhận thức), vừa là phương tiện để hình thành các kỹ năng sống khác.

Thay đổi hành vi luôn luôn là việc khó. Nếu chỉ dừng lại ở việc học và thực hành kỹ năng sống trong các tình huống giả định được đặt ra trong khi học thì chưa thể đảm bảo người học sẽ có hành vi tích cực bền vững. Do đó, quá trình học kỹ năng sống còn tiếp nối trong quá trình vận dụng các kỹ năng sống, duy trì những hành vi lành mạnh, tránh tái phạm những thói quen cũ. Vì vậy, học kỹ năng sống đòi hỏi người học luôn có ý thức vận dụng, củng cố những hành vi tích cực, đồng thời tránh lặp lại những thói quen, hành vi tiêu cực. Điều này lại càng đòi hỏi vai trò chủ thể, tích cực cao hơn quá trình học kỹ năng sống.

1.3.3.2. Hình thức tổ chức GDKNS

Theo công văn số 463/BGDĐT-GDTX ngày 28 tháng 1 năm 2015 về việc hướng dẫn triển khai thực hiện giáo dục KNS tại các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên thì hình thức tổ chức GDKNS như sau:

Các cơ sở giáo dục chủ động tổ chức các hoạt động giáo dục KNS hoặc liên kết với các đơn vị để tổ chức các hoạt động giáo dục KNS. Để đảm bảo chất lượng của hoạt động giáo dục KNS, khuyến khích các cơ sở giáo dục liên kết với các đơn vị vừa có chương trình giáo dục KNS cho người học vừa có chương trình bồi dưỡng, tập huấn giáo viên về giáo dục KNS.

  • Giáo dục KNS thông qua việc tích hợp vào các môn học và các hoạt động giáo dục; đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động dạy – học theo hướng tăng cường hoạt động học, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học;
  • Tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong và ngoài nhà trường, tập trung vào việc giáo dục những KNS cơ bản, qua đó hình thành cho HS các giá trị sống, KNS tích cực;
  • Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí, tổ chức các hoạt động giáo dục KNS.

1.3.4. Các lực lượng tham gia giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường THPT Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

1.3.4.1. Giáo viên bộ môn

Giáo viên bộ môn là những người đã qua trường lớp sư phạm đào tạo để giảng dạy cho học sinh các tri thức khoa học tự nhiên, xã hội được phân thành các bộ môn như Toán học, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Âm nhạc, Mỹ thuật.

Từ kiến thức lý thuyết của bài giảng đến thực tế cuộc sống là quãng đường khá xa, một giờ học trên lớp chỉ có 45 phút, vì vậy để tích hợp được nội dung giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống vào bài giảng, đòi hỏi người giáo viên giảng dạy bộ môn phải linh hoạt khéo léo điều khiển giờ dạy, thầy trò cùng tích cực làm việc để có thể truyền tải và lĩnh hội đầy đủ nội dung kiến thức của bài học một cách nhẹ nhàng, vừa thông qua kiến thức của bài học để học sinh nhận thức được giá trị của cuộc sống, hình thành giá trị của bản thân, biết lắng nghe, chia sẻ với người khác, kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng thích ứng xã hội. Như vậy vai trò của giáo viên bộ môn là hết sức quan trọng trong công tác giáo dục KNS cho học sinh.

1.3.4.2. Giáo viên chủ nhiệm lớp

Giáo viên chủ nhiệm là người gần gũi nhất với các em học sinh, giáo viên chủ nhiệm cũng chính là những người bạn tâm tình chia sẻ tâm tư tình cảm với các em học sinh, là người tổ chức cho các em các hoạt động tập thể, là cố vấn cho các hoạt động Đoàn. Giáo viên chủ nhiệm cần sáng tạo để tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ năng sống trong các hoạt động tập thể, các giờ sinh hoạt lớp theo một kịch bản linh hoạt. GVCN phát huy các phương pháp giáo dục truyền thống, chủ động và tích cực, cởi mở tiếp thu cái mới, chủ động kết hợp với các phương pháp tích cực.

Trong nhà trường người giáo viên chủ nhiệm chính là vị thủ lĩnh tinh thần làm điểm tựa để tạo ra một tập thể lớp năng động, sáng tạo. Với vai trò đó giáo viên chủ nhiệm sẽ tạo ra được động lực thi đua, tạo môi trường thân thiện giữa thầy, cô và trò, giữa các thành viên trong tập thể, giữa tập thể lớp với tổ chức Đoàn, với hội cha mẹ học sinh. Như vậy việc giáo dục KNS thông qua hoạt động của giáo viên chủ nhiệm sẽ giúp hoàn thiện nhân cách cho các em học sinh, tạo cho các em tự tin hơn khi bước vào ngưỡng cửa của cuộc sống, cùng với hành trang tri thức các em vững bước vào tương lai. Người GVCN là lực lượng quan trọng tham gia hoạt động GD KNS cho học sinh.

1.3.4.3. Cán bộ đoàn

Tổ chức Đoàn liên hiệp thanh niên trong nhà trường là nơi đoàn kết, tập hợp thanh niên, tham gia các hoạt động tập thể, Đoàn có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng, Giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho đoàn viên, Giáo dục luật pháp, lối sống, nếp sống, giáo dục về khoa học kỹ thuật công nghệ, về dân số, sức khỏe, môi trường. Giáo dục truyền thống cách mạng, truyền thống lịch sử dân tộc, tự hào với các thế hệ cha anh đi trước từ đó có trách nhiệm với bản thân, gia đình, nhà trường và cả cộng đồng. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Bên cạnh việc giáo dục chính trị tư tưởng Đoàn còn tổ chức nhiều phong trào hành động cách mạng cụ thể, thiết thực đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của tuổi trẻ. Các phong trào hành động cách mạng của Đoàn là nơi để tuổi trẻ nhà trường xây dựng cho mình nền tảng giá trị sống vững chắc rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng hoạt động nhóm, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng phòng vệ… khơi dậy trong đoàn viên, thanh niên tinh thần tình nguyện của tuổi trẻ, dám nhận những nhiệm vụ khó khăn, dám đón nhận sự hy sinh gian khổ từ đó hình thành ý thức trách nhiệm của người thanh niên với cộng đồng xã hội Bằng các hoạt động tích cực và các phong trào hành động cách mạng Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh thực sự là nơi để tuổi trẻ nhà trường rèn luyện, cống hiến và trưởng thành.

1.3.5. Yêu cầu về cơ sở vật chất phục vụ hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong trường THPT

Về tài liệu, sách tham khảo

Sách “Tổ chức và quản lý hoạt động giáo dục trong nhà trường” là cẩm nang dành cho GVCN, Nhà quản lý, những lực lượng nòng cốt thực hiện chương trình GD KNS. Trong thư viện của nhà trường cần phải có đầy đủ các loại sách tham khảo bổ trợ các môn học, sách về Bác Hồ, pháp luật, để GV lựa chọn nội dung cho các hoạt động.

Về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học

Hoạt động giáo dục KNS rất cần có cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật để hoạt động đạt được hiệu quả giáo dục mong muốn. Điều kiện tổ chức và phương tiện tốt sẽ làm tăng tính hấp dẫn của hoạt động. Thiết bị tối thiểu để tổ chức các hoạt động là: âm ly, loa đài, đầu video, đàn, dụng cụ thể thao và kinh phí hoạt động. Trong khi kinh phí dành cho hoạt động không nhiều thì việc GV cần có ý tưởng sáng tạo, tìm tòi các phương tiện phù hợp với điều kiện của lớp, của cơ sở giáo dục là rất cần thiết. Về phía cơ sở giáo dục ngoài việc quản lý tận dụng những cơ sở vật chất hiện có để phát huy hiệu quả giáo dục của hoạt động, cần phải tiết kiệm, cân đối nguồn ngân sách được giao hàng năm để mua sắm thêm cơ sở vật chất, tài liệu cho hoạt động, đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp đóng trên địa bàn, hỗ trợ cho hoạt động.

1.4. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường THPT Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

1.4.1. Vai trò của Hiệu trưởng nhà trường

Tại điều 26, khoản 1 điều 19 điều lệ nhà trường quy định các hoạt động giáo dục trong nhà trường và nhiệm vụ, quyền hạn của hiệu trưởng như sau:

Về Các hoạt động giáo dục

Các hoạt động giáo dục bao gồm hoạt động trong giờ lên lớp và hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động.

Hoạt động giáo dục trong giờ lên lớp được tiến hành thông qua việc dạy học các môn học bắt buộc và tự chọn trong chương trình giáo dục của cấp học do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm các hoạt động ngoại khoá về khoa học, văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao, an toàn giao thông, phòng chống tệ nạn xã hội, giáo dục giới tính, giáo dục pháp luật, giáo dục hướng nghiệp, giáo dục kỹ năng sống nhằm phát triển toàn diện và bồi dưỡng năng khiếu; các hoạt động vui chơi, tham quan, du lịch, giao lưu văn hoá, giáo dục môi trường; hoạt động từ thiện và các hoạt động xã hội khác phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh.

Về Nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng

  1. Xây dựng, tổ chức bộ máy nhà trường;
  2. Thực hiện các quyết nghị của Hội đồng trường;
  3. Xây dựng quy hoạch phát triển nhà trường, xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch nhiệm vụ năm học, báo cáo, đánh giá kết quả thực hiện trước Hội đồng trường và các cấp có thẩm quyền;
  4. Thành lập các tổ chuyên môn, tổ văn phòng và các hội đồng tư vấn trong nhà trường, bổ nhiệm tổ trưởng, tổ phó, đề xuất các thành viên của Hội đồng trường trình cấp có thẩm quyền quyết định;
  5. đ) Quản lý giáo viên, nhân viên; quản lý chuyên môn, phân công công tác, kiểm tra, đánh giá xếp loại giáo viên, nhân viên, thực hiện công tác khen thưởng, kỉ luật đối với giáo viên, nhân viên, thực hiện việc tuyển dụng giáo viên, nhân viên; ký hợp đồng lao động, tiếp nhận, điều động giáo viên, nhân viên theo quy định của Nhà nước;
  6. Quản lý học sinh và các hoạt động của học sinh do nhà trường tổ chức, xét duyệt kết quả đánh giá, xếp loại học sinh, ký xác nhận học bạ, ký xác nhận hoàn thành chương trình tiểu học cho học sinh tiểu học (nếu có) của trường phổ thông có nhiều cấp học và quyết định khen thưởng, kỷ luật học sinh;
  7. Quản lý tài chính, tài sản của nhà trường; Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.
  8. Thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với giáo viên, nhân viên, học sinh, tổ chức thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường; thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục của nhà trường;
  9. Chỉ đạo thực hiện các phong trào thi đua, các cuộc vận động của ngành, thực hiện công khai đối với nhà trường;
  10. Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.

Như vậy Hiệu trưởng là người lãnh đạo nhà trường, chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường. Phải thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng theo điều lệ nhà trường. Là người chịu trách nhiệm trước Đảng và Nhà nước về việc đảm bảo chất lượng giáo dục ở trường mình. Tuy có các phó Hiệu trưởng giúp việc và liên đới chịu trách nhiệm, nhưng Hiệu trưởng phải giữ vai trò thủ trưởng, thường xuyên nắm thông tin và có những quyết định kịp thời không để những hiện tượng thiếu trách nhiệm, phản sư phạm xảy ra hoặc tiếp diễn làm tổn hại đến chất lượng giáo dục thế hệ trẻ.

1.4.2. Thực hiện quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống

Quản lý hoạt động giáo dục KNS là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới các đối tượng quản lý, nhằm đưa hoạt động giáo dục KNS đạt được kết quả mong muốn một cách hiệu quả nhất. Quản lý hoạt động giáo dục KNS cho học sinh trong nhà trường THPT là quá trình tác động có định hướng của chủ thể quản lý lên tất cả các thành tố tham gia vào quá trình hoạt động giáo dục KNS nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục.

Quản lý hoạt động giáo dục KNS là bộ phận của quản lý trường học, bao gồm hàng loạt những hoạt động tiến hành lựa chọn, tổ chức và thực hiện các nguồn lực, các tác động của nhà quản lý, của tập thể sư phạm, của các lực lượng giáo dục theo kế hoạch chủ động và chương trình giáo dục, nhằm thay đổi hay tạo ra hiệu quả giáo dục cần thiết.

Hoạt động giáo dục KNS cho học sinh THPT là một công việc quan trọng nhưng vẫn còn mới mẻ. Để quản lý tốt hoạt động giáo dục KNS trong nhà trường cần chú ý những nội dung sau:

1.4.2.1. Mục tiêu quản lý hoạt động giáo dục KNS

Mục tiêu quản lý hoạt động giáo dục KNS cho học sinh trong nhà trường THPT là quản lý các hoạt động giáo dục trong nhà trường kể cả hoạt động dạy học nhằm thay đổi nhận thức và hành vi của học sinh từ thói quen thụ động, có thể gây rủi ro, mang lại hậu quả tiêu cực thành những hành vi mang tính xây dựng, tích cực, có hiệu quả để nâng cao chất lượng giáo dục và chất lượng cuộc sống. Mục tiêu quản lý hoạt động giáo dục KNS cho học sinh THPT là hướng tới quản lý các hoạt động dạy học và hoạt động giáo dục giúp học sinh hình thành các khả năng tâm lý xã hội, để học sinh nâng cao hiểu biết về các giá trị truyền thống của dân tộc, biết tiếp thu những giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại, củng cố mở rộng kiến thức đã học với đời sống thực tiễn, củng cố các kỹ năng, hình thành và phát triển các năng lực chủ yếu (năng lực tự hoàn thiện, năng lực thích ứng, năng lực giao tiếp ứng xử, năng lực tổ chức, quản lý, hợp tác và cạnh tranh, năng lực hoạt động chính trị xã hội) giải quyết tốt các vấn đề của cuộc sống, biết chịu trách nhiệm về hành vi của bản thân.

1.4.2.2. Quản lý chương trình, kế hoạch giáo dục kỹ năng sống: mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, cách thức kiểm tra đánh giá Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Quản lý chương trình, kế hoạch hoạt động giáo dục KNS trong các hoạt động dạy học

Hoạt động dạy học là quá trình thống nhất biện chứng giữa giáo viên và học sinh, dưới tác động tổ chức điều khiển của giáo viên, học sinh tự giác, tích cực tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động học, nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học đặt ra. Quản lý hoạt động giáo dục KNS trong các hoạt động dạy học chính là quản lý việc thực hiện các nội dung trong chương trình có liên quan đến việc giáo dục KNS. Quản lý phương pháp dạy học của giáo viên giúp học sinh không chỉ nắm vững, nắm chắc nội dung bài học mà còn nhận thức được các giá trị đạo đức và nhân văn cao cả, hình thành thái độ, hành vi ứng xử tốt đẹp trong cuộc sống. Quản lý việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh không chỉ đơn thuần là chú trọng đến việc nắm kiến thức của học sinh mà còn quản lý việc đánh giá thông qua hành vi, thái độ mà học sinh lĩnh hội được thông qua bài học. Nói cách khác quản lý hoạt động giáo dục KNS trong các hoạt động dạy học trên cả ba phương diện: Kiến thức, thái độ và hành vi.

Quản lý chương trình, kế hoạch hoạt động giáo dục KNS trong các hoạt động giáo dục.

Quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là quá trình tác động bền bỉ, lâu dài bằng nhiều con đường khác nhau. Ngoài việc giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động dạy học, việc giáo dục kỹ năng sống còn được thông qua hoạt động giáo dục. Nhà trường phải quản lý từ việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch, chỉ đạo việc thực thi kế hoạch, đôn đốc, kiểm tra đánh giá sát sao; chỉ đạo phối hợp chặt chẽ với tổ chức Đoàn thanh niên, với giáo viên chủ nhiệm lớp, giáo viên p trách các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, lao động hướng nghiệp, giáo viên giảng dạy bộ môn, phối hợp với các lực lượng xã hội như hội CMHS và hội khuyến học, với chính quyền địa phương trên địa bàn tuyển sinh nhà trường và nơi học sinh cư trú, Công an huyện, Huyện đoàn thanh niên, Trung tâm sức khỏe sinh sản của tỉnh, của huyện nhằm tổ chức các chương trình giáo dục chuyên đề về KNS.

Việc kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục KNS góp phần đánh giá chất lượng giáo dục chung trong nhà trường, qua kiểm tra đánh giá CBQL nhà trường đánh giá mức độ thực hiện của đội ngũ giáo viên, mức độ hưởng ứng tham gia của học sinh, quá trình thực hiện trong nhà trường diễn ra có đảm bảo kế hoạch hay không, đó là cơ sở để CBQL nhà trường xây dựng chiến lược giáo dục về mục tiêu, nội dung, đội ngũ, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động.

Để việc đánh giá đạt mục tiêu đề ra, CBQL cần phải bám sát vào những nội dung đánh giá, các mức đánh giá, sử dụng các hình thức đánh giá phù hợp và tuân theo một quy trình đánh giá khoa học.

1.4.2.3. Quản lý phối hợp các lực lượng tham gia giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường

Để quá trình giáo dục kỹ năng sông cho học sinh đạt hiệu quả, nhà trường cần xây dựng phương hướng chỉ đạo theo một kế hoạch thống nhất, nhằm động viên và phát huy tối đa khả năng của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để tạo nên sức mạnh tổng thể trong quá trình giáo dục KNS. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Đối với giáo viên bộ môn: nhà quản lý ngoài việc lập kế hoạch chi tiết, cụ thể cho hoạt động còn phải tổ chức tập huấn, hội thảo, tọa đàm để nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm cho đội ngũ giáo viên, đồng thời phân cấp quản lý cho đội ngũ tổ trưởng, tổ phó, nhóm trưởng chuyên môn để thống kê việc tích hợp giáo dục KNS vào từng chương, từng bài cụ thể. Tổ chức làm điểm, rút kinh nghiệm và triển khai đại trà. Theo dõi sát sao việc thực hiện tích hợp vào bài dạy của đội ngũ giáo viên, đánh giá giờ dạy và kiểm tra đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh.

Giáo viên chủ nhiệm: để đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp thực thi tốt nhiệm vụ của mình, nhà quản lý cần chỉ đạo GVCN căn cứ kế hoạch tổng thể của nhà trường xây dựng kế hoạch giáo dục KNS phù hợp với từng khối lớp, triển khai kế hoạch và tổ chức hoạt động cho học sinh, quản lý phát huy hiệu quả của giờ sinh hoạt lớp, đôn đốc, kiểm tra đánh giá thi đua kết quả rèn luyện của học sinh bằng các tiêu chí cụ thể.

Cán bộ đoàn: để nâng cao được hiệu quả hoạt động giáo dục KNS trong hoạt động của Đoàn thanh niên. Nhà quản lý cần nhận thức đầy đủ các yếu tố có ảnh hưởng tới việc giáo dục KNS ở Đoàn viên thanh niên nhà trường, từ đó có những biện pháp quản lý để tác động vào những yếu tố tích cực, phát huy hiệu quả giáo dục, khắc phục và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực. Đồng thời quản lý tốt các giờ sinh hoạt chi đoàn, các tiết chào cờ đầu tuần, các hoạt động chủ điểm, chủ đề nhân các ngày lễ lớn trong năm, các hoạt động phối hợp với CMHS, với GVCN, GVBM, với các tổ chức tập thể và cá nhân trong và ngoài nhà trường. Chỉ đạo đoàn thanh niên xây dựng các tiêu chí đánh giá xếp loại thi đua về mức độ tham gia hoạt động của các chi đoàn

Vì vậy để tạo nên sức mạnh tổng thể cũng như giáo dục KNS cho các em học sinh một cách toàn diện và có hệ thống, nhà trường cần quản lý chặt chẽ sự phối hợp các lực lượng tham gia giáo dục KNS trong nhà trường (GVCN, GVBM, cán bộ đoàn, hội thanh niên). Ngoài ra cần huy động tối đa các lực lượng khác tham gia vào quá trình giáo dục như Hội CMHS, các cấp ủy Đảng, chính quyền nơi học sinh cư trú, các cơ quan đoàn thể trên địa bàn tuyển sinh như Công an, Y tế, huyện Đoàn. Có như vậy nhân cách và lý tưởng sống của các em được giáo dục và rèn luyện ở mọi lúc, mọi nơi, đồng thời giúp các em củng cố bổ sung và nâng cao thêm hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, hoàn thiện các tri thức đã được học trên lớp, mở rộng nhãn quan với thế giới xung quanh, biết vận dụng những tri thức đã học để giải quyết các vấn đề do đời sống thực tiễn đặt ra. Chính vì vậy để công tác giáo dục KNS cho học sinh nhà trường đạt hiệu quả cao nhà trường cần tạo dựng được sự chung tay ủng hộ và tham gia của các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường.

1.4.2.4. Quản lý các điều kiện hỗ trợ giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường

Cũng như trong dạy học các môn văn hóa, hoạt động giáo dục KNS cần có CSVC, phương tiện, tài liệu để hoạt động đạt hiệu quả giáo dục mong muốn. Trên thực tế, đại đa số giáo viên nhà trường chưa được đào tạo một cách căn bản về giáo dục KNS, phương tiện, tài liệu dành cho hoạt động này còn thiếu thốn nhiều, vì vậy, ngoài việc giao trách nhiệm cho giáo viên, nhà trường cũng thường xuyên tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng nâng cao kỹ năng và nghiệp vụ tổ chức hoạt động cho giáo viên, động viên khích lệ tinh thần và có chế độ thỏa đáng kịp thời, từ đó khơi dậy lòng nhiệt tình và ý thức trách nhiệm trong họ, có như vậy tính hiệu quả của hoạt động mới cao. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Nhà trường ngoài việc quản lý tận dụng những CSVC hiện có để phát huy hiệu quả giáo dục của hoạt động, cần phải tiết kiệm, cân đối nguồn ngân sách được giao hàng năm để mua sắm thêm CSVC, tài liệu cho hoạt động, đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của hội CMHS, của các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp đóng trên địa bàn, hỗ trợ cho hoạt động.

1.5. Yếu tố tác động tới hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường THPT trong bối cảnh hiện nay

Có rất nhiều các yếu tố tác động tới hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường THPT, trong luận văn này tác giả chỉ xin đưa ra một số yếu tố tác động chính trong bối cảnh hiện nay như sau:

1.5.1. Các yếu tố thuộc về chương trình giáo dục trung học phổ thông

  • Mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp và kiểm tra đánh giá

Theo khoản 1, Điều 29, Luật Giáo dục năm 2005: “Chương trình giáo dục trung học phổ thông quy định chuẩn kiến thức, kĩ năng, phạm vi và cấu trúc, nội dung giáo dục phổ thông, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp của giáo dục phổ thông” [26, tr.7]. Theo đó, mục tiêu giáo dục THPT là học sinh được phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, con người cá nhân và con người xã hội trên cơ sở duy trì, tăng cường và định hình các phẩm chất, năng lực đã hình thành ở cấp Trung học cơ sở; có kiến thức, kĩ năng phổ thông cơ bản, được định hướng theo lĩnh vực nghề nghiệp, phù hợp với năng khiếu và sở thích; phát triển năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học lên hoặc bước vào cuộc sống lao động với phẩm chất, năng lực của một công dân. Để thực hiện giáo dục KNS cho học sinh THPT thì mục tiêu về giáo dục KNS phải được đặt ra trong chương trình giáo dục THPT. Do đó, nội dung giáo dục KNS cho học sinh THPT phải được hoạch định; các hình thức, phương pháp, kiểm tra, đánh giá giáo dục KNS cho học sinh phải được xác định cụ thể. Các yếu tố nêu trên phải được mô tả trong văn bản chương trình giáo dục KNS cho học sinh THPT và trở thành một nội dung của chương trình giáo dục THPT.

Những phân tích trên cho thấy, nếu vấn đề KNS chưa được đặt ra, chưa được xác định như một yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của chương trình giáo dục THPT thì khó có thể thực hiện giáo dục KNS cho học sinh THPT.

  • Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa [10]

Theo Đề án, chương trình mới, sách giáo khoa mới được xây dụng theo hướng coi trọng dạy người với dạy chữ, rèn luyện, phát triển cả về phẩm chất và năng lực, chú trọng giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, nhân cách, lối sống.

Học sinh được xác định là trung tâm, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, khả năng tự học của học sinh, tăng cường tính tương tác trong dạy và học giữa thầy với trò, trò với trò và giữa các thầy giáo, cô giáo.

Chương trình, sách giáo khoa mới được xây dựng, biên soạn theo hướng tích hợp ở các lớp học, cấp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học, cấp học trên. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Cụ thể, ở các lớp dưới thực hiện lồng ghép, kết hợp những nội dung liên quan với nhau ở mức độ hợp lý để tạo thành các môn học tích hợp, giảm số môn học, tránh chồng chéo nội dung và những kiến thức không hoặc chưa cần thiết với học sinh.

Chỉ đạo tăng cường thực hiện hoạt động giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Đổi mới công tác kiểm tra đánh giá hoạt động giáo dục KNS cho học sinh. Đội ngũ giáo viên phải nghiêm túc thực hiện sự chỉ đạo của BGH nhà trường, đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục KNS, nhằm phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực cho học sinh.

Hoạt động trải nghiệm trong nhà trường (HĐ TNST) cần được hiểu là hoạt động có động cơ, có đối tượng để chiếm lĩnh, được tổ chức bằng các việc làm cụ thể của học sinh, được thực hiện trong thực tế, được sự định hướng, hướng dẫn của nhà trường. Đối tượng để trải nghiệm nằm trong thực tiễn. Qua trải nghiệm thực tiễn, người học có được kiến thức, kĩ năng, tình cảm và ý chí nhất định. Sự sáng tạo sẽ có được khi phải giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn phải vận dụng kiến thức, kĩ năng đã có để giải quyết vấn đề, ứng dụng trong tình huống mới, không theo chuẩn đã có, hoặc nhận biết được vấn đề trong các tình huống tương tự, độc lập nhận ra chức năng mới của đối tượng, tìm kiếm và phân tích được các yếu tố của đối tượng trong các mối tương quan của nó, hay độc lập tìm kiếm ra giải pháp thay thế và kết hợp được các phương pháp đã biết để đưa ra hướng giải quyết mới cho một vấn đề.

Các HĐ TNST được tổ chức dưới rất nhiều hình thức như: Câu lạc bộ, tổ chức các trò chơi, tổ chức diễn đàn, sân khấu hóa, tổ chức sự kiện, tổ chức đi thăm quan, dã ngoại, tổ chức các cuộc thi, các hoạt động nhân đạo, từ thiện. Như vậy “HĐ TNST bản chất là những hoạt động giáo dục (HĐGD), nó không có gì xa lạ ở các trường THPT. Đối với trường THPT Hiền Đa. Được sự quan tâm của Đảng ủy, ban giám hiệu, các tổ chức đoàn thể nhà trường, HĐ TNST được tổ chức đa dạng, thường xuyên, phổ biến ở 3 hình thức sau: Câu lạc bộ, các cuộc thi, hội thi và các hoạt động nhân đạo từ thiện

Câu lạc bộ là hình thức được nhà trường tổ chức với nhiều hình thức khác nhau như: Câu lạc bộ môn học, câu lạc bộ thể dục, thể thao… của những nhóm học sinh cùng sở thích, nhu cầu, năng khiếu, dưới sự định hướng của các thày cô giáo nhằm tạo môi trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa các học sinh với nhau và giữa học sinh với thầy cô giáo. Hoạt động của CLB tạo cơ hội để học sinh được chia sẻ những kiến thức, hiểu biết của mình về các lĩnh vực mà các em quan tâm, qua đó phát triển các kĩ năng của học sinh như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe và biểu đạt ý kiến, kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng… Thông qua hoạt động của các câu lạc bộ, các thày cô giáo hiểu và quan tâm hơn đến nhu cầu, nguyện vọng mục đích chính đáng của các em.

Hội thi cuộc thi cũng là một trong những hình thức được nhà trường hết sức quan tâm và được tổ chức thường xuyên như: thi tìm hiểu, thi tiểu phẩm, hội thi thời trang, hội thi học sinh thanh lịch, hội trại thanh niên… hoạt động này luôn hấp dẫn, lôi cuốn học sinh và đạt hiệu quả cao trong việc tập hợp, giáo dục, rèn luyện và định hướng giá trị cho các em học sinh. Phát triển khả năng hoạt động tích cực và tương tác của học sinh, góp phần bồi dưỡng cho các em động cơ học tập tích cực, kích thích hứng thú trong quá trình nhận thức. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Hoạt động nhân đạo là hoạt động tác động đến trái tim, tình cảm, sự đồng cảm của học sinh trước những con người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Hoạt động nhân đạo giúp các em học sinh được chia sẻ những suy nghĩ, tình cảm và giá trị vật chất của mình với những thành viên trong cộng đồng, giúp các em biết quan tâm hơn đến những người xung quanh từ đó giáo dục các giá trị cho học sinh như: tiết kiệm, tôn trọng, chia sẻ, cảm thông, yêu thương, trách nhiệm, hạnh phúc,… Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động nay nhà trường thường xuyên tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như: xây dựng quỹ ủng hộ các bạn thuộc gia đình nghèo, có hoàn cảnh khó khăn; tết vì người nghèo, mua bút, tăm tre ủng hộ cho trung tâm bảo trợ trẻ em, người khuyết tật.

1.5.2. Các yếu tố thuộc về môi trường gia đình và xã hội

Dưới góc độ giáo dục, gia đình, xã hội không chỉ là lực lượng tham gia vào quá trình giáo dục mà còn là môi trường giáo dục quan trọng [25]. Trong lĩnh vực giáo dục KNS cho học sinh THPT, môi trường gia đình và môi trường xã hội có thể tác động theo hướng tích cực hoặc không tích cực đối với quá trình hình thành và phát triển KNS của học sinh. Do KNS thuộc về phạm trù năng lực nên sự trải nghiệm có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình hình thành và phát triển KNS. Gia đình và xã hội chính là môi trường nơi xác lập các tình huống diễn ra sự trải nghiệm của xã hội.

Sự phát triển về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa với tốc độ và quy mô khác nhau đã tạo ra những khác biệt trong phát triển giáo dục giữa các vùng miền, thành phố lớn so với các đô thị nhỏ, các khu vực nông thôn, đặc biệt là các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn. Tính phát triển không đều nói chung, phát triển không đều về giáo dục nói riêng (do tác động của sự phát triển không đều về kinh tế), là một tính quy luật. Với giáo dục KNS cho học sinh THPT cũng như vậy.

Ở các thành phố, không chỉ nhu cầu được giáo dục KNS của học sinh THPT phát triển mà yêu cầu về giáo dục KNS cho học sinh THPT cũng rất cao.

Học sinh THPT ở thành phố có nhiều điều kiện để tham gia vào các hoạt động, các mối quan hệ đa dạng, sinh động tại các thành phố lớn. Khi tham gia vào các hoạt động và quan hệ này, theo đặc điểm của lứa tuổi các em luôn khao khát gặt hái được những thành công. Tuy nhiên, trước khi được giáo dục KNS, chính sự thiếu hụt KNS là rào cản đến với những thành công như mong muốn của các em. Như vậy, sự thiếu hụt KNS do chưa được giáo dục KNS đã hạn chế khả năng và mức độ thành công của học sinh THPT trong nhiều hoạt động và quan hệ là yếu tố kích thích nhu cầu được giáo dục KNS của học sinh THPT.

Mặt khác, do tính đa dạng, phức tạp trong môi trường sống ở các thành phố nên những rủi ro đối với học sinh THPT cũng cao hơn. Tình trạng học sinh THPT mắc các tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật có dấu hiệu gia tăng cả về tính chất lẫn mức độ nghiêm trọng so với các khu vực khác. Thực tế này đòi hỏi phải tăng cường giáo dục KNS cho học sinh THPT.

Giáo dục KNS cho học sinh THPT ở các thành phố vừa thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó khăn.

Thuận lợi vì có nhiều chủ thể (cá nhân và các tổ chức), khác nhau có thể cung cấp dịch vụ giáo dục về KNS cho học sinh THPT. Theo quy luật cung cầu, khi học sinh THPT có nhu cầu được giáo dục KNS thì sẽ xuất hiện những chủ thể đáp ứng nhu cầu đó cho học sinh. Có thể nhận thấy, ngay cả khi giáo dục học đường chưa tổ chức giáo dục KNS cho học sinh thì ngoài xã hội đã có nhiều cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ giáo dục KNS cho học sinh THPT. Thêm vào đó, với điều kiện về cơ sở vật chất cũng như tài chính, các hình thức giáo dục KNS cho học sinh THPT được thực hiện rất đa dạng, phong phú, hấp dẫn và lội cuốn được học sinh. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Giáo dục KNS cho học sinh THPT ở các thành phố cũng gặp không ít khó khăn. Những khó khăn này thể hiện ở các phương diện như: khó thống nhất các nội dung giáo dục KNS cho học sinh THPT; mức độ đảm bảo các yêu cầu sư phạm của các phương pháp, hình thức giáo dục KNS cho học sinh ít được kiểm soát; đánh giá KNS của học sinh THPT không được thực hiện có hệ thống, Tất cả những điều này đòi hỏi các trường THPT ở các trường phải chủ động, tích cực trong việc giáo dục KNS cho học sinh đồng thời phải phát huy được vai trò chủ đạo của giáo dục nhà trường trong giáo dục KNS cho học sinh.

1.5.3. Đặc điểm tâm lý của học sinh THPT

Tuổi học sinh THPT là giai đoạn đã trưởng thành về mặt thể lực, nhưng sự phát triển cơ thể còn chưa vững chắc, các em bắt đầu thời kỳ phát triển tương đối cân bằng về mặt sinh lý. Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng của não phát triển. Cấu trúc của tế bào bán cầu đại não có những đặc điểm như trong cấu trúc tế bào đại não của người lớn. Số lượng dây thần kinh liên hợp tăng lên, liên kết các phần khác nhau của vỏ não lại, điều đó tạo tiền đề cần thiết cho sự phức tạp hóa hoạt động phân tích, tổng hợp của vỏ bán cầu đại não trong quá trình học tập và rèn luyện.

Ở học sinh THPT, tính chủ định trong nhận thức được phát triển, tri giác đã đạt tới mức cao, quan sát trở nên có mục đích, hệ thống và toàn diện hơn. Tuy nhiên, nếu thiếu sự chỉ đạo của giáo viên thì quan sát của các em cũng khó đạt kết quả cao. Vì vậy, giáo viên cần quan tâm hướng quan sát của các em vào những nhiệm vụ nhất định, không vội kết luận khi chưa tích lũy đủ các sự kiện. Cũng ở lứa tuổi này, các em đã có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập sáng tạo. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán hơn, tính phê phán cũng phát triển. Có thể nói, nhận thức của học sinh THPT chuyển dần từ nhận thức cảm tính sang nhận thức lý tính, do đó, học tập và rèn luyện KNS sẽ dễ đạt kết quả tốt hơn.

Sự phát triển tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của học sinh THPT, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của các em. Học sinh THPT có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình: quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất nhân cách và năng lực riêng, xuất hiện ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng, tình cảm nghĩa vụ đó là những giá trị nổi trội và bền vững. Các em có khả năng đánh giá mặt mạnh, mặt yếu của bản thân mình và những người xung quanh, có những biện pháp kiểm tra đánh giá sự tự ý thức bản thân như viết nhật ký, tự kiểm điểm trong tâm tưởng, biết đối chiếu với các thần tượng, các yêu cầu của xã hội, nhận thức vị trí của mình trong xã hội, hiện tại và tương lai.

Học sinh THPT là lứa tuổi quyết định sự hình thành nhân sinh quan, thế giới quan về xã hội, tự nhiên, các nguyên tắc và quy tắc cư xử. Chỉ số đầu tiên của sự hình thành thế giới quan là sự phát triển hứng thú nhận thức đối với những vấn đề thuộc nguyên tắc chung nhất của vũ trụ, những quy luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và của sự tồn tại xã hội loài người. Lứa tuổi này, các em quan tâm nhiều tới các vấn đề liên quan tới con người, vai trò của con người trong lịch sử, quan hệ giữa con người và xã hội, giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa lý trí và tình cảm. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

Tóm lại, sự phát triển nhân cách của học sinh THPT là một giai đoạn rất quan trọng, giai đoạn chuyển đổi từ trẻ em lên người lớn. Đây là lứa tuổi đầu thanh niên với những đặc điểm tâm lý đặc thù khác với tuổi thiếu niên, các em đã đạt tới sự trưởng thành về thể lực và sự phát triển nhân cách. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT là điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục KNS cho các em có hiệu quả. Các lực lượng giáo dục phải biết phát huy các yếu tố tích cực, khắc phục những hạn chế trong sự phát triển tâm sinh lý lứa tuổi này để lựa chọn nội dung, hình thức tổ chức thích hợp, phát huy được tính tích cực, chủ động của các em trong hoạt động giáo dục theo định hướng của mục tiêu giáo dục KNS.

Tiểu kết chương 1

Để quản lý tốt hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường cần thực hiện tốt các nội dung sau

Quản lý tốt hoạt động giáo dục trong nhà trường – vai trò của Hiệu trưởng nhà trường

Quản lý chương trình, kế hoạch giáo dục kỹ năng sống: mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, cách thức kiểm tra đánh giá

Quản lý phối hợp các lực lượng tham giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường Quản lý các điều kiện hỗ trợ, các yếu tố tác động đến giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường, các yếu tố thuộc về chương trình giáo dục

Đặc biệt các yếu tố thuộc về môi trường gia đình và xã hội KNS là năng lực cá nhân mà con người có được thông qua giáo dục hoặc kinh nghiệm trực tiếp, nó giúp cho con người có thể kiểm soát, quản lý có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hàng ngày.

Giáo dục KNS cho học sinh THPT là vấn đề cấp thiết hiện nay. Giáo dục KNS cho học sinh là giáo dục cho các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay đổi ở các em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người học dựa trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp.

Có rất nhiều yếu tố tác động tới hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường THPT trong bối cảnh hiện nay. Để công tác giáo dục KNS cho học sinh nhà trường đạt hiệu quả cao nhà trường cần tạo dựng được sự chung tay ủng hộ và tham gia của các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường.

Với các trường THPT hoạt động giáo dục kỹ năng sống đã và đang được thực hiện theo nhiều cách khác nhau. Để đạt được mục tiêu giáo dục của Việt Nam là chuyển từ mục tiêu cung cấp kiến thức là chủ yếu sang hình thành và phát triển những năng lực cần thiết ở người học để đáp ứng kịp thời sự phát triển của đất nước cần phải có những biện pháp quản lý hoạt động giáo dục học sinh đạt hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh

One thought on “Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở học sinh

  1. Pingback: Luận văn: Quản lý giáo dục kĩ năng sống cho học sinh bán trú

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464