Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT tại quận 12 – Thành phố Hồ Chí Minh dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một trong những vấn đề bức xúc của giáo dục Việt Nam hiện nay, khiến toàn xã hội phải quan tâm đó là việc định hướng nghề nghiệp và phân luồng học sinh. Mỗi năm có khoảng 12.000 học sinh vào lớp 10 và số học sinh tốt nghiệp THPT đều đăng kí thi Đại học, Cao đẳng. Xét về nhu cầu, xu hướng và nguyện vọng của lớp trẻ thì những số liệu nêu trên là đáng trân trọng, nhưng thực tiễn về năng lực và nhu cầu xã hội lại không cho phép nguyện vọng đó thành hiện thực. Mỗi năm số học sinh được tuyển vào Đại học, Cao đẳng ( ĐH, CĐ) chỉ chiếm khoảng 10 – 15%, tạo nên sự ùn tắc trong các kì thi tuyển sinh, gây tốn kém cho gia đình và xã hội.
Hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông có ý nghĩa rất to lớn. Về mặt giáo dục đó là công việc điều chỉnh động cơ chọn nghề của học sinh, điều chỉnh hứng thú nghề nghiệp của các em theo xu thế phân công lao động xã hội, góp phần vào việc cụ thể hóa các mục tiêu đào tạo của trường phổ thông. Về ý nghĩa kinh tế thì công tác hướng nghiệp luôn hướng vào việc sử dụng hợp lý tiềm năng lao động trẻ tuổi của đất nước, từ đó nâng cao năng suất lao động của xã hội. Để đảm bảo được ý nghĩa đó nhà trường phổ thông phải gắn mục tiêu đào tạo với những mục tiêu kinh tế – xã hội. Về ý nghĩa chính trị – xã hội, công tác hướng nghiệp có chức năng thực hiện đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước. Vì thế nếu làm tốt công tác hướng nghiệp, chúng ta sẽ có những lớp người đủ năng lực và phẩm chất cách mạng để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, hướng nghiệp có tác dụng điều chỉnh sự phân công lao động xã hội, tạo ra sự cân bằng trong việc phân bổ lực lượng dân cư. Tóm lại, công tác hướng nghiệp có ý nghĩa đối với việc triển khai chiến lược con người – một bộ phận của chiến lược kinh tế, khoa học và công nghệ. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
Từ Đại hội III, Đảng ta đã khẳng định: Giáo dục – đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục – đào tạo, khoa học và công nghệ là đầu tư cho sự phát triển. Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 BCHTW (Ban chấp hành Trung ương) Đảng khoá VIII đã nhấn mạnh: “Tăng cường giáo dục kĩ thuật tổng hợp và năng lực thực hành ở bậc học phổ thông”. Vấn đề này cũng được khẳng định tại điều 24 Luật giáo dục: “ Nội dung giáo dục phổ thông phải đảm bảo yêu cầu về tính phổ thông, toàn diện, cơ bản và hướng nghiệp…”[8]. Tiếp theo là chỉ thị 33/ 2003 ngày 23/7/2003 của Bộ trưởng Bộ GD & ĐT (giáo dục & đào tạo) về việc đẩy mạnh công tác sinh hoạt hướng nghiệp và tư vấn nghề nghiệp cho học sinh phổ thông. Để thực hiện được nhiệm vụ mục tiêu giáo dục đào tạo, ngành GD & ĐT nói chung và các trung tâm KTTH – HN (kĩ thuật tổng hợp – hướng nghiệp) nói riêng cần làm tốt công tác “Hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông”, tạo điều kiện cho các em có thể chọn được một nghề phù hợp theo ý muốn, năng lực của mình, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của địa phương và đất nước.
Ở các trường THPT Q12 sau một vài năm triển khai nhiệm vụ HĐGDHN, chúng tôi gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, đội ngũ, tài liệu, nội dung chương trình giảng dạy. Đồng thời phụ huynh học sinh chưa nhận thức được vị trí vai trò, tác dụng của HĐGDHN, vì vậy hiệu quả của hoạt động giáo dục hướng nghiệp chưa cao. Sự đổi mới trong quản lý, tổ chức giáo dục nói chung và HĐGDHN nói riêng ở các trường THPT Q12 còn chuyển biến chậm.Việc sử dụng và khai thác các nguồn lực (nhân lực, tài lực, vật lực) cho HĐGDHN còn ít hiệu quả, chưa tập trung vào những hướng ưu tiên như tổ chức hoàn thiện nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, phương tiện dạy nghề, thông tin nghề…Công tác xã hội hoá giáo dục còn nhiều hạn chế và chưa có biện pháp hữu hiệu. Với lý do trên, tôi lựa chọn vấn đề: “Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT Quận 12 – TPHCM” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng công tác quản lý HĐGDHN ở các trường THPT Quận 12 – TP.HCM. Từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý HĐGDHN ở các trường THPT Quận 12 – TP.HCM
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động giáo dục ở các trường THPT Quận 12 – TPHCM
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT Quận 12 – TPHCM
4. Giả thuyết khoa học Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
Hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường THPT Q12 đã đạt được một số thành tích như đã đưa chương trình giáo dục hướng nghiệp vào giảng dạy chính khóa, xây dựng kế hoạch ngay từ đầu năm, có sử dụng công nghệ thông tin để phục vụ cho giảng dạy… Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề bất cập trong quá trình quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp như xây dựng kế hoạch, thực hiện chương trình, tổ chức chỉ đạo, kiểm tra đánh giá. Vì vậy, cần phải có những biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp hợp lý cho học sinh THPT thì sẽ khắc phục được những hạn chế và nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT Q12.TP.HCM.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- 5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về hoạt động giáo dục hướng nghiệp và công tác quản lý HĐGDHN cho học sinh các trường THPT
- 5.2. Khảo sát thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT Q12 TP.HCM.
- 5.3. Đề xuất một số biện pháp quản nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học phổ thông.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở phương pháp luận
6.1.1 Quan điểm hệ thống – cấu trúc
Vận dụng quan điểm hệ thống cấu trúc trong công tác quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học phổ thông Q12 TP.HCM bao gồm những yếu tố như: mục tiêu quản lý, nội dung quản lý, chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, kết quả quản lý.
6.1.2 Quan điểm thực tiễn Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
Xuất phát từ thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường Trung học phổ thông Q12 TP.HCM còn nhiều tồn tại, khó khăn trên cơ sở đó đề ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường Trung học phổ thông Q.12.
6.1.3 Quan điểm lịch sử – logic
Đề xuất một số biện pháp cho công tác quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường Trung học phổ thông Q.12 TP.HCM, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục hướng nghiệp các trường THPT.
6.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
6.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết về công tác quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp
- Phân loại, hệ thống hóa lý thuyết cần nghiên cứu trong phạm vi đề tài; lý luận về quản lý nói chung và quản lý công tác giáo dục hướng nghiệp nói riêng.
- Tổng hợp, nghiên cứu, khai thác những tri thức khoa học đã có trong các công trình khoa học, chính sách, chiến lược, chỉ thị,…của ngành Giáo dục và Đào tạo; sách, tạp chí chuyên ngành,… nhằm xác lập cơ sở pháp lý và cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
6.2.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.2.1. Phương pháp quan sát sư phạm
Quan sát các hoạt động của nhà trường: các tiết dạy hướng nghiệp, hoạt động ngoài giờ lên lớp, ngoại khóa
6.2.2.2 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Sử dụng phương pháp điều tra giáo dục để trưng cầu ý kiến của cán bộ quản lý, giáo viên chủ nhiệm, học sinh và các lực lượng khác của một số trường THPT ở Q12 TP HCM. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
6.2.2.3 Phương pháp phỏng vấn
Đặt câu hỏi phỏng vấn cán bộ quản lý, giáo viên chủ nhiệm lớp của một số trường THPT ở Q12 TP HCM.
6.2.2.4 Phương pháp thống kê toán học :
Sử dụng phương pháp thống kê toán học và phần mềm SPSS FOR WINDOW
7. Giới hạn đề tài
Đề tài chỉ nghiên cứu về thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở 3 trường Trung học phổ thông Q12 TP.HCM (Trường THPT Võ Trường Toản, Trường THPT Thạnh Lộc, Trường THPT Trường Chinh).
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Vấn đề giáo dục hướng nghiệp và quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở một số nước trên thế giới
Trong hệ thống giáo dục, giáo dục trung học phổ thông là giai đoạn học tập chính quy cuối cùng của đa phần thanh thiếu niên học sinh. Giáo dục trung học phổ thông không chỉ có mục tiêu chuẩn bị nguồn cho giáo dục đại học mà chủ yếu là chuẩn bị cho học sinh – những con người trưởng thành bước vào cuộc sống lao động xã hội. Xuất phát từ thực tế đó, thanh thiếu niên học sinh phổ thông dù học lên đại học hay sớm đi vào cuộc sống lao động nghề nghiệp, họ đều phải được trang bị những tri thức khoa học, kĩ năng kĩ thuật, kĩ năng lao động nghề nghiệp, năng lực sáng tạo, ý thức tổ chức kỉ luật và những phát minh nhằm thiết thực góp phần đẩy mạnh công cuộc phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia .
Trên thực tế, khi khoa học – kĩ thuật phát triển, quy trình công nghệ thay đổi, đặc biệt là trong thời kì bùng nổ thông tin, với xu thế hội nhập và toàn cầu hoá như hiện nay, người lao động thường không có khả năng để thích ứng kịp thời. Trong khi đó, số học sinh phổ thông khi rời ghế nhà trường với vốn kiến thức “văn hoá chay” không có cơ sở và khả năng hội nhập vào cuộc sống lao động – xã hội. Xuất phát từ thực tiễn đó, có các nhà tư tưởng và giáo dục học tiến bộ, đã đưa ra những hình thức gắn giáo dục với lao động nghề nghiệp, với cuộc sống. Nhiều công trình nghiên cứu về hướng nghiệp và giáo dục hướng nghiệp ở các nước như, Pháp, Đức, Australia, Nhật Bản, các nước ASEAN, UNESCO.
Vào giữa thế kỉ 19, ở Pháp xuất hiện cuốn sách “ Hướng nghiệp chọn nghề” [18, tr.7] Nội dung cuốn sách đề cập tới vấn đề phát triển đa dạng của nghề do sự phát triển công nghiệp. Ngay khi đó, người ta đã nhận thấy tính đa dạng, phức tạp của hệ thống nghề nghiệp, tính chuyên môn hoá vượt lên hẳn so với giai đoạn sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, qua đó khẳng định tính cấp thiết phải giúp đỡ thanh thiếu niên học sinh đi vào “Thế giới nghề nghiệp” nhằm sử dụng hiệu quả lao động trẻ tuổi. Đến năm 1975, nước Pháp tiến hành cải cách giáo dục theo hướng: tăng cường giáo dục tự nhiên và toán học, trong đó tăng kiến thức thực hành đối với khoa học tự nhiên, đưa giáo dục kĩ thuật vào để đảm bảo sự liên hệ giữa trường học và đời sống, đồng thời vẫn giữ vững ý nghĩa của các môn xã hội và nhân văn, giảm bớt tính hàn lâm trong việc cung cấp các kiến thức khoa học, tăng cường tỷ trọng các kiến thức có ý nghĩa thực dụng và ý nghĩa hướng nghiệp để giúp học sinh trung học chuẩn bị đi vào cuộc sống nghề nghiệp. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
- Vấn đề dạy học lao động nghề nghiệp
Vấn đề này đã được nhiều nhà giáo dục học nổi tiếng thuộc tổ chức nghiên cứu về lao động, kĩ thuật và kinh tế trong hoạt động dạy và học của Cộng hoà liên bang Đức nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu đó đã làm sáng tỏ về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học lao động nghề nghiệp, tổ chức cho học sinh phổ thông thực tập ở các nhà máy, xí nghiệp, ở các cơ sở kinh doanh – dịch vụ. Qua đó cho thấy rằng hoạt động dạy học lao động – kĩ thuật – kinh tế không chỉ quan trọng đối với những môn học khác, mà còn là bộ phận cấu thành cơ bản của giáo dục Trung học phổ thông… Bởi vì nó tạo điều kiện cho học sinh phổ thông phát triển thành những con người trưởng thành trong cuộc sống – xã hội.
- Giáo dục hướng nghiệp, lập nghiệp ở các trường trung học của Australia
Vấn đề GDHN và lập nghiệp ở các trường học Úc không chỉ dạy lý thuyết đơn thuần, mà còn cung cấp cho học sinh một khả năng chuyển đổi thật nhanh và có sự bình đẳng trong tất cả các học sinh, làm cho học sinh vừa có kĩ năng lao động, vừa có tri thức. Việc giáo dục này giúp cho học sinh biết tự ra được những quyết định về việc lựa chọn có tính hướng nghiệp, lập nghiệp trong và sau khi học ở trường và tham gia có hiệu quả vào đời sống lao động.
- Magumi Nishino ở Viện nghiên cứu giáo dục Nhật Bản đã nghiên cứu vấn đề bồi dưỡng tri thức và kĩ năng cơ bản của những ngành nghề cần thiết cho học sinh phổ thông.
Theo tác giả, học sinh trung học phải được: “Bồi dưỡng tri thức và kĩ năng cơ bản của những ngành nghề cần thiết trong xã hội, có thái độ tôn trọng đối với lao động và có khả năng lựa chọn nghề tương lai phù hợp với mỗi cá nhân”[40, tr.49]. Mặc dù từ lâu, giáo dục Nhật Bản đã chú ý đến vấn đề hoàn thiện nội dung, hình thức dạy học kĩ thuật nhằm cung cấp tri thức, rèn luyện kĩ năng lao động nghề nghiệp và phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh phổ thông. Chính vì vậy, ở Nhật, trong vòng 30 năm từ 1952 – 1982 nhiều cuộc cải cách giáo dục đã được tiến hành, với mục đích đảm bảo cho giáo dục phổ thông đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế cụ thể của đất nước. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
- Các nước ASEAN: Đang tăng cường GDHN cho học sinh phổ thông
Tại Malaysia: Một trong những chức năng chính của giáo dục bên cạnh việc góp phần phát triển nhân cách là xây dựng nguồn nhân lực. Mục tiêu của khoá học phổ thông 9 năm (từ lớp 1 – lớp 9) là tạo điều kiện cho mỗi học sinh có cơ hội bước vào ngưỡng cửa nghề nghiệp.
Tại Philippin: Một trong những mục tiêu giáo dục phổ thông là đào tạo nguồn nhân lực với trình độ tay nghề cần thiết để có thể lựa chọn nghề. Chính vì thế ở cấp II đã thực hiện giáo dục nghề nghiệp và chuẩn của học sinh là phải đạt được những kiến thức, kĩ năng, thông tin nghề nghiệp và tinh thần làm việc tối thiểu cần thiết để có thể chọn nghề. Sang cấp tập trung vào một số lĩnh vực cụ thể như hướng nghiệp – dạy nghề.
Tại Thái Lan: Ngay từ Tiểu học đã trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản, kĩ năng tối thiểu của một số công việc nội trợ, nông nghiệp và nghề thủ công. Sang cấp II đẩy mạnh công tác GDHN gắn với một nghề trên cơ sở phù hợp với độ tuổi, sở thích, nhu cầu của mỗi học sinh. Đây là bước tiền đề cho học sinh vào cấp III. Giáo dục nghề nghiệp gắn liền với hướng nghiệp nhằm cung cấp cho học sinh những kĩ năng nghề nghiệp. Tất cả các trường phải dạy nghề theo quy định của Bộ, học sinh đạt chuẩn sẽ được cấp chứng chỉ nghề.
Jacques Delors, chủ tịch Uỷ ban quốc tế độc lập về giáo dục cho thế kỉ XXI của UNESCO khi phân tích “Những trụ cột của giáo dục” đã viết: “ Học tri thức, học làm việc, học cách chung sống và học cách tồn tại ” [36, tr.6-8], đó là 4 trụ cột mà Uỷ ban đã trình bày và minh họa những nền tảng của giáo dục.
Theo tác giả vấn đề GDHN và học nghề của học sinh phổ thông là một căn bản không thể thiếu được trong giáo dục. Tác giả đã nhấn mạnh việc học sinh có cơ hội phát triển năng lực của mình bằng cách tham gia các hoạt động nghề nghiệp song song với việc học tập tri thức.
Nhìn chung những công trình nghiên cứu về hoạt động dạy học, lao động chuẩn bị nghề nghiệp ở nước ngoài đều chú ý việc cải cách mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ sở vật chất- kĩ thuật nhằm nâng cao hiệu quả dạy học lao động chuẩn bị nghề nghiệp cho học sinh phổ thông, tức là đề cập tới hoạt động GDHN và dạy nghề phổ thông. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu đó còn chưa chú ý tới cách tổ chức, quản lý hoạt động GDHN và dạy nghề phổ thông.
1.1.2. Hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Việt Nam :
Ở nước ta, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, rất coi trọng và vận dụng sáng tạo quan điểm giáo dục của chủ nghĩa Mác – Lênin nhằm đào tạo lớp người lao động mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Nhà trường xã hội chủ nghĩa là nhà trường: Học đi với lao động; Lí luận đi với thực hành; Cần cù đi với tiết kiệm” [27, tr.55].
Nghị quyết TW2 khoá VIII đã đề ra nhiệm vụ của ngành giáo dục là cần mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục kĩ thuật tổng hợp – hướng nghiệp. Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã ghi rõ:“Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh niên, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa phương”. Tới Đại hội X, Đảng ta tiếp tục xác định đổi mới toàn diện giáo dục – đào tạo, yêu cầu dạy học phân ban và tự chọn ở cấp THPT trên cơ sở làm tốt công tác hướng nghiệp và phân luồng từ THCS. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
Công tác hướng nghiệp được chính thức đưa vào trường phổ thông từ 19/03/1981 theo quyết định 126/CP của Chính phủ về công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và việc sử dụng hợp lý học sinh Trung học cơ sở, Trung học phổ thông tốt nghiệp ra trường. Quyết định nêu rõ vai trò, vị trí, nhiệm vụ công tác hướng nghiệp, phân công cụ thể chính quyền các cấp, các ngành kinh tế, văn hóa từ Trung ương đến địa phương có nhiệm vụ tạo mọi điều kiện thuận lợi trực tiếp giúp đỡ các trường phổ thông trong việc đào tạo, sử dụng hợp lý và tiếp tục bồi dưỡng học sinh phổ thông sau khi ra trường. Ban hành kèm theo quyết định 126/CP của chính phủ là thông tư 31 – TT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn thực hiện quyết định nêu trên. Nội dung thông tư nêu rõ mục đích, nhiệm vụ và hình thức hướng nghiệp cho học sinh trong nhà trường phổ thông. Đồng thời phân công trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên đang công tác tại trường trung học phổ thông, cho dù đảm nhận chức vụ công tác nào đều phải hoàn thành nhiệm vụ được giao trong công tác giáo dục hướng nghiệp.
Vấn đề hướng nghiệp cho học sinh ở các trường phổ thông không phải là vấn đề mới. Đây là một vấn đề được tất cả các cấp, ban ngành đoàn thể trong xã hội từ Trung ương đến địa phương, các nhà quản lý giáo dục, các bậc cha mẹ học sinh và các em học sinh thực sự quan tâm.
Việc nghiên cứu các giải pháp để nâng cao hiệu quả của công tác này đã được các nhà khoa học giáo dục quan tâm. Các cuộc hội thảo khoa học, hội nghị chuyên đề do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh tổ chức: “Đổi mới công tác lao động – hướng nghiệp phục vụ cho yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (7/2003); “Tổ chức giáo dục lao động – hướng nghiệp theo yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông” (11/2001). Tiếp đó là các đề tài nghiên cứu của các tác giả :
Tác giả Tạ Văn Doanh với đề tài “Tìm hiểu tình hình đội ngũ làm công tác quản lý trường lớp dạy nghề (công lập và bán công), thiết kế chương trình và phương thức bồi dưỡng về quản lý cho đội ngũ này tại thành phố Hồ Chí Minh” cho thấy cần phải mở các khóa bồi dưỡng về đội ngũ quản lý cho cán bộ quản lý chủ chốt của khối trường dạy nghề (cả công lập, bán công và tư thục) một cách hiệu quả. Nhằm nâng cao năng lực về quản lý cho các Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, Trưởng phòng giáo vụ, Giám đốc, Phó giám đốc các trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp, trung tâm dạy nghề hoạt động, giữ đúng vai trò chủ đạo trong việc phát triển dạy nghề, góp phần cung ứng lao động có kỹ thuật cao cho nền kinh tế thành phố.
Đề tài khoa học cấp nhà nước KX-05-09 mang tên “Giáo dục phổ thông và hướng nghiệp – nền tảng để phát triển nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá – hiện đại hoá” đã tiến hành khảo sát học sinh, giáo viên, cha mẹ học sinh, cán bộ quản lý trên phạm vi 8 tỉnh, thành phố. Kết quả khảo sát cho thấy có tới 85 – 90% học sinh trung học cơ sở (được điều tra) muốn được tiếp tục học lên, chỉ có 6,1% số học sinh muốn được thôi học để đi làm, kiếm tiền. Có từ 76,8 – 90,1% số học sinh (được điều tra) muốn có một nghề nghiệp ổn định, phù hợp với sở thích và năng lực.Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận đáng kể HS (23,8%) cho rằng chọn nghề nghiệp nào không quan trọng, miễn là kiếm ra nhiều tiền. Đa số giáo viên được hỏi cũng cho rằng phần lớn học sinh ít hiểu biết về nghề .Theo đánh giá của những người nghiên cứu thì kết quả này phản ánh công tác giáo dục nói chung và giáo dục hướng nghiệp nói riêng ở các trường phổ thông hiện nay chưa định hướng tốt cho HS. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
Một đề tài khác nói về việc quản lý công tác hướng nghiệp đó là “Quản lý công tác hướng nghiệp cho học sinh phổ thông bậc trung học tại các trung tâm giáo dục thường xuyên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Thực trạng và giải pháp” (của tác giả Huỳnh Thị Tam Thanh). Đề tài này đã xác định được các đầu việc quản lý của lãnh đạo các nhà trường trong công tác quản lý giáo dục hướng nghiệp và đưa ra những biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả của công tác này. Tuy nhiên, đề tài còn chưa xây dựng được một cơ sở lý luận hoàn chỉnh làm nền tảng cho việc giải quyết phần nội dung. [32, tr. 25]
Trong công trình khoa học của tác giả Phạm Tất Dong đã cho thấy: “Trong những người không kiếm ra việc làm có đến 85% là thanh niên. Trong tổng số thanh niên đứng ngoài việc làm thì 67,4% là không biết nghề” [20, tr. 25]. Trên cơ sở đó, tác giả đã xác định cần: “ Chú trọng việc hình thành những năng lực nghề nghiệp cho thế hệ trẻ để tự tìm ra việc làm”, [20, tr.19] đồng thời: “Tiếp sau quá trình hướng nghiệp, dứt khoát phải dạy nghề cho học sinh…đây sẽ là một nguyên tắc rất cơ bản”[20, tr.40]
Mối quan hệ giữa học vấn phổ thông và học vấn nghề nghiệp đã được tác giả Hoàng Đức làm sáng tỏ: “Trong cơ chế đổi mới hiện nay vấn đề chuẩn bị nghề nghiệp là một yêu cầu nóng bỏng của thực tế xã hội”. Học vấn phổ thông và học vấn nghề nghiệp có phần giao thoa ngày càng rõ theo hướng mô đun hoá ở mức phổ thông. Phần giao thoa đó ngày càng lớn nghĩa là công tác GDHN và dạy nghề phổ thông được tiến hành sớm và phát triển mạnh. Đó là cơ sở cho việc định hướng và phân luồng học sinh, chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Kết quả nghiên cứu của tác giả hoàn toàn phù hợp với xu thế đổi mới của giáo dục trung học hiện nay. Giáo dục trung học đang ngày càng không còn là nền giáo dục cho một số ít người như vào đầu thế kỷ XX, không phải chỉ để cho người học học lên, mà còn chuẩn bị cho thanh niên đi vào thế giới lao động nghề nghiệp, đặc biệt cho những ai chỉ có thể học hết bậc trung học.
Với công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Hộ, tác giả đã đề cập vấn đề: “Thiết lập và phát triển hệ thống hướng nghiệp cho học sinh Việt Nam”[19, tr.50]. Trong đó tác giả xây dựng luận chứng cho hệ thống hướng nghiệp và DNPT trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tác giả đề xuất những hình thức phối hợp giữa nhà trường, các cơ sở đào tạo nghề, cơ sở sản xuất hướng nghiệp – dạy nghề, các lực lượng khác tham gia vào công tác GDHN và DNPT cho học sinh phổ thông.
Riêng tại Q12 chưa có công trình nào nghiên cứu về công tác quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT.
1.2. Một số khái niệm có liên quan Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
1.2.1. Hướng nghiệp:
1.2.1.1 Hướng nghiệp
Hướng nghiệp là các hoạt động nhằm hỗ trợ mọi cá nhân chọn lựa và phát triển chuyên môn nghề nghiệp phù hợp nhất với khả năng của cá nhân, đồng thời thỏa mãn nhu cầu nhân lực cho tất cả các lĩnh vực nghề nghiệp (thị trường lao động) ở cấp độ địa phương và quốc gia. Trước đây chúng ta vẫn tưởng rằng hướng nghiệp chỉ là sự lựa chọn một nghề nghiệp mà mình yêu thích, chọn một trường đại học phù hợp với mình, tuy nhiên đây chỉ là phần ngọn của một quá trình, một hoạt động trong số rất nhiều các hoạt động của hướng nghiệp. Thuật ngữ hướng nghiệp (career mentoring) nếu được hiểu chính xác nó là sự kết hợp của nhiều lĩnh vực như: đánh giá nghề nghiệp (career assessment), quản lý nghề nghiệp (career management), phát triển nghề nghiệp (careerdevelopment)… Trong đó lựa chọn nghề nghiệp chỉ là một giai đoạn đầu trong tiến trình hướng nghiệp của mỗi người. Hướng nghiệp là một quá trình liên tục tác động từ khi người học còn ngồi học ở bậc phổ thông, qua quá trình trau dồi chuyên môn nghề nghiệp và tìm được những ngành nghề phù hợp với khả năng hứng thú và sở trường của mình. Khi mỗi cá nhân đều có được chuyên môn nghề nghiệp vững vàng phù hợp, họ sẽ có nhiều cơ hội có một nghề nghiệp ổn định, nâng cao chất lượng cuộc sống cá nhân. Ở một góc độ khác, hướng nghiệp có hiệu quả tạo ra một lực lượng lao động có định hướng rõ ràng, do vậy họ có năng lực nghề nghiệp tốt, làm tăng năng suất lao động, góp phần cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Như vậy, hướng nghiệp là một hệ thống biện pháp tác động của gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo nhằm hướng dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào lao động ở các ngành nghề, tại những nơi xã hội đang cần phát triển đồng thời phù hợp với hứng thú, năng lực của cá nhân
1.2.1.2 Giáo dục hướng nghiệp
Giáo dục hướng nghiệp là một bộ phận của nội dung giáo dục phổ thông toàn diện đã được xác định trong Luật giáo dục. Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 và chủ trương đổi mới chương trình giáo dục phổ thông hiện nay cũng nhấn mạnh đến yêu cầu tăng cường giáo dục hướng nghiệp nhằm góp phần tích cực và có hiệu quả vào việc phân luồng cho học sinh, chuẩn bị cho học sinh đi vào cuộc sống lao động hoặc được tiếp tục đào tạo phù hợp với năng lực bản thân và nhu cầu xã hội.[ 3, tr.2]
1.2.2. Quản lý Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
1.2.2.1 Quản lý
Theo F.Taylor: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm, và sau đó là hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”. [41, tr. 35]
Theo Harold Koolz: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó bảo đảm phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi nhà quản lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất”.[41, tr.38]
Theo các nhà tâm lý học: “Quản lý là hoạt động đặc biệt của con người trong xã hội, một hoạt động rất phức tạp và đa dạng. Đó là sự tác động toàn diện vào một nhóm người, một tập thể người, điều khiển họ hoạt động nhằm đạt tới mục đích nhất định đã được đề ra từ trước”.[25, tr28]
Quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội; quản lý gồm những công việc chỉ huy và tạo điều kiện cho những người khác thực hiện công việc và đạt mục đích của nhóm.
Theo tôi, nói một cách đơn giản: quản lý là sự tác động liên tục của chủ thể quản lý tới khách thể và đối tượng quản lý một cách có kế hoạch, có tổ chức, có kiểm tra, đánh giá công việc nhằm đạt được những mục tiêu đã dự kiến.
1.2.2.2 Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là một công việc rất quan trọng trong chiến lược đào tạo nguồn nhân lực nhằm chuẩn bị những cán bộ, nhân viên có đầy đủ kiến thức và kỹ năng, phẩm chất để đảm nhận các công việc sau.
Tham gia quản lý học sinh, sinh viên, quản lý đào tạo và quản lý cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ cho công tác giáo dục đào tạo, tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và các công tác khác ở các trường: Mầm non, tiểu học, phổ thông, dạy nghề…
Quản lý chuyên môn, hành chính, nhân sự tại các Sở, Phòng giáo dục và đào tạo.
- Làm công tác giảng dạy khoa học quản lý giáo dục ở các cơ sở đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, cán bộ, nhân viên quản lý trong và ngoài ngành giáo dục đào tạo. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
- Nghiên cứu khoa học quản lý và quản lý giáo dục ở các cơ sở nghiên cứu, các cơ quan tham mưu hoạch định chiến lược quản lý xã hội nói chung và phát triển giáo dục nói riêng.
Như vậy, quản lý giáo dục được hiểu một cách cụ thể là quản lý một hệ thống giáo dục, đó có thể là một trường học, một trung tâm KTTH – HN, một tập hợp các cơ sở giáo dục phân bố trên một địa bàn dân cư… Và muốn quản lý một cách khoa học (hoặc tối ưu) thì chủ thể quản lý phải nắm được các quy luật khách quan đang chi phối vận hành của đối tượng quản lý.
1.2.2.3 Quản lý trường học
Quản lý nhà trường là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp với quy luật của chủ thể quản lý nhà trường, làm cho nhà trường vận hành theo đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, thực hiện được mục tiêu kế hoạch đào tạo của nhà trường, góp phần thực hiện mục tiêu chung của giáo dục: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Quản lý nhà trường bao gồm hai loại tác động quản lý: (1) tác động của những chủ thể quản lý bên trong và bên ngoài nhà trường, (2) tác động của chủ thể quản lý bên trong nhà trường.
Quản lý nhà trường là những tác động quản lý của các cơ quan quản lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động giảng dạy, giáo dục, học tập của nhà trường. Quản lý nhà trường cũng bao gồm những chỉ dẫn, quyết định của các thực thể bên ngoài nhà trường nhưng có liên quan trực tiếp với nhà trường như cộng đồng được đại diện dưới hình thức Hội đồng nhân dân, nhằm định hướng sự phát triển của nhà trường và hỗ trợ tạo điều kiện cho việc thực hiện phương hướng phát triển đó.
Quản lý nhà trường do chủ thể quản lý bên trong nhà trường (Hiệu trưởng) bao gồm các hoạt động: quản lý giáo viên, quản lý học sinh, quản lý quá trình dạy học – giáo dục, quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học, quản lý tài chính trường học, quản lý lớp học như nhiệm vụ của giáo viên, quản lý quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng.
Như vậy, quản lý nhà trường còn được coi là tập hợp những tác động tối ưu (cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp) của chủ thể quản lý tới tập thể giáo viên, học sinh và các bộ, công nhân viên khác trong nhà trường, nhằm tận dụng các nguồn lực do Nhà nước đầu tư, do xã hội đóng góp và do nhà trường tạo ra để hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường mà trọng tâm là hoạt động dạy học – giáo dục.[25] Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
1.2.3. Khái niệm quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp
Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp là một nội dung của quản lý trường học, là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý đến hoạt động giáo dục hướng nghiệp để đạt mục đích giáo dục hướng nghiệp.
1.3. Lý luận về hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở trường THPT
1.3.1. Khái niệm, ý nghĩa của hoạt động giáo dục hướng nghiệp
1.3.1.1 Khái niệm của hoạt động giáo dục hướng nghiệp
Hướng nghiệp trên bình diện xã hội
Toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp, công trường, nông trường, các cơ quan quản lý kinh tế và quản lý nhà nước, các đoàn thể chính trị và xã hội … đều cần đến những người có năng lực và phẩm chất, nhân cách phù hợp. Để chọn được người theo đúng những tiêu chuẩn đã định, cơ quan, tổ chức nói trên có nhiệm vụ làm cho thế hệ trẻ hiểu được nội dung, tính chất, đặc điểm, điều kiện công tác,… của mình, giúp học tìm hiểu những nghề nghiệp, chuyên môn mình cần tuyển chọn. Cuối cùng, các cơ quan, cơ sở sản xuất phải tiến hành tuyển chọn người trên cơ sở nguyện vọng và dự định nghề nghiệp của người đó.
Như vậy, hướng nghiệp có thể hiểu như là một hệ thống tác động của xã hội về giáo dục học, y học, xã hội học, kinh tế học… nhằm giúp cho thế hệ trẻ chọn được nghề vừa phù hợp hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trường của cá nhân, vừa đáp ứng nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc dân.
Hướng nghiệp trên bình diện trường phổ thông
Trong trường phổ thông, hướng nghiệp là một hình thức hoạt động dạy của thầy và hoạt động của trò. Với tư cách là hoạt động dạy của thầy, hướng nghiệp được coi như là công việc của tập thể giáo viên, tập thể sư phạm, có mục đích giáo dục học sinh trong việc chọn nghề. Trên cơ sở đó giúp các em tự quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ sở phân tích khoa học về năng lực, hứng thú của bản thân và nhu cầu nhân lực của các ngành sản xuất trong xã hội. Như vậy, hướng nghiệp trong trường phổ thông được thể hiện như một hệ thống tác động sư phạm nhằm làm cho các em học sinh lựa chọn nghề một cách hợp lý.
Với cách hiểu này, hướng nghiệp là nhiệm vụ của bất kỳ thành viên nào trong tập thể sư phạm: Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, Giáo viên chủ nhiệm, Giáo viên bộ môn, cán bộ phụ trách Đội thiếu niên tiền phong, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,…. Vấn đề là phải có sự phân công, phân nhiệm cụ thể cho từng loại cán bộ nói trên.
Hướng nghiệp là một trong những hình thức hoạt động học tập của học sinh.Thông qua hoạt động này, mỗi học sinh phải lĩnh hội những thông tin về nghề nghiệp trong xã hội, đặc biệt là nghề nghiệp ở địa phương. Các em phải nắm được hệ thống yêu cầu của từng nghề cụ thể mà mình muốn chọn, phải có kỹ năng tự đối chiếu những phẩm chất, đặc điểm tâm – sinh lý của mình với hệ thống yêu cầu của nghề đang đặt ra cho người lao động,…
1.3.1.2 Ý nghĩa của hoạt động giáo dục hướng nghiệp Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
- Ý nghĩa giáo dục
Công tác hướng nghiệp là một bộ phận của công tác giáo dục xã hội. Về phương diện này, hướng nghiệp là công việc điều chỉnh động cơ nghề của học sinh, điều chỉnh hứng thú nghề nghiệp của các em theo xu thế phân công lao động xã hội. Kinh nghiệm trong và ngoài nước cho thấy rằng, sự chọn nghề một cách tự phát của thanh thiếu niên thường không phù hợp với hướng phát triển sản xuất và cơ cấu ngành, nghề trong xã hội. Vì vậy, tác động giáo dục trong quá trình hướng nghiệp có ý nghĩa rất đặc biệt. Kết quả cuối cùng cần đạt là mỗi học sinh phải tự lựa chọn nghề với ý thức đặt lợi ích của sự phát triển sản xuất lên trên nguyện vọng cá nhân.
Hướng nghiệp với ý nghĩa giáo dục sẽ là một công việc góp phần vào việc cụ thể hóa mục tiêu đào tạo của trường phổ thông. Trong giai đoạn hiện nay, trường phổ thông phải đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể. Tốt nghiệp trường phổ thông, học sinh phải có năng lực tham gia một nghề ở địa phương hoặc sẽ tiếp tục học để sau này làm tốt một nghề. Như vậy, quá trình hướng nghiệp trong nhà trường không dừng lại ở sự giáo dục ý thức lao động nghề nghiệp chung chung, mà phải hướng học sinh đi vào nghề nghiệp cụ thể.
- Ý nghĩa kinh tế
Công tác hướng nghiệp luôn hướng vào việc sử dụng hợp lý tiềm năng lao động trẻ tuổi của đất nước. Từ đó, nâng cao năng suất lao động của xã hội. Hướng nghiệp là đưa thanh thiếu niên vào đúng vị trí lao động nghề nghiệp, giúp họ phát huy được hết năng lực, sở trường lao động, phát triển cao những hứng thú nghề nghiệp, làm nảy nở óc sáng tạo trong lao động là vịệc làm hết sức quan trọng đối với hướng nghiệp. Như vậy, nghề nghiệp không phải là nơi kiếm sống, mà là nơi thể hiện nhân cách, phát triển tài năng, cống hiến sức lực và trí tuệ cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc. Để đảm bảo nghĩa kinh tế của hướng nghiệp, trường phổ thông phải gắn mục tiêu đào tạo với những mục tiêu kinh tế – xã hội. Sự phát triển kinh tế – xã hội phụ thuộc rất nhiều vào việc chuẩn bị cho thế hệ trẻ đi vào lao động sản xuất, đi vào sự phân công lao động trong phạm vi cả nước và từng địa phương. Hướng nghiệp có nhiệm vụ quan trọng đối với công việc này, bởi vì thông qua đó, hướng nghiệp góp phần làm đồng bộ hóa đội ngũ lao động nghề nghiệp, phân bố lại lực lượng lao động xã hội, chuyên môn hóa tiềm năng lao động trẻ tuổi.
- Ý nghĩa chính trị Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
Nếu nói rằng, hướng nghiệp có tác dụng góp phần làm cụ thể hóa mục tiêu đào tạo của trường phổ thông thì điều đó có nghĩa là, công tác hướng nghiệp có chức năng thực hiện đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước, hiện thực hóa đường lối giáo dục trong đời sống xã hội. Ngày nay, cuộc chạy đua về sản xuất đang diễn ra rất mãnh liệt. Trong cuộc chạy đua này, những nước bị tụt hậu phần lớn là do không làm tốt công tác đào tạo người lao động, đào tạo một đội ngũ thợ lành nghề và những cán bộ khoa học, kỹ thuật có trình độ cao. Nói cách khác, là họ chưa làm tốt công tác giáo dục. Hướng nghiệp phải được coi là điều kiện đảm bảo chất lượng con người lao động – yếu tố cơ bản của việc tăng năng suất lao động xã hội.
Làm tốt công tác hướng nghiệp, chúng ta sẽ có những lớp người đủ năng lực và phẩm chất cách mạng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tóm lại, công tác hướng nghiệp có ý nghĩa lớn đối với sự triển khai chiến lược con người – một bộ phận của chiến lược kinh tế, khoa học và công nghệ.
- Ý nghĩa xã hội
Xét ở bình diện xã hội, hướng nghiệp có tác dụng điều chỉnh sự phân công lao động xã hội, tạo ra sự cân bằng trong việc phân bố lực lượng dân cư. Khi xã hội gặp khó khăn trong việc tìm kiếm “công ăn, việc làm” cho thanh thiếu niên, thì hướng nghiệp kết hợp chặt chẽ với lao động sản xuất và dạy nghề có tác dụng làm ổn định đời sống xã hội. Nó góp phần tạo điều kiện để xã hội sử dụng có hiệu quả lực lượng học sinh phổ thông ra trường trong lĩnh vực kinh tế, kể cả kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh và kinh tế gia đình.
Chúng ta biết rằng, thanh thiếu niên không tham gia lao động nghề nghiệp, không có việc làm sẽ gây ra nhiều tiêu cực cho xã hội. Điều này không chỉ gây lo âu cho người lớn, mà nguy hiểm hơn là tạo ra những thói hư, tật xấu ở tuổi trẻ. Từ đó dẫn đến tình trạng suy thoái nhân cách của lớp người mới lớn. Hướng dẫn thanh thiếu niên chọn nghề, hình thành ở các em tinh thần yêu thích lao động, thái độ sẵn sàng tham gia sản xuất, đóng góp sức lực, tài trí cho sự mở mang ngành, nghề, phát triển kinh tế – đó là một nội dung giáo dục rất cơ bản. Điều đó giúp thế hệ trẻ hứng thú và tự giác chấp nhận sự phân công lao động xã hội.
1.3.2. Mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung của hoạt động giáo dục hướng nghiệp
1.3.2.1. Mục tiêu của hoạt động giáo dục hướng nghiệp Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
- Hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai.
- Biết được một số thông tin cơ bản về định hướng phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, đất nước và khu vực; về thế giới nghề nghiệp, thị trường lao động, hệ thống giáo dục nghề nghiệp (trung học chuyên nghiệp và dạy nghề), cao đẳng, đại học ở địa phương và cả nước.
- Biết cách tìm kiếm thông tin nghề và cơ sở đào tạo cầu thiết cho bản thân
- Biết cách tự đánh giá năng lực bản thân, điều kiện gia đình và nhu cầu xã hội để định hướng học tập và chọn nghề tương lai.
- Tự đánh giá được năng lực bản thân và điều kiện gia đình trong việc định hướng nghề nghiệp tương lai.
- Tìm kiếm được những thông tin nghề và thông tin cơ sở đào tạo cần thiết cho bản thân trong việc chọn nghề.
- Định hướng và lựa chọn được nghề nghiệp tương lai của bản thân.
- Chủ động và tự tin trong việc chọn nghề phù hợp.
- Có hứng thú và khuynh hướng chọn nghề đúng đắn.
1.3.2.2. Các nhiệm vụ giáo dục hướng nghiệp ở trường THPT
Trong quyết định 126/CP ngày 19/03/1981 của Hội đồng Chính phủ, hướng nghiệp ở trường phổ thông có các nhiệm vụ chung như sau:
- Giáo dục thái độ lao động đúng đắn
- Tổ chức cho học sinh thực tập, làm quen với một số nghề
- Tìm hiểu năng khiếu, khuynh hướng nghề nghiệp của từng học sinh để khuyến khích, hướng dẫn học sinh đi vào những nghề, những nơi đang cần lao động trẻ tuổi có văn hóa.[11], [22]
Ngày nay, để thực hiện tốt công tác hướng nghiệp, người ta thường xem xét các nhiệm vụ cụ thể trong từng mặt của công tác giáo dục hướng nghiệp sau:
- Định hướng nghề nghiệp: bao gồm quá trình thông tin nghề nghiệp và vấn đề tạo điều kiện cho học sinh làm quen với một số nghề.[3]
- Tư vấn nghề nghiệp: bao gồm khảo sát, đánh giá các đặc điểm về thể chất, trí tuệ, hứng thú, hoàn cảnh,… của học sinh, đối chiếu các đặc điểm đó với đặc điểm, yêu cầu của ngành nghề; trên cơ sở đó cho học sinh những lời khuyên về chọn nghề. Để các em chọn nghề có căn cứ khoa học, loại bỏ những trường hợp may rủi, thiếu chín chắn khi chọn nghề.
- Tuyển chọn nghề nghiệp: mặt này ở trường phổ thông có chức năng tạo điều kiện cho tuyển chọn nghề nghiệp. Đó là căn cứ vào nhu cầu nhân lực của một nghề cụ thể mà tuyển chọn những người có đặc điểm nhân cách phù hợp.
Ba mặt này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có thể biểu hiện qua sơ sau [11][22]
1.3.2.3. Nội dung chương trình hoạt động giáo dục hướng nghiệp
Nội dung chương trình hoạt động giáo dục hướng nghiệp theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (thực hiện với thời lượng 3 tiết/tháng) bao gồm: Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
- Nhóm chủ đề về kiến thức chung, cơ sở cho việc chọn nghề
- Nhóm chủ đề về kiến thức liên quan đến nhóm nghề và nghề cụ thể
- Nhóm chủ đề về giao lưu, thảo luận, tham quan
- Nhóm chủ đề về tư vấn nghề
Nội dung chương trình hoạt động giáo dục hướng nghiệp với thời lượng 1tiết/tháng (theo hướng dẫn của Sở Giáo dục và Đào tạo TP. HCM) ở hai năm học 2006 – 2007 và 2007 – 2008 thì chương trình hoạt động giáo dục hướng nghiệp của Bộ Giáo dục và Đào tạo các khối lớp 10 và 11 gồm 27tiết/năm học, thực hiện 1 chủ đề/3tiết/tháng. Song ở năm học 2008 – 2009 theo hướng dẫn số 7475/BGDĐT – GDTH về việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung học năm học 2008 – 2009 của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì chỉ còn 9tiết/năm học ở tất cả các khối lớp THPT. Bên cạnh, nội dung giáo dục hướng nghiệp đề cập đến quá nhiều lĩnh vực, nhiều thông tin thuộc các lĩnh vực rất rộng và chuyên sâu, có nhiều thông tin thuộc các lĩnh vực của các ngành, nghề, thị trường lao động, các phương hướng phát triển kinh tế – xã hội …thời lượng hoạt động giáo dục hướng nghiệp chưa đảm bảo đủ thời lượng với số tiết theo phân phối chương trình là 1tiết/1chủ đề/1tháng. Chính điều này đã ảnh hưởng lớn đến kết quả giáo dục hướng nghiệp chung của các trường. Ngoài những chủ đề theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhà trường còn thực hiện một vài nội dung khác. Nội dung hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở cấp THPT gồm những nội dung sau:
- Định hướng phát triển kinh tế – xã hội của địa phương và cả nước.
- Nhu cầu về thị trường lao động.
- Thông tin nghề nghiệp và cơ sở đào tạo.
- Năng lực bản thân, hoàn cảnh và truyền thống nghề nghiệp gia đình.
- Lập kế hoạch lựa chọn hướng đi và chọn nghề sau khi tốt nghiệp THPT.
1.3.3. Các phương pháp, hình thức và lực lượng tham gia giáo dục hướng nghiệp
Quản lý hoạt động lao động – kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp – Dạy nghề là quá trình tổ chức thực hiện công tác lao động, hướng nghiệp bằng những tri thức quản lý được soạn thảo thành kế hoạch và cũng như các chu trình quản lý khác cần có sự kiểm tra theo dõi và có tổng kết khen thưởng. Song song đó, phải thực hiện đồng bộ bốn con đường hướng nghiệp, cụ thể:
- Hướng nghiệp qua dạy – học các môn văn hóa (tạo nền tảng).
- Hướng nghiệp qua dạy – học các môn kỹ thuật, dạy nghề phổ thông và lao động sản xuất (con đường cơ bản).
- Hướng nghiệp qua hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông (vai trò của nhà trường).
- Hướng nghiệp qua các hoạt động tham quan, ngoại khóa, các phương tiện thông tin đại chúng, gia đình và các tổ chức xã hội (mở rộng hiểu biết về nghề nghiệp).
1.3.4. Những vấn đề mới cần phải quán triệt nhằm nâng cao hiệu quả công tác hướng nghiệp hiện nay Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
1.3.4.1 Công tác hướng nghiệp góp phần điều chỉnh việc chọn nghề của thanh niên theo hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế
Một trong những mục đích chính của công tác hướng nghiệp là điều chỉnh hướng chọn nghề của thế hệ trẻ cho phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế. Vì thế, từ lâu trong công tác hướng nghiệp, nhà giáo dục luôn đòi hỏi thanh niên phải trả lời được câu hỏi:
“Nghề định chọn có nằm trong những nghề mà xã hội đang phát triển hay không?”.
Đất nước đang trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, cơ cấu kinh tế sẽ chuyển đổi theo hướng giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong thu nhập quốc nội. Xu hướng chọn nghề của thanh, thiếu niên phù hợp xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một yêu cầu của hướng nghiệp.
Để đảm bảo hướng nghiệp đạt yêu cầu này, có 2 vấn đề đặt ra:
- Về phía quản lý Nhà nước và quản lý kinh tế, cần có sự điều chỉnh để cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng tỉ trọng của công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ đã qui định trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
- Về phía giáo dục, phải thông tin chính xác về yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế để thế hệ trẻ có cơ sở cân nhắc hướng chọn nghề của mình. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
Có thể nói, vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải được nhà trường quan tâm hơn như một định hướng chuẩn bị cho học sinh ra trường. Nhiều trường vẫn đang ở tình trạng giảng dạy để giảng dạy, đứng ngoài những công việc phát triển chung của xã hội. Đó là một hiện tượng “không lành mạnh”, nghĩa là không gắn được mục tiêu đào tạo với mục tiêu phát triển kinh tế.
1.3.4.2. Hướng nghiệp giáo dục ý thức chính trị và lý tưởng nghề nghiệp cho người lao động
Một trong những biểu hiện của sự ấu trĩ và lạc hậu trong tư duy giáo dục là bằng lòng với việc giáo dục đạo đức – chính trị trong một số bài học về giáo dục công dân rất khô cứng và nhạt nhẽo. Trong khi đó, một công cụ giáo dục chính trị và lý tưởng xã hội là hướng nghiệp lại bị coi nhẹ. Trong giáo dục hướng nghiệp, những bài toán về tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội phải được đặt ra với học sinh trước khi các em quyết định con đường lao động nghề nghiệp của mình.
Hiện nay, chúng ta đang mở rộng thị trường ra bên ngoài, nhưng lại chưa quan tâm đầy đủ đến năng lực cạnh tranh quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế. Diễn đàn kinh tế thế giới xếp Việt Nam ở vị trí 60/70 nước về năng lực cạnh tranh (2001); khoảng cách về năng lực cạnh tranh so với các nước trong khu vực có xu hướng mở rộng (ví dụ, khoảng cách đó giữa Việt Nam với Trung Quốc năm 2001 là 21 điểm, đến năm 2002 là 32 điểm).
Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam xếp thứ 62/70.
Qua những thông tin này, cần phân tích cho học sinh thấy rằng, trong lao động nghề nghiệp sắp tới, các em phải thật sự coi trọng vịêc vươn lên nắm vững những tri thức, công nghệ cao, … bởi công nghệ lạc hậu sẽ làm cho chi phí đầu vào quá lớn, từ đó năng suất lao động thấp.
Từ những thông tin đó, cần cho học sinh thấy sự cần thiết phải nâng cao năng lực quản lý sản xuất, năng lực tiếp thị và năng lực sáng tạo. Đó là những yếu tố sẽ quyết định năng lực cạnh tranh của cơ sở sản xuất, của doanh nghiệp.
1.3.4.3. Hướng nghiệp gắn với việc học tập, làm chủ công nghệ mới:
Trong giai đoạn hiên nay, đổi mới nội dung hướng nghiệp là vấn đề rất bức thiết. Trước đây, chúng ta gắn giáo dục kỹ thuật tổng hợp với giáo dục hướng nghiệp, còn ngày nay, cần phải hướng nghiệp theo tinh thần công nghệ học. Đó là thông qua hướng nghiệp, học sinh thấy được sự sống của nghề nghiệp gắn bó chặt chẽ với đổi mới công nghệ, với việc làm chủ những tri thức hiện đại, với việc học hỏi liên tục và đào tạo suốt đời.
Nền sản xuất ngày nay được thừa hưởng thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Với vòng đời của công nghệ ngày càng rút ngắn, các sản phẩm có mặt trên thị trường khó có thể kéo dài hàng năm, có khi chỉ là hàng tháng, hàng tuần. Điều này buộc các cơ quan nghiên cứu, sáng tạo hay ứng dụng công nghệ phải thay đổi chiến lược hoạt động, nâng cao tính thích ứng của mình với thị trường khoa học và công nghệ. Các doanh nghiệp buộc phải nâng cao tính cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng lực làm chủ những công nghệ mới. Lẽ sống của các doanh nghiệp là đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường. Trong điều kiện đó, hệ thống trường học, bệnh viện, nhà in, nhà xuất bản, các nhà hát, thư viện, câu lạc bộ,… cũng thay đổi nội dung và hình thức hoạt động theo hướng đổi mới công nghệ.
Công nghệ mới là sự biểu hiện tập trung của những tri thức mới, trong sản xuất, trong nghề nghiệp. Những tri thức mới đó là cơ sở của phương thức làm giàu kiểu mới cho đất nước. Hướng nghiệp trong giai đoạn hiện nay phải chỉ ra hướng phát triển của các nghề theo hướng ứng dụng những tri thức mới, những công nghệ mới và từ đó, vẽ nên viễn cảnh phát triển của nghề. Đó là khó khăn của hướng nghiệp và cũng là lẽ tồn tại của hướng nghiệp. Thế hệ trẻ chỉ thấy được thực trạng của nghề trong hiện tại, không thấy được những biến đổi mau lẹ của nội dung, hình thức, phương pháp công tác trong nghề bằng những công nghệ mới. Họ không hình dung được con đường hiện đại hóa của nghề thì khó có thể quyết định việc lựa chọn lĩnh vực lao động sau khi rời trường học. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
1.3.4.4 Hướng nghiệp chuẩn bị con người năng động thích ứng với thị trường
Việc chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung theo cơ chế bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường đã đặt ra cho công tác hướng nghiệp những yêu cầu mới. Cùng với việc giới thiệu nghề cụ thể cho học sinh, còn phải cho các em thấy rằng, thiếu năng lực sáng tạo sẽ không đảm bảo được sức cạnh tranh trên thị trường. Song, trong quá trình làm một nghề, người lao động còn phải tăng tính thích ứng của mình với những thay đổi lớn lao của thị trường hàng hóa, và có những trường hợp phải có năng lực nhưng phải di chuyển sang nghề khác. Đây là tinh thần mới của hướng nghiệp. Các qui tắc “sống với nghề”, “chết với nghề” ngày nay không còn phù hợp nữa.
1.4. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp
1.4.1. Xây dựng kế hoạch, chương trình hoạt động GDHN
Một tập thể lao động, trong đó mọi người liên kết với nhau thực hiện nhiệm vụ của tập thể mình và của bản thân mình. Nhiệm vụ cốt yếu của người quản lý là làm thế nào để mọi người biết nhiệm vụ của mình, biết phương pháp hoạt động nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu, chương trình hoạt động giáo dục hướng nghiệp.
Xây dựng kế hoạch, chương trình hoạt động giáo dục hướng nghiệp bao gồm xây dựng mục tiêu, chương trình hoạt động giáo dục hướng nghiệp, xác định từng bước đi, những điều kiện, phương tiện cần thiết trong một thời gian nhất định phục vụ hoạt động giáo dục hướng nghiệp. Việc xây dựng kế hoạch, chương trình cho hoạt động giáo dục hướng nghiệp giúp các nhà quản lý trường học tập trung chú ý vào mục tiêu hoạt động giáo dục hướng nghiệp, dự kiến trước khả năng ứng phó với những phương án tối ưu, tiết kiệm nguồn lực, tạo hiệu quả hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường THPT. Đồng thời tạo điều kiện cho nhà quản lý dễ dàng kiểm tra việc thực hiện kế hoạch, chương trình của các lực lượng tham gia hoạt động GDHN.
1.4.2. Tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch, chương trình HĐGDHN Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
Một trong những khâu quan trọng của việc quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp chính là tổ chức, chỉ đạo thực hiện kế hoạch, chương trình hoạt động giáo dục hướng nghiệp các trường THPT. Việc cụ thể hóa kế hoạch, chương trình thực hiện theo từng thời điểm nhất định, phân công trách nhiệm từng thành viên và việc thực hiện kế hoạch đến đâu, hiệu quả ra sao đều phụ thuộc chủ yếu vào việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện kế hoạch, chương trình hoạt động giáo dục hướng nghiệp của lãnh đạo nhà trường. Trong quá trình thực hiện kế hoạch, chương trình hoạt động giáo dục hướng nghiệp, có thể xảy ra những tình huống ngoài dự kiến của kế hoạch, cần có sự điều chỉnh kịp thời để đạt đến mục đích mong đợi.
1.4.3. Kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục hướng nghiệp
Đánh giá là một khâu, một công cụ quan trọng không thể thiếu được trong quá trình giáo dục hướng nghiệp. Đánh giá không chỉ ở thời điểm cuối cùng của mỗi giai đoạn giáo dục mà trong cả quá trình. Đánh giá ở những thời điểm cuối mỗi giai đoạn sẽ trở thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất lượng mới hơn trong cả một quá trình giáo dục hướng nghiệp.
Thống nhất với quan điểm đổi mới đánh giá như trên, việc kiểm tra, đánh giá sẽ hướng vào việc bám sát mục tiêu của hoạt động giáo dục hướng nghiệp đã đề ra. Như vậy, muốn HĐGDHN có hiệu quả cao thì nhà quản lý trước hết phải xây dựng các tiêu chuẩn, phương pháp kiểm tra đánh giá HĐGDHN; đánh giá HĐGDHN một cách thường xuyên và theo định kỳ; thông qua đánh giá của giáo viên tham gia HĐGDH; phối hợp các phương pháp đánh giá HĐGDHN.
- Xây dựng các tiêu chuẩn, phương pháp kiểm tra đánh giá HĐGDHN bằng cách các thành viên trong ban hoạt động giáo dục hướng nghiệp tổng kết sổ đầu bài, các bảng theo dõi về nề nếp, hoạt động dạy và học của giáo viên, học sinh theo hằng tuần, báo cáo lãnh đạo trường hằng tuần để có ý kiến chỉ đạo kịp thời.
- Đánh giá HĐGDHN một cách thường xuyên và theo định kỳ: hoạt động giáo dục hướng nghiệp phải được đánh giá một cách thường xuyên như đánh giá hàng tuần hoặc hàng tháng để rút kinh nghiệm về những gì đã, sẽ và chưa làm được. Như thế mới nâng cao chất lượng cho hoạt động này.
- Thông qua đánh giá của giáo viên tham gia HĐGDH: Giáo viên là một lực lượng quan trọng vì chính họ là người tổ chức, là người tư vấn và cũng chính lực lượng này rất gần gũi với các em. Họ hiểu được nguyện vọng và nhu cầu về nghề nghiệp của các em. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
1.4.4. Đảm bảo các điều kiện cho hoạt động giáo dục hướng nghiệp
Khuyến khích sử dụng phương tiện dạy học (PTDH), thiết bị dạy học (TBDH) trong từng tiết dạy, nhất là các tiết thí nghiệm, thực hành trên lớp. Không chỉ là xem thiết bị dạy học là phương tiện của việc dạy mà còn là phương tiện của việc học. PTDH, TBDH không chỉ minh họa, còn là nguồn tri thức, là một cách chứng minh bằng quy nạp. Chú trọng sử dụng PTDH mới, phát triển năng lực sử dụng PTDH mới, đa phương tiện cho học sinh và tận dụng tối đa những phương tiện, thiết bị dạy học sẵn có, đồng thời phát huy tính sáng tạo của giáo viên trong việc làm đồ dùng dạy học cho bộ môn mình đang phụ trách, nhất là đối với bộ môn hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở trườn THPT. Chẳng hạn như, những thiết bị đơn giản, dễ làm có thể được giáo viên, học sinh tự làm, góp phần là phong phú thêm TBDH của nhà trường.
Cần lưu ý tới các hướng dẫn sử dụng, bảo quản và căn cứ vào điều kiện cụ thể của nhà trường đề ra các quy định để thiết bị được giáo viên, học sinh sử dụng tối đa,
Hỗ trợ giáo viên biết sử dụng phương pháp dạy học hiệu quả, đặc biệt là phương pháp dạy học mới: Lựa chọn và sử dụng PTDH, biết sử dụng PTDH trên cơ sở logic quá trình nhận thức của học sinh và chú ý đến các chức năng lý luận dạy học nhằm đáp ứng đổi mới phương pháp dạy học và thực nghiệm mục tiêu dạy học.
TBDH là điều kiện không thể thiếu được cho việc triển khai chương trình sách giáo khoa nói chung và đặc biệt cho việc triển khai đổi mới phương pháp dạy học hướng vào hoạt động tích cực, chủ động của học sinh. Đáp ứng yêu cầu này phương tiện TBDH phải tạo những điều kiện thuận lợi cho học sinh thực hiện các hoạt động độc lập hoặc các hoạt động nhóm.
Cơ sở vật chất của nhà trường cũng cần hỗ trợ đắc lực cho việc tổ chức dạy học được thay đổi dễ dàng, linh hoạt, phù hợp dạy học cá thể, dạy học hợp tác.
Cần tăng cường sử dụng, coi là phương tiện để nhận thức, không chỉ thuần túy là sự minh họa. Đây là nguồn thông tin cực kỳ quan trọng giúp học sinh có hứng thú tìm tòi, phát hiện kiến thức mới. Coi trọng quan sát, phân tích, nhận xét, dẫn đến hình thành khái niệm. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
Động viên giáo viên sử dụng PTDH để hình thành khái niệm, chưa được hiểu đúng. Yêu cầu giáo viên phải nắm rất vững tư tưởng này để truyền đạt kiến thức đầy đủ, đúng yêu cầu về mức độ nhận thức. Có nội dung là “chứng minh” qua TBDH, vì vậy, không sa đà vào giải thích, không dùng ngôn ngữ khoa học chặt chẽ thay cho PTDH mô tả để học sinh nắm được khái niệm. Sử dụng thiết bị hiện đại trong điều kiện có thể sẽ có tác động rất sâu vào nhận thức.
Tiểu kết chương 1
Vấn đề giáo dục hướng nghiệp và quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở một số nước trên thế giới đã nêu rõ quá trình hình thành và phát triển của hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường THPT. Đây không phải là vấn đề mới mà là vấn đề đã được nhiều nước trên thế giới quan tâm.
Việt Nam, hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT được các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương và các ban ngành, đoàn thể trong toàn xã hội quan tâm. Tác giả cũng đề cập đến những vấn đề mới cần quán triệt nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công tác quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp. Đó là, việc giáo dục ý thức chính trị và lý tưởng nghề nghiệp cho người lao động; hướng nghiệp gắn với việc học tập, làm chủ công nghệ mới; hướng nghiệp chuẩn bị con người năng động, thích ứng với thị trường. Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Học Sinh.
Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quản lý, quản lý trường học, nội dung quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT và một số khái niệm khác liên quan đến đề tài. Qua đó, chúng ta biết làm thế nào để nâng cao được hiệu quả quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp THPT hiện nay. Đặc biệt vấn đề thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT Q.12 TP.HCM sẽ được trình bày ở chương 2.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở học sinh
Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com
Pingback: Luận văn: Biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp ở học sinh