Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông ở Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh hiện nay dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá, hội nhập quốc tế, thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nhiệm vụ cấp thiết của ngành giáo dục. Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020 đã chỉ rõ: “Chú trọng nội dung giáo dục đạo đức, pháp luật, thể chất, quốc phòng – an ninh và các giá trị văn hóa truyền thống; giáo dục kỹ năng sống, giáo dục lao động và hướng nghiệp học sinh phổ thông”. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Trên thực tế, một số trường phổ thông trong thời gian vừa qua không chỉ là nơi cung cấp cho học sinh những kiến thức văn hóa, mà còn là nơi bồi dưỡng nhân cách học sinh, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Nội dung giáo dục pháp luật, giáo dục kỹ năng sống và hỗ trợ tâm lý học đường đã được lồng ghép với các nội dung giáo dục trong nhà trường và đã thu được một số kết quả nhất định.
Tuy nhiên, ở nhiều nhà trường phổ thông hiện nay trên địa bàn Quận Bình Tân cũng chưa thực sự coi trọng giáo dục kỹ năng sống một cách đồng bộ và khoa học, hoặc nếu có thì cách thức tổ chức, giáo dục vẫn mờ nhạt và chưa đạt hiệu quả cao. Vấn đề đặt ra là cần phải giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, thông qua đó để cung cấp cho các em những kỹ năng cần thiết, thích ứng với cuộc sống phong phú, sinh động, phức tạp và chuyển biến không ngừng; từ đó có thể giúp các em giải quyết được các vấn đề nảy sinh từ các tình huống, các thách thức. Mặt khác, kỹ năng sống là một thành phần quan trọng trong nhân cách con người ở xã hội hiện đại, muốn thành công và sống có chất lượng trong xã hội hiện đại, con người phải có những kiến thức và kỹ năng sống cần thiết. Kỹ năng sống vừa mang tính xã hội vừa mang tính cá nhân, do đó để quá trình giáo dục kỹ năng sống đạt chất lượng, hiệu quả cao thì nhất thiết phải được định hướng đúng đắn và quản lý quá trình này một cách chặt chẽ, khoa học. Như vậy giáo dục kỹ năng sống cho người học nói chung, cho học sinh phổ thông nói riêng phải được xác định là một nhiệm vụ, nội dung trong giáo dục nhân cách toàn diện.
Nhìn lại thực trạng về kỹ năng sống và việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông ở Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh còn nhiều yếu kém, bất cập. Không ít học sinh THPT đang trong tình trạng thiếu kỹ năng sống dẫn đến trở thành nạn nhân, hoặc một số trường hợp khác có hành vi vi phạm pháp luật trở thành phạm tội, điều đó ngày càng có xu hướng gia tăng cả về số lượng và tính chất, mức độ nghiêm trọng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên, trong đó có nguyên nhân từ phía gia đình, có nguyên nhân từ cộng đồng xã hội, đặc biệt là nguyên nhân từ sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng của học sinh và sự thiếu quan tâm giáo dục kỹ năng sống của nhà trường đối với học sinh. Có những gia đình, cha mẹ do quá bận việc làm ăn nên đã thiếu sự quan tâm đến con, không hiểu con, không kịp thời phát hiện những lỗi lầm, sai trái của con. Do đó con cái kết thân với bạn bè xấu, bị ảnh hưởng từ những điều không tốt nên dẫn đến sai lầm, đi từ sai lầm nhỏ đến sai lầm lớn và có những hành vi không chuẩn mực, thậm chí phạm tội. Trong khi đó, một số nhà trường vẫn chưa thực sự coi trọng giáo dục kỹ năng sống và quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh; có khi còn rơi vào bệnh hình thức, chiếu lệ trong giáo dục kỹ năng sống, hoặc chỉ xem trọng việc trang bị kiến thức mà xem nhẹ thực hành của học sinh, hoặc không chú trọng đúng mức đến việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho các em.
Sự quản lý không tốt của nhà trường cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến học sinh thiếu kỹ năng sống và nảy sinh tình trạng bạo lực học đường. Khi nhà trường, thầy cô thiếu sự quan tâm rèn luyện đối với học sinh sẽ dẫn đến xuất hiện tràn lan những hiện tượng như quay cóp trong thi cử, học sinh yêu sớm, hút thuốc, uống rượu, cờ bạc …
Xuất phát từ những lý do khách quan, chủ quan như đã phân tích, là người làm công tác giáo dục tại một trường THPT, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông ở Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Quản Lý Giáo Dục
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Vào đầu thập niên 90, thuật ngữ “Kỹ năng sống” đã xuất hiện trong một số chương trình của các tổ chức của Liên Hợp Quốc như WHO (tổ chức Y tế thế giới), UNICEF (quỹ cứu trợ nhi đồng), UNESCO (tổ chức giáo dục văn hóa và khoa học) và các nhà giáo dục thế giới đã cùng tìm cách giáo dục để tạo ra cho trẻ năng lực tâm lý xã hội, nhằm ứng phó với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày. Đó là giáo dục kỹ năng sống nhằm giúp trẻ biến nhận thức thành hành động, nghĩa là trẻ em không chỉ hiểu biết mà còn phải làm được điều mình hiểu.
Do yêu cầu của sự phát triển kinh tế – xã hội và xu thế hội nhập cùng phát triển của các quốc gia nên hệ thống giáo dục của các nước đã và đang thay đổi theo định hướng khơi dậy và phát huy tối đa các tiềm năng của người học; đào tạo một thế hệ năng động, sáng tạo, có những năng lực chủ yếu (như năng lực thích ứng, năng lực tự hoàn thiện, năng lực hợp tác, năng lực quan hệ xã hội) để thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của xã hội. Theo đó, vấn đề quản lý và giáo dục kỹ năng sống cho thế hệ trẻ nói chung, cho học sinh phổ thông nói riêng được đông đảo các nước quan tâm.
Mặc dù, quản lý quá trình và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đã được nhiều nước quan tâm và cùng xuất phát từ quan niệm về kỹ năng sống của Tổ chức Y tế thế giới hoặc UNESCO, nhưng quan niệm và nội dung giáo dục kỹ năng ở các nước không giống nhau. Ở một số nước, nội hàm của khái niệm này được mở rộng, trong khi một số nước xác định nội hàm của nó chỉ bao gồm khả năng tâm lý xã hội.
Thuật ngữ kỹ năng sống được người Việt Nam bắt đầu biết đến từ chương trình của UNESCO (1996) “Giáo dục kỹ năng sống để bảo vệ và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường”. Thông qua quá trình thực hiện này, nội dung của khái niệm kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống ngày càng được mở rộng. Cùng với đó là việc triển khai các chương trình quản lý quá trình và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đã được quan tâm nghiên cứu. Những nghiên cứu về các vấn đề trên ở giai đoạn này có xu hướng xác định những kỹ năng cần thiết ở các lĩnh vực mà học sinh, thanh thiếu niên tham gia và để xuất hiện các biện pháp hình thành những kỹ năng hình thành cho thanh thiếu niên (trong đó có học sinh THPT).
Chúng ta đều biết nhiệm vụ lớn lao của giáo dục trên thế giới hiện nay là phải tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao. Và ngay từ những năm đầu của thập kỷ cuối cùng thế kỷ 20, UNESCO đã khuyến cáo về bốn trụ cột của học tập thế kỷ 21 là: “Học để biết; Học để làm; Học để cùng chung sống; Học để làm người”. Trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin, người ta đều thấy người lao động ở thế kỷ 21 không phải chỉ học để biết, để làm mà quan trọng hơn phải “cùng chung sống và tự khẳng định mình” trong xã hội đầy biến động. Năng lực của người lao động thế kỷ 21 không chỉ nằm ở sự biết, sự biết làm mà chủ yếu phải là sự biết làm người, sự tự khẳng định mình trong sự đóng góp chung cho xã hội.
Ở Việt Nam, vài năm gần đây Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo các trường học phải tiến hành giáo dục kỹ năng sống nhưng mới chỉ dừng lại ở các văn bản chỉ đạo và một số tài liệu sơ lược để huấn luyện giáo viên còn thực tiễn triển khai ở các nhà trường hiện nay như thế nào, Bộ chưa có đánh giá, tổng kết. Tuy nhiên, với phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, mục đích nhằm mang lại cho học sinh cả nước một “môi trường an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp điều kiện địa phương và đáp ứng nhu cầu xã hội”. Hưởng ứng phong trào này, Trung tâm Giáo dục môi trường và các vấn đề xã hội đã phối hợp với Ban dự án Phát triển giáo dục THPT nhanh chóng xây dựng kế hoạch tổ chức hoạt động nhằm hỗ trợ triển khai đến cơ sở một số nội dung thiết thực. Ở TP Hồ Chí Minh, các trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, Trần Đại Nghĩa,… chỉ mới lồng ghép việc giáo dục kỹ năng sống vào các buổi hội thảo, chuyên đề, sinh hoạt câu lạc bộ bộ môn. Bên cạnh đó, cũng có một số giáo viên nghiên cứu, vận dụng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT một cách đơn lẻ, chưa mang tính hệ thống.
Trong khi BGD&ĐT và cơ quan chăm lo nguồn nhân lực là Bộ LĐTBXH chưa chỉ đạo triển khai được bao nhiêu trong các nhà trường từ phổ thông đến đại học và các trường dạy nghề, thì các trung tâm dạy kỹ năng mềm đã nở rộ, tràn lan, phục vụ mọi nhu cầu của học sinh. Như vậy sự triển khai giáo dục kỹ năng mềm còn tự do, lỏng lẻo hiện nay cũng là một nhu cầu cần rút kinh nghiệm. Vừa qua việc Bộ Quốc phòng và Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phải chấn chỉnh “Học kỳ quân đội” của các trung tâm, công ty là một minh chứng. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Mặt khác hiện nay chúng ta đang phải đối phó với nạn bạo lực học đường, nạn học sinh phổ thông tự tử, nạn học sinh vi phạm pháp luật…ngày một gia tăng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, nhưng có một nguyên nhân chủ yếu là do học sinh của chúng ta chưa được trang bị đầy đủ, sâu sắc về giá trị sống và kỹ năng sống. Đó cũng là một nhu cầu cấp thiết cần phải sớm trang bị kỹ năng mềm cho học sinh hiện nay. Một số công trình nghiên cứu theo hướng nghiên cứu này đã nghiên cứu, hướng đến sự giáo dục pháp luật, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh như đề tài “Thực trạng của học sinh-sinh viên trong mấy năm gần đây và vấn đề giáo dục pháp luật trong nhà trường” của tác giả Vương Thanh Hương và Nguyễn Minh Đức.
Ở Việt Nam đã có nhiều tác giả, nhà khoa học viết về vấn đề này như một số công trình tiêu biểu như: Huỳnh Văn Sơn với “Nhập môn kỹ năng sống”, NXB Giáo dục 2006; Nguyễn Thanh Bình với “Giáo trình giáo dục kỹ năng sống”; “Cẩm nang tổng hợp kỹ năng hoạt động thanh thiếu niên”, của tác giả Phạm Văn Nhân (2002); Kỹ năng thanh niên tình nguyện”, tác giả Trần Thời (1998).
Nguyễn Tùng Lâm, Hội Tâm lý – Giáo dục Hà Nội thì cho rằng ở người học (học sinh – sinh viên) Việt Nam hiện nay còn một số quan niệm sai lệch: Kỹ năng sống không cần học, cứ sống tốt, bằng trải nghiệm sẽ rút được nhiều bài học. Nhưng hiện nay với xã hội hiện đại có nhiều biến động liệu những trải nghiệm có bị trả giá hay không? Mặt khác trong xã hội cạnh tranh, cần nhanh chóng khẳng định và vươn tới thành công. Do đó người nào càng có nhiều kỹ năng, nhiều năng lực người đó nhanh chóng thành công, tại sao ta lại bỏ lỡ những con đường ngắn nhất?
Kết quả của hướng nghiên cứu này cho thấy, nghiên cứu về quá trình quản lý và giáo dục kỹ năng sống ở Việt Nam xuất phát từ yêu cầu xã hội đối với giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa; từ nhiệm vụ triển khai chiến lược và đổi mới giáo dục phổ thông, từ xu thế giáo dục thế giới và từ sự phát triển nội tại của khoa học giáo dục nói chung và bước đầu đã đạt được những thành tựu nhất định.
Một số học sinh quan niệm “Kỹ năng sống” cứ học là có và đó cũng là một sai lầm. Do chỉ học xong rồi lại để đấy, không sống bằng những trải nghiệm, không lo rèn luyện hàng ngày, lấy phương châm học suốt đời để tích lũy kinh nghiệm, nâng cao năng lực thì sẽ khó thành công trong cuộc sống xã hội hiện đại. Đây cũng là một cảnh báo để học sinh và các nhà trường, các trung tâm dạy Kỹ năng sống phải nhắc nhở hướng dẫn học viên của mình.
Tác giả Hoàng Tụy thì cho rằng: “Giáo dục cần đề cao tính nhân văn, rèn luyện nhân cách, phẩm chất trí tuệ, năng lực cảm thụ, ý thức cộng đồng. Nói một cách khác, phải có định hướng lại trong cách dạy cho học sinh Việt Nam thành người như thế nào chứ không chỉ nhồi nhét kiến thức để chạy theo các kỳ thi, chạy theo bằng cấp để rồi thiếu hụt những kỹ năng cần thiết cho công việc và cho cuộc sống”, TP Hà Nội, 2009.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông ở một số trường THPT trên địa bàn Quận Bình Tân – TP Hồ Chí Minh nhằm đề xuất biện pháp quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống, góp phần phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh THPT của Quận Bình Tân.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Xác định cơ sở lý luận của quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT Quận Bình Tân – TP Hồ Chí Minh.
Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng việc quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT Quận Bình Tân.
Đề xuất biện pháp quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT Quận Bình Tân trong giai đoạn hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu
Quản lý quá trình giáo dục nhân cách cho học sinh THPT Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh.
Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu và triển khai quá trình quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT trên địa bàn Quận Bình Tân.
Các kỹ năng sống cơ bản cần được giáo dục cho học sinh THPT được xác định trong nghiên cứu luận văn là: kỹ năng học tập, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng đương đầu với cảm xúc, căng thẳng và kỹ năng giải quyết mâu thuẫn một cách tích cực.
Đề tài được tiến hành nghiên cứu ở trường trung học phổ thông trên địa bàn Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh, đặc biệt tập trung ở các trường: THPT An Lạc, THPT Nguyễn Hữu Cảnh, THPT Vĩnh Lộc, từ tháng 01 năm 2013.
5. Giả thuyết khoa học
Kỹ năng sống của học sinh chỉ có thể hình thành, phát triển thông qua các hoạt động đa dạng của nhà trường gắn với đời sống xã hội. Nếu các lực lượng giáo dục trong nhà trường THPT Quận Bình Tân thực hiện tốt việc tổ chức giáo dục nâng cao nhận thức cho học sinh, đồng thời đưa học sinh vào rèn luyện kỹ năng sống thông qua các chủ đề, nội dung phong phú; thông qua các hình thức đa dạng, thông qua tạo tình huống giáo dục; xây dựng môi trường giáo dục; phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng sư phạm và thường xuyên thực hiện kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, thì hiệu quả quản lý giáo dục kỹ năng sống sẽ được nâng cao, góp phần vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh THPT của Quận Bình Tân.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin; quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục và quản lý giáo dục. Đề tài còn được thực hiện dựa trên quan điểm tiếp cận hệ thống cấu trúc, quan điểm lịch sử – lôgic và quan điểm thực tiễn.
Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Các phương pháp được sử dụng: Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu, văn bản liên quan đến đề tài.
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu tài liệu để khái quát việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát các hoạt động giáo dục nói chung, giáo dục kỹ năng sống nói riêng của nhà trường.
- Phương pháp phỏng vấn giáo viên, học sinh.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi dùng cho giáo viên, học sinh.
- Phương pháp thống kê toán học, xử lý số liệu.
- Phương pháp phỏng vấn chuyên gia.
7. Ý nghĩa của luận văn
Xây dựng một số khái niệm công cụ và đề xuất một hệ thống biện pháp quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho sinh THPT Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh. Qua đó góp phần vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục, phát triển nhân cách cho học sinh, đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp giáo dục nước nhà.
8. Kết cấu của luận văn
Gồm phần mở đầu, 2 chương, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
1.1. Các khái niệm cơ bản Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
1.1.1. Kỹ năng sống
Theo nhóm biên soạn tài liệu giáo dục kỹ năng sống của Vụ giáo dục thể chất mà chủ biên là Giáo sư Nguyễn Võ Kỳ Anh: “ Kỹ năng sống là khả năng có được những hành vi thích nghi và tích cực, cho phép chúng ta xử trí một cách có hiệu quả các đòi hỏi và thử thách của cuộc sống thường ngày” [1, tr.3].
Định nghĩa vừa nêu trên cũng tương đồng với định nghĩa về kỹ năng sống của Tổ chức Y tế thế giới WHO: “Kỹ năng sống là khả năng thích nghi và những hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày”[1,tr37].Nói một cách rõ nghĩa, kỹ năng sống là tập hợp các kỹ năng được rèn luyện hoặc kinh nghiệm thực tế được sử dụng để xử lý những vấn đề trong cuộc sống. Và nó được chia ra hai phần là kỹ năng tư duy và kỹ năng ứng xử như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định và giải quyết vấn đề, ứng phó với các tình huống, biết cảm thông, giao tiếp ứng xử hiệu quả, thuyết trình, thương thuyết…
Kỹ năng sống được coi trọng vì nó có tác dụng lớn trong hình thành tư duy, nhân cách của mỗi người. Đó là thái độ sống, giá trị sống căn bản, như sống trung thực, can đảm đối mặt với sự thật, biết thương yêu và biết cách vượt lên nghịch cảnh.
Với học sinh, khi các em có cơ hội rèn luyện kỹ năng sống, biết ứng biến tích cực với mọi tình huống xảy ra, biết cách đối diện và đương đầu, vượt qua được những khó khăn, hạn chế những mâu thuẫn, xung đột, bạo lực, các em sẽ được rèn luyện, phát triển tính cách tự chủ, tự tin vào bản thân, tinh thần trách nhiệm cùng khả năng diễn đạt, thuyết phục, thói quen chia sẻ, giúp đỡ người khác. Đó chính là những yếu tố quan trọng giúp cho các em đạt được thành công trong giai đoạn nền tảng của cuộc đời.
Như vậy, có thể hiểu kỹ năng sống là năng lực ứng xử tích cực của mỗi người đối với các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy của chính mình. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Hiện nay người ta quan niệm khác nhau về kỹ năng sống, chưa có một khái niệm duy nhất được tất cả mọi người công nhận. Tuy nhiên, có người cho rằng kỹ năng sống là khả năng tâm lý xã hội của mỗi người được thể hiện ở hành vi tích cực trong việc xử lý hiệu quả các đòi hỏi, thử thách của cuộc sống hàng ngày.
Theo UNICEF, “Kỹ năng sống là tập hợp nhiều tâm lý xã hội và giao tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Từ kỹ năng sống có thể được thể hiện thành những hành động cá nhân và những hành động đó sẽ tác động đến hành động của những người khác cũng như dẫn đến những hành động nhằm thay đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở nên
lành mạnh”.
Theo UNESCO, kỹ năng sống được thể hiện ở bốn trụ cột: Học để biết, học để làm việc, học để chung sống, học để tự khẳng định mình.
Từ những quan niệm nêu trên và qua nghiên cứu, xem xét vấn đề này, chúng ta có thể hiểu: Kỹ năng sống là khả năng của cá nhân được thể hiện trong việc giải quyết có hiệu quả những nhu cầu (cuộc sống, học tập, lao động, giải trí…) và những thách thức diễn ra trong cuộc sống.
1.1.2. Quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Tiếp cận theo quá trình giáo dục, thì quá trình giáo dục kỹ năng sống là một quá trình có mục đích, có tổ chức; thông qua mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa nhà giáo dục và đối tượng giáo dục, nhằm đạt tới các mục tiêu giáo dục kỹ năng sống đề ra. Việc giáo dục kỹ năng sống phải được tiến hành theo phương thức tương tác, thông qua các tình huống, kể cả trải nghiệm thực tế, không thể là những bài học lý thuyết thông thường. Như vậy, đòi hỏi đối với giáo viên phải được trang bị và thực hành thành thạo các phương pháp dạy kỹ năng sống, gần gũi, thân thiện với học sinh và còn cần có vốn sống phong phú, những trải nghiệm qua thử thách trên đường đời, và trên hết phải có tấm lòng nhân hậu.
Quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông bao gồm nhiều nhân tố khác nhau, từ mục tiêu GD đến nhà GD, đối tượng GD, nội dung GD, phương pháp GD, hình thức tổ chức GD , phương tiện GD, kết quả GD. Các nhân tố đó quan hệ chặt chẽ, tác động biện chứng, thúc đẩy lẫn nhau, trong đó có hai nhân tố mang tính chủ thể năng động, chính là nhà GD và đối tượng GD. Như vậy, có thể hiểu:
Quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT là quá trình có mục đích, có tổ chức, phối hợp thống nhất giữa nhà giáo dục với đối tượng giáo dục, thông qua đó tạo điều kiện cho học sinh học tập và trải nghiệm các tình huống khác nhau, nhằm giúp cho cá nhân có được khả năng giải quyết có hiệu quả những thách thức, nhiệm vụ, đáp ứng mục tiêu giáo dục đã
xác định.
1.1.3. Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông ở Quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Do đặc điểm của xã hội hiện nay, nên sự hình thành và phát triển kỹ năng sống trở thành một yêu cầu quan trọng đối với cá nhân và đáp ứng tiêu chí về nhân cách con người hiện đại. Hội nghị giáo dục thế giới họp tại Senegan tháng 4 năm 2000 đã thông qua kế hoạch hành động giáo dục cho mọi người (Kế hoạch hành động Dakar) gồm sáu mục tiêu lớn. Trong đó, ba mục tiêu đã vạch ra rằng: “Đảm bảo nhu cầu học tập của tất cả các thế hệ trẻ và người lớn được đáp ứng thông qua bình đẳng tiếp cận với các chương trình học tập và chương trình kỹ năng sống thích hợp”. Song, để tiến hành tốt việc giáo dục kỹ năng sống cho lớp trẻ hiện nay thì không thể thiếu công tác quản lý giáo dục nói chung, quản lý giáo dục kỹ năng sống nói riêng.
Quản lý giáo dục cũng như quản lý xã hội nói chung, đó là hoạt động có ý thức của con người nhằm đạt được những mục đích đã xác định. Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý làm cho hệ vận hành theo đường lối nguyên lý của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy, giáo dục thế hệ trẻ, đưa thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục đến mục tiêu dự kiến lên trạng thái về mới về chất” [16, tr.7].
Với ý nghĩa đó, quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh chính là thực hiện tốt các chức năng của quản lý, từ khâu kế hoạch hóa đến các khâu khác như tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra, kiểm soát nhằm tạo ra điều kiện, môi trường thuận lợi nhất cho việc hình thành, phát triển các kỹ năng sống cho học sinh.
Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, đó chính là những tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật của chủ thể quản lý đến tất cả các nhân tố của quá trình giáo dục, nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu hình thành và phát triển kỹ năng sống cho họ. Từ những vấn đề nêu trên, có thể hiểu: Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT là sự tổ chức, điều khiển một cách khoa học của chủ thể quản lý nhà trường đối với toàn bộ quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, nhằm đảm bảo cho quá trình này đạt được hiệu quả, đáp ứng mục tiêu giáo dục mà nhà trường đã xác định.
1.2. Nội dung quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT ở Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh hiện nay Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
1.2.1. Quản lý chủ thể giáo dục
Chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo quản lý quá trình quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là: Ban Giám hiệu Nhà trường, giáo viên, ban cán sự lớp. Trong đó đảng uỷ, ban giám hiệu, giáo viên, ban cán sự lớp là chủ thể trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quản lý quá trình quản lý giáo dục kỹ năng sống.
Chủ thể hướng dẫn chỉ đạo quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh gồm các cơ quan chức năng, văn phòng đây là những cơ quan tham mưu cho Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Nhà trường và trực tiếp chỉ đạo các hoạt động quản lý quá trình quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Chủ thể trực tiếp giáo dục kỹ năng sống là đội ngũ giáo viên mà trước hết là giáo viên chủ nhiệm lớp. Do đó họ có vai trò rất lớn đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách người học. Ngoài ra, còn có các tổ chức quần chúng như: Đoàn thanh niên, Công đoàn;… tham gia giáo dục kỹ năng sống.
1.2.2. Quản lý đối tượng giáo dục
Học sinh vừa là đối tượng giáo dục, đối tượng bị quản lý, vừa là chủ thể tự giáo dục. Quản lý đối tượng giáo dục kỹ năng sống, chính là quản lý quá trình học tập và rèn luyện, hình thành, phát triển kỹ năng sống của học sinh. Học sinh và tập thể học sinh vừa là khách thể tiếp nhận các tác động giáo dục, chịu sự điều khiển chi phối bởi mục tiêu và sự tác động thông qua các phương pháp, hình thức và các tác động khác của nhà giáo dục, lại vừa là chủ thể tự tổ chức, tự chỉ đạo quá trình học tập, rèn luyện kỹ năng sống của chính mình. Như vậy, chỉ có thể nâng cao chất lượng quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống khi phát huy được đầy đủ vai trò tự quản lý, tự giáo dục kỹ năng sống của học sinh.
1.2.3. Quản lý mục tiêu giáo dục kỹ năng sống
Quản lý mục tiêu giáo dục kỹ năng sống chính là việc thiết kế mục tiêu, phổ biến, hướng dẫn việc thực hiện mục tiêu đến toàn bộ các lực lượng giáo dục trong Nhà trường. Đồng thời, phải tổ chức có hiệu quả quá trình giáo dục kỹ năng sống và làm cho kết quả cuối cùng đạt được mục tiêu đề ra. Mục tiêu quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một bộ phận của mục tiêu quản lý giáo dục nói chung, là trạng thái tương lai, là kết quả dự kiến cần đạt tới mà các tổ chức, các lực lượng giáo dục trong toàn trường tập trung sự nỗ lực hướng vào đó. Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống đòi hỏi việc xây dựng và quản lý mục tiêu phải được thực hiện ngay từ đầu, đó là một yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc triển khai và tiến hành kế hoạch hóa.
1.2.4. Quản lý nội dung giáo dục kỹ năng sống Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của quá trình quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống. Vấn đề là, giáo dục nội dung gì để phù hợp với mục tiêu, phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý học sinh; qua đó giúp học sinh có khả năng học tập tốt hơn, có kỹ năng sống, kỹ năng ứng xử một cách tự tin, đồng thời để hoàn thiện bản thân mình, khẳng định bản thân trước mọi người và cộng đồng, và cuối cùng là đạt được các mục tiêu nhà trường đã xác định. Về cụ thể, kỹ năng sống của học sinh cần được quản lý một cách khoa học, trong đó bao gồm các nhóm như:
Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với chính mình
Kỹ năng tự nhận thức: là kỹ năng mà ở mỗi con người đều cần phải tự nhận biết và hiểu rõ những tiềm năng, tình cảm, cảm xúc cũng như vị trí của mình trước cuộc sống và xã hội. Hơn thế nữa, bản thân mỗi cá nhân học sinh cũng hiểu được những mặt mạnh và yếu của bản thân mình.
Khi học sinh càng nhận thức được khả năng của mình, các em càng có khả năng sử dụng các kỹ năng sống khác một cách có hiệu quả và càng có khả năng lựa chọn những gì phù hợp với các điều kiện sẵn có với bản thân, với xã hội mà các em sống với khả năng của bản thân mình nữa. Các em cũng cần có sự hiểu biết rõ ràng về bản sắc dân tộc và nền văn hóa mà từ đó các em đã được sinh ra và cũng chính là nền văn hóa đã tạo nên con con người của
các em.
Lòng tự trọng: Sự tự nhận thức đưa đến sự tự trọng. Khi mỗi người tự nhận thức được năng lực tiềm tàng của bản thân và vị trí của mình trong cộng đồng thì lòng tự trọng được mô tả như là “Sự nhận thức những điều tốt đẹp của bản thân”. Nó còn đề cập đến việc mỗi cá nhân cảm nhận như thế nào những khía cạnh mang tính cá nhân như diện mạo, khả năng và hành vi, … Và mỗi cá nhân các em sẽ phát triển như thế nào trên cơ sở những kinh nghiệm bản thân để trở nên thành thạo và thành công khi làm những điều mà các em dự định. Tuy nhiên, lòng tự trọng bị ảnh hưởng một cách mạnh mẽ bởi mối quan hệ của một cá nhân học sinh với những cá nhân học sinh khác. Những người lớn tuổi có ảnh hưởng đến các em học sinh như cha mẹ, các thành viên trong gia đình, thầy cô giáo và cả bạn bè cùng trang lứa có thể hoặc trợ giúp nhằm phát triển hoặc làm mất đi lòng tự trọng của một cá nhân học sinh qua những quan hệ, tiếp xúc của họ đối với cá nhân học sinh đó.
Sự kiên quyết: Giáo dục các em sự kiên quyết hay tính kiên định có nghĩa là nhận biết được những gì bản thân mình muốn và tại sao lại muốn đồng thời là khả năng tiến hành các bước cần thiết để đạt được những gì bản thân mình muốn trong những hoàn cảnh cụ thể bao gồm một loạt các tình huống khác nhau như: từ chối sự tán tỉnh, cám dỗ; thuyết phục người khác đồng thuận theo mình; sự nêu gương, kêu gọi, hướng dẫn mọi người làm những việc có lợi cho cộng đồng,… Tuy nhiên, cách thể hiện tính kiên định có liên quan đến văn hóa và việc lắng nghe, đánh giá những điều người khác cảm nhận và mong muốn bởi vì kiên định là biết được nhu cầu và quyền của mình, cũng như điều mình mong muốn và thực hiện những điều đó có xét tới nhu cầu, quyền và mong muốn của người khác.
Đương đầu với cảm xúc: Xúc cảm là sự phản ánh rõ nét bản chất của mỗi người. Những cảm xúc như sợ hãi, yêu thích, e thẹn, phẫn nộ, mong muốn được thừa nhận, …hoàn toàn mang tính chủ quan và thường có là do đáp ứng một cách tức thời đối với tình huống. Vì thế mà chúng không thể đoán trước được và có thể dễ dàng đưa các em đến những hành vi mà sau này các em sẽ phải hối tiếc.
Do vậy, việc xác định và sau đó là đối phó với những cảm xúc là khả năng cho thấy rằng con người ta có thể nhận thấy và phải tính đến những xúc cảm của mình cùng nguyên nhân cụ thể của chúng để có những quyết định chế ngự, không để cho những cảm xúc của bản thân chi phối. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Đương đầu với căng thẳng (kỹ năng ứng phó với stress): Căng thẳng là một phần hiển nhiên của cuộc sống. Những vấn đề trắc trở của bản thân, của bạn bè thân thiết, của các thành viên trong gia đình; những mối quan hệ bị đổ vỡ, …là những minh họa các tình huống gây căng thẳng trong cuộc sống con người. Trong những mức độ hữu hạn, khi một cá nhân có khả năng đương đầu với sự căng thẳng thì căng thẳng lại có thể là một nhân tố tích cực bởi vì chính những sức ép của sự căng thẳng đó buộc cá nhân phải tập trung vào công việc của mình và hưởng ứng một cách thích hợp. Tuy nhiên, sự căng thẳng còn có một sức mạnh hủy diệt cuộc sống cá nhân nếu sự căng thẳng đó quá lớn và không giải tỏa nổi. Do đó, cũng như kỹ năng đối phó với cảm xúc, học sinh cần phải có khả năng nhận biết sự căng thẳng, nguyên nhân và hậu quả cũng như biết cách khắc phục nó.
Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với người khác
Mối quan hệ giữa các cá nhân: Các mối quan hệ là đặc trưng bản chất của cuộc sống, chúng có hình thái và quy mô khác nhau. Khi đứa trẻ lớn lên, trẻ phải phát triển các mối quan hệ với những người lớn có vai trò quan trọng trong cuộc sống của các em như cha mẹ, người thân, thầy cô giáo, những người xung quanh, những nhà lãnh đạo địa phương,… với bạn bè đồng lứa trong và ngoài trường lớp. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể là bạn bè tốt, thân thiết, ngang hàng được. Các em cần phải biết cách đối xử một cách phù hợp trong từng mối quan hệ để chúng có thể phát triển tối đa tiềm năng sẵn có trong môi trường của chúng.
Kỹ năng thiết lập tình bạn: Một cá nhân cần có nhiều bạn để cùng chia sẻ hoạt động, niềm hi vọng, sự sợ hãi, chia sẻ cuộc sống và cả tham vọng. Việc thiết lập tình bạn bắt đầu từ giai đoạn sớm nhất của cuộc đời. Vì vậy, học sinh cần phải nhận biết rằng tình bạn được hình thành như thế nào và phải thiết lập, phát triển tình bạn ra sao để cả hai bên cùng đạt được những lợi ích chân chính. Học sinh cần phải có khả năng nhận biết, để khi cần thiết, mạnh dạn khước từ kiểu tình bạn có thể đưa học trò đến những hành vi nguy hiểm hoặc tội phạm như hành vi sử dụng ma túy, trộm cắp,…
Sự cảm thông (kỹ năng thấu cảm): là khả năng tự đặt mình vào vị trí của người khác khi học sinh phải đương đầu với những vấn đề nghiêm trọng do hoàn cảnh hoặc do những hành động của chính bản thân các em gây ra để hiểu được tình cảnh của họ và tìm ra cách giảm bớt gánh nặng bằng sự chia sẻ chân tình với người đó thay vì lên án, thương hại hoặc coi khinh với bất kỳ lý do nào. Cảm thông cũng đồng nghĩa với việc hỗ trợ người đó để họ có thể tự quyết định và đứng vững trên đôi chân của mình một cách nhanh chóng nhất.
Đứng vững trước sự lôi kéo của bạn bè: Đối với các em học sinh, sức ép để bản thân được giống như các thành viên khác trong nhóm bạn là rất lớn. Vì vậy, đứng trước sự lôi kéo của bạn bè cùng lứa là một kỹ năng rất quan trọng. Nếu phải đương đầu với những ý nghĩ hoặc những việc làm trái ngược của bạn bè cùng lứa khi họ gây ảnh hưởng và thói quen xấu thì bản thân cần phải dũng cảm khước từ, phản đối, dừng ngay những đề xuất không thể chấp nhận được, kiên quyết bảo vệ những giá trị và niềm tin của bản thân cho dù có thể bị chế nhạo, đe dọa hoặc ghẻ lạnh từ nhóm bạn đó.
Kỹ năng thương lượng: là một kỹ năng quan trọng trong mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau. Kỹ năng này có liên quan đến tính kiên định, sự cảm thông và mối quan hệ giữa cá nhân cũng như khả năng thỏa hiệp những vấn đề không có tính nguyên tắc của bản thân. Kỹ năng thương lượng còn liên quan đến khả năng đương đầu với những áp lực, sự đe dọa của hoàn cảnh, những rủi ro tiềm tàng trong các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau kể cả sức ép của bạn bè.
Cần phải nhận định rõ vị trí của cá nhân và thiết lập kỹ sự hiểu biết lẫn nhau trong các mối quan hệ để có kỹ năng thương lượng tốt.
Kỹ năng giải quyết xung đột không dùng bạo lực: là kỹ năng có liên quan đến mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau, đến kỹ năng thương lượng và các kỹ năng đương đầu với cảm xúc, với căng thẳng, lo âu. Xung đột là điều không thể tránh khỏi và đôi khi lại là điều cần thiết song kỹ năng giải quyết xung đột không dùng bạo lực sẽ giúp cho những xung đột trở nên có tính xây dựng.
Kỹ năng giao tiếp có hiệu quả: Giao tiếp là bản chất của các mối quan hệ của con người. Do vậy, một trong những kỹ năng sống quan trọng nhất là khả năng giao tiếp một cách có hiệu quả với mọi người. Khả năng này bao gồm cả kỹ năng lắng nghe và hiểu được người khác thực hiện việc giao tiếp của các em như thế nào cũng như nhận biết được nhiều cách giao tiếp của bản thân học sinh khác nhau ra sao.
Nhóm kỹ năng ra quyết định một cách có hiệu quả
Tư duy phê phán: Như đã nêu, giới trẻ lớn lên trong thế giới ngày nay phải đối đầu với nhiều vấn đề, sự mong đợi, những đòi hỏi đa dạng, phức tạp và trái ngược của cha mẹ, thầy cô, bạn bè,… phải tiếp nhận, đáp ứng nhiều thông điệp của các phương tiện truyền thông đại chúng, của các nhà lãnh đạo, của quảng cáo, của âm nhạc, tôn giáo,… Vì thế học sinh cần phải có khả năng phân tích, gạn lọc, phê phán để có được quyết định đúng và phù hợp.
Tư duy sáng tạo: Trong cuộc sống, con người thường xuyên bị đặt vào những hoàn cảnh bất ngờ và bất thường. Do vậy, cần phải có tư duy sáng tạo nghĩa là có khả năng tiếp cận với sự việc mới, phương thức mới, ý tưởng mới, cách sắp xếp và tổ chức mới để có một hoặc nhiều phương cách đáp ứng lại những hoàn cảnh đó một cách phù hợp.
Kỹ năng ra quyết định: Mỗi ngày, con người đều phải đóng trước những lựa chọn để ra những quyết định. Có những quyết định tương đối đơn giản và có thể không ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống cũng như có những quyết định nghiêm túc liên quan đến các mối quan hệ, đến tương lai cuộc đời. Do đó, khi không thể đáp ứng liền một lúc những nhu cầu đối lập, người ta cần có khả năng lựa chọn để ra một quyết định có hiệu quả đồng thời phải ý thức được các tình huống có thể xảy ra, phải lường được những hậu quả trước khi quyết định từ sự lựa chọn của mình. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Kỹ năng giải quyết vấn đề: Là khả năng xem xét tình hình một cách cẩn thận, phân tích những vấn đề gì đang tồn tại và xác định các bước nhằm cải thiện tình hình. Đây là kỹ năng có liên quan đến kỹ năng ra quyết định và nhiều kỹ năng khác. Chỉ khi trải qua thực hành việc ra quyết định và giải quyết vấn đề thì học sinh mới có thể xây dựng được những kỹ năng cần thiết để có thể có những lựa chọn tốt nhất trong bất kỳ hoàn cảnh nào mà chúng phải đương đầu.
Trong thực tế cuộc sống học tập, rèn luyện, sinh hoạt hàng ngày của học sinh, các kỹ năng sống thường không tách rời nhau và để đạt được hiệu quả mong muốn thì việc quản lý nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh cần phải đảm bảo chặt chẽ, khoa học. Một mặt, cần thực hiện tốt kế hoạch hóa và tổ chức chỉ đạo một cách đúng đắn, sát hợp, kịp thời; mặt khác, cần phải thực hiện tốt khâu kiểm tra để có sự uốn nắn và tiếp tục định hướng cho học sinh trong quá trình rèn luyện kỹ năng sống.
1.2.5. Quản lý phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục kỹ năng sống
Để đạt được mục tiêu quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đòi hỏi nhà quản lý phải tìm ra các hình thức, phương pháp giáo dục thích hợp và vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức đó nhằm nâng cao nhận thức, bồi dưỡng ý thức, động cơ và hình thành kỹ năng sống cho học sinh và tập thể học sinh. Phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh bao gồm toàn bộ những cách thức, thủ thuật, thao tác, biện pháp tác động và cách thức tổ chức điều khiển của chủ thể quản lý đến học sinh bằng hệ thống công cụ, phương tiện kỹ thuật, nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã xác định.
Quản lý phương pháp, hình thức tổ chức và phương tiện giáo dục kỹ năng sống là việc làm thứ hai trong quá trình thực hiện giáo dục kỹ năng sống nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Lãnh đạo trong nhà trường chỉ đạo giáo viên làm những việc theo trình tự thống nhất để nhằm đem lại thành tựu cuối cùng đó là nhận thức xã hội và hành vi tự ứng xử của học sinh.
Từ việc lựa chọn các phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục kỹ năng sống một cách khoa học, chúng ta có khả năng làm chủ một quá trình quản lý quá trình phù hợp với thực tế và chắc chắn sẽ đạt hiệu quả cao. Điều đó được thể hiện ở sự hoạch định chương trình, nội dung và phương pháp thực hiện tương ứng với đối tượng học sinh trên địa bàn.
Để tạo thuận lợi cho việc học tập kỹ năng sống của học sinh bậc THPT, có thể kể đến các phương pháp giáo dục cụ thể sau: Phương pháp động não, phương pháp đóng vai, phương pháp học tập trên cơ sở tham gia, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp xây dựng đề án…
1.2.6. Quản lý phương tiện giáo dục kỹ năng sống Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Để góp phần cho sự thành công của quá trình quản lý giáo dục kỹ năng sống đạt kết quả tốt nhất, vấn đề cần đặt ra đó là sự chuẩn bị chu đáo về phương tiện giáo dục kỹ năng sống. Cần phối kết hợp giữa phương tiện truyền thống với hiện đại; đa dạng hóa các phương tiện giáo dục kỹ năng sống. Phương tiện cơ sở vật chất, phương tiện truyền thông sẽ có tác dụng kích thích sự hứng thú, say mê với nội dung giáo dục mới cho các em. Chính vì vậy, nhà trường cần có những đầu tư đúng hướng, không dàn trải. Cùng với việc quản lý các nhân tố khác thì quản lý tốt phương tiện truyền thông, cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị, nguồn kinh phí hoạt động sẽ làm cho quá trình quản lý giáo dục kỹ năng sống đạt được thành công.
1.2.7. Quản lý kết quả giáo dục kỹ năng sống
Kết quả là mức độ đạt được về sự hình thành, phát triển kỹ năng sống ở học sinh theo thiết kế của mục tiêu, đó là thước đo đánh giá chất lượng quản lý quá trình giáo dục. Đó là thành quả đạt được do công sức và trí tuệ của các lực lượng tham gia vào quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống, bao gồm yếu tố lãnh đạo, quản lý, tác động giáo dục đến việc thực hiện các khâu, các bước của quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Quản lý kết quả giáo dục kỹ năng sống là việc làm có ý nghĩa quan trọng đối với quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Thông qua đó, người lãnh đạo, quản lý có cái nhìn bao quát; là cơ sở để xem xét về việc thực hiện mục tiêu, đồng thời qua đó có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
1.3. Các nhân tố tác động đến quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
1.3.1. Về truyền thống giáo dục của dân tộc ta
Những giá trị và chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam đã được lưu giữ, truyền lại cho các thế hệ và không ngừng được phát huy qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước rất hào hùng, oanh liệt. Giá trị và chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc ta tựu trung lại có những nội dung cơ bản như: sống hoà thuận, đoàn kết, thương yêu đồng bào, đồng loại, “thương người như thể thương thân”, nhất là với những người gặp hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn. Tình cảm mặn nồng đó thể hiện ở vô vàn hành vi ứng xử trong quan hệ cộng đồng của người Việt Nam. Con người Việt Nam luôn yêu nước, sống thuỷ chung, biết ơn, tôn kính, noi gương những anh hùng, nghĩa sĩ có công đức với dân, với nước. Người Việt Nam luôn hướng về tương lai nhưng không bao giờ lãng quên quá khứ, tổ tông, không vong ơn, bội nghĩa. Từ ngàn đời nay nhân dân ta luôn ghi nhớ những câu răn dạy như: “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”, “tôn sư trọng đạo”…
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn chúng ta phải biết phát huy những truyền thống quý báu trên trong đối nhân xử thế. Người từng đã từng căn dặn cán bộ: Sống với nhau phải có tình, có nghĩa; nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác–Lênin được.
Bước vào thời kỳ mở cửa hội nhập quốc tế, với những thời cơ, vận hội lớn, song cũng đan xen những thách thức không nhỏ, chúng ta càng phải quan tâm đến nguồn lực con người, nhất là đối với học sinh – một nhân tố vô cùng quan trọng, bảo đảm đất nước phát triển nhanh, bền vững trong tương lai. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị nhân cách con người Việt Nam…bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực, trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam”. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã và đang gây ra nhiều ảnh hưởng xấu tới nhiều mặt trong đời sống xã hội chúng ta. Do đó, hiện nay việc giáo dục, giữ gìn và phát huy những giá trị, chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc cho học sinh hơn lúc nào hết cần phải được coi trọng.
Cần phải nhận thức rằng, giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, truyền thống đạo đức và lối sống lành mạnh cho học sinh hiện nay không chỉ dừng lại ở các chương, điều trong sách vở mà quan trọng là phải giáo dục bằng chiều sâu lịch sử, từ truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng và dân tộc, bằng những tấm gương yêu nước tiêu biểu, những anh hùng, liệt sĩ hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân ta.
Giáo dục nói chung và giáo dục kỹ năng sống nói riêng nhằm hình thành hành vi ứng xử văn hoá cho học sinh là vấn đề hết sức cần thiết hiện nay, nó luôn gắn với việc giáo dục các giá trị, chuẩn mực đạo đức. Đó chính là sự định hướng vào bản chất tốt đẹp của con người Việt Nam XHCN, vừa giữ được thuần phong mỹ tục của dân tộc, vừa thể hiện sự thông minh, độc lập, năng động, sáng tạo của thế hệ học sinh trong thời đại mới. Đây là việc làm vừa mang tính cấp bách, vừa có tính lâu dài và cũng không hề đơn giản trước những “làn sóng nhiễu” của thời kỳ hội nhập và kinh tế thị trường.
1.3.2. Về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, kinh tế – xã hội phát triển, chính trị ổn định, quốc phòng – an ninh được củng cố, tăng cường; uy tín của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế; về đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện. Trong bối cảnh đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế, con người trở nên chủ động, sáng tạo, nhanh nhạy, tích cực trong các mặt hoạt động, luôn hướng vào mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Về phương diện văn hóa, giáo dục, văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta đã chỉ rõ, trong phát triển giáo dục và đào tạo cần phải: “Đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội” [13, tr.216].
Do đó giáo dục ngày nay không chỉ là tích tụ tri thức mà còn thức tỉnh tiềm năng sáng tạo to lớn trong mỗi con người. Việc giáo dục đạo đức, kỹ năng cho học sinh là một quá trình dài lâu, xuyên suốt trong quá trình giáo dục. Nó đòi hỏi phải có sự chung tay, góp sức của gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Muốn đưa nước ta trở nên giàu mạnh, văn minh thì trước tiên phải xây dựng được những lớp người có đủ đức và tài. Những lớp người đó không ai khác chính là thế hệ trẻ hôm nay, những học sinh, sinh viên đang còn ngồi trên ghế nhà trường họ phải được hình thành đầy đủ đức và tài để trở thành chủ nhân tương lai của đất nước.
Hiện nay, đất nước ta đang phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN; bên cạnh những thuận lợi cũng nảy sinh không ít những khó khăn. Dù muốn hay không thì mặt trái của kinh tế thị trường cũng tác động đến mỗi học sinh ở những mức độ khác nhau. Mặt trái của kinh tế thị trường đã tác động tiêu cực; trên thực tế đã có không ít những tệ nạn xã hội; một bộ phận học sinh chạy theo lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, sống gấp, lai căng, đồi trụy…dẫn tới vi phạm nghiêm trọng những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc và chuẩn mực của con người Việt Nam XHCN.
1.3.3. Về yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong tình hình mới Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Đối với học sinh THPT, đây là giai đoạn các em đã trưởng thành về mặt thể lực, nhưng sự phát triển cơ thể còn chưa vững chắc, các em bắt đầu thời kỳ phát triển tương đối ổn định về mặt sinh lý. Nhìn chung, lứa tuổi các em đã phát triển cân đối, khoẻ và đẹp, đa số các em có thể đạt được những khả năng phát triển về cơ thể như người lớn, đó là yếu tố cơ bản giúp các em có thể tham gia các hoạt động phong phú, đa dạng, phức tạp của chương trình giáo dục THPT.
Ở các em, tính chủ định trong nhận thức được phát triển, tri giác có mục đích đã đạt tới mức cao, quan sát trở nên có mục đích, hệ thống và toàn diện hơn, tuy nhiên nếu thiếu sự chỉ đạo của giáo viên thì quan sát của các em cũng khó đạt hiệu quả cao. Vì vậy, giáo viên cần quan tâm hướng quan sát của các em vào những nhiệm vụ nhất định, không vội kết luận khi chưa tích luỹ đủ các sự kiện. Cũng ở lứa tuổi này ở các em, bước đầu đã có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán hơn, tính phê phán cũng phát triển. Có thể nói nhận thức của các em chuyển dần từ nhận thức cảm tính sang nhận thức lý tính, nhờ tư duy trừu tượng dựa trên kiến thức các khoa học và vốn sống thực tế của các em đã tăng dần.
Sự phát triển tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của học sinh THPT, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của các em. Học sinh THPT có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình: quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất nhân cách và năng lực riêng, xuất hiện ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng, tình cảm nghĩa vụ đó là những giá trị nổi trội và bền vững. Các em có khả năng đánh giá về mặt mạnh, mặt yếu của bản thân mình và những người xung quanh, có những biện pháp kiểm tra đánh giá sự tự ý thức bản thân như viết nhật ký, tự kiểm điểm trong tâm tưởng, biết đối chiếu với các thần tượng, các yêu cầu của xã hội, nhận thức vị trí của mình trong xã hội, hiện tại và tương lai.
Tóm lại, sự phát triển nhân cách của học sinh THPT là một giai đoạn rất quan trọng, giai đoạn chuyển đổi từ trẻ em lên người lớn. Đây là lứa tuổi đầu của tuổi thanh niên với những đặc điểm tâm lý đặc thù khác với tuổi thiếu niên, các em đã đạt tới sự trưởng thành về thể lực và sự phát triển nhân cách. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT là điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục kỹ năng sống cho các em có hiệu quả. Các lực lượng giáo dục phải biết phát huy các yếu tố tích cực, khắc phục những hạn chế trong sự phát triển tâm sinh lý lứa tuổi này để lựa chọn nội dung, hình thức tổchức thích hợp, phát huy được tính tích cực chủ động của các em trong hoạt động giáo dục theo định hướng của mục tiêu giáo dục kỹ năng sống. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Từ đặc điểm về phát triển kinh tế – xã hội, phát triển giáo dục của Quận Bình Tân, có thể xác định hai đặc điểm chính của giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT như sau: Ở Quận Bình Tân, không chỉ có nhu cầu mà còn có cả yêu cầu về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT được đặt ra. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT ở Quận Bình Tân vừa thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó khăn. Ở Quận Bình Tân, phần lớn các em cần có sự trợ giúp mới có thể thực hiện tốt những kỹ năng sống cơ bản.
Như vậy, có thể hiểu, thực hiện nhiệm vụ này là giúp các em có tri thức hiểu biết về các giá trị truyền thống của dân tộc cũng như những giá trị tốt đẹp của nhân loại; củng cố, mở rộng kiến thức đã học trên lớp (qua các hình thức sinh hoạt câu lạc bộ theo môn học, tham quan, sinh hoạt theo chủ đề…); có ý thức chính trị, đạo đức, pháp luật và lối sống lành mạnh, ý thức về quyền và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội; có ý thức về định hướng nghề nghiệp, lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực cá nhân và yêu cầu phát triển của bản thân.
1.3.4. Về đặc điểm của các trường THPT và đặc điểm nhân cách của học sinh trên địa bàn Quận Bình Tân
Sự phát triển nhanh mạnh, với quy mô lớn về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội ở các thành phố lớn đã tạo ra những khác biệt trong phát triển giáo dục giữa các vùng miền, thậm chí có cả sự khác biệt của các khu vực ngay trong một thành phố như TP Hồ Chí Minh.
Thực tế đã chứng minh, đa số các em học sinh của Quận Bình Tân là di chuyển từ những nơi ở khác đến đây theo gia đình sinh sống và làm việc. Sự đa dạng trong nếp văn hoá, thói quen, phong tục mang theo của các em cũng là một khó khăn trong quá trình giáo dục kỹ năng sống cho các em. Bên cạnh đó, hầu hết các trường còn chưa có biên chế giáo viên, nhân viên phụ trách mảng giáo dục tâm lý cho học sinh hoặc nếu có thì hoạt động này của giáo viên cũng chưa được khai thác có hiệu quả. Từ đặc điểm đó, cũng cho thấy những vấn đề nổi cộm phức tạp trong giới học sinh mà giáo dục cần kíp phải giải quyết. Hiện tượng học sinh nói tục, chửi bậy, bạo lực không phải là chuyện hiếm ở học đường. Nhưng đáng nói là không ít người trong lớp trẻ hôm nay đang coi đó là điều đương nhiên ở tuổi học trò. Điều ấy đã khiến chính những người trong ngành giáo dục ở Quận Bình Tân phải băn khoăn trăn trở.
Về phía nhà trường, chính lãnh đạo ngành giáo dục cũng phải thừa nhận một điều, giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh trong nhà trường hiện nay gần như còn một khoảng trống. Nhà trường chỉ chú trọng đến việc trang bị tri thức mà ít chú ý đến việc dạy học sinh về đạo đức làm người. Nhiều giáo viên lên lớp chỉ lo truyền giảng kiến thức chuyên môn, không dành thì giờ để uốn nắn, chỉnh sửa những sai trái của học sinh. Nhiều trường xem nhẹ giáo dục kỹ năng sống – kỹ năng ứng xử hàng ngày, không tạo được dấu ấn để hình thành nhân cách học sinh. Hơn nữa, các trường chỉ đưa ra các nội quy, lấy nội quy soi vào học sinh và nặng về mệnh lệnh. Mỗi khi các em phạm lỗi, thầy cô thường dùng hình thức kiểm điểm, phê bình hoặc nặng hơn là phạt, chứ không chú ý hướng cho các em cách tiến đến cái đúng, chỉnh sửa cái sai. Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Thực trạng về kỹ năng sống của học sinh THPT
Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com