Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển, cùng với sự phát triển của đất nước đó sự là tăng trưởng kinh tế và những mục tiêu phát triển xã hội mà chính phủ đặt ra, nhu cầu về giao thông cũng đang được gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Các loại phương tiện giao thông ở đường bộ, đường không, đường thuỷ. . . phát triển không ngừng đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân, cuộc sống ngày càng đi lên bao nhiêu thì các phương tiện giao thông hiện đại càng phổ biến bấy nhiêu kéo theo đó là sự đông đúc trên đường phố cùng với tai nạn giao thông ngày càng tăng lên đáng kể. Vì vậy, vấn đề an toàn giao thông thực sự là một vấn đề quan trọng của nhân loại. Theo WHO, “ở các quốc gia đang phát triển, tình trạng an toàn giao thông ngày càng trở nên tồi tệ hơn do đô thị hóa diễn ra nhanh chóng và không có kế hoạch. Cơ sở hạ tầng yếu kém, hệ thống quy phạm pháp luật còn nhiều thiếu sót khiến các vụ tai nạn giao thông tăng lên theo cấp số nhân”. Nếu chính phủ các nước không có biện pháp ngăn chặn tình trạng này thì đến năm 2020, tai nạn giao thông sẽ đứng thứ ba trong các nguyên nhân gây tử vong ở người. Cùng với đó là những thiệt hại khổng lồ về kinh tế, bao gồm: chi phí giải quyết hậu quả cho người mất, chi phí y tế cho người bị thương, thiệt hại về phương tiện giao thông, về hạ tầng, chi phí khắc phục, điều tra vụ TNGT đó cùng với thiệt hại do hao phí thời gian lao động của chính người bị tai nạn và cả của những người chăm sóc người bị nạn. Mặt khác, TNGT gây nên những tác động tâm lý cả trước mắt cũng như về lâu dài đối với mọi người, nó để lại những di chứng về tâm lý hết sức nặng nề cho người bị tai nạn, người thân của họ và nếu như trong một địa phương, một quốc gia xảy ra TNGT quá nhiều sẽ gây nên hiện tượng bất an cho cư dân ở đó. Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Theo báo cáo của Ủy ban ATGT Quốc gia, năm 2017, tình hình trật tự, ATGT trên địa bàn cả nước tiếp tục có chuyển biến tích cực. Giao thông trong các đô thị lớn và trên quốc lộ trọng điểm tiếp tục được duy trì ổn định. Tai nạn giao thông (TNGT) được kiềm chế, giảm cả 3 tiêu chí về số vụ, số người chết và số người bị thương so với năm 2016. Cụ thể, toàn quốc xảy ra 20.080 vụ TNGT, làm chết 8.279 người, bị thương 17.040 người. So với cùng kỳ năm 2016, TNGT giảm 1.509 vụ (6,99%), giảm 406 người chết (4,67%) và giảm 2.240 người bị thương (11,62%), tỷ lệ thương vong do TNGT ở trẻ em có xu hướng gia tăng…

Chủ đề năm 2018 là “An toàn giao thông cho trẻ em” – lấy trẻ em là mục tiêu và động lực xây dựng văn hóa giao thông cho toàn xã hội, với mục tiêu tiếp tục kéo giảm TNGT từ 5-10% cả về số vụ, số người chết và số người bị thương; giảm tỷ lệ thương vong do TNGT đối với trẻ em 10% so với năm 2017; kéo giảm ùn tắc giao thông trên các trục đường chính và các đô thị lớn.

An toàn giao thông (ATGT) luôn là vấn đề nóng ở mọi thời điểm, bởi gần như ngày nào cũng xảy ra tai nạn giao thông, có những vụ gây ra cái chết cho nhiều người, trong đó có trẻ em. Việc giáo dục ý thức chấp hành luật lệ giao thông cần được thực hiện từ khi các em còn ngồi trên ghế nhà trường. Chú trọng công tác này, ngành Giáo dục và Đào tạo (GD & ĐT) đã tăng cường giáo dục ATGT cho học sinh (HS), nhất là HS tiểu học.

Thị xã Bến Cát nói chung và địa bàn tỉnh Bình Dương nói riêng hiện nay, dưới tác động của sự phát triển Kinh tế -Xã hội, quy hoạch tổng thể đô thị vẫn chưa đáp ứng được vấn đề nhu cầu giao thông… Nhìn tổng thể, ý thức của người dân khi tham gia giao thông chưa cao dẫn đến số vụ tai nạn giao thông còn khá lớn.

Thực tế trong những năm gần đây, tỉnh Bình Dương và thị xã Bến Cát đã có nhiều biện pháp nhằm hạn chế tình trạng tai nạn giao thông như: đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn giao thông; quản lý lòng đường, vỉa hè, bán hàng rong, bảo đảm mỹ quan đô thị, mở rộng đường, hạn chế xe mô tô, tăng cường tuyên truyền và bắt buộc mọi người thực hiện đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông, tổ chức đi làm lệch ca, tăng cường di chuyển bằng phương tiện xe buýt, tuyên truyền thực hiện “văn hóa giao thông”.

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ và Thông tư của Bộ GD&ĐT về tăng cường quản lý hoạt động GDATGT cho học sinh. Các trường tại tỉnh Bình Dương cũng đẩy mạnh tuyên tuyền, giáo dục học sinh bằng nhiều hình thức. Tuy nhiên, mức độ nhận thức của học sinh về ATGT cũng chưa cao. Các trường cũng đã đưa vào hoạt động giáo dục ATGT cho học sinh, song song và trở thành môn học của chung ở các trường tiểu học trên địa bàn thị xã xã Bến Cát. Nhà trường cũng theo chỉ thị các cấp và thực hiện việc tuyên truyền GD ATGT trong nội bộ cũng như tới các lực lượng giáo dục khác. Các hoạt động ngoại khóa cũng được quan tâm kết hợp với giáo dục ATGT để góp phần giáo dục ý thức cho các em học sinh. Tuy nhiên, việc GD ATGT và quản lý hoạt động GD ATGT cho học sinh tiểu học trong nhà trường còn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức, các hoạt động triển khai còn mang tính hình thức, chưa thể hiện tính liên tục, có kế hoạch lâu dài và thực hiện một cách triệt để; việc phối kết hợp với các lực lượng trong giáo dục ATGT còn thiếu đồng bộ,… Chính vì vậy, hiệu quả đạt được trong công tác GD ATGT cho học sinh trong các trường phổ thông nói chung và trường tiểu học nói riêng chưa cao.

Vì vậy nhiệm vụ cấp thiết đặt ra đối với ngành Giáo dục là phải giáo dục một thế hệ tương lai có kiến thức và ý thức tuân thủ Luật giao thông, có cách xử sự văn minh khi tham gia giao thông. Từ những vấn đề thực tiễn trên cho thấy, Giáo dục an toàn giao thông và quản lý hoạt động GD ATGT cho học sinh tiểu học là một công việc hết sức quan trọng, hết sức thiết thực và lâu dài, nhằm giáo dục thế hệ trẻ trở thành những người có ý thức chấp hành nghiêm túc Luật Giao thông ngay từ lúc tuổi ấu thơ. Bản thân là một giáo viên và là cán bộ quản lý nhà trường tiểu học, tác giả nhận thấy cần phải chuyên tâm tích cực nghiên cứu để tìm ra những biện pháp quản lý cụ thể nhằm góp phần thực hiện giáo dục ATGT và quản lý giáo dục ATGT đạt kết quả tốt và đối với học sinh tiểu học, yêu cầu về giáo dục an toàn giao thông cũng nằm trong những mục tiêu chung ở trên. Chính vì những lý do trên tôi chọn đề tài: “Quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương để nghiên cứu.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>>  Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Quản Lý Giáo Dục

2. Mục đích nghiên cứu Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích đánh giá thực trạng quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông đường bộ cho học sinh tiểu học trên địa bàn thị xã Bến Cát, đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ATGT, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ATGT cho học sinh tiểu học trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu

Hoạt động GD ATGT cho học sinh tiểu học.

3.2. Đối tượng nghiên cứu

Quản lý giáo dục ATGT cho học sinh tiểu học trên địa bàn thị xã Bến Cát, Bình Dương.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

  • Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý giáo dục an toàn giao thông trong rường Tiểu học.
  • Khảo sát, đánh giá thực trạng giáo dục ATGT và quản lý giáo dục ATGT đường bộ cho học sinh các trường tiểu học trên địa bàn thị xã Bến Cát.
  • Đề xuất biện pháp quản lý giáo dục ATGT cho học sinh tiểu học trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

5. Giả thuyết khoa học

Quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh ở các trường Tiểu học thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương hiện nay chưa thực sự đồng bộ và hiệu quả. Nếu nghiên cứu xây dựng được hệ thống lý luận về quản lý hoạt động giáo dục ATGT theo tiếp cận các chức năng quản lý và phân tích đánh giá được thực trạng quản lý hoạt động giáo dục ATGT cho học sinh tiểu học thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương, thì sẽ đề xuất được các biện pháp quản lý hữu hiệu hoạt động này một cách cần thiết và khả thi, góp phần nâng cao nâng cao hiệu quả giáo dục an toàn giao thông cho học sinh trong các trường tiểu học.

6. Phạm vi nghiên cứu

6.1. Về không gian

  • Khách thể điều tra: Cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh, CMHS tại 8 trường Tiểu học trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
  • Giới hạn: Quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông đường bộ.
  • Địa bàn nghiên cứu: 8 trường tiểu học thuộc thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
  • Chủ thể quản lý: Hiệu trưởng trường tiểu học.

6.2. Về thời gian

Đề tài khảo sát thực trạng trong thời gian từ cuối năm học 2017 – 2018; 2018 – 2019.

7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Kết hợp các nhóm nghiên cứu sau:

7.1. Phương pháp luận

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở các quan điểm tiếp cận sau:

7.1.1. Tiếp cận hệ thống

Đề tài xem xét, nghiên cứu vấn đề quản lý hoạt động giáo dục ATGT trong tổng thể các cấp quản lý của hệ thống giáo dục quốc dân và hoạt động giáo dục ATGT cho học sinh tiểu học là một chỉnh thể với nhiều khía cạnh trong cơ cấu quản lý nhà trường. Đồng thời kết hợp giáo dục của gia đình và các tổ chức xã hội để các em hình thành ý thức và chấp hành Luật giao thông.

7.1.2. Tiếp cận phát triển

Tìm hiểu sự hình thành và phát triển trong công tác quản lý hoạt động giáo dục ATGT cho học sinh phổ thông nói chung, quản lý hoạt động giáo dục ATGT cho học sinh tiểu học nói riêng. Đối tượng học sinh tiểu học là những cá thể đang phát triển nhanh về thể chất, nhân cách đang hình thành và tiềm tàng khả năng phát triển. Điều quan trọng là nhà trường cần có chiến lược khơi dậy và phát triển đầy đủ những tiềm năng đó. Sự phát triển của khoa học giáo dục, khoa học sư phạm, khoa học quản lý và của khoa học công nghệ đòi hỏi các nghiên cứu trong lĩnh vực quản lý giáo dục nói chung và quản lý các hoạt động giáo dục trường tiểu học nói riêng cũng phải tiếp cận theo quan điểm phát triển.

7.1.3. Tiếp cận hoạt động

Tiếp cận hoạt động là sự vận dụng lý thuyết hoạt động vào việc nghiên cứu đối tượng đang được xem xét. Với quan điểm này, thực chất của quản lý hoạt động giáo dục ATGT cho học sinh tiểu học trong bối cảnh đổi mới hiện nay là khả năng triển khai quản lý hoạt động giáo dục ATGT với các hành động cụ thể, hình thức áp dụng theo một trật tự lô-gíc và trình tự hợp lý, việc tuân thủ luật lệ giao thông từ nhà ra phố, từ trường về nhà,… là các cách giáo dục ATGT cơ bản, xuất phát từ thực tiễn của công tác quản lý hoạt động giáo dục ATGT cho học sinh tiểu học trên địa bàn tỉnh Bình Dương nói chung và thị xã Bến Cát nói riêng để tìm ra những tồn tại, khó khăn trong công tác quản lý hoạt động giáo dục ATGT cho học sinh tiểu học ở các cơ sở giáo dục này, từ đó đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động giáo dục ATGT cho phù hợp với thực tiễn hiện nay trên địa bàn.

7.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

7.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

Tham khảo, nghiên cứu tài liệu, văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật, những quy định có liên quan của nhà nước, ngành từ Trung ương đến địa phương, định hướng cho việc nghiên cứu và xây dựng cơ sở khoa học của đề tài. Tìm hiểu và nghiên cứu một số tài liệu, tác phẩm, công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về: khoa học quản lý và quản lý hoạt động giáo dục ATGT liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu nhằm phát triển thành cơ sở lý luận của đề tài.

Trên cơ sở phân tích, tổng hợp, so sánh các tài liệu và công trình nghiên cứu lý luận, thực tiễn của các nhà khoa học, xây dựng hệ thống cơ sở lý luận của đề tài và hình thành nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác quản lý hoạt động giáo dục ATGT cho học sinh tiểu học trong bối cảnh giáo dục hiện nay.

Nghiên cứu các tài liệu khoa học có liên quan đến đề tài, các văn bản quản lý giáo dục có liên quan đến trường tiểu học, các văn bản hướng dẫn giáo dục ATGT, Nghị định của Chính phủ, Luật Giao thông đường bộ.

Tìm hiểu các tài liệu giáo dục an toàn giao thông và các giải pháp giáo dục an toàn giao thông của các nước phát triển có giao thông của các nước đang phát triển làm rõ lịch sử vấn đề nghiên cứu.

Nghiên cứu tài liệu bao gồm nghiên cứu lý thuyết liên quan đến vấn đề quản lý giáo dục an toàn giao thông, cụ thể như: Khái niệm, vai trò, các thành phần và các bước giáo dục an toàn giao thông; Các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề giáo dục giao thông.

Tìm hiểu và phân tích các quan điểm lý luận thể hiện trong các chuyên khảo, sách, bài báo, công văn, nghị quyết, luật, tổng hợp, hệ thống hóa các nguồn tài liệu về lý thuyết và thực tiễn có liên quan đến công tác quản lý, quản lý hoạt động giáo dục ATGT và các tài liệu chuyên môn liên quan đến nội dung đề tài để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.

7.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn và phương pháp luận

7.2.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu

Mục đích: thăm dò ý kiến bằng hệ thống câu hỏi tìm hiểu về thực trạng hoạt động giáo dục ATGT, thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục ATGT cho học sinh tiểu học trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

Nội dung: về thực trạng nhận thức hoạt động giáo dục ATGT, thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục ATGT, yếu tố ảnh hưởng đến QL GD ATGT. Tìm hiểu về tính khả thi, tính cấp thiết của các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ATGT ở trường tiểu học. Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Công cụ: xây dựng các bảng hỏi nhằm thu thập thông tin từ các đối tượng khảo sát gồm: cán bộ quản lý cấp Phòng và cấp trường; tổ trưởng tổ chuyên môn, giáo viên tiểu học, phụ huynh học sinh, học sinh các trường tiểu học trên địa bàn thị xã Bến Cát đối với hoạt động giáo dục ATGT trong bối cảnh đổi mới giáo dục và tình trạng ATGT hiện nay trên địa bàn.

7.2.2.2. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động

Tổ chức phân tích một số bản kế hoạch năm học, báo cáo tổng kết năm học, hồ sơ tài liệu quản lý, phương tiện, … của cán bộ quản lý và giáo viên các trường tiểu học trên địa bàn thị xã bến Cát để thu thập thông tin thực tiễn có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

Tiến hành tìm hiểu, phân tích sản phẩm của quản lý hoạt động giáo dục ATGT (Hồ sơ quản lý, kế hoạch, biên bản, báo cáo, sơ kết, tổng kết, cách thức tổ chức, kiểm tra đánh giá …)

7.2.2.3. Phương pháp phỏng vấn

Thu thập thông tin về giáo dục ATGT và quản lý GD ATGT thông qua phỏng vấn sâu một số nhà QL (hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn, HS), một số GV giảng dạy về ATGT cho học sinh tiểu học tại thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương về những bất cập, hạn chế trong QL HĐ GDATGT cho học sinh tiểu học tại trường.

7.2.3. Các phương pháp xử lý số liệu thống kê toán học

  • Đề tài sử dụng phần mềm Excel hay SPSS 25.0, để tiến hành xử lý các số liệu thu thập, đánh giá thực trạng qua phỏng vấn, kiểm tra đánh giá hiệu quả các biện pháp.
  • Dùng một số công thức toán thống kê để xử lý kết quả nghiên cứu nhằm rút ra kết luận khoa học.
  • Thu thập thông tin từ các thống kê, sao lưu của sở GTVT và các phòng ban An toàn giao thông thị xã Bến Cát.

8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Về lý luận: Đề tài góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận về công tác quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học.

Về thực tiễn: Nhận xét, đánh giá đúng thực trạng quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Từ đó đề xuất các biện pháp quản lý quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học trên địa bàn.

9. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn trình bày thành 3 chương

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý giáo dục an toàn giao thông cho học sinh Tiểu học

Chương 2: Thực trạng công tác giáo dục ATGT và quản lý hoạt động giáo dục ATGT cho học sinh Tiểu học trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương

Chương 3: Các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC AN TOÀN GIAO THÔNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

1.1.1. Ở nước ngoài

Trong xu thế toàn cầu hóa, các nước đã và đang phát triển kinh tế luôn quan tâm đến phát triển cơ sở hạ tầng, để phục vụ cho việc phát triển kinh tế đặc biệt phát triển hệ thống giao thông đường thủy, đường hàng không đặc biệt là đường bộ phục vụ đời sống dân sinh. Để hoạt động giao thông của mỗi quốc gia được thông suốt và an toàn các nước đã quan tâm đến việc ban hành Luật và hướng dẫn giáo dục người dân thi hành luật, đặc biệt là giáo dục học sinh trong việc thực hiện đúng Luật giao thông, như ở:

Đức: Trường học an toàn giao thông tại Đức được áp dụng nhằm nâng cao hiểu biết cộng đồng về an toàn giao thông thông qua việc giáo dục trẻ em. Mục đích là dạy trẻ em cách ứng xử khi tham gia giao thông tốt hơn. Biện pháp này được áp dụng từ năm 1949 với sự hợp tác của công ty Shell Đức, các nhà chức trách giáo dục và cảnh sát. Giáo dục lý thuyết dựa trên các luật giao thông và các hành vi ứng xử được bổ sung bằng các bài tập thực hành trong khu vực học tập, thường tại sân trường hoặc một khu vực gần đấy. Tuy nhiên, điều quan trọng được đặt trên hết lại là việc đào tạo và kiểm tra các em trong vị trí là những người đi xe đạp. Giáo dục giao thông đường bộ tại Đức là phần chính thức trong giáo dục trường học, bao gồm trong chương trình giảng dạy của năm thứ ba và năm thứ tư. Công ty Shell cung cấp xe đạp, mũ bảo hiểm, các biển báo giao thông cho trẻ em tại những trường giao thông, phối hợp cùng với cảnh sát và các nhà chức trách giáo dục, cùng thúc đẩy chương trình giáo dục giao thông.

Nhật Bản: Nhật Bản rất chú trọng đó là công tác giáo dục an toàn giao thông. Chính quyền Nhật Bản xác định đây là nhiệm vụ của toàn xã hội, đòi hỏi người dân phải nghiêm túc tự giác thực hiện và liên tục duy trì. Công tác giáo dục ATGT còn được Nhật Bản tập trung ngay từ bậc tiểu học và áp dụng song song với tình hình thực tế. Các hoạt động tuyên truyền về giao thông ở Nhật Bản thu được hiệu quả một phần nhờ gắn liền với thực tiễn. Giáo dục trong trường học, gia đình, các tổ chức xã hội, thông qua đài phát thanh, truyền hình, báo chí với nội dung phù hợp với từng lứa tuổi. Nhờ vậy, tình trạng giao thông của Nhật Bản đã thay đổi theo hướng tích cực và trở thành một trong những quốc gia có hệ thống ATGT nhất trên thế giới.

USA: Người dân Mỹ có ý thức rất cao khi tham gia giao thông, họ chấp hành luật rất nghiêm chỉnh mà không cần đến sự tác động của cảnh sát. Các mục tiêu an toàn đường bộ đã được bao gồm trong các văn bản chính thức của các Mục tiêu Phát triển bền vững mới được thông qua bởi các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc tại New York. Kế hoạch giáo dục phổ biến an toàn giao thông mới (vừa được thông qua tại hội nghị thượng đỉnh Newyork tháng 12/2015) được triển khai đến toàn người dân. Trong đó, chú ý cao đến sự tham gia giao thông của trẻ em, người cao tuổi và người khuyết tật.

Russian: (theo CNN) Năm 2015, Hội Chữ thập đỏ Nga (RRC) đã có những tiến bộ đáng kể trong nỗ lực của họ với chính phủ Nga để tăng cường các quy định về bảo trợ trẻ em tại Liên bang Nga. Trong tháng tư, Ủy ban Nhân quyền của Tổng thống (HRC) đã trở thành một người ủng hộ quan trọng của công việc của RRC. Mối quan hệ này rất quan trọng để thúc đẩy mục tiêu của RRC về quản lý và giáo dục trẻ em & học sinh vềATGT.

Nhìn chung, qua các công trình nghiên cứu của các quốc gia trên thế giới cho thấy công tác quản lý cũng như việc tổ chức hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh với những nội dung, phương pháp, mục tiêu giáo dục và nhiều hình thức hoạt động giáo dục khác nhau.

1.1.2. Ở Việt Nam Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Công tác quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông ngày càng được sự quan tâm trong các bậc học nhằm đảm bảo cho học sinh được mạnh khỏe, an toàn đáp ứng với nhu cầu trong cuộc sống, trong học tập và sự văn minh của xã hội. Qua đó, có rất nhiều văn bản chỉ đạo và các công trình nghiên cứu trong nước đề cập đến vấn đề liên quan đến công tác quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông tại trường tiểu học, cụ thể:

Việt Nam là một nước đang phát triển. Xét trên phương diện ATGT cả nước trong 10 năm trở lại đây, tai nạn giao thông nói chung và đường bộ nói riêng có tỉ lệ hàng năm giảm dần, nhưng con số giảm còn rất nhỏ so với số người chết và bị thương. Vừa qua, theo ban ATGT quốc gia, Hội nghị tổng kết 5 năm công tác bảo đảm TTATGT giai đoạn 2011-2015 và định hướng giai đoạn 2016-2020 tại Hà Nội ngày 8/12/2015 cho thấy, công tác đảm bảo trật tự ATGT đã trở thành phong trào thi đua của các địa phương, giữa các địa phương, như một hiệu ứng dây chuyền của cả xã hội để kéo giảm TNGT. Ngoài ra, Phó Thủ tướng cũng đề nghị các địa phương đều phải tổ chức đánh giá tìm biện pháp căn cơ để toàn quốc kéo giảm số người chết tai nạn giao thông xuống 5.000 người trong giai đoạn 2016-2020.

Như vậy, vấn đề ATGT hiện nay theo mục tiêu đặt ra là vô cùng cấp thiết. Các chiến lược giáo dục ATGT cần triển khai hàng loạt để giáo dục ý thức đến người tham gia giao thông, đặc biệt là trong công tác giáo dục ý thức cho thế hệ trẻ trong các nhà trường.

Đối với bậc tiểu học là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, việc giáo dục an toàn giao thông cần được đặc biệt quan tâm và có nhiều ưu thế thuận lợi: học sinh tiểu học dễ dàng tiếp nhận và hình thành ý thức, thái độ, hành vi tốt về ATGT nếu công tác này tổ chức một cách sinh động phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của các em. Vì vậy GD ATGT là một nội dung không thể thiếu trong công tác quản lý nhà trường của người hiệu trưởng trường tiểu học trong bối cảnh hiện đại hoá, đô thị hoá ngày càng phát triển như hiện nay. Hiện nay chương trình GD ATGT đã được vào giảng dạy trong nhà trường Tiểu học, tuy nhiên chỉ là một môn học bổ sung vì vậy sự quan tâm của các nhà trường, của chính các GV chưa đúng mức, dẫn đến việc GD này không đủ để ý thức dần vào học sinh vì quá trình giáo dục nào cũng phải thường xuyên và đồng bộ. Do vậy những người hiệu trưởng các trường tiểu học cần phải coi đây là một nội dung quan trọng trong công tác nhà trường để góp phần giải quyết tận gốc vấn nạn giao thông hiện nay.

Bên cạnh các công văn, văn bản, kế hoạch của Bộ GD&ĐT, UBND Thành phố Hà Nội, Sở GD&ĐT Hà Nội như: Công văn số 5820/BGDĐT-CTHSSV về kế hoạch thực hiện công tác giáo dục an toàn giao thông trong trường học; Kế hoạch số 704/KH-BGDDT về triển khai công tác giáo dục pháp luật về an toàn giao thông năm học 2015-2016 trong toàn ngành giáo dục; Kế hoạch liên tịch số 9337/KHLT/BGDĐT-BCA- BGTVT -TWĐTN-ĐTHVN về tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, xử lý các vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông trong học sinh, sinh viên …. còn có một số công trình nghiên cứu đã được phổ biến rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng nhằm góp phần nâng cao ý thức tham gia giao thông cho người dân và đặc biệt là thanh niên, học sinh, bao gồm:

Nguyễn Thị Thanh Vân (2008): Biện pháp quản lý giáo dục an toàn giao thông của Hiệu trưởng các trường tiểu học quận Đống Đa thành phố Hà Nội đã đề xuất 8 giải pháp bao gồm tất cả các đối tượng: nhà trường, phụ huynh, học sinh, các lực lượng chức năng nhằm giáo dục ATGT cho học sinh tiểu học tại thành phố Hà Nội. (Nguyễn Thị Thanh Vân, 2008)

Nguyễn Thị Thanh Thảo (2012) là tác giả của luận văn Giáo dục ý thức chấp hành luật giao thông đường bộ cho học sinh trung học phổ thông trong giai đoạn hiện nay. Xác định bảo đảm ATGT cho học sinh là hết sức quan trọng trong mỗi năm học. Luận văn trình bày một cách có hệ thống cơ sở lý luận về ý thức chấp hành Luật giao thông đường bộ cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay. Làm rõ thực trạng khảo sát và đưa ra các giải pháp cơ bản tăng cường giáo dục ý thức chấp hành Luật Giao thông đường bộ cho học sinh THPT. (Nguyễn Thị Thanh Thảo, 2012)

Tác giả Vũ Thị Thảo (2017) đã có luận văn viết về đề tài Quản lý giáo dục an toàn giao thông cho học sinh các trường tiểu học quận Ngô Quyền thành phố Hải Phòng.Trong luận văn đã viết: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích đánh giá thực trạng QLGD ATGT đường bộ trong các trường Tiểu học quận Ngô Quyền thành phố Hải Phòng. Tác giả đã đề xuất 6 biện pháp QLGD ATGT, nhằm nâng cao chất lượng GDATGT cho học sinh trường tiểu học. (Vũ Thị Thảo, 2017)

Tóm lại: các công trình, bài viết trong và ngoài nước trên đây đã quan tâm đến việc giáo dục an toàn giao thông cho học sinh các cấp thông qua các văn bản quy định hướng dẫn, nhằm làm cho mọi người đặc biệt sinh viên, học sinh nhận thấy rất rõ tầm quan trọng của việc giáo dục an toàn giao thông trong nhà trường.

Các kết quả chỉ ra rằng: để nâng cao chất lượng của việc giáo dục an toàn giao thông và hiệu quả giáo dục toàn diện cho học sinh, người quản lý cần có những biện pháp quản lý giáo dục an toàn giao thông sâu sát và phù hợp với tình hình kinh tế xã hội quy hoạch đô thị và ý thức giao thông của người tham gia giao thông trong khu vực, đặc biệt là quan tâm giáo dục cho học sinh đầu cấp ở một số địa phương trong nước. Nếu quản lý tốt hoạt động giáo dục an toàn giao thông thì cũng là góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đây là vấn đề mang tính tương tác của những biện pháp mà trong đó giáo dục an toàn giao thông là một mảng không thể tách rời. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu chưa đề cập đến việc giáo dục an toàn giao thông ở trường tiểu học và quản lý giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học đặc biệt là trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

1.2. Các khái niệm cơ bản

1.2.1. Quản lý

Quản lý là một hoạt động được hình thành từ khi xã hội loài người có sự phân công lao động, con người có sự hợp tác với nhau hoặc cùng nhau hoạt động với những mục đích chung nào đó. Quản lý rất cần thiết cho tất cả mọi lĩnh vực hoạt động đời sống của con người. Ở đâu con người tạo lập nên nhóm xã hội là ở đó cần đến quản lý, dù đó là nhóm nhỏ, nhóm lớn, nhóm chính thức, nhóm không chính thức và bất kể nội dung hoạt động nhóm đó là gì. Có thể nói quản lý là một thuộc tính gắn liền với xã hội ở mọi giai đoạn phát triển của nó. K.Marx đã khẳng định: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ chế sản xuất… Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” (Nguyễn Văn Lê, 1983)

Điều đó cho thấy rằng hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công hợp tác lao động của xã hội loài người, nhằm đạt mục đích nhất định. Đây chính là hoạt động giúp cho người đứng đầu tổ chức phối hợp sự nỗ lực của các thành viên trong nhóm, trong cộng đồng để đạt mục tiêu đề ra. Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Hoạt động quản lý còn là hoạt động lao động để điều khiển lao động, một loại lao động có ý nghĩa tất yếu và vĩnh hằng với chức năng điều khiển mọi hoạt động xã hội về kinh tế, quân sự, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục.

Có nhiều tác giả với những phát biểu khác nhau về quản lý, cụ thể như:

Tác giả Nguyễn Thị Liên Diệp cho rằng “Quản lý là một hoạt động cần thiết khi con người kết hợp với nhau trong các tổ chức, nhằm đạt được những mục tiêu chung. Như vậy, hoạt động quản lý là hoạt động chỉ phát sinh khi con người kết hợp với nhau thành một tập thể” (Nguyễn Thị Liên Diệp, 1993).

W.Taylor, người đầu tiên nghiên cứu quá trình lao động đã nêu: “Quản lý là một nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm như thế nào để đạt hiệu quả tốt nhất và rẻ nhất” (Hà Sỹ Hồ, 1994).

H.Koonts cho rằng “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nhằm đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực cá nhân để đạt được những mục đích của nhóm. Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được những mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất” (Harol, 1994).

Nhà lý luận quản lý kinh tế người Pháp H.Fayon viết “Quản lý hành chính là dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức điều khiển, phối hợp và kiểm tra” (Nguyễn Thị Doan, 1996).

Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng “Quản lý là thực hiện hai quá trình liên hệ chặt chẽ với nhau: Quản và lý. Đó là hoạt động chăm sóc, giữ gìn (quản) và sửa sang, sắp xếp (lý) để cho cộng đồng theo sự phân công hợp tác lao động được ổn định và phát triển”. (Đặng Quốc Bảo, 1997).

Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng có thể hiểu: Quản lý là một loại lao động để điều khiển lao động; Quản lý là một hệ thống xã hội trên nhiều phương diện (Quản lý hành chính, Quản lý văn hóa, Quản lý sản xuất…); Quản lý là một tổ hợp phương pháp tạo nên vận hành của hệ nhằm thực hiện các mục tiêu; Quản lý tồn tại với tư cách là một hệ thống gồm hai phân hệ chủ thể quản lý và khách thể quản lý.

Như vậy: Quản lý là hiện tượng tồn tại trong mọi chế độ xã hội. Bất kỳ ở đâu, lúc nào con người có nhu cầu kết hợp với nhau để đạt mục đích chung đều xuất hiện quản lý. Quản lý trong xã hội nói chung là quá trình tổ chức điều hành các hoạt động nhằm đạt được những mục tiêu và yêu cầu nhất định dựa trên những quy luật khách quan. Xã hội càng phát triển, nhu cầu và chất lượng quản lý càng cao.

1.2.2. Quản lý giáo dục Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Quản lý giáo dục là một bộ phận của quản lý xã hội. Khái niệm QLGD được hiểu khá rộng trong nhiều phạm vi, từ vĩ mô đến vi mô cũng có những định nghĩa sau:

QLGD là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý, nhằm đưa hoạt động giáo dục tới mục tiêu đã định trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng những quy luật khách quan của hệ thống giáo dục quốc dân. (Đinh Văn Vang, 1996).

QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống (từ Bộ, Sở và Phòng GD&ĐT đến trường), nhằm mục đích đảm bảo giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hòa của họ trên cơ sở nhận thức và sử dụng các quy luật chung vốn có của chủ nghĩa xã hội cũng như những quy luật khách quan của quá trình dạy học – giáo dục, của sự phát triển về thể chất, về tinh thần của các thế hệ (Trần Kiểm, 1997).

QLGD là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm tổ chức, điều khiển và quản lý hoạt động giáo dục của những người làm công tác giáo dục (khách thể quản lý) nhằm thực hiện mục tiêu, kế hoạch giáo dục đặt ra. (Nguyễn Ngọc Quang, 1998).

Như vậy, các nhà nghiên cứu QLGD đều thống nhất quan niệm: “QLGD nói chung (quản lý trường học nói riêng) là hệ thống những tác động có mục đích, có khoa học, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”. ( Trần Kiểm, 1997).

QLGD cũng là thực hiện các chức năng quản lý trong công tác giáo dục, bao gồm kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra và đánh giá các quá trình giáo dục. Thực chất QLGD là quá trình tổ chức, điều chỉnh các yếu tố cơ bản sau: Đường lối, chiến lược và chính sách giáo dục của đất nước; Tập thể các nhà sư phạm (Cán bộ QLGD, giáo viên), trẻ em, gia đình, các đoàn thể và xã hội; Điều kiện cơ sở vật chất (bàn ghế, trường lớp, đồ dùng trang thiết bị dạy học, đồ chơi…).

Tóm lại, QLGD là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt được kết quả mong muốn (mục tiêu) một cách có hiệu quả nhất.

1.2.3. Quản lý trường tiểu học Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Trường tiểu học: Là một cơ sở giáo dục của cấp tiểu học, là cấp học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Trường tiểu học có các lớp từ lớp 1 đến lớp 5 và có tư cách pháp nhân và con dấu riêng. Trong thực tế còn có trường phổ thông có nhiều cấp học: Trường phổ thông cơ sở là trường ghép giữa tiểu học và trung học cơ sở, có từ lớp 1 đến lớp 9; Trường trung học cấp I, II, III là trường ghép giữa tiểu học và trung học, có từ lớp 1 đến lớp 12. Việc thống kê các trường có nhiều cấp học có quy định riêng. Loại hình trường gồm có trường công lập, trường dân lập và trường tư thục: Trường công lập là trường do Nhà nước thành lập, đầu tư xây dựng, bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên; Trường dân lập là trường do cộng đồng dân cư ở cơ sở thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động; Trường tư thục là trường do các cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động.

Quản lý trường tiểu học:

Quản lý, lãnh đạo nhà trường là quản lý, lãnh đạo hoạt động của cán bộ, giáo viên, công nhân viên, học sinh trong trường. Nhà trường là đơn vị cơ sở trực tiếp giáo dục – đào tạo, hoạt động của nhà trường rất đa dạng, phong phú và phức tạp, nên việc quản lý, lãnh đạo chặt chẽ, khoa học sẽ bảo đảm đoàn kết thống nhất được mọi lực lượng, tạo nên sức mạnh đồng bộ nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục đích giáo dục. (Hồ Văn Liên, 2006).

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì “quản lý nhà trường là tập hợp những tác động tối ưu của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và cán bộ khác, nhằm tận dụng các nguồn dự trữ do nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp và lao động xây dựng vốn tự có, hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường, mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới”. (Nguyễn Ngọc Quang, 1998).

Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh”. (Phạm Minh Hạc, 1986). Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Quản lý nhà trường là một hoạt động được thực hiện trên cơ sở những quy luật chung của quản lý, đồng thời cũng có những nét đặc thù riêng. Quản lý nhà trường khác với các loại quản lý xã hội, được quy định bởi bản chất hoạt động sư phạm của người giáo viên, bản chất của quá trình dạy học, giáo dục, trong đó mọi thành viên của nhà trường vừa là đối tượng quản lý vừa là chủ thể hoạt động của bản thân mình. Sản phẩm tạo ra của nhà trường là nhân cách của người học được hình thành trong quá trình học tập, tu dưỡng và rèn luyện theo yêu cầu của xã hội và được xã hội thừa nhận dục. (Hồ Văn Liên, 2006).

Hoạt động quản lý nhà trường là hoạt động quản lý toàn diện nhằm hoàn thiện và phát triển nhân cách thế hệ trẻ một cách hợp lý, hợp quy luật, khoa học và hiệu quả. Hiệu quả giáo dục trong nhà trường phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của nhà trường, kể cả các lực lượng hỗ trợ như các đoàn thể trong và ngoài nhà trường. Muốn có hiệu quả trong công tác quản lý, người quản lý phải xem xét đến những điều kiện đặc thù của nhà trường, phải chú trọng đến việc cải tiến công tác quản lý giáo dục.

Theo Hồ Văn Liên “Công tác quản lý nhà trường nhằm đưa nhà trường từ trạng thái đang có tiến lên một trạng thái phát triển mới, bằng phương thức xây dựng và phát triển mạnh mẽ các nguồn lực giáo dục và hướng các nguồn lực đó vào phục vụ cho việc tăng cường chất lượng giáo dục.” (Hồ Văn Liên, 2006)

Tóm lại, quản lý trường tiểu học là thực hiện chỉ đạo, xây dựng đội ngũ giáo viên, tập thể học sinh tiểu học, quản lý việc học tập của học sinh tiểu học, quản lý cơ sở vật chất theo quy định, quản lý nguồn tài chính của Hiệu trưởng trường tiểu học nhằm tạo điều kiện cho hoạt động giảng dạy, học tập giáo dục của nhà trường đạt kết quả tốt nhất.

1.2.4. Giáo dục an toàn giao thông

An toàn giao thông:

Theo tác giả Đỗ Đình Hoà (Học viện cảnh sát nhân dân) thì: “An toàn giao thông là sự việc đảm bảo không có những việc xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của con người. Khi các đối tượng tham gia giao thông, đang hoạt động trên địa bàn giao thông công cộng tuân thủ các quy tắc an toàn giao thông, không có sự cố gây thiệt hại về người và tài sản cho xã hội” (Đỗ Đình Hòa, 2006).

Đây là một khái niệm có tính chất khái quát cao và có ý nghĩa khoa học vì an toàn giao thông luôn gắn với hành vi của con người trong lĩnh vực giao thông song không nhất thiết phải có phương tiện giao thông (VD: Đi bộ trên vỉa hè). Quan niệm như vậy sẽ khái quát hơn so với việc coi an toàn giao thông là “bảo đảm an toàn khi đi trên các phương tiện giao thông” như một số tác giả khác.

An toàn giao thông phải luôn gắn liền với mọi người không kể ở đâu, lúc nào khi tham gia giao thông. An toàn giao thông gồm : An toàn giao thông đường bộ; An toàn giao thông đường sắt; An toàn giao thông đường thuỷ (gồm nội thuỷ và hàng hải); An toàn giao thông hàng không. Bên cạnh đó còn có những vấn đề an toàn giao thông hỗn hợp như đường sắt và đường bộ. Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Như vậy, an toàn giao thông là các hành vi văn hóa khi tham gia giao thông bao gồm việc chấp hành luật giao thông, có ý thức khi tham gia giao thông. An toàn giao thông còn là sự an toàn đối với người tham gia lưu thông trên các phương tiện đường bộ, hàng hải, hàng không, là cư xử phù hợp theo đúng quy định của Luật Giao thông khi lưu thông trên các phương tiện giao thông.

Giáo dục an toàn giáo thông:

Giáo dục an toàn giao thông là quá trình giao tiếp giữa người dạy và người học để chia xẻ những kiến thức, kinh nghiệm trong lĩnh vực giao thông, nhằm định hướng, kêu gọi ý thức giao thông cao nhất cho mỗi cá nhân người học. Ở điều kiện kinh tế xã hội và nhu cầu hiện nay, giáo dục ATGT cũng có thể xem là một tính cộng đồng khi tất cả các hoạt động xã hội đều có lồng ghép sự kêu gọi ý thức tham gia giao thông ở mỗi người.

Giáo dục ATGT là quá trình hình thành và phát triển kĩ năng tham gia giao thông an toàn dưới ảnh hưởng của tất cả các hoạt động từ bên ngoài, được thực hiện một cách có ý thức của con người trong nhà trường, gia đình và ngoài xã hội. Ví dụ: Ảnh hưởng của các hoạt động đa dạng nội khóa, ngoại khóa của nhà trường; ảnh hưởng của lối dạy bảo, nếp sống trong gia đình; ảnh hưởng của sách vở, tạp chí; ảnh hưởng của những tấm gương của người khác;…

Giáo dục ATGT còn được hiểu là hệ thống những tác động có mục đích xác định được tổ chức một cách khoa học (có kế hoạch, có phương pháp, có hệ thống) của nhà trường nhằm phát triển kĩ năng và ý thức tham gia giao thông cho học sinh. lứa tuổi học sinh tiểu học, giáo dục ATGT được hiểu là quá trình truyền đạt những kiến thức và kỹ năng cần thiết về giao thông để mỗi cá thể học sinh khi tham gia giao thông đều có sự định hướng, ý thức hình thành và sự chấp hành, tuân thủ các luật giao thông đường bộ do Nhà nước quy định. Để từ đó làm căn cứ cho việc phát triển ý thức học tập hành vi giao thông tự chủ cá nhân các em HS sau này.

1.2.5. Giáo dục an toàn giao thông cho học sinh Tiểu học

Giáo dục an toàn giao thông trong nhà trường Tiểuhọc là cung cấp cho các em học sinh tiểu học kiến thức pháp luật về An toàn giao thông cho học sinh tiểu học khi tham gia giao thông, giúp nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm trong việc đảm bảo TTATGT trên địa bàn.

Hướng dẫn cho học sinh tiểu học tham gia giao thông thói quen cư xử có văn hóa, đúng pháp luật, giúp các em tránh được các hành vi tùy tiện vi phạm qui tắc giao thông, hình thành ý thức tự giác tuân thủ pháp luật khi tham gia giao thông, tạo môi trường giao thông trật tự an toàn, văn minh thân thiện bằng chương trình giáo dục an toàn giao thông do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

1.2.6. Quản lý giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Cũng như quản lý giáo dục nói chung, quản lý giáo dục an toàn giao thông là hoạt động có ý thức của con người nhằm theo đuổi những mục đích của mình. Mục đích giáo dục giáo dục an toàn giao thông cho học sinh cũng chính là một trong những mục đích của quản lý, đây là mục đích có tính khách quan. Nhà quản lý cùng với đội ngũ giáo viên, học sinh, các lực lượng xã hội, vv… bằng hành động của mình hiện thực hóa mục đích đó trong hiện thực.

Như vậy, “QLGD an toàn giao thông được hiểu là hệ thống những tác động tự giác, có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật của chủ quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực ượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục an toàn giao thông cho học sinh của nhà trường“.

Từ đây ta có thể khái quát QLGD an toàn giao thông cho học sinh tiểu học là sự tác động chủ đích, có căn cứ khoa học, hợp quy luật và phù hợp các điều kiện khách quan… của chủ thể quản lý (Hiệu trưởng trường tiểu học) tới đối tượng quản lý (Đội ngũ giáo viên, nhân viên, cha mẹ học sinh) nhằm phát huy sức mạnh các nguồn giáo dục, từ đó đảm bảo các hoạt động của tổ chức hệ thống giáo dục đạt được mục tiêu giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học với chất lượng, hiệu quả cao nhất.

1.3. Lý luận giáo dục an toàn giao thông cho học sinh Tiểu học

Nhằm ngăn chặn, đẩy lùi các vi phạm an toàn giao thông trong học sinh, góp phần thực hiện hiệu quả công tác giáo dục ATGT, Bộ GD-ĐT đã triển khai công tác giáo dục HSSV nắm vững các quy định của pháp luật khi tham gia giao thông. Theo đó, các nội dung trọng tâm là các quy tắc giao thông đường bộ phù hợp với cấp học; quy định về đội mũ bảo hiểm khi đi mô tô, xe gắn máy, xe đạp máy. Ngoài ra còn phổ biến cho HSSV các kiến thức về bảo đảm an toàn khi tham gia giao thông; cảnh báo các lỗi vi phạm thường mắc phải, nguy cơ tai nạn và hậu quả phải gánh chịu khi vi phạm. Các sở GD-ĐT đã thực hiện chỉ đạo quyết liệt việc bắt buộc đội mũ bảo hiểm cho HS từ 6 tuổi trở lên; quy định rõ trách nhiệm của hiệu trưởng nhà trường trong việc triển khai và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện. Tổ chức tập huấn cho giáo viên; rà soát lại chương trình, nội dung, phương pháp, thời lượng giảng dạy về trật tự ATGT đang thực hiện…

Các trường thực hiện đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy ATGT cho học sinh trong trường học; lấy thái độ, hành vi về thực hiện ATGT của HS là tiêu chí đánh giá rèn luyện, xếp loại. Giáo viên chủ nhiệm nhắc nhở, có hình thức kiểm tra, giám sát hàng ngày đối với HS, thực hiện nghiêm túc kế hoạch giảng dạy ATGT theo quy định, giáo viên lồng ghép nội dung giáo dục ATGT trong các môn học.

Cùng với đó, việc yêu cầu sự vào cuộc của các cấp chính quyền, sự phối kết hợp của CMHS cũng được quan tâm. Hàng năm, các nhà trường tổ chức kí kết các văn bản cam kết giữa các lực lượng giáo dục trong việc thực thi giáo dục ATGT cho học sinh. Theo đó, trách nhiệm giữa các bên liên quan được quy định cụ thể nhằm đạt được mục tiêu chung: hình thành ý thức tham gia giao thông an toàn cho học sinh nhà trường.

1.3.1. Đặc điểm của học sinh Tiểu học Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Học sinh tiểu học là lứa tuổi thiếu nhi (6 -11 tuổi) với đặc trưng nổi bật là sự nhảy vọt về sinh lý. Đây là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ nhưng không đồng đều về mặt cơ thể. Học sinh tiểu học là một thực thể hồn nhiên, ngây thơ và trong sáng. Sự thay đổi về chất của lứa tuổi học sinh tiểu học đã làm cho các em có những đặc điểm nhân cách khác với các lứa tuổi khác. Tuy nhiên, lứa học sinh tiểu học chưa ý thức được hạn chế về sức lực của mình. Do đó, nhà sư phạm cần chú ý đến đặc điểm của HS để có những tác động giáo dục ATGT cho phù hợp.

Nhận thức và sự phát triển trí tuệ ở học sinh tiểu học:

Bậc mầm non hoạt động thường xuyên của trẻ là những hoạt động vui chơi, các em chưa ý thức được là bản thân mình học gì, chủ yếu là vừa học vừa chơi theo sự hướng dẫn của giáo viên. Đến lứa tuổi tiểu học thì những hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi rõ ràng về chất, chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Nhưng đi đôi với hoạt động học tập ở các em cũng còn diễn ra các hoạt động khác như: Hoạt động vui chơi, hoạt động lao động, hoạt động xã hội. Các nhà khoa học nghiên cứu và đã xác định quá trình phát triển trí tuệ hay còn gọi là phát triển nhận thức của học sinh tiểu học là 2 quá trình từ cảm tính đến lý tính.

Nhận thức cảm tính là do các cơ quan cảm giác: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác đều phát triển và đang trong quá trình hoàn thiện. Và cơ quan tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan, đến cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm.

Nhận thức lý tính gồm tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan hành động. Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quát. Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết khái quát hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông học sinh tiểu học. Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của cácem

Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể.

Trí nhớ: Ghi nhớ có chủ định được hình thành và phát triển dần trong quá trình học tập và được hình thành rõ nét ở lứa tuổi. Hai hình thức ghi nhớ chủ định và ghi nhớ không chủ định tồn tại song song, chuyển hóa, bổ sung cho nhau. những năm cuối của giai đoạn này, trí nhớ có sự tham gia tích cực của ngôn ngữ.

Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của các em…

Tóm lại, phát triển nhận thức cho học sinh tiểu học là yêu cầu quan trọng đối với việc giáo dục ATGT cho học sinh. Tuy nhiên, sự phát triển nhận thức lứa tuổi này đòi hỏi ở nhà giáo dục sự kiên trì bền bỉ trong công tác giáo dục, muốn vậy thì trước hết mỗi bậc cha mẹ, thầy cô phải trở thành tấm gương về nghị lực trong mắt trẻ nếu không chú ý đến đặc điểm này sẽ không thể phát huy được tính tích cực chủ động của HS.

Tình cảm ở học sinh tiểu học:

Theo N.S.Leitec và P.I. Iakobson với các kết quả đã nghiên cứu thì đứa trẻ 7 tuổi thường chưa có khả năng tri giác đúng đắn những biểu hiện giận dữ, sự sợ hãi và nỗi kinh hoàng của người khác. Do sự thiếu hoàn thiện trong tri giác và sự hiểu biết những tình cảm mà làm cho học sinh tiểu học thường hay bắt chước máy móc người lớn trong việc biểu hiện tình cảm của mình. Vậy nên có thể nói tình cảm của học sinh tiểu học chưa bền vững, dễ thay đổi. Khi đó, phương pháp giáo dục ATGT hiệu quả cho trẻ được kết hợp với các đặc tính trên, phát triển theo từng khối lớp đến từng em theo những kỹ năng phù hợp lứa tuổi. Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Nhân cách ở học sinh tiểu học:

Học sinh tiểu học là một thực thể hồn nhiên, ngây thơ và trong sáng. Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành. Nhìn chung việc hình thành nhân cách của học sinh tiểu học mang những đặc điểm cơ bản sau: Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh thể và hồn nhiên, luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng; những năng lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt. Việc hình thành nhân cách sẽ được hoàn thiện dần cùng với tiến trình phát triển của mình. Giáo dục ATGT cho học sinh lứa tuổi hình thành nhân cách này là vấn đề rất phức tạp nhưng không phải nan giải.

Tóm lại, học sinh tiểu học hồn nhiên, trong sáng, dễ thích nghi và tiếp nhận cái mới, luôn hướng tới tương lai nhưng các em chưa đủ ý thức, chưa đủ phẩm chất và năng lực như một công dân trong xã hội mà các em luôn cần sự bảo trợ, giúp đỡ, định hướng của người lớn, của gia đình, nhà trường và xã hội.

1.3.2. Mục đích, ý nghĩa của hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học

Với mục tiêu giáo dục an toàn giao thông ở trường tiểu học là một bộ phận quan trọng của quá trình giáo dục nói chung. Giáo dục an toàn giao thông góp phần thực hiện, mục đích chung của quá trình giáo dục, hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu nhưng rất quan trọng của nhân cách người công dân để các em nghiêm túc tuân thủ luật pháp, hiểu được tầm quan trọng của vấn đề ATGT.

Giáo dục để học sinh tiểu học có những hiểu biết cần thiết nhất phù hợp với từng độ tuổi để có thể vận dụng trong đời sống để bảo đảm an toàn khi tham gia giao thông; định hình được kỹ năng cơ bản để bảo đảm an toàn, có ý thức chấp hành quy định của Luật và có thái độ đúng đắn với những hành vi đúng và chưa đúng của bản thân và mọi người xung quanh.(Hội thảo quốc tế)

Giáo dục an toàn giao thông ở Tiểu học nhằm đạt được mục đích sau:

  • Giúp học sinh phát triển nhận thức an toàn giao thông và các kỹ năng thực tế để áp dụng vào các hành vi hàng ngày khi các em đi trên đường. Học sinh phải biết về luật và hệ thống phương tiện giao thông
  • Từng bước xây dựng thói quen ứng xử đúng pháp luật, có văn hoá, để các em dần xoá bỏ những thói quen tuỳ tiện vi phạm quy tắc giao thông, hình thành ý thức tự giác tuân thủ pháp luật khi tham gia giao thông góp phần xây dựng môi trường giao thông trật tự, an toàn, văn minh, thân thiện. Đồng thời có thái độ không đồng tình với những hành vi vi phạm luật giao thông.
  • Hướng dẫn học sinh biết cách phòng tránh tai nạn giao thông khi đi trên đường phố có các tình huống phức tạp, biết lựa chọn đường đi bảo đảm an toàn và có thái độ ứng xử văn minh khi tham gia giao thông.

1.3.3. Nội dung giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Giáo dục an toàn giao thông cho các em học sinh tiểu học nhằm xây dựng thức giao thông cho các em từ nhỏ, hình thành những thói quen tốt sau này. Vì vậy, nội dung giáo dục pháp luật về an toàn giao thông cho học sinh tập trung nâng cao về nhận thức pháp luật và tâm lý pháp luật cho các em, cụ thể là:

  • Bám sát nội dung của Luật giao thông đường bộ (Đã được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2001) và Chủ tịch nước ký sắc lệnh ban hành ngày 12/07/2001, cùng những nghị định của Thủ tướng chính phủ, các văn bản dưới luật khác liên quan đến đảm bảo an toàn giao thông. Truyền thụ cho học sinh những hiểu biết có tính phổ biến, cần thiết về luật giao thông đường bộ và những quy định về giao thông đường sắt, đường thuỷ một cách dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với nhận thức của các em.
  • Lấy việc hình thành kỹ năng, hành vi đúng làm cơ bản. Giúp cho học sinh có hành vi đúng và biết cách xử lý các tình huống giao thông theo quy định của Luật giao thông đường bộ, khi đi đường học sinh không cần thuộc câu chữ trong luật nhưng có hành vi đúng theo quy định của Luật Giao thông đường bộ.
  • Dạy từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó theo sự phát triển nhận thức của trẻ em, có nội dung trùng lặp (sự lặp lại) nhằm củng cố khắc sâu thêm và tăng cường rèn luyện kỹ năng.
  • Giáo dục an toàn giao thông xoay quanh các nội dung sau: Đi bộ và qua đường an toàn trên đường phố, trục lộ giao thông; An toàn khi ngồi trên xe máy, xe đạp; Cách đi xe đạp an toàn trên đường phố (kỹ năng đi xe an toàn); An toàn khi đi trên các phương tiện giao thông công cộng; Hiểu biết các hiệu lệnh điều khiển và chỉ huy giao thông (Điều khiển giao thông của cảnh sát giao thông); Đèn tín hiệu giao thông, biển báo hiệu giao thông, vạch kẻ trên đường; Những điều kiện an toàn, chưa an toàn của đường phố; Các loại đường giao thông và phương tiện giao thông; Tìm hiểu các nguyên nhân cơ bản gây tai nạn giao thông, cách phòng tránh tai nạn giao thông, trách nhiệm của học sinh trong việc đảm bảo an toàn giao thông.

1.3.4. Các hình thức giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Trong các trường Tiểu học hiện nay, giáo dục ATGT được tiến hành theo một số hình thức chủ yếu, sau:

Dạy, học ATGT theo tài liệu của Bộ GD&ĐT phối hợp với UBATGT Quốc gia biên soạn từ lớp 1 – lớp5:

Điều 6 Luật giao thông đường bộ quy định: “Cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo có trách nhiệm đưa pháp luật giao thông đường bộ vào giảng dạy trong nhà trường phù hợp với các cấp học ngành học.”

Nghị quyết 32/2007/NQ-CP ngày 29/6/2007của Chính phủ về một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế TNGT và ùn tắc GT: BộGD&ĐT có trách nhiệm: Ban hành chương trình GDTTATGT phù hợp trong nhà trường, tăng thời lượng giảng dạy chính khóa, các hoạt động ngoại khóa về TTATGT.

Từ năm học 2008 – 2009, bộ sách ATGT đưa vào chương trình giáo dục ATGT, gồm có 6 chủ đề được biên soạn riêng phù hợp với từng khối lớp với những nội dung và hình ảnh phong phú, đa dạng.

Bộ sách giáo khoa ATGT đã được cải biên nội dung mới, được in và nộp lưu chiểu vào tháng 4/ 2018. Đến đầu học 2018 – 2019 đưa vào giảng dạy trong trường tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5. Nội dung giáo dục xoay quanh quanh 5 chủ đề, có các bài học riêng cho từng khối lớp.

Bảng 1.1. Hệ thống các bài học về văn hóa giao thông mới từ năm học 2018 – 2019

Trên cơ sở các quy định trên, trong những năm qua, ngành Giáo dục đã triển khai biên soạn và đưa vào giảng dạy bộ tài liệu giáo dục an toàn giao thông cho học sinh đối với tất cả các bậc học. Cụ thể đối với Tiểu học, từ lớp 1 đến lớp 5 mỗi lớp có 9 bài học về ATGT trong Tài liệu Giáo dục ATGT. Nội dung bài học được hệ thống, hình ảnh hóa một cách khoa học và sinh động, gắn với thực tế, giúp học sinh dễ hiểu, dễ tiếp thu, được biên soạn riêng cho từng lớp, mỗi lớp có chung chủ đề nhưng nội dung bài học khác nhau phù hợp với lứa tuổi của HS ở mỗi lớp.

Ngoài các tài liệu trên, hiện nay Quỹ TOYOTA Việt Nam đang phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai giáo dục ATGT cho học sinh lớp 1 bằng các nhân vật hoạt hình Rùa và Thỏ và Công ty TOYOTA Việt Nam triển khai thí điểm Sách ATGT cho nụ cười trẻ thơ do Honda tài trợ với 12 bài học bằng hình ảnh cho học sinh lớp 3 và triển khai tại 4 tỉnh/tp: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Dương, TP.HCM.

Hiện nay phương pháp giảng dạy ở bậc tiểu học đã được đổi mới không nặng về lý thuyết, cần được vận dụng triệt để trong giảng dạy về an toàn giao thông. Cụ thể: Dạy học tích cực với những hình thức hoạt động nhẹ nhàng sinh động trong từng bài dạy nhất là những bài học về an toàn giao thông là một nội dung khô khan đơn điệu dễ nhàm chán. Nhằm giúp các thầy giáo, cô giáo có thể thực hiện đổi mới phương pháp dạy học về ATGT, những bài dạy học gợi ý trong sách được trình bày theo cấu trúc sau:

  • Mục tiêu bài học: yêu cầu gồm kiến thức, kĩ năng và thái độ mà HS cần đạt được sau mỗi bài học. GV cần tập trung vào những mục tiêu này để thực hiện bàidạy cho đạt được mục tiêu đề ra. Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát
  • Chuẩn bị: là phần mà cả GV và HS phải chuẩn bị đồ dùng dạy – học và các điều kiện cần thiết cho tiết học.
  • Các hoạt động dạy học chủ yếu: Đây là những bước làm việc trong suốt tiết học của GV và HS bao gồm những hoạt động dạy học chủ yếu, cụ thể trong một tiết học nhằm đạt được mục tiêu của bài học. Những hoạt động này có tính chất gợi ý; tuỳ theo đặc điểm về nhận thức của HS ở trường, lớp mình và tình trạng giao thông ở địa phương mà GV lựa chọn các hoạt động dạy học phù hợp.

Thực hiện dạy lồng ghép trong các môn học văn hóa: Đạo đức; TNXH, Khoa học:

Dạy lồng ghép có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học các môn học như: lồng ghép giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông… vào các môn học có liên quan như Đạo đức; TNXH, Khoa học… Cụ thể trong chương trình Tiểu học có:

Lớp 1: 3 tiết trong môn Tự nhiên – Xã hội và Đạo đức . Lớp 2: Thời lượng: 2 tiết trong môn Tự nhiên – Xã hội. Lớp 3: 1 tiết trong môn Tự nhiên – Xã hội.

Lớp 4: 1 tiết ở chủ đề Con người và sức khỏe trong môn Khoa học; 2 tiết trong môn Đạo đức.

Lớp 5: 1 tiết ở chủ đề Con người và sức khỏe trong môn Khoa học.

Tổ chức thông qua hoạt động GDNGLL: Tổ chức hội thi vẽ tranh, hội thi học tốt thể hiện những hiểu biết về ATGT; Tổ chức sân chơi về ATGT nhằm thực hành kỹ năng ATGT đường bộ; Tổ chức ký cam kết thực hiện ATGT giữa trường, học sinh, gia đình; Sân khấu hóa: tổ chức luyện tập và diễn những tiểu phẩm vui; Học sinh tham gia thi Giao thông thông minh trên trang web: http://gttm.go.vn/ Cuộc thi Giao thông thông minh trên Internet là một hoạt động nhằm giáo dục kiến thức, kỹ năng, thay đổi nhận thức, hành vi của học sinh, sinh viên và các đối tượng khác khi tham gia giao thông, góp phần xây dựng văn hóa giao thông.

1.3.5. Điều kiện phương tiện giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học

Bộ GD&ĐT đã ban hành tài liệu về GDATGT cho học sinh tiểu học các trường. Các trường có kế hoạch mua sắm các tài liệu, thiết bị dạy học cho trường theo đúng quy định hiện hành: Sách giáo khoa, văn bản quy định về Luật Giao thông và quản lý ATGT; Tài liệu giáo dục an toàn giao thông cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 5; Bộ tranh an toàn giao thông; Sa bàn nút giao thông, mô hình tín hiệu giao thông; Sách/tranh/đĩa do Quỹ Toyota tài trợ; Tranh/sách do Honda tài trợ; Đĩa hình tiết dạy mẫu về ATGT; Phối hợp với địa phương công an, tổ chức đoàn hội.

1.3.6. Kiểm tra – đánh giá kết quả hoạt động giáo dục an toàn giao thông trong trường tiểu học

Kiểm tra – đánh giá là một trong những điều kiện quan trọng giúp giáo viên và cán bộ quản lý biết được việc đã làm được và chưa làm được, cũng như có phương án điều chỉnh phù hợp, kịp thời trong từng hoạt động nhằm đạt mục tiêu đề ra. Chính vì vậy, trong hoạt động giáo dục an toàn giáo thông, việc kiểm tra – đánh giá cần phải có tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động giáo dục ATGT, phải thường xuyên kiểm tra nhiệm vụ của các bộ phận giáo viên, nhân viên, các bộ phận khác tham gia hoạt động giáo dục ATGT, phải định kỳ đánh giá rút kinh nghiệm hoạt động, cũng như thực hiện tốt việc sơ kết, tổng kết hằng năm và kiểm tra kết quả giáo dục ATGT ở mỗi học sinh trong nhà trường.

1.4. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh Tiểu học Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

1.4.1. Yêu cầu đối với quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh Tiểu học

Hiệu trưởng là người đứng đầu nhà trường, đồng thời cũng là nhà giáo hết lòng yêu mến trẻ, sẵn sàng cống hiến trí tuệ và sức lực của mình cho việc đào tạo thế hệ trẻ của địa phương thành những người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng. Vì vậy, người Hiệu cần thường xuyên nắm thông tin và có những quyết định kịp thời về hoạt động GDATGT cho học sinh không để những hiện tượng thiếu trách nhiệm, phản sư phạm xảy ra hoặc tiếp diễn làm tổn hại đến chất lượng giáo dục thế hệ trẻ.

Trong công tác quản lý người Hiệu trưởng cần bám sát mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, hình thức GDATGT cho học sinh để triển khai thực hiện có hiệu quả hoạt động này. Đồng thời xem xét các điều kiện và đánh giá kết quả hoạt động GDATGT để có nhưỡng biện pháp hữu hiệu trong GD học sinh của trường.

1.4.2. Chức năng nhiệm vụ của Hiệu trưởng quản lý giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Căn cứ nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng trường tiểu học được quy định tại Khoản 5 Điều 20 Thông tư 41/2010/TT-BGDĐT về Điều lệ Trường tiểu học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành người Hiệu trưởng cần thực hiện tốt chức năng quản lý: công tác lập kế hoạch, triển khai kế hoạch, lãnh đạo chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch và kiểm tra đánh giá việc thực hiện kế hoạch giáo dục nhà trường đề ra trong đó có kế hoạch giáo dục ATGT cho học sinh. Nhiệm vụ của Hiệu trưởng trường tiểu học trong quản lý hoạt động giáo dục ATGT thực hiện các nội dung:

  • Lập kế hoạch giáo dục học sinh trong năm về giáo dục ATGT.
  • Triển khai thực hiện có hiệu quả các hoạt động tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa cho học sinh theo kế hoạch của Sở Giáo dục và Đào tạo.
  • Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy an toàn giao thông trong trường học; lấy thái độ, hành vi về thực hiện an toàn giao thông của học sinh là tiêu chí đánh giá rèn luyện, xếp loại.
  • Yêu cầu phụ huynh học sinh ký cam kết với nhà trường trong việc không giao xe máy cho học sinh khi chưa có giấy phép lái xe và đội mũ bảo hiểm cho học sinh khi ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy tham gia giao thông và điều khiển xe đạp điện, xe máy điện.
  • Giao cho giáo viên chủ nhiệm giáo dục, nhắc nhở, có hình thức kiểm tra, giám sát hàng ngày đối với học sinh. Nhà trường chỉ đạo các tổ chức Đoàn, Đội tham gia công tác giáo dục an toàn giao thông và nắm bắt tình hình thực hiện các quy định về an toàn giao thông của học sinh; đưa các tình huống xảy ra khi tham gia giao thông để học sinh thảo luận và đề ra phương án giải quyết trong các giờ sinh hoạt lớp và các hoạt động ngoại khóa.
  • Ban hành quy định cụ thể việc đội mũ bảo hiểm và việc tuân thủ các quy tắc an toàn giao thông cho học sinh, xử lý kỷ luật phù hợp với những trường hợp phạm để răn đe, giáo dục học sinh và thông báo cho tất cả phụ huynh biết để cùng phối hợp thực hiện.
  • Chỉ đạo việc phối hợp với các ban, ngành liên quan của địa phương xây dựng mô hình “Cổng trường an toàn giao thông” và tổ chức các buổi phổ biến, tuyên truyền trực tiếp pháp luật về an toàn giao thông, tập trung vào các nội dung: các lỗi vi phạm thường gặp khi tham gia giao thông; nguyên nhân các vụ tai nạn, ùn tắc giao thông; các kỹ năng tham gia giao thông an toàn.
  • Phối hợp với các cơ quan chức năng trên địa bàn tổ chức hướng dẫn giao thông khu vực cổng trường giờ cao điểm; bố trí giờ học, giờ tan trường hợp lý để tránh ùn tắc giao thông; tùy điều kiện của trường, phối hợp với phụ huynh học sinh tổ chức xe đưa đón học sinh; vận động học sinh hạn chế sử dụng phương tiện giao thông cá nhân; mở cổng trường để phụ huynh cào sân đưa đón học sinh. Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát
  • Kiểm tra đánh giá hoạt động GD ATGT cho học sinh của nhà trường để rút ra những mặt mạnh, hạn chế trong công tác giáo dục chung của trường.

Hiệu trưởng hiểu biết những cơ sở tâm lý học, giáo dục học, trực tiếp tham gia giáo dục một số học sinh và là người thầy giáo mẫu mực của học sinh trong nhà trường. Trình độ chuyên môn về khoa học giáo dục, lý luận và thực hành là rất cần thiết cho công tác quản lý trường học.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động bảo đảm trật tự an toàn giao thông (ATGT) và phong trào thi đua yêu nước thực hiện hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác bảo đảm trật tự ATGT, góp phần phòng ngừa, hạn chế và giảm thiểu tai nạn giao thông trong nhà trường.

Tiếp tục thực hiện chủ đề “An toàn giao thông cho trẻ em”. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của BGH nhà trường; Đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về trất tự ATGT, đẩy mạnh xây dựng văn hóa giao thông.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nâng cao ý thức trách nhiệm cho toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh gương mẫu thực hiện văn hóa giao thông; xây dựng thói quen cư xử có văn hóa, đúng pháp luật, xóa bỏ những thói quen tùy tiện vi phạm quy tắc giao thông, hình thành ý thức tự giác tuân thủ pháp luật khi tham gia giao thông.

Đề cao trách nhiệm, nâng cao hiệu quả công tác phối hợp với chính quyền các cấp, các lực lượng chức năng, trong việc triển khai thực hiện đồng bộ, thường xuyên, liên tục, kiên quyết các biện pháp, giải pháp nhằm bảo đảm trật tự ATGT; vận động cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh tích cực hưởng ứng, tham gia xây dựng thực hiện “ Văn hóa giao thông” và giữ gìn trật tự ATGT.

Thực hiện bảo đảm trật tự ATGT phải được phát động với nội dung thiết thực, cụ thể phù hợp với tình hình đặc điểm của đơn vị; tổ chức thực hiện có hiệu quả các chỉ tiêu, nhiệm vụ rõ ràng về công tác bảo đảm trật tự ATGT, học sinh, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật về trật tự ATGT, từng bước xây dựng cách ứng xử “Văn hóa giao thông” đối với học sinh tham gia giao thông.

Duy trì mô hình đội tự quản ATGT trong học sinh để đảm bảo trật tự ATGT hiệu quả.

Đảm bảo thông tin về ATGT được thực hiện thường xuyên trên các chương trình phát thanh măng non.

Thực hiện đầy đủ các nội dung báo cáo định kỳ, báo cáo sơ, tổng kết theo quy định; tham gia đầy đủ các chương trình tập huấn, hội nghị, hội thi,…liên quan đến lĩnh vực ATGT.

Thực hiện công tác phối hợp giữa nhà trường với các ban, ngành chức năng tại địa phương, phụ huynh học sinh trong việc triển khai thực hiện các hoạt động về đảm bảo trật tự ATGT.

1.4.3. Chức năng quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu họcLuận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Lập kế hoạch giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học:

Đối với nhà quản lý nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là làm thế nào để mọi người biết nhiệm vụ của mình, những phương pháp hoạt động nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu của tổ chức. Đó là chức năng lập kế hoạch (hoạch định). Lập kế hoạch là quá trình xây dựng các mục tiêu và xác định các nguồn lực quyết định cách tốt nhất để thực hiện các mục tiêu đã đề ra để triển khai các hoạt động một cách chủ động nhằm đạt kết quả cao nhất các mục tiêu giáo dục của nhà trường. Căn cứ vào chương trình giáo dục Tiểu học đối với giáo trình dạy ATGT cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 5. Kế hoạch hoạt động GD ATGT có thể tách riêng hoặc nằm trong kế hoạch tổng thể của một nhà trường, được xây dựng theo từng năm học, mang tính pháp quy, được cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp phê duyệt.

Cần có kế hoạch cụ thể thực hiện hoạt động giáo dục ATGT cho HS. Xác định rõ thời gian, địa điểm cụ thể.

Để nâng cao chất lượng giáo dục ATGT cho học sinh, ngoài kế hoạch giáo dục ATGT hiệu trưởng nhà trường cần xây dựng kế hoạch tổ chức sinh hoạt ngoại khóa, chuyên đề về giáo dục ATGT cho học sinh. Lập kế hoạch cần thực hiện theo các yêu cầu sau:

  • Khảo sát thực trạng: Qua đó nhằm định hướng các nội dung và hình thức giáo dục ATGT sao cho phù hợp với đặc điểm của nhà trường, của học sinh, của đội ngũ giáo viên,…
  • Xác định mục tiêu của hoạt động GD ATGT: hoạt động này chỉ ra hoạt động GD ATGT nhằm vào đối tượng nào, hình thức giáo dục phù hợp để đối tượng ấy thu nhận được những kiến thức, kỹ năng và có thái độ ra sao sau bài học. Sau khi được giáo dục về ATGT thì các em học sinh sẽ đạt được mức độ như thế nào so với yêu cầu của pháp luật quy định đối với một người tham gia giao thông.
  • Dự kiến các nguồn lực (nhân lực, tài lực, vật lực và thời gian) cho hoạt động GD ATGT: Đây là công việc vô cùng quan trọng nhằm để chuẩn bị về lĩnh vực tổ chức nhằm định hướng được chọn ai để làm giáo viên, chi phí cho mọi hoạt động về GD ATGT lấy từ đâu, tài liệu và phương tiện cơ sở vật chất (như phòng óc, máy móc thiết bị, tranh ảnh tài liệu, mô hình, …) được khai thác ở đâu, thời lượng để thực hiện chương trình GD ATGT và tổ chức vào trong năm học, cụ thể là thời gian nào,…
  • Dự kiến các biện pháp thực hiện và hình thức thực hiện mục tiêu GD ATGT: Là việc làm cũng góp phần không kém quan trọng trong quá trình giáo dục ATGT. Nó thể hiện việc tổ chức giáo dục tập trung cả thời gian, hay từng giai đoạn, tổ chức thành lớp hay theo nhóm, ở tại trường hay kết hợp với tham quan thực tế,…

Tổ chức triển khai các hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học:

Để thực hiện mục tiêu GD ý thức ATGT cho HS có hiệu quả, cần phải xây dựng và duy trì một cơ cấu nhất định về những vai trò, nhiệm vụ và vị trí công tác, đó chính là chức năng tổ chức trong quản lý giáo dục ATGT ở trường học. Chức năng này rất quan trọng đối với giáo dục ATGT cho học sinh. Nhiệm vụ của một bộ phận hay cá nhân đó hiểu rõ công việc mình làm, trong một phạm vi nào đó, nhằm mục đích gì, mục tiêu nào, công việc của họ ra sao với các cá nhân hay bộ phận khác để hoàn thành tốt công việc được giao đảm bảo theo kế hoạch.

Chức năng tổ chức trong quản lý GD ATGT là việc xây dựng các bộ phận sao cho phù hợp với mục tiêu của tổ chức giáo dục ATGT cho học sinh trong trường Tiểu học. Khi thực hiện chức năng này còn phải chú ý đến cách thức hoạt động, đến quyền hạn của từng bộ phận, đặc biệt cần chú ý đến việc bố trí cán bộ, giáo viên, các lực lượng khác sao cho phù hợp.

Trong nhà trường việc tổ chức hoạt động và tổ chức bộ máy giáo dục ATGT đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu về GD ATGT cho học sinh sẽ tạo nên sức mạnh của tập thể, nếu việc phân phối và sắp xếp các nguồn lực được tổ chức một cách khoa học và hợp lý. Chức năng này có thể thực hiện như một quá trình gồm 5 bước sau:

Căn cứ trên kế hoạch, hiệu trưởng phân công triển khai nhiệm vụ GD ATGT và cụ thể hóa các công việc cần hoàn thành, để đạt được mục tiêu về GD ATGT cho học sinh tiểu học.

Phân công các nhiệm vụ cụ thể để các thành viên hay tổ nhóm trong nhà trường và phối hợp với các thành viên ngoài nhà trường để thực hiện một cách thuận lợi và phù hợp với điều kiện và năng lực của họ.

Kết hợp thực hiện các nhiệm vụ một cách khoa học, hợp lý,đúng thời gian quy định.

Xây dựng một cơ chế điều hành, hình thành sự phối hợp hoạt động giữa các thành viên hay bộ phận trong nhà trường, tạo điều kiện đạt được mục tiêu giáo dục một cách dễ dàng.

Theo dõi, kiểm tra, đánh giá hiệu quả trong quá trình thực hiện của của cơ cấu tổ chức, từ đó rút ra được hạn chế và tiến hành điều chỉnh khi cần thiết để đạt được mục tiêu theo kế hoạch đã đề ra.

Để thực hiện được chức năng quan trọng này có hiệu quả thì vai trò của người hiệu trưởng rất quan trọng. Hiệu trưởng cần phải hình thành một và tổ chức hệ thống quản lý trong nhà trường về GD ATGT tối ưu nhất. Đó là việc phân quyền, phân nhiệm vụ cho các phó hiệu trưởng, các tổ chuyên môn và các bộ phận có liên quan. Cần phải kết hợp chặt chẽ với những việc như việc xây dựng và phát triển đội ngũ, những quy định về cơ chế hoạt động phối hợp giữa chuyên môn với các đoàn thể trong nhà trường để cùng bảo đảm thực hiện mục tiêu về GD ATGT đã đề ra, sự phân bố nguồn lực và quy định cho các bộ phận nhằm thực hiện đúng kế hoạch đã đề ra. Trong điều hành nhà trường Hiệu trưởng cần phải thành lập được các mối quan hệ tốt và giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các bộ phận bên trong và ngoài nhà trường để góp phần GD ATGT cho học sinh đạt hiệu quả cao nhất.

Chỉ đạo các hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học:

Chỉ đạo là chức năng vô cùng quan trọng được thể hiện rõ trong nội dung của khái niệm quản lý. Sau khi lập kế hoạch và cơ cấu bộ máy GD ATGT trong nhà trường thì khâu vận hành và điều khiển hệ thống là cốt lõi của chức năng chỉ đạo. Nội dung của chức năng này là quá trình tác động của hiệu trưởng tới mọi thành viên của nhà trường, nhằm biến những yêu cầu chung về hoạt động GD ATGT của nhà trường thành nhu cầu, hoạt động của từng người, trên cơ sở đó mọi người tích cực tự giác tham gia và đem hết khả năng của mình để làm việc. Vì vậy, việc chỉ đạo các hoạt động GD ATGT là cơ sở để phát huy các động lực cho việc thực hiện các mục tiêu GD ATGT cho học sinh trong các trường tiểu học. Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Khi chỉ đạo các hoạt động GD ATGT, Hiệu trưởng cần thực hiện các nội dung sau: Hiệu trưởng (hoặc trưởng các bộ phận) thực hiện quyền chỉ huy theo đúng chức trách nhiệm vụ được giao và hướng dẫn triển khai các nhiệm vụ đã được nêu trong kế hoạch. Ra những quyết định đúng và kịp thời; Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và giám sát việc thưc hiện của các bộ phận, động viên và khuyến khích các cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh thực hiện; Giám sát việc triển khai nhiệm vụ của các cá nhân, bộ phận. Nếu có gì sai sót hoặc không hợp thì cần có giải pháp điều chỉnh cho kịp thời; Theo dõi, thúc đẩy các hoạt động phát triển chung trong nhà trường. Để thực hiện tốt những nội dung nêu trên thì người Hiệu trưởng phải là người có tri thức, có tầm nhìn, có kĩ năng ra quyết định và cách thức tổ chức nhằm thực hiện được các quyết định đó.

Kiểm tra đánh giá hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học:

Kiểm tra đánh giá là chức năng quan trọng đối với nhà quản lý trong việc quản lý các hoạt động GD ATGT nói riêng, quá trình quản lý nói chung. Chức năng này được diễn ra xuyên suốt trong quá trình quản lý và cũng là chức năng của mọi cấp quản lý. Kiểm tra, đánh giá là một hoạt động nhằm thẩm định, xác định một hành vi của cá nhân hay một bộ phận trong quá trình thực hiện quyết định. Ngoài ra, còn có thể hiểu kiểm tra là hoạt động quan sát và kiểm nghiệm mức độ phù hợp của quá trình hoạt động của đối tượng bị quản lý (GV,HS) với các quyết định quản lý đã lựa chọn.

Các hoạt động kiểm tra bao gồm: Ký duyệt giáo án dạy Văn hóa giao thông; Kiểm tra HĐ chuyên môn của các GV về các HĐ GDTC tích hợp qua các môn học; Dự giờ thăm lớp; Kiểm tra thực hiện các chuyên đề giao thông; Kiểm tra hướng dẫn bồi dưỡng chuyên môn của GV; Khi thực hiện việc kiểm tra, đánh giá các hoạt động GD ATGT, chức năng này thể hiện thường xuyên. Việc thực hiện các hoạt động kiểm tra, giám sát đối với các công việc liên quan đến GD ATGT cho học sinh tiểu học của nhà trường, qua đó nhằm tìm ra những ưu điểm, phát hiện những hạn chế, sai sót, kịp thời thực hiện điều chỉnh cần thiết để hoạt động đi đúng hướng, đảm bảo thực hiện mục tiêu cuối cùng là hình thành ý thức chấp hành luật giao thông đường bộ cho học sinh. Trong quá trình thực hiện các hoạt động giáo dục ATGT cho học sinh tiểu học của nhà trường, nếu như kết quả đạt được không như mong muốn thì Hiệu trưởng cần phải thay đổi áp dụng các biện pháp khác hoặc điều chỉnh cần thiết để đạt được mục tiêu đã đề ra.

Quá trình kiểm tra, giám sát là quá trình tiến trình điều chỉnh và tự điều chỉnh liên tục và thường diễn ra theo trình tự như sau: Xây dựng các tiêu chuẩn mà một học sinh cần đạt được khi kết thúc một quá trình GDATGT; Đo lường mức độ đạt được của học sinh so với tiêu chuẩn đã đề ra để có cơ sở tiến hành các bước tiếp theo; Tiến hành điều chỉnh sự chênh lệch nếu kết quả đo lường không đạt được mục tiêu. Khi đó, Hiệu trưởng phải xem xét lại quá trình thực hiện nhằm phát hiện những giải pháp mới, cách thức tổ chức hợp lý để tiến hành điều chỉnh lại những giải pháp tổ chức của mình nhằm mang lại hiệu quả cao; Điều chỉnh các tiêu chuẩn nếu cần thiết. Trên thực tế khi tiến hành kiểm tra giám sát, có những vấn đề khi triển khai thực hiện mới thấy được những bất cập, thiếu tính khả thi. Khi đó, việc kiểm tra giám sát sẽ giúp Hiệu trưởng thấy có thể có những tiêu chuẩn, tiêu chí không còn phù hợp cần phải thay đổi theo tình hình thực tế.

Như vậy, kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục ATGT là quá trình xem xét thực tiễn, đánh giá thực trạng về hoạt động giáo dục ATGT, qua đó khuyến khích những nhân tố tích cực, phát hiện những sai lệch và đưa ra các quyết định điều chỉnh kịp thời, nhằm giúp các bộ phận và cá nhân đạt được các mục tiêu về giáo dục ATGT cho học sinh đã đề ra. Trong quá trình thực hiện vai trò kiểm tra, Hiệu trưởng cần phải xác định được kiểm tra, đo đường việc thực thi nhiệm vụ, so sánh, đối chiếu với mục tiêu đã đề ra và đưa ra quyết định điều chỉnh cần thiết, kịp thời. Cần phải thường xuyên đánh giá, sơ kết những thay đổi có được, chứ không phải đợi đến cuối học kỳ hay cuối năm mới thực hiện.

1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

1.5.1. Các yếu tố khách quan

Môi trường Kinh tế – Xã hội – Giáo dục: Từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường thì bức tranh về kinh tế của Việt Nam có nhiều điểm sáng, mức sống của người dân được cải thiện từng bước, được bạn bè các nước trong khu vực và quốc tế quan tâm

đầu tư phát triển kinh tế. Mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt được là khá cao nhưng phát triển cơ sở hạ tầng không đồng bộ, và ý thức người tham gia giao thông chưa cao dẫn đến vấn đề về tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông, đặc biệt là giao thông đường bộ, số vụ giao thông không ngừng tăng cả về quy mô và số lượng. Điều này dẫn đến hậu quả về kinh tế và gánh nặng cho xã hội là rất lớn. (Ngô Xuân Thắng, 2007). Tốc độ đô thị hóa dẫn đến cơ sở hạ tầng phát triển về khu công nghiệp, nhà ở và hệ thống giao thông phát triển chưa hài hòa, việc quản lý giao thông chưa hợp lý dẫn đến nhiều hệ lụy, bất ổn cho xã hội. Việc tuyên truyền giáo dục cho người dân nhất là học sinh chưa đồng bộ dẫn đến nguy cơ bất ổn khi người dân tham gia giao thông. Cùng với tốc độ tăng trưởng về kinh tế, cần có sự phát triển hài hòa về cơ sở hạ tầng, hệ thống giáo thông bên cạnh việc tuyên truyền giáo dục pháp luật, Luật An toàn Giao thông cho người dân nhất là đối tượng học học thì việc phát triển kinh tế xã hội mới bền vững.

Như vậy, việc giáo dục ATGT, hướng dẫn sử dụng các phương tiện giao thông đa dạng, hình thức tham gia giao thông, … cho học sinh, nhất là học sinh tiểu học cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới việc giáo dục thực tế cho trẻ lứa tuổi học sinh tiểu học. Môi trường thực tiễn tác động tới nhận thức và hành vi của trẻ, giúp trẻ chiêm nghiệm những bài học trên lớp. Nếu những gì các em nhìn nhận từ môi trường là phù hợp tiêu chuẩn của xã hội thì các em sẽ có điều kiện thực hành những điều các em đã được học trong nhà trường, từ đó góp phần hình thành ý thức và kĩ năng tham gia giao thông. Nếu không, những bài học từ nhà trường sẽ không đạt được hiệu quả giáo dục. Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Bên cạnh đó, các địa phương cần quan tâm đến cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ, như: Việc quy hoạch tổ chức giao thông theo các tuyến, việc quy hoạch lòng đường hè phố văn minh, sạch đẹp,… giúp cho HS dễ dàng vận dụng những bài học từ trường lớp, từ đó hình thành ý thức tham gia giao thông.

Cơ chế và công cụ hỗ trợ hoạt động giáo dục ATGT: Các yêu cầu và văn bản định hướng về giáo dục nói chung và giáo dục ATGT nói riêng ở tại nước ta chính là Luật ATGT đường bộ, hệ thống các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực hành Luật và các quy định về ứng xử khi tham gia giao thông mà mỗi người dân cần tuân thủ. Các trường học cần nắm bắt, quán triển, triển khai, chỉ đạo và kiểm tra triển khai thực hiện các văn bản này, nhất là các nhà quản lý các trường tiểu học cần nghiên cứu, cập nhật tích hợp giáo dục học sinh thông qua các môn học và tổ chức các hoạt động tìm hiểu, nâng cao nhận thức và GD ATGT cho học sinh theo quy định.

Văn hóa địa phương: Gồm trình độ dân trí, phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, điều kiện xã hội, điều kiện kinh tế, điều kiện tự nhiên, mối quan hệ giữa các tổ chức trong và ngoài nhà trường; môi trường xã hội và gia đình HS cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý giáo dục ATGT…..

Giáo dục an toàn giao thông ngoài nhà trường: so với việc giảng dạy trong nhà trường với các giáo trình giáo dục ATGT trên lớp, các hình thức ngoại khóa ATGT, các môn dạy lồng ghép cho đến các hình thức giáo dục, hoạt động giáo dục xã hội ATGT,.. thì tình hình tuyên truyền giáo dục thực tiễn về giao thông đường bộ cũng có tác động đến nhận thức của các tầng lớp nhân dân, trong đó có cả học sinh.

Giáo dục của gia đình: Đối với trẻ, nhất là lứa tuổi tiểu học thì gia đình và những người xung quanh có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành ý thức của bản thân mỗi em. Các thành viên trong gia đình, người thân có chấp hành đúng Luật giao thông hay không, điều đó có tác động rất lớn đến việc hình thành văn hóa giao thông cho các em. Giáo dục nhận thức chấp hành pháp luật nói chung và giáo dục chấp hành Luật an toàn giao thông nói riêng của gia đình đóng vai trò quan trong đối với trẻ lứa tuổi tiểu học.

Giáo dục an toàn giao thông trong gia đình: Gia đình, người thân có ảnh hưởng rất lớn tới trẻ em khi giáo dục ý thức tham gia giao thông cho học sinh. Việc gia đình chấp hành luật giao thông như thế nào, ý thức tuân thủ khi tham gia giao thông ra sao,… đều có ảnh hưởng trực tiếp tới việc xây dựng và hình thành văn hóa giao thông cho học sinh.

Tóm lại: yếu tố khách quan là những tác nhân bên ngoài tác động đến quá trình quản lý nếu những tác động bên ngoài có sự hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động quản lý giáo dục tốt thì công việc quản lý của người Hiệu trưởng thuận lợi. Còn nếu yếu tố khách quan mà gây cản trở trong quá trình điều hành quản lý nhà quản lý không lường trước thì tác hại sẽ khó lường.

1.5.2. Các yếu tố chủ quan Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Nhận thức của Nhà quản lý nhà trường về GD ATGT cho HS tiểu học: Trong nhà trường hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm cao nhất trong quản lý các hoạt động của nhà trường và là người chịu trách nhiệm trước cấp trên về công tác quản lý của mình. Nhận thức của hiệu trưởng về tầm quan trọng của yêu cầu đổi mới giáo dục trong đó có yêu cầu đổi mới QLGD, trong đó có quản lý nhà trường và quản lý hoạt động giáo dục ATGT. Việc đưa giáo dục an toàn giao thông vào trong trường học có thực hiện thành công hay không thì trước tiên phải phụ thuộc vào nhận thức, trình độ tổ chức và năng lực triển khai trong thực tiễn của Hiệu trưởng. Nếu Hiệu trưởng không nhận thức đúng đắn về sự cần thiết phải giảng dạy an toàn giao thông GD ATGT ở trường thì sẽ không thể triển khai được. Để có thể hướng dẫn người dưới quyền thực hiện, hiệu trưởng phải có trình độ tổ chức và năng lực triển khai ứng dụng những lý luận dạy học mới trong thực tiễn nhà trường, biết tổ chức học tập và tổng kết kinh nghiệm để nhân rộng. Ngoài ra, uy tín của hiệu trưởng trong tập thể sư phạm có tác dụng như chất xúc tác, thúc đẩy sự phát triển của nhà trường.

Nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng về GD ATGT cho HS tiểu học: Giáo viên là yếu tố quan trọng nhất cho chất lượng giảng dạy bởi vì giáo viên là người đóng vai trò chủ đạo hướng dẫn, giúp người học tiếp cận các tri thức, kiến thức theo mục tiêu của chương trình giáo dục ATGT. Vì vậy giáo viên phải trang bị chuẩn về chuyên môn. Giáo viên không chỉ nắm vững nội dung một bài học mà mình truyền đạt mà phải nắm được kiến thức của cả chương trình môn học, phần học, có như vậy giáo viên mới liên kết, hệ thống hoá kiến thức cần thiết giúp học sinh dễ nắm bắt những nội dung chính của bài học, môn học, phần học. Khi giáo viên chuẩn về kiến thức chuyên môn sẽ tự tin trong quá trình truyền thụ, tránh được sự phụ thuộc vào giáo án, chủ động dẫn dắt người học tiếp cận kiến thức theo mục đích của mình.

Ngoài việc trang bị kiến thức chuyên môn, giáo viên cần phải có kinh nghiệm thực tiễn và kiến thức thực tiễn. Giàu kiến thức thực tiễn giúp giáo viên làm sinh động bài giảng, gắn kết giữa nội dung bài giảng với thực tiễn thông qua những minh hoạ, ví dụ từ thực tiễn; từ đó người học dễ tiếp thu bài, dễ nhớ bài và điều quan trọng là người học thấy nội dung bài giảng gắn liền với cuộc sống chứ không phải xa rời, khó hiểu. Cùng với đó, năng lực tổ chức hoạt động giáo dục an toàn giao thông cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả GD. Biểu hiện cụ thể của năng lực này là thầy giáo biết giao việc cho học sinh, biết hướng dẫn các em làm việc, theo dõi và giúp đỡ kịp thời những em gặp khó khăn để em nào cũng làm việc có hiệu quả. Trong quá trình đó, thầy giáo còn cần gây được hứng thú học tập cho trẻ, kích thích sự suy nghĩ độc lập, sáng tạo của các em. Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

Mức độ nhận thức của học sinh về việc chấp hành Luật an toàn giao thông: Học sinh là đối tượng tiếp nhận thông tin mà người giáo viên hướng đến. Do đó, người học có tác động đến chất lượng hoạt động của người dạy. Trong quan niệm mới về giáo dục, người học là trung tâm của quá trình giảng dạy, người học tiếp nhận kiến thức không phải một cách thụ động mà là chủ thể của quá trình nhận thức, chủ động trong việc tiếp nhận thông tin. Do đó, chất lượng giảng dạy phải được xét đến việc tỷ lệ tri thức mà người học tiếp nhận được. Các em ở tiểu học là khó truyền đạt khó tiếp thu nhất, vì sự phát triển nhận thức của các em chậm, nhanh, bình thường, ở nhiều mức độ khác nhau. Mục tiêu của GD ATGT tiểu học hiện nay, là tạo được sự tương tác giáo tiếp ATGT giữa học sinh và giữa các tập thể với nhau.

Cơ sở vật chất thiết bị tài chính: Cơ sở vật chất thiết bị tài chính có tác động nhất định đến quá trình dạy học. Cơ sở vật chất tốt tạo môi trường thoải mái cho cả người dạy và người học, do đó, tạo điều kiện cho học sinh tiếp thu và ghi nhớ bài được hiệu quả hơn. Thiết bị dạy học tốt, đặc biệt là thiết bị hiện đại giúp giáo viên tăng thêm sự hấp dẫn của bài học, lôi cuốn học viên qua những hình ảnh, phim minh hoạ hoặc những sơ đồ hoá kiến thức nội dung bài giảng giúp học sinh dễ nhớ bài, nhớ lâu hơn.

Kết luận chương 1

Hoạt động GD ATGT là một bộ phận của GD trong nhà trường. Vai trò của GD ATGT đối với học sinh nói chung và học sinh tiểu học nói riêng sẽ góp phần hoàn thiện nhân cách và kỹ năng của học sinh tiểu học. Các em tiếp thu Luật Giao thông, biết cách ứng xử khi tham gia giao thông, tuân thủ luật pháp là điều cần thiết trong xu thế đi lên của phát triển kinh tế, xã hội và cơ sở hạ tầng cơ sở nước ta nói chung và Bến Cát, Bình Dương nói riêng. chương 1, luận văn đã tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về GDATGT, quản lý GDATGT, phân tích và hệ thống hóa những nội dung lý luận cơ bản như: khái niệm quản lý, khái niệm quản lý giáo dục, mục đích GD ATGT, nội dung, hình thức giáo dục ATGT cho học sinh tiểu học và vai trò của quản lý, nhằm đảm bảo chất lượng GD ATGT trong nhà trường. Lứa tuổi học sinh Tiểu học đang phát triển mạnh về nhiều mặt: trí tuệ, thể chất, tình cảm,… Vì vậy giáo dục ý thức ATGT ở lứa tuổi này là rất cần thiết để các em có những kiến thức, kĩ năng cơ bản ban đầu trong việc thực hiện ATGT.

Hoạt động quản lý GD ATGT trong nhà trường cần thực hiện theo 4 chức năng quản lý: lập kế hoạch GD ATGT, triển khai GD ATGT, lãnh đạo chỉ đạo công tác GD ATGT và đánh giá kiểm tra GD ATGT cho học sinh tiểu học. Khi xem xét việc QL GD ATGT cần chú ý đến các yếu tố tác động đến quá trình quản lý như: gia đình, nhà trường, xã hội, sự phối hợp giữa các lực lượng, điều kiện cơ sở vật chất, môi trường sống,… Bởi vậy, người Hiệu trưởng cần đề ra những biện pháp sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường nhằm nâng cao chất lượng GD ATGT, từ đó đạt được mục tiêu giáo dục một cách hiệu quả nhất.

Cơ sở lý luận cũng đề cập đến các yếu tố ảnh hưởng đến QL HĐ GDATGT để các nhà quản lý có thể tránh được sự ảnh hưởng khi triển khai thực hiện nhiệm vụ. Về QL HĐ GDATGT Chương 1 làm cơ sở để luận văn xây dựng hệ thống câu hỏi điều tra về nhận thức GD ATGT và QL HĐ GD ATGT cho học sinh tiểu học thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý công tác này trong Chương 2. Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Luận văn: Khái quát giáo dục giao thông cho HS tại xã Bến Cát

One thought on “Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông HS tiểu học xã Bến Cát

  1. Pingback: Luận văn: Giải pháp quản lý giáo dục tiểu học ở thị xã Bến Cát

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464