Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” nhằm rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

LỜI MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Hiện nay, có rất nhiều sinh viên sư phạm đi thực tập không đạt yêu cầu về mặt kỹ năng dạy học do đó việc rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên sư phạm là một công việc hết sức quan trọng vì đây chính là hành trang chuẩn bị cho sinh viên sau này ra trường không phải bỡ ngỡ. Việc rèn luyện này phải thông qua nhiều hoạt động để cho sinh viên có thể thực hành được nhiều lần như: hoạt động đố vui để học, hoạt động học tập theo nhóm, seminar, thuyết trình, đánh giá và tự đánh giá, sinh hoạt và vui chơi tập thể… Đây là những hoạt động cực kỳ quan trọng và rất cần thiết cho việc rèn luyện kỹ năng của sinh viên sư phạm. Tuy nhiên, việc ứng dụng những hoạt động này chưa được rộng rãi và còn đang ở giai đoạn thể nghiệm ở khoa Hóa ĐHSP TP.HCM.

Trước thực tế này, em quyết định chọn một trong các hoạt động rèn luyện kỹ năng cho sinh viên để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp, đó là việc tổ chức hoạt động “Vui để học”.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Khóa Luận Tốt Nghiệp Chất Lượng Cao

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

Thiết kế hoạt động “Vui để học” nhằm rèn luyện các kỹ năng sư phạm cho sinh viên khoa Hóa trường Đại học Sư Phạm Tp.HCM.

3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

  • Xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu.
  • Thiết kế hĩnh thức tổ chức và nội dung họ át động “Vui để học “.
  • Thực nghiệm sư phạm nhằm xác định tính khả thi và hiệu quả của hoạt động “Vui để học”, rút ra những bài học kinh nghiệm.

4. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

  • Đối tượng nghiên cứu: việc tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên khoa Hóa trường Đại Học Sư phạm TP.HCM.
  • Khách thể nghiên cứu: quá trình dạy học và rèn luyện kỹ năng cho sinh viên.

5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Sinh viên năm IV khoa Hóa trường ĐHSP niên khóa 2002 – 2006.

6. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC

Nếu hoạt động này được nghiên cứu sâu sắc và kiểm chứng bằng thực nghiệm tốt thì nó sẽ góp phần rất lớn vào việc rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên sư phạm, những thầy cô giáo tương lai.

7. PHƯƠNG PHÁP VÀ CÁC PHƯƠNG TIỆN NGHIÊN CỨU

  • Đọc và nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài.
  • Điều tra, tham khảo ý kiến thầy cô và các bạn.
  • Tổ chức làm thực nghiệm cho sinh viên năm IV khoa Hóa hoặc học sinh trong đợt TTSP II năm học 2005 – 2006.
  • Phân tích, tổng hợp.
  • Xử lý số liệu bằng xác suất thống kê.

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. KỸ NĂNG DẠY HỌC Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

1.1.1.Kỹ năng dạy học là gì?

Có nhiều cách hiểu về kỹ năng:

Hiểu kỹ năng như là sự thể hiện của năng lực con người [1, tr. 48]

Đại Từ điển Tiếng Việt – NXB Văn hóa thông tin 1998 định nghĩa kỹ năng là “khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được vào thực tế”. Năng lực là “khả năng đủ để thực hiện tốt một công việc”.

“Kỹ năng là khả năng vận dụng kiến thức (khái niệm, cách thức, phương pháp …) để giải quyết một nhiệm vụ mới”. Lê Văn Hồng.

Tóm lại, ta có thể hiểu kỹ năng như là một bộ phận chính (như CPU của một máy vi tính) của một công cụ (chiếc máy vi tính) giúp con người thực hiện tốt những việc làm của mình. Bộ phận chính đó chính là những kỹ năng có được trong quá trình rèn luyện và hoạt động của mình và từ những kỹ năng đó qúa lâu ngày vận dụng nhuần nhuyễn thì nó sẽ trở thành một trong các bộ phận cấu thành nên năng lực của con người. Do đó, TS Trịnh Văn Biểu mới viết: “Hiểu kỹ năng như là sự thể hiện của năng lực”

Hiểu kỹ năng như là hệ thống các thao tác, cách thức hành động. [1, tr.49]

Gurianốp: “kỹ năng là những phương thức thực hiện hành động thích hợp với mục đích và những điều kiện hành động”.

“Kỹ năng là tổng hợp những thao tác, cử chỉ phối hợp hài hoa, hợp lý nhằm đảm bảo cho hành động đạt kết quả cao với sự tiêu hao năng lượng tinh thần, cơ bắp ít nhất trong những điều kiện thay đổi” Ngô Công Hoàn, Nguyễn Quang Uẩn. Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

Như đã nói ở trên kỹ năng là do sự rèn luyện và tham gia nhiều hoạt động của con người. Khi tham gia nhiều hoạt động và rèn luyện nhiều nên con người cần phải có sự phối hợp nhiều thao tác, nhiều cử chỉ, nhiều kỹ xảo với nhau để biến chúng thành một kỹ năng. Do đó, để có được một kỹ năng hoàn chỉnh con người cần có bỏ công ra rất nhiều và bỏ thời gian ra luyện tập rất nhiều, có như vậy nó mới trở thành một kỹ năng nhuần nhuyễn của con người được. Chính vì thế, TS. Trịnh Văn Biều mới cho rằng “kỹ năng như là một hệ thống các thao tác, cách thức hành động”.

Không chỉ coi kỹ năng là kỹ thuật, cách thức hành động mà còn coi kỹ năng là sự thể hiện của năng lực con người, đòi hỏi con người phải luyện tập theo một quy trình nhất định. [1, tr.49]

  • Theo Nguyễn Như An, “Kỹ năng sư phạm là khả năng thực hiện có kết quả một số thao tác hay một loạt các thao tác phức tạp của một hành động sư phạm bằng cách lựa chọn và vân dụng những tri thức, những cách thức, những quy trình hợp lý”.
  • Theo tác giả Nguyễn Thị Côi thì: “kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp với các điều kiện cho phép”. Kỹ năng đòi hỏi con người phải:
  • Có tri thức và những kinh nghiệm cần thiết về hành động.
  • Vận dụng vốn tri thức và kinh nghiệm thu nhận được vào hành động một cách phù hợp với điều kiện cụ thể cho phép (phải linh hoạt, sáng tạo).

Như vậy, theo những cách hiểu về kỹ năng ở trên có 2 cách tiếp cận kỹ năng theo 2 phương diện khác nhau:

Xét kỹ năng dưới dạng năng lực hoạt động.

Xét kỹ năng dưới dạng hệ thống các thao tác. Ta có thể hiểu một cách tổng quát: “Kỹ năng là hệ thống phức tạp các thao tác hợp lý có hiệu quả được hình thành qua quá trình rèn luyện”. Thực chất của quá trình hình thành kỹ năng là quá trình rèn luyện để nắm vững hệ thống các thao tác. Muốn rèn luyện kỹ năng có hiệu quả sinh viên cần phải:

  • Nắm vững các kỹ thuật của hành động
  • Thực hiện các thao tác theo những quy trình hợp lý
  • Tìm ra những vấn đề bản chất, cốt lõi nhất để có thể điều khiển được quá trình rèn luyện các kỹ năng dạy học.

Lâu nay, vẫn có quan niệm cho rằng rèn luyện kỹ năng là việc riêng của mỗi cá nhân. Kỹ năng là một cái gì ít nhiều có tính năng khiếu, bẩm sinh, rất khó nắm bắt, khó nói ra, khó điều khiển, khó truyền từ người này qua người khác. Các chương trình đào tạo giáo viên vẫn chưa nhìn nhận rõ giá trị của việc hướng dẫn sinh viên rèn luyện các kỹ năng sư phạm, cũng như chưa có những hướng dẫn cụ thể cho sinh viên rèn luyện các kỹ năng đó.

1.1.2. Một số đặc điểm của kỹ năng Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

Kỹ năng luôn luôn gắn với hành động. Kỹ năng là sản phẩm của quá trình đào tạo, rèn luyện. [1, tr.50]

Từ những cách hiểu về kỹ năng ở trên, có thể thấy kỹ năng của con người được thể hiện trong các hoạt động của chính bản thân họ. Đó là một quá trình đào tạo, rèn luyện lâu dài của các trường học đối với người học, quá trình này diễn ra tốt giúp cho người học có thể có những kỹ năng tốt sau này sẽ ứng dụng vào trong các hoạt động của cuộc sống.

Kỹ năng có tính đa cấp:

Kỹ năng đơn giản gắn với những hoạt động đơn giản.

Kỹ năng tổng quát gắn với những hoạt động phức tạp (bao gồm nhiều hoạt động: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giáo dục …). [1, tr.50]

Như TS. Trịnh Văn Biểu đã nói ở trên “kỹ năng luôn gánh với hành động”. Mà hành động của con người thì gồm có hai loại hành động: đơn giản và phức tạp. Các kỹ năng gắn với hành động đơn giản, đòi hỏi các kỹ thuật, kỹ xảo đơn giản nên gọi là các kỹ năng đơn giản. Còn các kỹ năng phức tạp gắn với các hành động phức tạp. Những hành động có mức độ khó dễ khác nhau sẽ đòi hỏi những kỹ xảo có mức độ khác nhau từ đó nó sẽ hình thành nên các kỹ năng phức tạp hay đơn giản khác nhau.

Kỹ năng là một thành tố tạo nên năng lực của mỗi cá nhân.

Năng lực = thể chất + hiểu biết + kỹ năng [1, tr.50] Năng lực bộc lộ trong hoạt động và gắn liền với một số kỹ năng tương ứng. Mức độ hoàn thiện của kỹ năng là 1 trong những thuộc tính quan trọng của mỗi người. Điều này làm cho những con người khác nhau hoàn thành công việc với hiệu quả khác nhau. Kỹ năng có tính cụ thể, riêng lẻ còn năng lực có tính tổng hợp khái quát. Ta còn có thể hiểu như thế này, năng lực là công cụ giúp con người có thể hoàn thành công việc của mình, và năng lực gắn với một số kỹ năng cần thiết, các kỹ năng này giống như các bộ phận chính của công cụ phối hợp với một số bộ phận khác (như là hiểu biết và thể chất) hình thành nên công cụ (là năng lực). Ví dụ: muốn hoàn thành một bài giảng trên lớp thì người giáo viên phải có năng lực giảng dạy, năng lực này được hợp thành từ một số kỹ năng như viết bảng, nói, sử dụng tranh ảnh hình vẽ,… cùng thể chất của người giáo viên và một vốn kiến thức sẩn có của người giáo viên.

Kỹ năng là 1 trong 3 thành tố cần phải có của người giáo viên: kiến thức, kỹ năng, nhân cách; là 1 trong bộ 3 mục tiêu đào tạo: kiến thức, kỹ năng , thái độ [1, tr.50]. Ta thấy rằng kỹ năng là một thứ cần phải có trong cuộc sông của con người, bất kỳ ngành nghề nào cũng cần có kỹ năng, nhất là trong nghề giáo thì kỹ năng là 1 trong 3 thành tố cần phải có của người giáo viên, dứng bến cạnh kiến thức (là một người giáo viên thì cần phải có một kiến thức vững chắc, không cần phải uyên thâm nhưng phải cập nhật thông tin mỗi ngày, để kiến thức luôn luôn mới và sâu rộng) và nhân cách (đây là cái không thể thiếu của một con người làm việc đào tạo con người).

Trong quá trình đào tạo giáo viên, các kỹ năng dạy học được hình thành qua các hoạt động học tập, rèn luyện. Mỗi một hoạt động có thể nhắm vào hình thành một kỹ năng riêng lẻ (ví dụ: tập viết bảng) nhưng cũng có thể đồng thời một lúc hình thành nhiều kỹ năng khác nhau (ví dụ thảo luận nhóm, tập giảng …).

Trong các ngành nghề khác thì kỹ năng cũng không thể thiếu do đó kỹ năng là 1 trong 3 mục tiêu đào tạo một con người cho xã hội, bao giờ học cũng phải đi đôi với hành, kiến thức bao giờ cũng phải gắn liền với việc thực hành (tức rèn luyện kỹ năng) đi kèm với việc tu dưỡng đạo đức để trở thành một con người có tài có đức cho xã hội.

1.2. CÁC KỸ NĂNG DẠY HỌC CƠ BẢN CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN [1, tr.50]

Để hoàn thành nhiệm vụ dạy học người giáo viên cần phải có một hệ thống rất nhiều kỹ năng khác nhau. Có những kỹ năng cần hoàn thiện ngay ở đại học, có những kỹ năng sẽ hoàn thiện dần sau khi ra trường. Vì nhiều nguyên nhân khác nhau, ta chỉ có thể tập trung vào những kỹ năng cơ bản, thiết yếu nhất, những kỹ năng mà nếu không có nó sinh viên rất khó hoàn thành nhiệm vụ dạy học khi TTSP.

Để có một tiết lên lớp, cần làm tốt công tác chuẩn bị: điều tra nắm tình hình lớp, trình độ học sinh, soạn giáo án … Ở trên lớp người giáo viên hoa học cần phải có một số kỹ năng dạy học cơ bản sau: Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

  • Diễn đạt
  • Sử dụng hệ thống câu hỏi
  • Sử dụng bảng
  • Sử dụng bài tập hóa học
  • Sử dụng thí nghiệm
  • Sử dụng sơ đồ, biểu bảng, hình vẽ, mô hình và các phương tiện dạy học khác
  • Sử dụng các phương pháp dạy học thích hợp
  • Phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh
  • Tạo mối liên hệ giữa bài giảng với thực tế đời sống
  • Ứng xử sư phạm
  • Xây dựng mối quan hệ thầy trò và bầu không khí lớp học
  • Củng cố, hệ thống kiến thức, làm rõ trọng tâm bài giảng
  • Kiểm tra, đánh giá
  • Phân bố thời gian hợp lý.

Trong các KNDH ở trên, kỹ năng 4, 5, 9 là những kỹ năng mang tính đặc trưng của việc dạy học hoa học. Có thể phân chia 14 kỹ năng đã nếu thành 2 nhóm:

  • Nhóm kỹ năng sử dụng các phương tiện, phương pháp dạy học (kỹ năng 1 -7).
  • Nhóm kỹ năng định hướng, điều khiển, tổ chức thực hiện các hoạt động dạy học (kỹ năng 8 – 14).

Xét về mức độ ảnh hưởng đến thành công của bài giảng một cách tương đối, các kỹ năng được coi là quan trọng hơn gồm:

  • Diễn đạt
  • Sử dụng hệ thống câu hỏi
  • Sử dụng bảng
  • Sử dụng bài tập hoa học
  • Sử dụng các phương pháp dạy học thích hợp
  • Phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh
  • Xây dựng mối quan hệ thầy trò và bầu không khí lớp họe
  • Củng cố, hệ thống kiến thức, làm rõ trọng tâm bài giảng.

Từ những ý kiến trên của TS. Trịnh Văn Biểu, cho thấy kỹ năng cần có cho một người giáo viên là rất nhiều, nó đòi hỏi người giáo viên phải cổ một sự rèn luyện chăm chỉ lâu dài, có thể nó kéo dài đến hết sự nghiệp của một người giáo viên. Lúc nào, người giáo viên cũng học hỏi và tổng kết rút kinh nghiệm từ các bạn đồng nghiệp và lắng nghe sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp của mình.

1.3. QUY TRÌNH RÈN LUYỆN CÁC KỸ NĂNG DẠY HỌC

1.3.1. Mục đích rèn luyện các kỹ năng dạy học [1, tr.51] Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

  • Để hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học và giáo dục học sinh một cách có hiệu quả người giáo viên phải có phương pháp và nghệ thuật sư phạm. Một bài giảng tốt không chỉ đòi hỏi người thầy có kiến thức sâu rộng, vững vàng mà còn phải có các kỹ năng để việc “truyền đạt” kiến thức có hiệu quả.
  • Rèn luyện các kỹ năng dạy học là một đặc trưng của các trường sư phạm. Nhiều sinh viên trong thời gian học tập ở đại học, ý thức được tầm quan trọng của các kỹ năng dạy học đã tích cực rèn luyện, nên khi đi TTSP họ đạt được kết quả cao và trưởng thành rất nhanh sau khi ra trường.

1.3.2. Nội dung rèn luyện các kỹ năng dạy học có các nội dung sau: [1, tr.52]

Nắm đặc điểm, yêu cầu, cách thức hành động và phương pháp rèn luyện từng kỹ năng dạy học cơ bản.

Rèn luyện để đạt được ở mức độ thuần thục từng kỹ năng đó.

Biết cách sử dụng phối hợp các kỹ năng trong một bài lên lớp cụ thể.

Khi muốn làm một việc gì đó, thì con người ta cần phải nắm rõ các đặc điểm của công việc đó, công việc đó có những yêu cầu gì (ví dụ như cần tuyển một thư ký cần biết giỏi một ngoại ngữ, có khả năng sử dụng tin học văn phòng…), phương pháp làm công việc đó thật tốt (tức là có kinh nghiệm). Việc rèn luyện kỹ năng cũng cần phải như vậy. Muốn rèn luyện kỹ năng nào đó ta cần phải nắm đặc điểm của kỹ năng đó (như kỹ năng dùng lời có các đặc điểm truyền đạt nhanh, có thể truyền đạt được những nội dung phức tạp tế nhị,…); đồng thời nắm được những yêu cầu của kỹ năng nhằm để biết kỹ năng này cần có những cái gì để từ đó mà có phương pháp rèn luyện cho đúng (ví dụ lời nói có yêu cầu: to rõ, phát âm chuẩn dễ nghe, không dùng từ địa phương, tránh nói lấp, có cường độ to rõ khác nhau để nhấn mạnh… từ đó ta thấy rèn luyện kỹ năng dùng lời có một số phương pháp sau: tập nói trước nhóm nhỏ, tham gia các hoạt động tập thể, giảng tập cá nhân và ở nhóm, nói trước gương, tập đọc lớn tiếng từng đoạn văn…).

Khi làm một công việc gì đó, bất kỳ ai cũng muốn làm cho tới mức độ thuần phục công việc đó, muốn làm thật hoàn chỉnh để có kết quả tốt. Kỹ năng cũng vậy, kỹ năng cần có một sự khổ luyện thuần phục và liên tục, nhất là các kỹ năng dạy học người giáo viên cần phải rèn luyện thường xuyên để tiết dạy của mình ngày càng hay hơn không bị nhàm chán.

Đồng thời người giáo viên cũng phải biết phối hợp các kỹ năng lại với nhau để bài giảng của mình tốt hơn và có khả năng thu hút học sinh.

1.3.3. Nguyên tắc rèn luyện các kỹ năng dạy học Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

Kết hợp lý thuyết và thực hành, coi trọng cả 2 khâu: hướng dẫn của giảng viên và hoạt động rèn luyện của sinh viên. [1, tr.52]

  • Việc rèn luyện kỹ năng là một công việc vô cùng khó khăn nếu như không có lý thuyết của giảng viên hướng dẫn thì sinh viên rất khó thành công trong việc rèn luyện kỹ năng của mình.
  • Một số kỹ năng khó sinh viên không thể chỉ đọc, hiểu qua tài liệu mà còn cần được giảng viên hướng dẫn ừực tiếp nên rèn luyện như thế nào cho đúng và phương pháp rèn luyện trong nhóm và cá nhân như thế nào.
  • Kỹ năng chỉ được hình thành qua hoạt động thực tiễn, qua luyện tập nên cần phải tổ chức thực hành theo lớp, nhóm và tự rèn luyện cá nhân. Ví dụ: khi rèn luyện kỹ năng dùng lời, giảng viên trong lớp có thể kêu sinh viên đọc một đoạn trong sách trước lớp, tổ chức tập giảng theo nhóm học tập…

Sinh viên phải được học bằng hoạt động, thông qua hoạt động [1,tr.52]. Cần tăng cường các cơ hội để sinh viên có điều kiện rèn luyện kĩ năng:

  • Tăng đàm thoại khi giảng bài trên lớp, nhằm rèn luyện kỹ năng dùng lời, tập cho sinh viên khả năng nói lưu loát và khả năng diễn đạt qua việc trả lời câu hỏi và cho các bạn sinh viên học hỏi kỹ năng sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học.
  • Tổ chức học nhóm (lớn và nhỏ), các nhóm học này có tác dụng rất lớn trong việc rèn luyện kỹ năng. Trong nhóm học tập, sinh viên có thể rèn luyện kỹ năng dùng lời, viết bảng, sử dụng hệ thống câu hỏi, sự dụng tranh ảnh hình vẽ,… thông qua việc tập giảng các bài học trong chương trình phổ thông để các bạn trong nhóm quan sát và đóng góp ý kiến.
  • Tận dụng giờ tập giảng cuối mỗi buổi thực hành.
  • Tổ chức các buổi báo cáo chuyên đề, thuyết trình theo chủ đề, để giúp cho sinh viên khả năng diễn đạt trước đám đông một cách lưu loát trôi chảy.
  • Tổ chức các câu lạc bộ, hội nghiệp vụ, các cuộc thi đố vui hoa học, nhằm rèn luyện cho sinh viên thêm mạnh dạn hơn nữa, không còn nhút nhát trước đám đông.
  • Tổ chức các hoạt động tập thể như: tham quan, du lịch…Sau buổi tham quan yêu cầu mỗi sinh viên hãy viết một bài báo cáo về chuyến tham quan: họ đã thu hoạch được những gì, nhận xét về chuyến tham quan đó cổ thành công không, tại sao… để xem kỹ năng viết và dùng từ ngữ của sinh viên.

Việc rèn luyện kĩ năng phải đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. [1,

Khi làm bất cứ việc gì cũng vậy, con người ta cũng phải đi từ thấp đến cao, cũng như việc đi học, ai cũng phải bước vào học các lớp mẩu giáo trước để tập làm quen với không khí trường lớp, bạn bè, thầy cô; sau đó mới vào các lớp 1-12 để tích lũy kiến thức từ dễ đến khó cho phù hợp với độ tuổi, sau đó mới thi vào đại học theo ngành nghề mình ưa thích. Vì thế, việc rèn luyện kỹ năng cũng như vậy, cũng đòi hỏi sinh viên phải tích lũy và rèn luyện từ từ, từ chỗ đơn giản sau đó mới nâng cao mức độ rèn luyện lên để có thể thuần thục kỹ năng.

Ví dụ:

  • Rèn kỹ năng trình bày bảng qua các giai đoạn: viết trên giấy có dòng kẻ rồi không dòng kẻ, viết bảng đơn giản, trình bày bảng một phần rồi tiến tới trình bày toàn bộ bài học.
  • Rèn kỹ năng nói qua các giai đoạn: đọc, trả lời câu hỏi nhỏ, phát biểu một nội dung bài học, kể một chuyện ngắn, giảng một đoạn rồi tiến đến giảng trọn một bài.

Rèn luyện toàn diện nhưng có trọng điểm. [1, tr.52]

Sinh viên chú ý rèn luyện tất cả những kỹ năng cần thiết cho công việc của mình sau này nhưng mà khi rèn luyện kỹ năng cần chú ý những kỹ năng quan trọng như: nói, viết bảng…., những kỹ năng khó cần một quá trình khổ luyện và những kỹ năng sinh viên không thể tự rèn luyện một mình. Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

Rèn luyện thường xuyên, liên tục [1, tr.52].

Việc rèn luyện của sinh viên không được dừng lại, lúc nào nó cũng phải diễn ra, nó diễn ra ngay từ năm đầu tiên sinh viên vào trường cho đến khi tốt nghiệp ra trường và sau này đi dạy (đối với sinh viên sư phạm) hay đi làm thì việc rèn luyện này vẫn phải diễn ra để có thể ngày càng hoàn thiện mình. Việc rèn luyện kỹ năng phải diễn ra mọi lúc, mọi nơi. Ngoài việe rèn luyện ở lớp, ở nhóm, sinh viên cũng phải tự rèn luyện cá nhân ở nhà và phối hợp việc rèn luyện cá nhân với rèn luyện ở tập thể để khi rèn luyện ở lớp còn gì chưa đạt thì về nhà cần phải luyện tập thật nhiều để bổ sung vào. Và đối với sinh sư phạm có hai cơ hội lớn mà sinh viên cần phải tận dụng để rèn luyện và tích lũy kinh nghiệm cho riêng bản thân mình đó là hai đớt thực tập sư phạm.

Đề cao tinh thần tự giác nhưng không xem nhẹ việc kiểm tra đôn đốc. [l,tr.52]

  • Sinh viên cần nhận thức rõ tầm quan trọng của các kĩ năng để có ý thức tự giác trong rèn luyện, chỉ có tinh thần tự giác mới giúp được cho sinh viên ngày càng thuần thục các kỹ năng.
  • Ngoài ra giảng viên cần theo sát để uốn nắn, sửa chữa kịp thời những sai sót, lệch lạc của sinh viên trong phương pháp rèn luyện kỹ năng để hướng sinh viên đáp ứng đúng yêu cầu cần phải có của kỹ năng.
  • Đồng thời sinh viên cũng phải thật nghiêm túc trong việc rèn luyện, giảng viên không quá dễ dãi, qua loa đại khái sinh viên muốn rèn luyện sao cũng được mà phải kiểm tra đôn đốc thường xuyên.

Kết hợp việc rèn kỹ năng với việc cung cấp kiến thức và phát triển tư duy. [l,tr.52]

  • Lồng ghép phương pháp vào nội dung bài học. Khi sinh viên trả lời không chỉ yếu cầu đúng, đủ ý mà còn yêu cầu diễn đạt mạch lạc, lưu loát, có logic.
  • Vừa học (kiến thức) vừa rèn (kỹ năng), vui mà học. Ví dụ: tập đọc, kể các câu chuyện vui hoa học…

1.3.4. Quy trình chung khi rèn luyện các kỹ năng dạy học [1, tr.53]

Bước 1. Chuẩn bị:

Sinh viên đọc và nghiên cứu tài liệu để nắm vững mục đích, yêu cầu, cách thức hành động đối với kỹ năng cần rèn luyện.

Bước 2. Quan sát mẫu và làm thử trên lớp: Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

  • Sinh viên nghe giảng viên hướng dẫn về lí thuyết (chú ý những chỗ khó, những kinh nghiệm để thành công).
  • Giảng viên làm mẫu (có thể chọn sinh viên có kỹ năng tốt để làm mẫu).
  • Sinh viên làm thử.

Giảng viên nhận xét đúng sai và chỉ dẫn cách sửa lỗi.

Bước 3. Sinh viên tự tập dượt cá nhân (thời gian ngắn).

Bước 4. Rèn luyện ở nhóm:

  • Sinh viên trình bày trước nhóm.
  • Nhóm nhận xét, góp ý, cho điểm. Chú ý:

Giảng viên cần dự ở các nhóm để:

  • giúp nhóm trưởng nhanh chóng ổn định tổ chức;
  • giải đáp thắc mắc;
  • góp ý về cách làm.
  • Số sinh viên ở mỗi nhóm từ 6—12 là thích hợp, không nên quá đổng để dễ thu xếp địa điểm, thời gian và sình viên có nhiều cơ hội hoạt động.
  • Tận dụng các phòng trống, các tụ điểm công cộng.

Bước 5. Giảng viên tổng hợp kết quả (sau khi đi dự với các nhóm):

  • Nhận xét ưu khuyết điểm của các cá nhân.
  • Nhận xét rút kinh nghiệm về cách làm việc của nhóm.
  • Có thể yếu cầu một số sinh viên (giỏi, trung bình, kém) lên trình bày trước lớp để rút ra bài học chung.

Bước 6. Sinh viên tự rèn (thời gian có thể từ 1 đến 4 tháng hoặc lâu hơn)

Kỹ năng trong đó hành động càng phức tạp sinh viên càng phải rèn luyện nhiều.

Bước 7. Kiểm tra lần cuối lấy điểm chính thức.

1.3.5. Việc vận dụng lý thuyết kỹ năng vào đề tài Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

Lý thuyết kỹ năng góp phần củng cố thêm cho việc tổ chức hoạt động “Vui để học”. Việc tổ chức hoạt động “Vui để học” sẽ được gắn liền với hoạt động rèn luyện kỹ năng sư phạm cho sinh viên như: kỹ năng diễn đạt, làm cho sinh viên có phát huy tính tích cực sáng tạo của mình, xây dựng quan hệ thầy trò và bầu không khí lớp học.

Áp dụng các bước rèn luyện kỹ năng vào việc tổ chức hoạt động sẽ giúp cho hoạt động này không bị thiên về chỉ là một phương pháp dạy học hướng vào người của giảng viên mà hoạt động này còn bao hàm luôn cả việc rèn luyện kỹ năng cho sinh viên.

Ngoài việc rèn luyện kỹ năng bằng hoạt động, mà thông qua hoạt động này ta có thể tổ chức cho sinh viên hoạt động “Vui để học” về vấn đề kỹ năng để có thể ông luyện lại phần lý thuyết kỹ năng cho sinh viên.

Do đó, việc rèn luyện kỹ năng phải luôn gắn liền với hoạt động thực tế để cho các bạn sinh viên có thêm môi trường rèn luyện song song với việc học lý thuyết.

1.4. DẠY HỌC BẰNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI HỌC [4, tr.7]

Một trong những xu hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đang được khuyên khích là “dạy học bằng hoạt động của người học”. Nội dung cơ bản của xu hướng đổi mới phương pháp này là tạo mọi điều kiện để ọc sinh hoạt động càng nhiều càng tốt. Theo lối dạy học cũ, hoạt động của thầy chiếm phần lớn thời gian trên lớp. Trò chủ yếu là ngồi nghe một cách thụ động, rất ít khi tham gia hoạt động học tập chung của lớp. Trò ít phát biểu, càng rất ít khi được thắc mắc, hỏi thầy những điều không hiểu hay chưa được rõ. Dạy như thế kết quả học tập bị hạn chế rất nhiều. Người ta đã tìm cách để giảm thời gian hoạt động của thầy và tăng thời gian hoạt động của trò trong một tiết học. Với các tiếp cận đó, thực chất của dạy học bằng hoạt động của người học là chuyển từ lối dạy cũ (thầy nặng về truyền đạt, trò tiếp thu một cách thụ động) sang lối dạy mới, tron đó vai trò chủ yếu của thầy là toe chức, hướng dẫn hoạt động, trò chủ động tìm kiếm và phát hiện ra kiến thức.

1.4.1. Ý nghĩa – Tác dụng

Dạy học bằng hoạt động của người học có nhiều ý nghĩa và tác dụng trong việc đổi mới nền giáo dục nước ta hiện nay:

Dạy học bằng hoạt động của người học là một nội dung của dạy học hướng vào người học. Học sinh chỉ có thể phát triển tốt các năng lực tư duy, khả năng giải quyết vấn đề, thích ứng với cuộc sống…nếu như họ có cơ hội hoạt động. Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

Theo TS. Trịnh Văn Biều, “Dạy học bằng hoạt động của người học là một trong những con đường dẫn đến thành công của người giáo viên (dạy tốt, trở thành giáo viên giỏi)” [4, tr.7]. Dạy học bằng hoạt động của người học giúp cho học sinh phát huy được tiềm năng của mình, người học sẽ tiếp thu nhanh hơn nhờ trực tiếp tiếp xúc với tri thức. Và giáo viên chỉ cần đưa phương pháp và tài liệu cho học sinh, giúp học sinh ngày càng có nhiều kiến thức. Nhờ vậy giáo viên sẽ dạy tốt hơn phương pháp xưa.

Dạy học bằng hoạt động của người học làm tăng hiệu quả dạy học:

Học sinh chỉ có thể học tập một cách thực sự nếu như họ có cơ hội hoạt động. Một giờ học, nếu học sinh chỉ nghe giảng một cách thụ động, thì rất dễ bị phân tâm. Họ sẽ thờ ơ, sao nhãng với nhiệm vụ học tập, nghĩ đến những việc khác như lo cho bài giảng sắp tới, giờ ra chơi sẽ làm gì…, họ sẽ làm việc riêng, thậm chí có thể có thể còn quậy phá gây ảnh hưởng đến những bạn xung quanh. Thời gian học tập thực sự của học sinh khó có thể chiếm một tỷ lệ cao so với thời gian đã sử dụng. Nhưng một khi học sinh bị lôi cuốn vào hoạt động, là chủ thể của một hoạt động tự giác, tích cực, thì họ sẽ hoạt động tích cực hơn. Họ sẽ không thể sao nhãng, lơ là như khi hoạt động một cách cưỡng ép, bắt buộc, thời gian họ học tập thực sự trong một tiết học sẽ tăng lên.

Học sinh càng được hoạt động nhiều thì thời gian học tập thực sự trong một tiết học càng lớn, hiệu quả dạy học càng cao.

Dạy học bằng hoạt động của người học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi rèn luyện các kỹ năng dạy học cho sinh viên sư phạm vì kỹ năng chỉ có thể được hình thành qua hoạt động. Với các trường sư phạm, dạy học bằng hoạt động của người học là một hình thức tích hợp giữa dạy kiến thức với dạy kỹ năng nghề nghiệp. Việc rèn luyện các kỹ năng dạy học chỉ có thể thực hiện được qua các hoạt động của chính bản thân mỗi sinh viên. Sinh viên càng được hoạt động nhiều thì kết quả rèn luyện các kỹ năng dạy học sẽ càng cao. Trong mô hình cấu nhân cách của người giáo viên thì phẩm chất và năng lực,ăng lực chuyên môn và nghiệp vụ hòa với nhau cùng tạo ra sản phẩm, chất lượng và hiệu quả giáo dục. Để dạy được tốt sinh viên phải được đào tạo cả về nội dung dạy học và phương pháp dạy học. Phải làm cho việc đào tạo chuyên môn thấm đượm tính nghiệp vụ, góp phần tích cực vào việc hình thành cho sinh viên năng lực dạy học và giáo dục. Chính vì vậy, đây là một hướng đi đúng đắn góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo của các trường Sư phạm.

1.4.2. Những biện pháp để tăng cường hoạt động của người học Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

Để tạo điều kiện cho học sinh hoạt động, giáo viên có thể áp dụng một số hình thức sau:

Thầy gợi mở, nếu vấn đề cho trò suy nghĩ (không đặt thành câu hỏi).

Sử dụng cấu hỏi dưới nhiều dạng câu hỏi khác nhau từ thấp đến cao:

  • Thầy đặt câu hỏi rồi tự trả lời.
  • Thầy đặt câu hỏi rồi yêu cầu trò trả lời (đàm thoại)

Thầy yêu cầu trò nêu câu hỏi về các vấn đề mà bản thân thấy không hiểu hay chưa rõ.

Ra bài tập hay yêu cầu học sinh hoàn thành một nhiệm vụ học tập.

Giáo viên hướng dẫn học sinh làm việc với sách giáo khoa. Khi sử dụng hình thức này giáo viên có thể tổ chức cho học sinh các hoạt động sau:

  • Đọc một đoạn trong tài liệu (tập đọc lưu loát, ngắt nghỉ đúng chỗ, lên giọng và xuống gọng…)
  • Nếu các ý chưa rõ, chưa hiểu trong tài liệu.
  • Tìm ý chính của bài và của từng phần.
  • Tóm tắt nội dung bài học.
  • Đặt câu hỏi cho từng nội dung bài học.

Tổ chức cho học sinh làm một vài thí nghiệm nhỏ, đơn giản trên lớp.

Thảo luận nhóm: tổ chức cho học sinh thảo luận các câu hỏi dưới sự điều khiển của thầy hay để học sinh tự điều khiển.

Thuyết trình theo chủ đề: học sinh có thể thuyết trình theo chủ đề cho trước hoặc chủ đề tự chọn.

Tổ chức cho học sinh nhận xét, góp ý, nhận xét tham gia vào quá trình đánh giá (tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau).

Câu lạc bộ hóa học.

1.5. LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG

1.5.1. Khái niệm chung về hoạt động [5 ,tr.35] Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

Hoạt động là gì?

Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về hoạt động

  • Thông thường người coi hhoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh và cơ bắp của con người tác động vào hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình.
  • Về phương diện triết học, tâm lý học người ta quan niệm hoạt động là phương thức tồn tại của con người trong thế giới.

Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới, cả về phía con người (chủ thể).

Trong mối quan hệ đó có hai quá trình diễn ra đồng thời và bổ sung cho nhau, thống nhất với nhau:

  • Quá trình thứ nhất là quá trình đối tượng hóa trong đó chủ thể chuyển năng lực của mình thành sản phẩm của hoạt động, hay nói khác đi tâm lý của con người (của chủ thể) được bộc lộ, được khách quan hóa trong quá trình làm ra sản phẩm.
  • Quá trình thứ hai là quá trình chủ thể hóa, có nghĩa là khi hoạt động con người chuyển từ phía khách thể vào bản thân mình những quy luật, bản chất của thế giới để tạo nên tâm lý, ý thức, nhân cách của bản thân, bằng cách chiếm lĩnh (lĩnh hội) thế giới.

Những đặc điểm của hoạt động Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

  • Hoạt động bao giờ cũng là “hoạt động có đôi tượng”: đối tượng của hoạt động là cái con người làm ra, cần chiếm lĩnh. Đó là động cơ. Động cơ luôn thúc đẩy còn người hoạt động nhằm tác động vào khách thể để thay đổi nó biến thành sản phẩm, hoặc tiếp nhận nó chuyển vào đầu óc mình tạo nên một cấu tạo tâm lý mới, một năng lực mới…
  • Hoạt động bao giờ cũng có chủ thể. Hoạt động do chủ thể thực hiện, chủ thể hoạt động có thể là một hoặc nhiều người.
  • Hoạt động bao giờ cũng có tính mục đích: mục đích của hoạt động làm biến đổi thế giới (khách thể) và biến đổi bản thân chủ thể. Tính mục đích gắn liền với tính đối tượng. Tính mục đích bị chế ước bởi nội dung xã hội.
  • Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián tiếp. Trong hoạt động con người “gián tiếp” tác động đến khách thể qua hình ảnh tâm lý ở trong đầu, gián tiếp qua việc sử dụng công cụ lao động và sử dụng phương tiện ngôn ngữ. Như vậy công cụ tâm lý, ngôn ngữ và công cụ lao động giữ chức năng trung gian giữa chủ thể và khách thể, tạo ra tính gián tiếp của hoạt động.

1.5.2. Các loại hoạt động [5, tr.35]

Có nhiều cách phân loại hoạt động:

  • Xét về phương diện cá thể, ta thấy ở con người có bốn loại hoạt động: vui chơi, học tập, lao động và hoạt động xã hội.
  • Xét về phương diện sản phẩm (vật chất hay tinh thần) người ta chia làm hai loại hoạt động lớn:
  • Hoạt động thực tiễn: hướng vào vật thể hay quan hệ, tạo ra sản phẩm vật chất là chủ yếu.
  • Hoạt động lý luận: diễn ra với hình ảnh, biểu tượng, khái niệm… tạo ra sản phẩm tinh thần. Hai loại hoạt động luôn tác động qua lại bổ sung cho nhau.

Còn có cách phân loại khác, chia hoạt động thành bốn loại:

  • Hoạt động biến đổi.
  • Hoạt động nhận thức.
  • Hoạt động định hướng giá trị.
  • Hoạt động giao lưu.

1.5.3. Cấu trúc của hoạt động [5, tr.35] Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

Chủ nghĩa hành vi cho rằng hoạt động của con người và động vật có cấu trúc chung là: kích thích – phản ứng (S – R).

Trong tâm lý học có lúc người ta chỉ xét về cấu trúc hoạt động bao gồm các thành tố diễn ra ở phía con người (chủ thể) thuộc các thành tố đơn vị thao tác của hoạt động, hoạt động có cấu trúc như sau: hoạt động – hành động -thao tác.

Quan điểm của A.N. Leonchiev về cấu trúc vĩ mô của hoạt động: trên cơ sở nghiên cứu thực nghiệm trong nhiều năm, nhà tâm lý học Xô Viết nổi tiếng A.N.

Leonchiev đã nêu lên cấu trúc vĩ mổ của hoạt động, bao gồm 6 thành tố và mối quan hệ giữa 6 thành tố này.

Khi tiến hành hoạt động:

  • Về phía chủ thể bao gồm 3 thành tố và mối quan hệ giữa 3 thành tố này, đó là: hoạt động – hành động – thao tác. Ba thành tố này là thuộc vào các đơn vị thao tác (mặt kỹ thuật) của hoạt động.
  • Về phía khách thể (về phía đối tượng hoạt động) bao gồm 3 thành tố và mối quan hệ giữa chúng với nhau, đó là: động cơ – mục đích – phương tiện. Ba thành tố này tạo nên “nội dung đối tượng” của hoạt động (mặt tâm lý).

Cụ thể là: hoạt động hợp bởi các hành động. Các hành động diễn ra bằng các thao tác. Hoạt động luôn hướng vào động cơ (nằm trong đối tượng) đó là mục đích chung, mục đích cuối cùng của hoạt động, mục đích chung này (động cơ) được cụ thể bằng những mục đích cụ thể, mục đích bộ phận mà từng hoạt động hướng vào. Để đạt mục đích con người phải sử dụng các phương tiện. Tùy theo các điều kiện, phương tiện mà con người thực hiện các thao tác để tiến hành hành động đạt mục đích, hay nói khác đi hành động thực hiện nhờ các thao tác và nội dung của đối tượng hoạt động (cả về phía khách thể, cả về phía chủ thể – “sản phẩm kép”): Có thể khái quát cấu trúc chung của hoạt động như sau:

1.5.4. Vận dụng lý thuyết hoạt động vào thực tế của đề tài

Lý thuyết hoạt động sẽ giúp cho việc làm thực nghiệm của đề tài sẽ chính xác hơn và bảo đảm khi tiến hành thực nghiệm hoạt động này phải đầy đủ các thành tố: Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

  • Đối với chủ thể hoạt động sẽ phải bao gồm 3 thành tố và mối quan hệ giữa 3 thành tố này hoạt động – hành động – thao tác. Áp dụng vào đề tài ta thấy rằng hoạt động “Vui để học” bao gồm những hành động như: chọn người dẫn chương trình, chia nhóm tham gia hoạt động, lập ban giám khảo. Những hành động này bao gồm nhiều thao tác như: soạn các câu hỏi cho hoạt động (chuẩn bị câu hỏi bằng Power Point), soạn phiếu điều tra, chỉ định người dẫn chương trình, cho ghép nhóm thi đấu (bằng cách phát bài, hoặc bốc thăm số), thành lập ban thư ký ghi điểm số cho các đội thi, cho các đội tham gia hoạt động.
  • Đối với khách thể hoạt động bao gồm 3 thành tố, mối quan hệ giữa chúng bao gồm: động cơ – mục đích – phương tiện. Động cơ để tổ chức hoạt động này là nhằm tạo ra một cách nghĩ mới về phương pháp dạy học hướng vào học sinh. Mục đích của hoạt động này là nhằm củng cố lại những kiến thức cũ cho sinh viên và rèn luyện một số kỹ năng sư phạm cho sinh viên. Phương tiện để tiến hành hoạt động là: máy chiếu projector overhead, phiếu điều tra sau khi đã tổ chức hoạt động.

1.6. THAM KHẢO Ý KIẾN SINH VIÊN VỀ HOẠT ĐỘNG “VUI ĐỂ HỌC “

1.6.1. Mục đích điều tra

Thăm dò ý kiến của các bạn sinh viên đã từng tham gia hoạt động “Vui để học” về hoạt động này.

Tìm hiểu kinh nghiệm tổ chức hoạt động “Vui để học ” của các bạn.

Từ đó rút ra những căn cứ về hoạt động “Vui để học” và đưa ra một số cách thức tổ chức hoạt động “Vui để học” để đạt kết quả cao nhất.

1.6.2. Đối tượng và nội dung điều tra Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

Đối tượng điều tra

Sinh viên năm 4, khoa Hóa trường Đại học Sư Phạm TP. HCM, sau khi đã học qua học phần Phương pháp giảng dạy Hóa học ở trường phổ thông. Phát ra 83 phiếu thu về 83 phiếu.

Nội dung điều tra

  • Nhận xét về hoạt động “Vui để học”.
  • Thái độ của các bạn sinh viên đối với hoạt động này.
  • Tác dụng của hoạt động này.
  • Ưu khuyết điểm của hoạt động này.
  • Kinh nghiệm tổ chức hoạt động này.

1.6.3. Phương pháp pháp điều tra

Tôi đã tiến hành điều tra theo các bước sau:

  • Xác định mục đích thăm dò, các nội dung cần thăm dò, đối tượng thăm dò.
  • Thiết kế phiếu câu hỏi thăm dò (phu lục 1).
  • Phát và thu phiếu.
  • Xử lí các số liệu thu được.

1.6.4. Kết quả điều tra Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

Các phiếu thăm dò thu về được xử lý như sau:

  • Gán các trọng số 1, 2, 3, 4, 5 cho các mức độ từ thấp đến cao: 1 = thấp nhất, 5 cao nhất.
  • Tính điểm trung bình cho mỗi vấn đề cần tìm hiểu (quy về thang điểm 10 để tiện so sánh) theo công thức:

Các bạn nhận xét mức độ cần thiết (7,11 điểm) và tác dụng (7.37 điểm) của hoạt động này điều ngang nhau.

Trên số liệu ta có thể thấy đa phần sinh viên cho rằng sự cần thiết và tác dụng của hoạt động “Vui để học” là có nhưng nó không ở mức độ cao là vì hoạt động này còn khá mới nên một số sinh viên cũng không ưa thích.

Các bạn đa phần thích thú khi tham gia hoạt động này, và mỗi khi tham gia cà bạn rất hưng phấn và nhiệt tình khi tham gia.

Trên bảng số liệu có thể cho thấy đa phần các bạn tập trung vào mức độ 3 và 4 vì do các bạn chỉ tham gia được một hoặc hai lần hoạt động này trong quá trình học môn giáo học pháp (mới được thầy thử nghiệm) nên các bạn cảm thấy nó hơi mới lạ do đó rất khó cho các bạn xác định có thích thú hoạt động này hay không.

Nhưng khi tham gia hoạt động này các bạn cảm thấy nó rất hay rất hưng phấn khi tham gia, và các bạn sẵn sàng nhiệt tình tham gia trả lời các câu hỏi của hoạt động. Và các bạn nhiệt tình tham gia đặt câu hỏi và củng cố kiến thức bằng cách trả lời câu hỏi rất hăng say nhiệt tình.

Nhận xét về đặc điểm của hoạt động “Vui để học “

  • Làm cho lớp học càng thêm sôi động, tạo được bầu không khí học tập tốt (8,12).
  • Rèn luyện kỹ năng diễn đạt trước đám đông cho sinh viên (8,17)
  • Rèn luyện kỹ năng xử lý nhanh các tình huống (7,93).
  • Tập cho sinh viên khả năng tổ chức một buổi “Vui để học” để ôn luyện kiến thức cho học sinh (7.71).
  • Tập cho sinh viên có thể hoạt động theo nhóm, tăng cường khả năng hợp tác

Theo kết quả tính được cho thấy số liệu trên cho thấy các bạn sinh viên cảm thấy trong lớp học mà tổ chức hoạt động này sẽ làm cho lớp học sôi động và nó có thể tạo được một bầu không khí học tập tốt, giúp cho các bạn có thể tiếp nhận được kiến thức một cách dễ dàng hơn.

Đồng thời các bạn cho rằng hoạt động này sẽ rèn luyện cho các bạn kỹ năng diễn đạt trước đám đông và kỹ năng xử lý các tình huống. Đây cũng là hai kỹ năng cực kỳ quan trọng đối với sinh viên sư phạm khi đi thực tập cũng như đối với một người giáo viên sau khi ra trường đi dạy, do đó, các bạn đã chọn hai tác dụng này là chủ yếu.

Và hoạt động này, tập cho sinh viên có khả năng hoạt động theo nhóm tốt và tăng cường khả năng hợp tác. Vì khi cho tiến hành hoạt động thì các bạn phải thảo luận và hội ý theo nhóm của mình để đưa ra câu trả lời chính xác. Đây cũng là một hoạt động cần thiết cho sinh viên khi đi thực tập phải hoạt động theo nhóm chuyên môn của mình và cũng như khi thực tập chủ nhiệm chung với các bạn khác.

  • Rèn luyện được nhiều kỹ năng sư phạm cho sinh viên (7.98).
  • Người học có thể trao đổi và học hỏi lẫn nhau (7.93).
  • Việc tổ chức hoạt động này làm tốn rất nhiều thời gian (8.10).

Đa số các bạn đều cho rằng ưu điểm của hoạt động này có thể rèn luyện được nhiều kỹ năng sư phạm cho sinh viên và khi tổ chức hoạt động này trong lớp học nó sẽ giúp học có thể trao đổi và học hỏi lẫn nhau. Đây là hai điều rất cần thiết cho người sinh viên sư phạm khi học tập và rèn luyện kỹ năng chuẩn bị ra trường, hai việc này giúp cho sinh viên có thể tích lũy một vốn kiến thức và kỹ năng tạm thời khi đi thực tập cũng như khi ra trường đi dạy.

Hoạt động này làm mất rất nhiều thời gian làm cho thời gian giảng dạy trên lớp của giảng viên bị hạn hẹp nến nó cần cân nhắc ở chỗ sử dung nó sao cho hợp lý với thời lượng chương trình trên lớp.

  • Tổ chức giống chương trình Đường lên đỉnh Olympia (7.81 điểm).
  • Tổ chức cho hai nhóm thi với nhau và tự đặt câu hỏi cho nhau (7.76 điểm).

Hai cách thức tổ chức hoạt động có số điểm cao nhất đã nêu trên cho thấy hai cách thức tổ chức hoạt động này rất được sinh viên ưa chuộng vì nó hỗ trợ cho sinh viên các kỹ năng sư phạm mà sinh viên cần luyện tập khi còn ngồi trên ghế giảng đường. Khóa luận: Tổ chức hoạt động “Vui để học” cho sinh viên

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464