Khóa luận: Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: Đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường EU dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.2 Thực trạng xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2018 – 2020 và 6 tháng đầu năm 2021

2.2.1 Về kim ngạch xuất khẩu

Theo VASEP, thẻ vàng IUU của Ủy ban châu Âu (EC) đã khiến kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Liên minh châu Âu (EU) sụt giảm liên tục từ năm 2018 đến nay. Sau 2 năm chịu tác động từ thẻ vàng, kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang EU giảm 12%, tương đương 183,5 triệu USD. Xu hướng giảm này tiếp tục kéo dài hơn nữa vào năm 2020, đặc biệt do bị tác động kép bởi dịch COVID-19 và thẻ vàng IUU làm cho kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang thị trường này giảm đáng kể.

Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU giai đoạn 2018 – 6T 2021

Do ảnh hưởng của thẻ vàng IUU, xuất khẩu thủy sản sang EU đã giảm đáng kể trong những năm qua. Năm 2018, năm đầu tiên chịu ảnh hưởng của thẻ vàng IUU, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU giảm xuống còn 1.35 tỷ USD. Từ vị trí thứ 2 trong các thị trường xuất khẩu thủy sản, sau khi EC cảnh báo thẻ vàng đối với thủy sản khai thác của Việt Nam, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Châu Âu đã tụt xuống đứng thứ 5 và tỉ trọng của thị trường sụt giảm từ 18% xuống 13%. Khóa luận: Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU

Năm 2019, tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU đạt khoảng 1.29 tỷ USD, trong đó sản phẩm hải sản khai thác đóng góp khoảng 387 triệu USD. So với năm 2018, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU năm 2019 giảm 12%. Đặc biệt, hội nghị đánh giá 2 năm triển khai chương trình “Doanh nghiệp cam kết chống khai thác bất hợp pháp, không khai báo và không theo qui định (IUU)” diễn ra trong bối cảnh đoàn Thanh tra của Ủy ban châu Âu EC sang làm việc với các cơ quan hữu quan Việt Nam để kiểm tra việc thực hiện các khuyến nghị của EC sau năm bị cảnh cáo “thẻ vàng”. Trong lần kiểm tra này, đoàn thanh tiến hành kiểm tra 4 nhóm khuyến nghị mà EC đã yêu cầu nước ta phải thực hiện là Khung pháp lý; Hệ thống theo dõi, giám sát và kiểm soát hoạt động tàu cá; Thực thi pháp luật và Truy xuất nguồn gốc thủy sản từ khai thác. Đến nay, sau những năm thực hiện tốt các quy định cả nước có 62 doanh nghiệp cam kết IUU bằng việc tuân thủ nguyên tắc chỉ thu mua từ những tàu đánh bắt có đầy đủ giấy phép, nhật ký khai thác và chứng nhận của cảng. Theo báo cáo của Hiệp hội VASEP, sau năm EC cảnh báo thẻ vàng đối với hải sản khai thác của Việt Nam, xuất khẩu hải sản của Việt Nam sang thị trường EU đã bị tác động rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu giảm 6,5% còn gần 390 triệu USD trong năm 2018 và tiếp tục chững lại trong những tháng đầu năm năm 2019 với 251 triệu USD.

Năm 2020, tuy có hồi phục sau khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) có hiệu lực từ ngày 1/8/2020 nhưng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU giảm 6% so với năm 2019, kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang EU đạt 1,22 tỷ USD. Tuy nhiên, theo Báo cáo khó dựa vào các số liệu xuất khẩu thủy sản sang EU năm 2020 để phân tích định lượng tác động từ thẻ vàng. Bởi, suy giảm xuất khẩu năm 2020 không chỉ chịu tác động bởi thẻ vàng, mà còn bị ảnh hưởng bởi cả đại dịch COVID-19. Mặt khác, xuất khẩu thủy sản sang EU từ nửa cuối năm 2020 còn được tác động từ Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU (EVFTA) đã mang lại kết quả tích cực cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Thủy sản là một trong những ngành xuất khẩu được hưởng lợi đáng kể khi EVFTA có hiệu lực vì 50% số dòng thuế sẽ về 0% vào năm 2020, bao gồm các mặt hàng chính như tôm, cá ngừ, mực và bạch tuộc.

Biểu đồ 2.1: Lượng và kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU qua các tháng trong năm 2020 – 2021.

Biểu đồ lượng và trị giá xuất khẩu năm 2021 cho thấy ngoại trừ tháng 2 (tháng có đợt nghỉ Tết nguyên đán) thì lượng và trị giá xuất khẩu thủy sản các tháng năm 2021 đều tăng so với năm trước. Cục Xuất nhập khẩu cho biết xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU trong 6 tháng đầu năm đạt khoảng 485,3 triệu USD và tăng 20% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, Hà Lan, Đức, Italia, Bỉ và Pháp là những thị trường xuất khẩu lớn nhất trong khối thị trường này. BCT nhận định, trong những tháng cuối năm 2021, nhu cầu tiêu thụ tại EU đang có xu hướng hồi phục trở lại cộng với những ưu đãi đặc biệt về thuế quan từ EVFTA sẽ tiếp tục tạo thuận lợi cho các sản phẩm thủy sản của Việt Nam tăng thêm tính cạnh tranh tại thị trường EU. Song trước diễn biến của dịch bệnh, ảnh hưởng của thẻ vàng IUU sẽ tiếp tục là những yếu tố tác động lớn nhất đến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường này.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>>  Dịch Vụ Viết Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Kinh Tế

2.2.2 Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu Khóa luận: Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU

Từ nhiều năm nay, các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực của VN vẫn là tôm, cá biển, mực, bạch tuộc và các loại thủy sản đông lạnh và các loại thủy sản khô. Cơ cấu các mặt hàng XK của nước ta ngày càng bổ sung thêm các mặt hàng có giá trị như cá ngừ, nghêu và một số đặc sản khác. Trong đó, tôm vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, sản lượng tôm ngày càng tăng, đến nay theo ước tính có thể đạt gần 3 triệu tấn, thỏa mãn tương đối tốt nhu cầu tiêu thụ của thế giới nói chung và của EU nói riêng.

Bảng 2.2: Kim ngạch các mặt hàng thủy sản xuất khẩu sang EU giai đoạn 2018 – 6T 2021

Về mặt hàng tôm

Kết thúc năm 2018, xuất khẩu tôm của Việt Nam không khả quan như mong đợi, giảm 7,8% so với năm 2017.Giá tôm trong nước có lúc giảm 20-30% cũng ảnh hưởng tới nguồn cung và nhu cầu thị trường và giá trị XK. Nguồn cung từ các nước sản xuất tôm như Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia tăng, nên tôm Việt Nam không thể xuất mạnh sang thị trường này. EU vẫn là thị trường nhập khẩu tôm lớn nhất của Việt Nam, chiếm 23,6% tổng giá trị xuất khẩu tôm Việt Nam đi các thị trường. Năm 2018, xuất khẩu tôm Việt Nam sang EU đạt 838,3 triệu USD, giảm 2,8%. Xuất khẩu tôm sang EU tăng trưởng tốt trong nửa đầu năm và có xu hướng giảm trong nửa cuối năm.

Trong năm 2019, XK tôm Việt Nam sang thị trường EU đạt 689,8 triệu USD, giảm 17,7% so với năm 2018. Riêng trong quý IV/2019, XK tôm Việt Nam sang EU đạt 176,4 triệu USD, giảm 7,1% so với quý IV/2018. Trong quý cuối cùng của năm 2019, XK tôm sang EU có chiều hướng tốt hơn, không giảm sâu như 3 quý đầu năm. Cả năm 2019, XK tôm sang EU chỉ tăng nhẹ trong tháng 7 và 11, các tháng còn lại đều giảm. Trong đó Tôm chân trắng là sản phẩm chủ đạo XK sang EU, chiếm tỷ trọng 79,9% tổng các sản phẩm tôm xuất sang EU, tôm sú chiếm 12,2%, còn lại là các sản phẩm tôm biển. Giá trị XK các sản phẩm tôm chân trắng sang EU trong năm 2019 giảm mạnh hơn giá trị XK tôm sú sang thị trường này. Dưới đây là biểu đồ kim ngạch xuất khẩu tôm sang thị trường EU. Nhìn vào biểu đồ có thể thấy được sự giảm đáng kể trong kim ngạch của mặt hàng tôm khi xuất khẩu sang thị trường này.

Cả năm 2020, xuất khẩu của ngành thủy sản đạt kim ngạch 8,6 tỷ USD, trong đó riêng mặt hàng tôm xuất khẩu đạt 3,78 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng hơn 12,4%. Như vậy, mặc dù có những thời điểm trồi sụt thất thường trong năm vì dịch bệnh, thị trường xuất khẩu tôm đã trở thành điểm sáng của ngành xuất khẩu thủy sản năm 2020. Theo VASEP, lĩnh vực xuất khẩu tôm Việt Nam năm 2020 hoạt động tốt mặc dù dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trên toàn thế giới, ở cả các nước nhập khẩu và các nước nguồn cung. Nhưng đến cuối năm, đã có cú nước rút ngoạn mục. Điều đáng lưu ý là xuất khẩu tôm Việt Nam sang EU giảm liên tục từ tháng 3 đến tháng 6, nhưng từ tháng và 8-2020 bắt đầu bật tăng so với những tháng trước đó. Cụ thể, tháng 7-2020 đạt 54,2 triệu USD, tăng 2% so với tháng 7-2019; tháng 8-2020, đạt 394,6 triệu USD, tăng gần 12% so với tháng 8-2019, và tăng 7,2 lần so với tháng 7-2020. Điều này được cho là nhờ tác động tích cực từ Hiệp định EVFTA có hiệu lực từ đầu tháng 8-2020.

Biểu đồ 2.2: Lượng và kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam sang thị trường EU theo quý năm 2020-2021

Từ biểu đồ thống kê cho biết xuất khẩu tôm sang thị trường EU 6 tháng đạt 255,7 triệu USD, tăng 27,5% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, riêng tôm chân trắng đạt trên 205 triệu USD, tăng 31%. Theo số liệu thống kê được từ Cục Hải quan, xuất khẩu tôm sang EU tăng trưởng mạnh do tôm là mặt hàng có thuế nhập khẩu ưu đãi theo EVFTA được cắt giảm ngay. Thị trường EU chiếm trên 14% tổng kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam, đứng thứ ba sau thị trường Hoa Kỳ và Nhật Bản.

Về mặt hàng mực và bạch tuộc

EU là thị trường nhập khẩu mực, bạch tuộc lớn thứ 3 của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 12,4%. Nếu như năm 2017, xuất khẩu mực Việt Nam sang thị trường này đạt tốc độ tăng trưởng trên 50% thì năm 2018 xuất khẩu sang thị trường này giảm 21,7% đạt trên 40triệu USD do tác động của thẻ vàng IUU. Trong tổng cơ cấu sản phẩm mưc, bạch tuộc xuất khẩu sang EU, mực chiếm tỷ trọng áp đảo 70%, còn lại bạch tuộc chiếm 30%. Trong số các sản phẩm mực xuất khẩu sang EU, mực sống/tươi/đông lạnh (thuộc mã HS03) chiếm tỷ trọng lớn nhất nhưng giá trị XK giảm mạnh nhất 37,2%. Mực khô, nướng, (thuộc mã HS03) chiếm tỷ trọng thấp nhất nhưng giá trị XK tăng cao nhất. Tính tới cuối năm 2018, NK mực vào EU đạt 53.6 triệu USD, giảm 6,7% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó Pháp và Bồ Đào Nha là 2 nước NK lớn nhất mặt hàng này trong khối. Khóa luận: Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU

Kim ngạch xuất khẩu mực, bạch tuộc sang thị trường EU giai đoạn 2018 – 2020 và 6T 2021

Biểu đồ 2.3: Kim ngạch xuất khẩu mực, bạch tuộc sang thị trường EU giai đoạn 2018 – 6T 2021

Nhìn vào biểu đồ ta thấy xuất khẩu mực, bạch tuộc sang liên tục giảm mạnh do chịu tác động của thẻ vàng IUU, cộng thêm tác động của dịch bệnh Covid-19 khiến nhu cầu giảm. Tuy nhiên, tháng 8/2020, xuất khẩu mực, bạch tuộc sang thị trường này đã tăng trở lại 10% đạt 5,8 triệu USD. Đáng chú ý, xuất khẩu sang Pháp tăng trên 101% đạt 0,7 triệu USD. Hiệp định EVFTA có hiệu lực từ 1/8/2020 đã mang lại ưu đãi thuế cho xuất khẩu mực, bạch tuộc Việt Nam sang EU giúp xuất khẩu mực, bạch tuộc sang EU trong những tháng cuối năm đạt được nhiều kết quả tốt. Tính đến 6 tháng đầu năm 2021 nhờ tăng trưởng tốt EU đã vượt qua Thái Lan trở thành thị trường NK mực, bạch tuộc lớn thứ 3 của Việt Nam, chiếm 10,8% tổng giá trị XK mực, bạch tuộc của Việt Nam đi các thị trường.

Về mặt hàng cá

Cá ngừ các loại và cá tra, là 2 nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất sang thị EU, trong đó cá ngừ các loại tăng trưởng tốt, trong khi đó xuất khẩu cá tra giảm mạnh. Cá ngừ các loại chiếm 25,2% về lượng và chiếm 14% về trị giá; cá tra chiếm 15,8% về lượng và chiếm 7,1% về trị giá trong tổng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU.

Biểu đồ 2.4: Lượng và kim ngạch xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang EU theo quý năm 2020-2021

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, xuất khẩu cá ngừ các loại của Việt Nam tới thị trường EU trong quý II/2021 đạt 9,36 nghìn tấn với trị giá 45,05 triệu USD, tăng 43,9% về lượng và tăng 59,3% về trị giá so với quý I/2021; tăng 41,3% về lượng và tăng 50,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. Tính chung nửa đầu năm 2021, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam tới thị trường EU đạt 15,87 nghìn tấn với trị giá 73,33 triệu USD, tăng 39,3% về lượng và tăng 31,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020, chiếm 15,2% về lượng và chiếm 15,1% tổng trị giá xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU.

Biểu đồ 2.5: Lượng và kim ngạch xuất khẩu cá tra của Việt Nam sang EU theo quý năm 2020-2021

Theo lộ trình giảm thuế của Hiệp định EVFTA, các sản phẩm cá tra xuất khẩu vào EU được giảm thuế về 0% sau 3 năm khi EVFTA có hiệu lực, riêng cá tra hun khói là 7 năm. Tuy vậy, trong những tháng đầu năm 2021, xuất khẩu cá tra của Việt Nam tới thị trường EU gặp nhiều khó khăn trước tác động của dịch Covid-19. Trong quý II/2021, xuất khẩu cá tra của Việt Nam tới thị trường EU đạt 14,2 nghìn tấn với trị giá 32,1 triệu USD, tăng 26,8% về lượng và tăng 26,4% về trị giá so với quý I/2020; tăng 6,5% về lượng và giảm 3,8% về trị giá so với quý II/2020. Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu cá tra của Việt Nam tới EU đạt 25,4 nghìn tấn, trị giá 57,52 triệu USD, giảm 12,2% về lượng và giảm 16,8% về trị giá so với cùng kỳ năm2020. Trong đó Hà Lan, Đức, Tây Ban Nha, Bỉ, Italia… lần lượt là những thị trường nhập khẩu cá tra Việt Nam lớn nhất của EU.

Như vậy, Theo nhận định của Cục Xuất nhập khẩu nhu cầu các loại thủy sản thế giới nói chung và tại EU nói riêng dự kiến tiếp tục duy trì xu hướng tăng trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng và nhập khẩu của EU hồi phục trong khi nguồn cung của thế giới còn hạn chế. Tuy vậy, sức ép cạnh tranh và những quy định, rào cản kỹ thuật vẫn đang và sẽ tiếp tục gây khó khăn cho ngành thủy sản Việt Nam. Các đối thủ cạnh tranh quốc tế nói chung và ngay cả một số thị trường sở tại châu Âu nói riêng, hiện đang có xu hướng đưa ra quy định, tiêu chí khắt khe hơn đối với sản phẩm nhập khẩu vào thị trường Châu Âu – thị trường lớn thứ 2 về nhập khẩu thủy sản Việt Nam.

2.2.3 Về thị trường xuất khẩu Khóa luận: Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU

Về thị trường, theo Cục Xuất nhập khẩu – Bộ Công Thương, trong nhiều năm qua, Hà Lan luôn là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam tại EU. Đón đầu Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) với những ưu đãi lớn về thuế đã và đang giúp mặt hàng thủy sản Việt Nam bước đầu tận dụng cơ hội, đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường, bất chấp những khó khăn về dịch bệnh.

Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang các thị trường tiềm năng của EU giai đoạn 2018 – 6T 2021

Trong EU, Việt Nam xuất khẩu thủy sản nhiều nhất sang các thị trường Hà Lan, Đức, Italy, Tây Ban Nha.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới Hà Lan giảm liên tiếp trong 2 năm 2018 và 2019 là do chịu ảnh hưởng bởi “thẻ vàng” khiến cho xuất khẩu thủy sản khai thác tới EU giảm mạnh. Trong năm 2020, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới Hà Lan tăng nhẹ so với năm 2019 cho dù dịch Covid-19 tác động xấu tới nhu cầu nhập khẩu thủy sản của Hà Lan. Nguyên nhân chính là do xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới Hà Lan giai đoạn cuối năm 2020 đã bứt phá khi EVFTA có hiệu lực từ ngày 1/8/2020. Theo báo cáo xuất nhập khẩu thu được, trong 6 tháng đầu năm 2021,xuất khẩu thủysản của Việt Nam tới thị trường Hà Lan tăng 7,4% về lượng và tăng 4,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020 đạt 19.9 nghìn tấn với trị giá 99.2 triệu USD, chiếm 19,09% về lượng và chiếm 20,45% về trị giá xuất khẩu thủy sản tới EU. Đây là thị trường có tiêu thụ thủy sản lớn nhất của Việt Nam tại EU. Trong đó, xuất khẩu tôm chiếm 40% về lượng và 65,2% về trị giá; xuất khẩu cá tra chiếm 35,9% về lượng và 19,6% về trị giá; xuất khẩu cá ngừ chiếm 5,3% về lượng và 6,5% về trị giá… Trong ba nhóm hàng xuất khẩu chính chỉ có nhóm hàng tôm có lượng và trị giá xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm 2020. Khóa luận: Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU

Từ bảng số liệu cơ cấu kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang các thị trường EU, ta thấy được xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Đức tăng trong năm 2017 và 2018, nhưng giảm trong 2 năm tiếp theo 2019 và 2020 do nhóm hàng thủy sản khai thác của Việt Nam xuất khẩu tới EU chưa tháo bỏ được thẻ vàng IUU. Năm 2018 đạt 194,4 triệu USD tăng 3,82% so với năm 2017, tới năm 2020 trị giá còn 180,9 triệu USD giảm 3,73% so với năm 2019. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Đức đạt 14,6 nghìn tấn, trị giá 91,9 triệu USD, tăng 15,7% về lượng và tăng 18,9% về trị giá so với 6 tháng đầu năm 2020. Tôm các loại, cá ngừ các loại và cá tra, basa là 3 nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất sang thị trường Đức. Xuất khẩu tôm các loại và cá ngừ các loại tăng trưởng tốt, trong khi đó xuất khẩu cá tra, basa giảm mạnh. Tôm các loại chiếm 50,3% về lượng và chiếm 72,9% về trị giá; cá ngừ các loại chiếm 25,2% về lượng và chiếm 14% về trị giá; cá tra, basa chiếm 15,8% về lượng và chiếm 7,1% về trị giá trong tổng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Đức trong 6 tháng đầu năm 2021.

Tại thị trường Italia xuất khẩu thủy sản trong 3 năm 2018, 2019 và 2020 giảm do nhu cầu tại thị trường này giảm trong bối cảnh dịch Covid diễn biến phức tạp. Cụ thể, năm 2018 đạt 117,5 giảm 9,4% so với năm 2017. Tới năm 2020 trị giá còn 90,9 triệu USD, giảm 13,6% so với năm 2019. Còn trong 6 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Italia đạt 16,3 nghìn tấn, trị giá 62,9 triệu USD, tăng 56,7% về lượng và tăng 77,6% về trị giá so với 6 tháng đầu năm 2020. Trong 6 tháng qua, xuất khẩu các nhóm hàng thủy sản lớn của Việt Nam sang thị trường Italia như cá ngừ các loại nghêu, mực,tôm, các loại cá đều tăng trưởng khả quan và bước đầu tận dụng tốt được Hiệp định EVFTA. Trong những thị trường nhập khẩu thủy sản ngoài EU, Việt Nam là thị trường cung cấp thủy sản lớn thứ 5 cho Italia, với lượng đạt 10,14 nghìn tấn, trị giá 40,3 triệu USD. Thị phần thủy sản tính theo lượng của Việt Nam trong tổng nhập khẩu thủy sản của Italia tăng từ 2,3% trong 4 tháng đầu năm 2020 lên 3,1% trong 4 tháng đầu năm 2021.

2.2.4 Về hiệu quả xuất khẩu

Qua số liệu thống kê cho thấy, trong suốt giai đoạn trước sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang EU của Việt Nam đều giảm qua các năm trừ năm 2021. Trung bình giai đoạn 2018 – 2020, tốc độ tăng về sản lượng nhanh hơn tốc độ tăng về giá trị, điều này là một trong những nguyên nhân dẫn tới hiệu quả xuất khẩu sang EU của Việt Nam là chưa cao.

Kết quả tính toán cho thấy, có lẽ đây là thị trường xuất khẩu thuỷ sản có hiệu không cao đối với ngành thuỷ sản Việt Nam, để gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản trong nước phải đẩy mạnh sản lượng xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường này. Hiện nay ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản của Việt Nam đang chạy đua với việc sản xuất với khối lượng hàng hoá thuỷ sản ngày một nhiều hơn để gia tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản ở các thị trường EU, điều này chứng tỏ rằng các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam đang tập chung phát triển theo chiều rộng (cả về số lượng nhà máy chế biến lẫn công suất), chưa chú trọng đến công tác qui hoạch phát triển theo chiều sâu (đầu tư có trọng điểm các nhà máy chế biến thuỷ sản với công nghệ cao chế biến các mặt hàng giá trịgia tăng) để tăng hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên thuỷ sản trong nước lên theo hướng tăng giá trị sản xuất trên cùng một đơn vị nguyên liệu chế biến (có nghĩa là sản phẩm sản xuất ít hơn nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu mang lại nhiều hơn).

Để đảm bảo giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 8.5 – 9 tỷ USD vào năm 2022 và vẫn phải song song với việc gia tăng sản lượng chế biến thuỷ sản như hiện nay là không có hiệu quả và không bền vững, việc làm này sẽ đặt các doanh nghiệp chế biến rơi vào tình trạng thiếu nguyên liệu trầm trọng, giảm tính cạnh tranh trên trường quốc tế. Nếu làm tốt công tác quy hoạch phát triển ngành chế biến thuỷ sản theo chiều sâu sẽ giảm một phần áp lực thiếu nguyên liệu và nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản của Việt Nam trên thị trường Eu tế trong thời gian tới.

Ngoài ra việc tiêu hao ít nguyên liệu hơn trong chế biến và chế biến ra các mặt hàng giá trị gia tăng mà vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuấtkhẩu theo như kế hoạch và mục tiêu đề ra mà không khai thác quá mức nguồntài nguyên thuỷ sản trong nước cũng đồng nghĩa với việc chúng ta bảo vệ được nguồn tài nguyên thuỷ sản trong nước giúp phát triển bền vững ngành thuỷ sản trong thời gian tới. Đây cũng là mục tiêu chung cần hướng tới của ngành thuỷsản nói riêng cũng như chiến lược xuất khẩu của Việt Nam nói chung đến năm 2030

2.3 Đánh giá thực trạng xuất khẩu thủy sản EU Khóa luận: Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU

2.3.1 Những kết quả đạt được

Thứ nhất, phát triển toàn diện trên các lĩnh vực, nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời góp phần bảo đảm an ninh và chủ quyền trên biển.

Việc khai thông thị trường đã thúc đẩy phát triển cơ sở vật chất và năng lực khai thác, nuôi trồng thuỷ sản, năng lực hậu cần dịch vụ, tạo việc làm với thu nhập ngày càng cao cho hàng ngàn lao động, bảo đảm đời sống của hơn 3 triệu người, làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế vùng nông thôn ven biển, đặc biệt là của các cộng đồng ngư dân và nông ngư dân. Từ chỗ là một bộ phận không lớn thuộc khối kinh tế nông nghiệp, với trình độ lạc hậu, thuỷ sản đã trở thành một ngành kinh tế công nông nghiệp có tốc độ phát triển cao, qui mô ngày càng lớn, góp phần ổn định và phát triển kinh tế đất nước.

Thứ hai, Về việc đáp ứng các tiêu chuẩn của EU về tiêu chuẩn kĩ thuật

Mặc dù sự kiểm tra chặt chẽ của cơ quan quản lí thực phẩm EU được cụthể hóa bằng luật IUU nhưng xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Chất lượng hàng thủy sản của Việt Nam không ngừng được nâng cao, hoạt động đầu tư xâydựng cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi trồng, đánh bắt thủy sản luôn được đổi mới, công nghệ chế biến thủy sản (theo tiêu chuẩn HACCP-là loại giấy chứng nhận được phép xuất khẩu thủy sản vào EU) luôn được cải tiến. Các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu thủy sản đều có đủ tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm và được EU chấp nhận. Những thành tựu đổi mới đó đã tạo uy tín trên thị trường EU. Chính vì vậy, các doanh nghiệp thủy sản đã tăng cường việc áp dụng các hệthống tiêu chuẩn kĩ thuật phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi khắt khe của EU Khóa luận: Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU

Thứ ba, Về vấn đề bán phá giá hàng thủy sản

Khác so với thị trường Mỹ, hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường EU gặp rất ít và hầu như không có vụ kiện bán phá giá nào. Một phần là do nhu cầu nhập khẩu thủy sản của thị trường EU lớn nên EU thường không dùng biện pháp chống bán phá giá như một biện pháp trả đũa thương mại hay mang tính chính trị. Bên cạnh đó hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang EU với mức giá hợp lí và nhiều chủng loại có lợi thế cạnh tranh khá cao đặc biệt tôm và cá. Hàng thủy sản nhập khẩu từ Việt Nam hầu như không gây ảnh hưởng cho hàng nội địa của EU nên thường không bị kiện bán phá giá. Đây cũng là một lợi thếcho hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường EU.

Thứ tư, Xây dựng và đào tạo được một đội ngũ các nhà doanh nghiệp thuỷ sản. Xuất hiện nhiều tấm gương, nhiều mô hình sản xuất xuất sắc, đầy tính năng động, sáng tạo.

Ngoài đội ngũ doanh nghiệp thuỷ sản có kiến thức và kinh nghiệm hoạt động trong nền kinh tế thị trường còn có hàng trăm kỹ sư giỏi và nhiều công nhân lành nghề. Đội ngũ này có nhiệt tình và ý chí vươn lên mạnh mẽ, là lực lượng có vị trí quan trọng trong giai đoạn phát triển sắp tới. Trong 15 năm qua cũng đã xuất hiện một thế hệ ngư dân mới, đông đảo, có tri thức kỹ thuật và kinh nghiệm góp phần tích cực vào sản xuất và bảo quản nguyên liệu.

Các doanh nghiệp đã đầu tư cải tạo nâng cấp nhà xưởng, đổi mới trang thiết bị, công nghệ, áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh phù hợp với yêu cầu thị trường thế giới. Cho đến nay, toàn ngành thuỷ sản đã có trên 250 nhà máy chế biến công nghiệp, công suất chế biến theo thiết kế vào khoảng 1000 tấn thành phẩm mỗi ngày và hơn nữa là đã có 68 doanh nghiệp được EU cấp mã số xuất khẩu. Điều này đã góp phần lớn tạo nên tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao của ngành

Thứ năm, Thành công trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành thuỷ sản nói riêng và góp phần vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cả nước nói chung.

Trong chế biến thuỷ sản, đã từng bước khắc phục tình trạng lao động thủ công là chính sang sử dụng máy móc công nghệ khá hiện đại và đồng bộ. Một số khoa học công nghệ mới được đưa vào sản xuất, nhờ đó kéo dài thời gian giữ chất lượng và độ tươi sống của hàng thuỷ sản; tạo ra nhiều chủng loại hàng hoá, trọng lượng, mẫu mã với chất lượng tốt, số lượng nhiều, giá thành hạ phục vụ nhu cầu ăn ngay, nấu ăn rất tiện dụng của người tiêu dùng

Lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản đã phát triển khá mạnh mẽ và vững chắc, từng bước đẩy lùi nuôi trồng manh mún, tự phát theo lối thủ công truyền thống dựa vào thiên nhiên sang nuôi trồng có quy hoạch với khoa học công nghệ hiện đại hơn, đưa diện tích từ 295.000 ha lên 535.000 ha.

Trong dịch vụ hậu cần nghề cá, nhờ có trang thiết bị hiện đại và ứng dụng khoa học công nghệ mới đã mở ra nhiều ngành nghề mới phục vụ các khâu nuôi trồng, khai thác, chế biến với chất lượng tốt hơn; cung cấp nhiều phương tiện phục vụ nuôi trồng công nghiệp, công nghệ sửa tàu thuyền, sản xuất ngư lưới cụ phát triển, hệ thống cảng cá được đầu tư nâng cấp hiện đại hơn.

2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân Khóa luận: Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU

a) Hạn chế

Mặc dù thị trường EU là thị trường tiềm năng cho xuất khẩu thủy sản của nước ta nhưng hiện tại chúng ta vẫn còn có những khó khăn khi thâm nhập vào thị trường này.

Thứ nhất, thiếu nhân lực trầm trọng. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) nhận định, EU hiện là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn thứ 2 của Việt Nam sau Mỹ chiếm tỷ trọng trên 11%. Trong đó, những thị trường chi phối trong khối này là Hà Lan, Đức, Bỉ, Italy là những thị trường chính tiêu thụ tôm và cá ngừ của Việt Nam. Cùng với đó kinh tế các nước EU đang hồi phục nhờ những chuyển biến tích cực sau chương trình tiêm phòng vắc xin chống Covid và các gói hỗ trợ sau Covid. Nhu cầu nhập khẩu thuỷ sản của thị trường EU bắt đầu tăng mạnh từ tháng 3 năm 2021 và dự báo sẽ tiếp tục khởi sắc trong nửa cuối năm. Thế nhưng, dịch bệnh Covid-19 ở Việt Nam đang diễn biến rất phức tạp. Các công ty thủy sản rơi vào tình cảnh hết sức khó khăn. Hàng trăm công nhân đã phải đi cách ly tập trung khiến nhiều công ty không đủ nhân lực để đảm bảo hoạt động sản xuất. Đồng thời, nhiều công nhân lo ngại bị lây nhiễm nên không dám đi làm. Do đó, nhiều doanh nghiệp có đến 30%, thậm chí tới 50% số công nhân xin nghỉ việc khiến hoạt động sản xuất rơi vào tình trạng “nghỉ Tết” sớm.

Thứ hai, Doanh nghiệp đối mặt với chi phí tăng giảm nguyên liệu. Từ khi dịch COVID-19 xảy ra, hàng loạt chi phí đều tăng cao, mức tăng 1,5-2 lần so với trước. Khi dịch bệnh lây lan mạnh hơn tại các tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long, DN phát sinh thêm các chi phí cho công nhân ăn ở, sinh hoạt, phụ cấp, xét nghiệm COVID-19…Vì thế, nhiều DN rơi vào cảnh khốn khó.

Thứ ba, chưa xây dựng được cơ chế quản lý hiệu quả từ TW đến địa phương để thực thi các chính sách chống khai thác IUU. Thẻ vàng của EC đã ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU và thậm chí có thể gây ra hiệu ứng domino ở các thị trường nước ngoài khác. Ngoài ra, trong thời gian cảnh báo thẻ vàng, tất cả các container thủy sản nhập khẩu từ Việt Nam có thể bị hải quan kiểm tra từ 3 đến 4 tuần, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp xuất khẩu sẽ phải chịu chi phí lớn hơn, chưa kể các container có thể bị đưa về Việt Nam. Về lâu dài, các khách hàng từ EU có thể ngừng đặt hàng từ Việt Nam, đồng thời các thị trường nước ngoài khác có khả năng áp đặt các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn đối với các nước bị thẻ vàng như Việt Nam.

Thứ tư, chưa ngăn chặn được triệt để tình trạng tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài, chưa hoàn thành lắp đặt thiết bị giám sát hành trình, vẫn còn nhiều tàu mất tín hiệu kết nối với hệ thống. Việc xử lý vi phạm hành chính, đặc biệt là các hành vi vi phạm nghiêm trọng theo Nghị định số 42/2019, các lực lượng chức năng chưa thật sự kiên quyết. Ngoài ra kinh phí chi cho các nhiệm vụ về phòng, chống khai thác IUU vẫn chưa được bố trí kịp thời. Khóa luận: Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU

Thứ năm, công nghệ chế biến thủy sản vẫn còn lạc hậu cho nên thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào EU chủ yếu vẫn là hàng thô, sơ chế, những mặt hàng chế biến sâu và giá trị gia tăng còn ít cho nên chưa vận dụng những ưu đãi về thuế mà hiệp định đem lại. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa đa dạng chủ yếu tập trung vào một số mặt hàng: cá tra, cá basa, cá mực cá ngừ. Mẫu mã còn đơn điệu chưa hấp dẫn khách hàng. Chất lượng hàng thủy sản chưa cao chưa đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng khắt khe về số lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm khi xuất khẩu sang EU.

Thứ sáu, sức cạnh tranh của hàng thủy sản xuất khẩu còn thấp. Tuy hàng thủy sản của Việt Nam có sức cạnh tranh trên thi trường EU nhưng vẫn thấp so với đối thủ: Trung Quốc, Ấn Độ… có thể thấy điều này qua thị phần của Việt Nam còn nhỏ hơn so với các nước này. Sức cạnh tranh hàng thủy sản tăng nhưng không ổn định, tốc độ tăng còn chậm. Điểm yếu nhất của sức cạnh tranh hàng thủy sản của Việt Nam là khả năng đáp ứng yêu cầu về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm chưa cao.

b) Nguyên nhân

Nguyên nhân khách quan

Do nhu cầu nhập khẩu tại các thị trường chính sụt giảm bởi ảnh hưởng của suy thoái kinh tế. Trong hai năm trở lại đây tình hình dịch bệnh diễn ra ngày càng phức tạp đã ảnh hưởng không ít tới nhu cầu nhập khẩu tại các nước của thị trường EU.

Các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, truy xuất nguồn gốc, biện pháp kiểm soát xuất nhập khẩu, kiểm dịch…đối với xuất khẩu các sản phẩm thủy sản sang thị trường EU. Trong đó, mặt hàng cá tra và tôm còn bị áp lực bởi kết quả xem xét hành chính POR8 thuế chống bán phá giá và mặt hàng tôm đứng trước nguy cơ bị áp thuế chống trợ cấp. Hàng thủy sản Việt Nam trong thời buổi hiện nay chưa thể đáp ứnghết được các tiêu chuẩn hết sức khắt khe đó cho nên sản lượng xuất khẩu thủysản của Việt Nam vào thị trường EU chưa thể hiện rõ được tiềm lực thủy sảncủa Việt Nam

Thị trường EU có một hệ thông kênh phân phối phức tạp. Do các siêu thị, các công ty bán lẻ hay các cửa hàng ở thị trường EU không mua hàng trực tiếp từcác nhà xuất khẩu nước ngoài mà thông qua các trung tâm thu mua lớn của EU hay các công ty xuyên quốc gia do đó các mặt hàng muốn vào thị trường EU phải thông qua các công ty này. Do đó đã hạn chế khả năng đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này, cũng như việc đa dạng hoá và nâng giá bán.

Nguyên nhân chủ quan

Nguồn cung nguyên liệu không ổn định. Theo đó, d đã tìm ra nguyên nhân của Hội chứng tôm chết sớm là do vi khuẩn Vibrio, nhưng diện tích nuôi tôm ở 7 tỉnh trọng điểm ĐBSCL Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang đã bị giảm và thiệt hại đáng kể, đặc biệt là tôm sú, dẫn đến nguồn nguyên liệu bị thiếu hụt. Đối với các sản phẩm khai thác, dù sản lượng thực tế tăng nhưng thiếu sản phẩm đủ tiêu chuẩn cho XK do bảo quản sản phẩm sau thu hoạch chưa tốt, nhất là với mặt hàng cá ngừ.

Nhiều DN ngừng hoạt động hoặc thu hẹp quy mô sản xuất do đơn đặt hàng thấp, thiếu vốn, chi phí sản xuất tăng và thiếu chính sách hỗ trợ từ nhà nước.

Ngành sản xuất thủy sản của Việt Nam chủ yếu theo hộ gia đình, quy mô sản xuất nhỏ thêm vào đó các doanh nghiệp Việt Nam ít có sự liên kết với nhau. Điều này khiến các doanh nghiệp hầu như đơn độc trước sự cạnhtranh của các đối thủ nước ngoài trước thị trường rộng lớn. Nó cũng là nguyênnhân dẫn tới thiếu việc thiếu thông tin về thị trường xuất khẩu, về nhu cầu sản phẩm và thị hiếu người tiêu dùng.

Nảy sinh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Cạnh tranh mua nguyên liệu giảm giá bán để tranh khách hàng; lạm dụng hóa chất để tăng trọng, vi phạm các quy định ghi nhãn mác sản phẩm. Những điều này đã bị đổi thủ nước ngoài lợi dụng, gây tác hại tới uy tín và quyển lợi chung của cộng đồng doanh nghiệp ảnh hường không tốt đến khả năng cạnh tranh hàng hóa thủy sản xuất khẩu. Điều này tạo ra cung cầu ảo gây ra sự sai lệch về giá cả rất lớn. Khóa luận: Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Khóa luận: Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu thủy sản sang EU

One thought on “Khóa luận: Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU

  1. Pingback: Khóa luận: Tổng quan về thị trường thủy hải sản tại EU

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464