Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1 Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí

2.1.1. Tổng quan tình hình của pháp luật quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí

Từ năm 1986 đến nay, quá trình mở cửa hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế đã mang lại nhiều thành tựu cho đất nước cũng như nhiều lợi ích cho người dân Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế, Việt Nam cũng đối mặt với trái của quá trình phát triển như: vấn nạn ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm môi trường không khí. Hơn nữa, Việt Nam đang trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền nên tôn trọng và bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền được sống trong môi trường trong lành trở thành những giá trị mang tính hiến định quan trọng. Nếu ô nhiễm môi trường không khí xảy ra thì ảnh hưởng của nó khiến các giá trị trên không được bảo đảm. Do vậy, để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được hiệu quả, vấn đề đặt ra cần phải có công cụ thiết yếu thực hiện quá trình này, đó chính là công cụ pháp luật. Những nước theo hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa hiểu pháp luật là những quy tắc xử sự chung do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với ý chí của Nhà nước. Gần đây quan niệm về nguồn của pháp luật được hiểu rộng hơn, đó không chỉ là những quy định do Nhà nước ban hành mà những cái nhà nước không ban hành, nhưng được Nhà nước thừa nhận thì cũng coi là pháp luật. Ví dụ như các tập quán pháp. Pháp luật là yếu tố tĩnh được nhà nước sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội là yếu tố động thường xuyên biến đổi và phát triển. Do vậy, đối tượng điều chỉnh của pháp luật sẽ ngày càng được mở rộng. Điều này lý giải tại sao trước năm 1986 hầu như không có quy định pháp luật nào về bảo vệ môi trường.

Nhưng từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới đến nay, để bảo vệ môi trường (BVMT), Nhà nước ta đã liên tiếp thông qua và thay thế bốn đạo luật điều chỉnh về vấn đề này: Luật BVMT năm 1993, Luật BVMT năm 2005, Luật BVMT năm 2017 và mới nhất là Luật BVMT năm 2023.

Theo đó, trong Luật BVMT năm 1993, ngoài các quy định chung về BVMT, Luật chưa có quy định riêng nào về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nói riêng, thậm chí không có quy định nào nhắc đến thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường. Đến luật BVMT năm 2005 thì đã có những quy định ban đầu về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, mặc dù vậy, Luật này cũng chưa đưa ra cách hiểu thế nào là kiểm soát ô nhiễm môi trường và chưa có quy định về ứng phó với biến đổi khí hậu.

Sau đó, để cụ thể hóa Nghị quyết số 24/NQ-TW của Ban chấp hành trung ương Đảng về bảo vệ tài nguyên môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, cũng như các quy định trong Hiến pháp năm 2016 về quyền được sống trong môi trường trong lành và phát triển bền vững, Nhà nước ta đã chính thức thông qua Luật BVMT năm 2017. Trong Luật này đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng liên quan đến vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Ví dụ như:

Thứ nhất, Luật đã đưa ra cách hiểu về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, theo đó: kiểm soát ô nhiễm là quá trình phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý ô nhiễm (Điều 3 – tương tự như Luật năm 2023).

Thứ hai, lần đầu tiên ghi nhận bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành là nguyên tắc chính thức của Luật (Điều 4). Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Ba là, đã quy định về chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thân thiện môi trường không khí, ứng phó với biến đổi khí hậu, đồng thời cấm các hành vi có thể gây tác động xấu đến môi trường không khí (Điều 6).

Bốn là, đã quy định về quy chuẩn kỹ thuật về môi trường không khí xung quanh và quy chuẩn về khí thải. Quy chuẩn kỹ thuật về môi trường không khí xung quanh, gồm: nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với không khí; nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với âm thanh, ánh sáng, bức xạ; nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với tiếng ồn, độ rung. Quy chuẩn về khí thải, gồm: nhóm quy chuẩn kỹ thuật về khí thải của các nguồn di động và cố định. Các quy chuẩn này là cơ sở để đánh giá hiện trạng môi trường không khí, mức độ ô nhiễm không khí, quản lý khí thải và là cơ sở để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường không khí. (từ điều 113 đến 120)

Năm là, đã quy định cụ thể hơn về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường, trong các báo cáo này có đánh giá về tác động môi trường không khí. (Từ điều 13 đến điều 34)

Sáu là, để theo dõi có hệ thống về môi trường, các yếu tố tác động lên môi trường nhằm cung cấp thông tin phục vụ đánh giá hiện trạng, diễn biến chất lượng môi trường và các tác động xấu đối với môi trường, pháp luật quy định quan trắc hiện trạng môi trường, trong đó có môi trường không khí. (Từ điều 121 đến điều 127)

Bảy là, đã có quy định về thông tin tình hình môi trường nói chung, trong đó có không khí.

Tám là, đã có quy định về quản lý khí thải, bụi, tiếng ồn.

Chín là, đã có quy định về thanh tra, kiểm tra hiện trạng môi trường không khí.

Mười là, đã có quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường không khí, xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí.

Mười một là, đã có quy định về trách nhiệm nhà nước, nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Mười hai là, Luật cũng quy định về nguồn lực tài chính để đảm bảo kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Và mới đây nhất, Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua ngày 17/11/2023, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025, Luật gồm 16 Chương, 171 Điều. So với Luật Bao vệ môi trường năm 2017, Luật Bảo vệ môi trường năm 2023 có những điểm mới mang tính đột phá liên quan đến kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung và kiểm soát ô nhiễm không khí nói riêng, ví dụ như:

Thứ nhất, đã có các quy định để kiểm soát chặt chẽ dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao, cắt giảm thủ tục hành chính.

Thứ hai, đã định chế nội dung sức khỏe môi trường; bổ sung nhiều giải pháp bảo vệ các thành phần môi trường, đặc biệt là môi trường không khí, môi trường nước.

Thứ ba, đã có các quy định thúc đẩy phân loại rác thải tại nguồn; định hướng cách thức quản lý, ứng xử với chất thải.

Thứ tư, đã quy định thẩm quyền quản lý nhà nước dựa trên nguyên tắc quản lý tổng hợp, thống nhất, một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện; phân cấp triệt để cho địa phương.

Thứ năm, chế định cụ thể về kiểm toán môi trường được quy định lần đầu nhằm tăng cường năng lực, hiệu quả quản lý môi trường của doanh nghiệp. Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Thứ sáu, đã có quy định về việc “Thực hiện các biện pháp khẩn cấp” về ô nhiễm môi trường không khí.

Và đặc biệt là lần đầu tiên, Luật Bảo vệ môi trường đưa ra các quy định chi tiết hơn về các vấn đề Bảo vệ môi trường không khí, cụ thể: Quy định chung về BVMT không khí (Điều 12). Kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí (Điều 13); Trách nhiệm thực hiện quản lý chất lượng môi trường không khí (Điều 14). Trong đó, các quy định chung về BVMT không khí được quy định tại Điều 12, cụ thể: (1) Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có phát thải bụi, khí thải tác động xấu đến môi trường phải có trách nhiệm giảm thiểu và xử lý theo quy định của pháp luật; (2) Chất lượng môi trường không khí phải được quan trắc, giám sát thường xuyên, liên tục và công bố theo quy định của pháp luật; (3) Tình trạng ô nhiễm môi trường không khí phải được thông báo và cảnh báo kịp thời nhằm giảm thiểu tác động đến sức khỏe cộng đồng; (4) Các nguồn phát thải bụi, khí thải phải được quan trắc, đánh giá và kiểm soát theo quy định của pháp luật.

Có thể thấy, qua các đời luật, Nhà nước ta đã đưa ra rất nhiều quy định mới để bao quát các vấn đề hiện đang gặp phải. Tuy nhiên nhiều quy định hơn là thế, nhưng việc nghiên cứu cho thấy các quy định vẫn còn khá chung chung, nhiều thiếu sót, chưa mang tính hệ thống, thiếu minh bạch, thiếu cụ thể dẫn tới khó khả thi.

  • Tổng quan tình hình tại Công ty TNHH MTV Diesel Sông Công:

Theo đó, công ty TNHH MTV Diesel Sông Công được thành lập ngày 25/4/1980 khi Luật Bảo vệ môi trường còn chưa ra đời. Vì vậy Công ty đã là đối tượng điều chỉnh của đạo luật này từ văn bản đầu tiên là Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 cho đến nay là Luật Bảo vệ môi trường 2023. Trải qua bốn đạo luật điều chỉnh về vấn đề này, nhiều quy định được thay đổi theo thời gian, nhưng công ty vẫn luôn thích nghi, thực hiện nghiêm túc các quy định của nhà nước về kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung và kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nói riêng dù không có phòng ban chuyên trách về pháp luật. Nhưng cũng chính vì không có Phòng ban chuyên về vấn đề pháp lý, nên các vấn đề pháp lý về kiểm soát ô nhiễm môi trường được phân bổ cho các phòng ban khác nhau, dẫn tới sự dàn trải và nhiều khi là quá tải trong nhiệm vụ và chức năng của bộ máy vận hành công ty.

2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng: Pháp luật Việt Nam là sự thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng là những định hướng mang tính chất chiến lược liên quan đến vấn đề đối nội và đối ngoại, luôn giữ vai trò chỉ đạo đối với nội dung, phương hướng xây dựng pháp luật ở Việt Nam. Do đó, mọi quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật đều phải phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng. Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cũng không phải ngoại lệ.

Môi trường không khí: Nhân tố tiếp theo ảnh hưởng đến pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí chính là môi trường không khí. Môi trường và trên hết là môi trường không khí, có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước, dân tộc và nhân loại, là cơ sở để vạn vật có thể sống và phát triển. Qua thời gian, môi trường không khí bị ô nhiễm, ảnh hưởng theo nhiều cách khác nhau thì pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cũng phải thay đổi, cải cách để khắc phục vấn đề, đảm bảo được nguyên tắc quyền được sống trong môi trường trong lành, phục vụ sự nghiệp phát triển lâu bền của đất nước.

Các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia kí kết: Trong thời buổi hội nhập như hiện nay, không quốc gia nào có thể tồn tại một cách biệt lập, không có quan hệ với nước khác. Điều đó cũng có nghĩa là các quốc gia đó phải tham gia các công ước, điều ước quốc tế. Nước ta cũng như vậy, ngày nay, với chính sách mở cửa hội nhập, đất nước ta đã tham gia kí kết rất nhiều các công ước quốc tế, trong đó có những công ước liên quan đến môi trường như Công ước của Liên Hợp Quốc về sự biến đổi môi trường (26/8/1980),… Các công ước có ảnh hưởng không nhỏ tới nội dung của pháp luật Việt Nam hiện nay, bởi các điều luật trong hệ thống pháp luật phải phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia kí kết.

2.2 Thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

2.2.1. Thực trạng pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn môi trường không khí

Theo pháp luật nước ta, quy chuẩn kỹ thuật môi trường là quy định bắt buộc áp dụng mức giới hạn của thông số về chất lượng môi trường, hàm lượng của chất ô nhiễm có trong nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, thiết bị, sản phẩm, hàng hóa, chất thải, các yêu cầu kỹ thuật và quản lý được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật (Khoản 10 Điều 3 Luật BVMT 2023). Cơ quan chính có thẩm quyền ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường nói chung, quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí nói riêng là Bộ Tài nguyên và Môi trường, ngoài ra còn có các cơ quan liên quan khác.

Trong hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường thì quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí rất quan trọng. Hệ thống này được đặt ra để đánh giá hiện trạng môi trường không khí có bị ô nhiễm không, ô nhiễm ở mức độ nào, là căn cứ để xác định và xử lý hành vi vi phạm pháp luật môi trường không khí từ đó lập kế hoạch phát triển lâu dài. Đối với tổ chức, cá nhân quy chuẩn môi trường không khí giúp các tổ chức, cá nhân biết họ được quyền sống trong điều kiện môi trường không khí như thế nào, họ được tác động đến môi trường không khí đâu. Bên cạnh đó, quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí còn là một trong các căn cứ để các cơ sở sản xuất, kinh doanh lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, cơ quan nhà nước cũng dựa vào đó để tiến hành thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án cũng như cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường,… Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Luật BVMT 2005 gọi quy chuẩn kỹ thuật môi trường là tiêu chuẩn môi trường. Tuy nhiên, để phù hợp với Luật về Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 và thông lệ quốc tế, trong Nghị định số 21/2011/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 08 năm 2006 của Chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVMT năm 2005 đã thống nhất gọi tiêu chuẩn môi trường là quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Đến Luật BVMT năm 2017 đã có sự phân biệt giữa quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường và được kế thừa đến Luật BVMT 2023. Theo đó, tiêu chuẩn môi trường là quy định tự nguyện áp dụng mức giới hạn của thông số về chất lượng môi trường, hàm lượng của chất ô nhiễm có trong chất thải, các yêu cầu kỹ thuật và quản lý được cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức công bố theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật (Khoản 11 Điều 3 Luật BVMT 2023).

So với tiêu chuẩn môi trường, quy chuẩn kỹ thuật môi trường do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và bắt buộc áp dụng trong phạm vi cả nước. Còn tiêu chuẩn môi trường thì ngoài cơ quan nhà nước thì các tổ chức, cá nhân cũng có thể ban hành và không mang tính bắt buộc. Có điều mức thấp nhất được quy định trong tiêu chuẩn môi trường phải bằng với quy chuẩn kỹ thuật môi trường.

Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định có hai nhóm quy chuẩn liên quan đến  môi trường không khí:

2.2.1.1. Quy chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh và trong nhà

Luật Bảo vệ môi trường năm 2023 quy định quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí xung quanh, gồm: nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với không khí; nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với âm thanh, ánh sáng, bức xạ; nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với tiếng ồn, độ rung (điểm c, d, đ khoản 1 Điều 97). Đây là quy chuẩn được xây dựng nhằm đáp ứng các yêu cầu về quản lý chất lượng không khí xung quanh, nhằm đảm bảo cho môi trường không khí được trong lành, sạch đẹp và nhằm phù hợp với các mục đích sử dụng thành phần môi trường không khí.

Về quy chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh ngoài trời, Việt Nam có 3 nhóm quy chuẩn kỹ thuật là:

  • QCVN 05:2016/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng không khí xung quanh.
  • QCVN 06:2012/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về một số chất độc hại trong không khí xung quanh.
  • QCVN 26:2013/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về tiếng ồn.

Các quy chuẩn này có một số nội dung Quy định giá trị giới hạn các thông số cơ bản, như: SO2, CO, N0x, O3, bụi lơ lửng (bụi PM10 (bụi <10micromet) và chì (Pb) trong không khí xung quanh. Quy định nồng độ tối đa cho phép của một số chất độc hại trong không khí xung quanh. Quy định thông số tối đa về tiếng ồn trong môi trường không khí xung quanh.

Về môi trường không khí trong nhà: Chúng ta vẫn thường lo ngại về vấn đề ô nhiễm khói bụi trong không khí ngoài trời, về tình trạng không khí quá kém, quá ô nhiễm ở các thành phố lớn và nước thải ra không khí ở các khu công nghiệp. Cùng với đó là những lời cảnh báo, lời khuyên không nên ra ngoài mà chỉ nên ở trong nhà, nhất là đối với người già, trẻ nhỏ và với người mắc các bệnh về đường hô hấp. Nhưng trên thực tế, theo cảnh báo gần đây của Tổ chức Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA), ô nhiễm không khí trong nhà cũng đang là mối lo ngại của dư luận và xã hội bởi ô nhiễm môi trường không khí trong nhà còn gây hại cho sức khỏe hơn cả không khí ngoài trời. Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Khảo sát cho thấy cứ 6 phòng trong ngôi nhà (tổng diện tích khoảng 450m2) sẽ “thu” được tới 18kg bụi/năm. Và những hạt bụi li ti này sẽ được tích lũy trong vải bọc ghế, màn, gối, khăn và các đồ nội thất trong nhà… Ngoài ra, bụi còn tích tụ ở lông vật nuôi, côn trùng, thức ăn, phấn hoa, bào tử, nấm mốc… Tất cả tạo thành một môi trường lý tưởng cho các loại vi sinh vật phát triển, gây bệnh. Thêm vào đó, nếu trong nhà ẩm ướt do thời tiết hay do máy tạo ẩm thì sẽ tạo điều kiện cho bụi ve, nấm mốc phát triển.

Về mặt pháp lý trước khi Luật BVMT năm 2017 có hiệu lực, Việt Nam chưa có quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí trong nhà hay khuyến cáo chính thống liên quan đến môi trường không khí trong nhà nên việc đánh giá và kiểm soát chất lượng môi trường không khí trong nhà vẫn đang là thách thức. Luật BVMT 2017 thì đã bước đầu quy định về quan trắc môi trường không khí trong nhà, nhưng cho đến thời điểm này Bộ Tài nguyên và Môi trường vẫn chưa ban hành Quy chuẩn kỹ thuật về vấn đề môi trường không khí trong nhà. Quy định về quan trắc môi trường không khí trong nhà ở Luật BVMT 2017 mới chỉ dừng ở mức độ rất khái quát (Khoản 2 Điều 122).

Nhưng đến Luật BVMT 2023, việc quan trắc môi trường không khí trong nhà không còn được quy định trong văn bản nữa. Thay vào đó, sẽ tách ra và quy định thành một vấn đề riêng. Để có cơ sở ban hành Tiêu chuẩn chất lượng không khí trong nhà (IAQ Standard) và các văn bản liên quan, Bộ Xây dựng đã giao cho Hội Xây dựng thực hiện Đề tài nghiên cứu xây dựng “Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) 2023 về nhà ở và công cộng – Các thông số chất lượng không khí trong nhà”, thực hiện trong 2 năm 2022-2023. Đến nay, tuy vẫn đang trong quá trình xây dựng và hoà thiện nhưng Nhà Nước cũng đã ban hành một số tiêu chuẩn liên quan cụ thể như:

  • Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 10736-8:2019 (ISO 16000-8:2010) về Không khí trong nhà.
  • Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 10736-30:2020 (ISO 16000-30:2017) về Không khí trong nhà – Phần 30: Thử nghiệm cảm quan của không khí trong nhà.
  • Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 12247-1:2021 (ISO 16017-1:2000) về Không khí trong nhà, không khí xung quanh và không khí nơi làm việc.

Nội dung của các văn bản này rất cụ thể, đã bao quát được rất nhiều vấn đề về tổ chức quan trắc, đo đạc và đánh giá chất lượng không khí trong nhà định kỳ tại các tòa cao ốc, văn phòng ở Việt Nam, nhằm tránh ảnh hưởng đáng tiếc đến sức khỏe con người nhưng tất nhiên nó vẫn đang trong quá trình được hoàn thiện nên các quy định vẫn còn bị dàn trải, khó theo dõi.

2.2.1.2. Quy chuẩn kỹ thuật môi trường về khí thải

Theo Luật BVMT năm 2017, thì quy chuẩn về khí thải gồm: Nhóm quy chuẩn kỹ thuật về khí thải của các nguồn di động và cố định (Điểm b Khoản 2 Điều 113). Nguồn thải di động là nguồn thải từ các phương tiện giao thông và nguồn thải cố định là từ các nhà máy, xí nghiệp… gây ra. Sang đến Luật BVMT năm 2023, quy chuẩn này được quy định lại thành: Nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường về khí thải của hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và khí thải của phương tiện giao thông vận tải (Điểm b Khoản 2 Điều 97). Về cơ bản thì việc quy định lại chỉ nhằm mục đích làm rõ ràng nội dung chứ không có thay đổi gì.

Theo đó, để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, những năm gần đây Nhà nước ta đã ban hành nhiều quy chuẩn kỹ thuật như: Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

  • QCVN 51:2016/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp sản xuất thép.
  • QCVN 02: 2011/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải lò đốt chất thải rắn y tế.
  • QCVN 19 : 2012/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp đối với bụi và các chất vô cơ.
  • QCVN 20 : 2012/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp với một số chất hữu cơ.
  • QCVN 21 : 2012/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp sản xuất phân bón hóa học.
  • QCVN 22: 2012/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp nhiệt điện.
  • QCVN 23 : 2012/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp sản xuất xi măng.
  • QCVN 30: 2013/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải lò đốt chất thải công nghiệp.
  • QCVN 34: 2013/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp lọc hóa dầu đối với bụi và các chất vô cơ.
  • QCTĐHN 01:2017/BTNMT: Quy chuẩn kỹ thuật về khí thải công nghiệp; đối với bụi và các chất vô cơ trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.
  • QCTĐHN 03:2017/BTNMT: Quy chuẩn kỹ thuật về khí thải công nghiệp sản xuất xi măng trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.

Qua đó có thể thấy, Nhà nước ta đã ban hành nhiều quy chuẩn kỹ thuật môi trường về khí thải với các nguồn thải cố định trong nhiều lĩnh vực với các yêu cầu về các thông số môi trường với khí thải không phải quá cao. Tuy nhiên, số liệu trên cho thấy hầu như ngành, lĩnh vực sản xuất nào cũng có những hành vi xả thải chất gây ô nhiễm vượt quá quy chuẩn cho phép ra ngoài môi trường. Thực trạng trên cho thấy: một là, đa số các quy chuẩn vè khí thải đối với nguồn thải cố định được ban hành cách đây 7 đến 8 năm (tức được ban hành vào năm 2012, 2011), nên cần rà soát đánh giá để ban hành các quy chuẩn mới đồng thời bổ sung thêm một số quy chuẩn kỹ thuật với nguồn thải cố định cho đầy đủ và phù hợp hơn với thực tiễn đáp ứng được yêu cầu bảo vệ môi trường không khí; hai là, quá trình tổ chức thực hiện bảo đảm tuân thủ các quy chuẩn kỹ thuật môi trường của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như các chủ nguồn thải là chưa thực hiện hiệu quả. Cần phải có biện pháp xử lý với chính các cá nhân, tổ chức chủ nguồn thải vi phạm với các cơ quan nhà nước chủ thể có thẩm quyền trong thi hành pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Về nhóm quy chuẩn khí thải đối với nguồn thải là phương tiện giao thông vận tải, cho đến nay để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí từ nguồn thải động, Bộ Giao thông Vận tải đã ban hành nhiều quy chuẩn về vấn đề này. Để tạo cơ sở cho việc quản lý các phương tiện trước khi được cho phép lưu thông trên thị trường phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí, Bộ Giao thông và Vận tải đã ban hành Thông tư số 30/2012/TT-BGTVT ngày 19/11/2012 quy định Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải xe mô tô, xe gắn máy sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới, gồm:

  • QCVN 04 : 2012/BGTVT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải xe mô tô, xe gắn máy sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới
  • QCVN 05 : 2012/BGTVT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải xe ô tô sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới.

Theo đó, mức giới hạn khí thải, các phép thử, phương pháp thử và các yêu cầu quản lý kiểm tra khí thải của xe mô tô, xe gắn máy sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới đã được ban hành. Các xe thuộc kiểu loại xe đã được cấp giấy chứng nhận chất lượng kiểu loại cũng phải thỏa mãn mức giới hạn khí thải nêu tại Quy chuẩn này.

Cùng với việc ban hành các thông tư quy định về quy chuẩn khí thải với ô tô, xe máy, mô tô, năm 2014 Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Quyết định số 49/2014/QĐTTg quy định lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với xe ô tô, xe mô tô hai bánh sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới. Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Theo đó từ ngày 1.1.2020, các loại xe ô tô, sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới phải áp dụng tiểu chuẩn khí thải mức 4; mô tô hai bánh sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới phải áp dụng tiêu chuẩn khí thải mức 3. Ngày 1.1.2025, các loại xe ô tô nói trên sẽ phải áp dụng tiêu chuẩn khí thải mức 5. Trong đó, các mức tiêu chuẩn khí thải 3, 4 và 5 là tiêu chuẩn về phép thử và giới hạn gây ô nhiễm có trong khí thải tương ứng với mức tiêu chuẩn khí thải Euro 3, 4, 5 được quy định kỹ thuật về khí thải xe cơ giới của Ủy ban Kinh tế châu Âu hoặc trong chỉ thị của Liên minh châu Âu áp dụng đối với xe cơ giới sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới. Trên cơ sở đó, Bộ Giao thông Vận tải đã ban hành

Thông tư số 45/2017/TT-BGTVT quy định Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải mức 3 đối với xe mô tô hai bánh sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới (QCVN 77:2017/BGTVT). Quy chuẩn này được xây dựng trên cơ sở TCVN 7357:2013 – Phương tiện giao thông đường bộ – Khí thải gây ô nhiễm phát ra từ mô tô – Yêu cầu và phương pháp thử trong phê duyệt kiểu (sau đây viết tắt là TCVN 7357) và TCVN 9726:2016 – Phương tiện giao thông đường bộ – Khí thải gây ô nhiễm, khí thải CO2 và tiêu thụ nhiên liệu của mô tô hai bánh lắp động cơ cháy cưỡng bức hoặc cháy do nén – Yêu cầu và phương pháp thử trong phê duyệt kiểu (sau đây viết tắt là TCVN 9726).

Qua thực tiễn thực hiện quy chuẩn về khí thải đổi với nguồn thải di động có thể thấy Nhà nước đã ban hành quy chuẩn về khí thải đối với ô tô, mô tô, xe máy trước khi đưa vào lưu thông khá rõ ràng và theo lộ trình để dần phù hợp với tiêu chuẩn của khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường không khí từ khí thải của các nguồn thải di động vẫn quá nhiều, số liệu thống kê cho thấy hoạt động giao thông chiếm 70% tỉ lệ đóng góp ô nhiễm không khí tại Hà Nội. Thực tế này cho thấy có một lỗ hổng rất lớn trong khâu hậu kiểm các phương tiện giao thông đang lưu hành có thể thấy có rất nhiều phương tiện không đạt chuẩn về môi trường nhưng vẫn tham gia giao thông gây ô nhiễm môi trường. Một vấn đề nữa là sự chênh lệnh giữa cơ sở hạ tầng giao thông hạn chế với số lượng các phương tiện giao thông quá lớn đặt ra nhu cầu về quy hoạch lại hạ tầng giao thông cũng như tầm nhìn về quản lý giao thông cần phải có những đột phá.

2.2.2. Thực trạng pháp luật về phòng ngừa, dự báo ô nhiễm môi trường không khí

2.2.2.1. Quy định về khuyến khích, ưu đãi đầu tư, sản xuất kinh doanh nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí

Do tầm quan trọng của việc phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí nên những năm vừa qua Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách cũng như các quy định pháp luật về vấn đề này. Cụ thể Điều 5 Luật Bảo vệ Môi trường năm 2023 và Nghị định số 19/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định:

Một là, khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ tài chính (ưu đãi về huy động vốn đầu tư, ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, ưu đãi về thuế giá trị gia tăng), đất đai (hỗ trợ về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, ưu đãi về tiền thuê đất, hỗ trợ về giải phóng mặt bằng và bồi thường) hay hỗ trợ về về giá và tiêu thụ sản phẩm với các cơ sở thân thiện môi trường (trợ giá sản phẩm, dịch vụ về bảo vệ môi trường, hỗ trợ tiêu thụ đối với sản phẩm), cũng như các ưu đãi hỗ trợ khác như hỗ trợ quảng bá sản phẩm, phân loại rác tại nguồn, giải thưởng về bảo vệ môi trường,… cho các tổ chức, cá nhân nhằm đẩy mạnh đầu tư phát triển các ngành kinh tế thân thiện môi trường không khí, như: năng lượng sạch và năng lượng tái tạo; tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải.

Hai là, ưu tiên nghiên cứu, chuyển giao và áp dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường không khí.

Ba là, áp dụng tiêu chuẩn môi trường đáp ứng yêu cầu tốt hơn về BVMT không khí; gắn kết các hoạt động bảo vệ môi trường không khí với ứng phó với biến đổi khí hậu. Mặt khác, Nhà nước mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế về BVMT không khí; thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế về BVMT không khí…

Có thể thấy, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, quy định pháp luật khuyến khích ưu đãi, hỗ trợ tổ chức, cá nhân tham gia kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Mặc dù vậy thực tế cho thấy để được hưởng một số chính sách này là không hề dễ dàng. Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

2.2.2.2. Quy định về phát triển bền vững nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí

Ô nhiễm môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng có thể do tự nhiên hoặc con người gây ra. Trong bối cảnh ngày nay nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm môi trường không khí là do các hoạt động kinh tế thiếu tầm nhìn của con người (phát triển chủ yếu dựa trên khai thác tài nguyên và thải chất ô nhiễm vào môi trường) gây ra. Do vậy, để bảo vệ môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được hiệu quả, việc xây dựng và thực hiện chính sách pháp luật về phát triển bền vững rất quan trọng. Nhà nước đã ban hành nhiều quy định về phát triển bền vững như, Kế hoạch về phát triển bền vững 1991-2000; Chỉ thị số 36/CT-TW năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ môi trường; Nghị quyết số 41/CT-TW năm 2004 của Bộ Chính trị về BVMT trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; cùng năm 2004, Thủ tướng Chính phủ cũng ký Quyết định thông qua Chương trình nghị sự 21 bàn về phát triển bền vững ở nước ta trong thế kỷ 21. Sau đó một năm, Luật BVMT 2005 ra đời đã ghi nhận phát triển bền vững là một nguyên tắc của Luật và nguyên tắc này tiếp tục được ghi nhận và phát triển một bước mới về chất trong Hiến pháp năm 2016, theo đó phát triển bền vững ở Việt Nam không chỉ thể hiện thông qua phát triển ba trụ cột kinh tế, xã hội, môi trường mà nó còn thể hiện qua phát triển văn hóa, tinh thần, an ninh – quốc phòng và đối ngoại. Luật BVMT năm 2023 đã tiếp tục ghi nhận phát triển bền vững và bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành là một nguyên tắc quan trọng của Luật này. Như vậy, theo quy định của pháp luật bảo vệ môi trường ở nước ta, phát triển bền vững không chỉ đơn thuần được hiểu là sự phát triển được duy trì một cách liên tục mà hơn thế phát triển ở đây là sự nỗ lực liên tục nhằm đạt được trạng thái bền vững trên mọi lĩnh vực. Phát triển bền vững không được coi là một mục tiêu được đặt ra để đạt được mà đó là một quá trình duy trì sự cân bằng cơ học của đòi hỏi của con người với tính công bằng, sự phồn vinh, chất lượng cuộc sống và tính bền vững của môi trường tự nhiên. Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Để bảo đảm sự phát triển bền vững, việc kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí đóng vai trò quan trọng. Do vậy, pháp luật quy định về chính sách BVMT không khí ở Việt Nam đã đưa yêu cầu bảo vệ môi trường không khí vào trong toàn bộ quá trình phát triển từ khâu lập chiến lược, quy hoạch, phát triển. Lập, phê duyệt và thực hiện dự án đầu tư đến quá trình hoạt động của các công trình và trách nhiệm thu hồi, xử lý sản phẩm hết hạn sử dụng hoặc thải bỏ. Vừa quy định về bảo vệ môi trường không khí theo ngành, lĩnh vực, vừa quy định về bảo vệ môi trường không khí theo địa bàn, khu vực. Sử dụng đồng bộ các công cụ, các biện pháp bảo vệ môi trường không khí. Xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường không khí. Quy định rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và các chủ thể khác trong hoạt động bảo vệ môi trường không khí. Quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và các chủ thể khác trong hoạt động bảo vệ môi trường không khí. Qua đó có thể thấy, về cơ bản Việt Nam đã ban hành được một hệ thống các chiến lược, chính sách cũng như các quy định pháp luật về phát triển bền vững với rất nhiều các mục tiêu giải pháp thực hiện.

2.2.3. Thực trạng pháp luật về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường không khí Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Để phòng ngừa ô nhiễm môi trường do hoạt động phát triển kinh tế gây ra, bên cạnh quy định về quy hoạch môi trường được quy định trong Luật Bảo vệ Môi trường năm 2023 và Nghị định số 18/2018/NĐ-CP về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường. pháp luật bảo vệ môi trường cũng quy định về việc lập, thẩm định thông qua các báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, kế hoạch bảo vệ môi trường,… Các quy định này nhằm đưa bảo vệ môi trường trở thành một nội dung của quá trình phát triển kinh tế. Thực tiễn cho thấy nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường, trong đó có môi trường không khí chủ yếu là do hoạt động kinh tế của con người gây ra, bao gồm các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế, các dự án đầu tư cụ thể và các dự  án nhỏ quy mô hộ gia đình, cá nhân. Để đảm bảo các hoạt động kinh tế này không gây ô nhiễm môi trường thì trước khi các hoạt động kinh tế trên được thông qua và thực hiện trên thực tế thì các chủ thể phải lập báo cáo đánh giá về môi trường của các hoạt động này. Cụ thể:

2.2.3.1. Đối với đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC)

Đánh giá môi trường chiến lược không được quy định trong Luật BVMT 1993 mà lần đầu tiên được quy định trong Luật BVMT 2005. Việc quy định về lập báo cáo đánh giá môi trường chiến lược là đưa các yếu tố môi trường vào nội dung phát triển kinh tế nhằm đảm bảo quá trình phát triển kinh tế sẽ không làm ô nhiễm, suy thoái môi trường, trong đó có môi trường không khí hướng tới phát triển bền vững. Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Qua phân tích Điều 25, 26, 27 Luật BVMT năm 2023 có thể thấy Nhà nước có trách nhiệm và vai trò chủ đạo trong tổ chức và thực hiện báo cáo ĐMC. Việc thực hiện tốt ĐMC là cơ sở quan trọng trong việc ngăn ngừa, phòng trước ô nhiễm môi trường, trong đó có môi trường không khí. Tuy nhiên, về nội dung báo cáo ĐMC, Luật mới chỉ quy định về dự báo liên quan đến biến đổi khí hậu mà chưa quy định cụ thể trách nhiệm phân tích, dự báo cụ thể về tác động với môi trường không khí. Điều này có thể dẫn tới việc cơ quan lập, thẩm định, phê duyệt ĐMC có thể sẽ coi nhẹ việc đánh giá ĐMC với môi trường không khí.

2.2.3.2. Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM)

Báo cáo đánh giá tác động môi trường được quy định lần đầu tiên trong Luật BVMT 1993 và ngày càng hoàn thiện trong Luật BVMT 2005 và đến nay là Luật BVMT 2023. Luật BVMT 2017 quy định tương đối cụ thể về đối tượng phải lập ĐTM, thực hiện ĐTM, lập lại báo cáo đánh giá tác động môi trường, tham vấn trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường; nội dung chính của ĐTM, thẩm định ĐTM; Thẩm quyền thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường; Phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường.

Ngoài ra, Luật BVMT 2023 đã có quy định cụ thể hơn về việc lập lại báo cáo ĐTM, về tham vấn trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường, về thẩm quyền thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, về trách nhiệm của chủ dự án đầu tư sau khi có quyết định phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường (Từ điều 30 đến điều 36 Luật BVMT 2023).

Mặc dù vậy, Luật BVMT năm 2023 không quy định riêng, rõ ràng, yêu cầu bắt buộc về đánh giá tác động môi trường không khí. Ví dụ: chủ dự án có thể giới hạn phạm vi đánh giá tác động môi trường với môi trường đất và môi trường nước mà không đưa môi trường không khí vào nội dung đánh giá. Hơn nữa, thực tiễn lập báo cáo ĐTM cho thấy nhiều báo cáo do không được kiểm tra chặt chẽ ngay từ khi lập báo cáo, hay việc thẩm định chỉ mang tính qua loa nên chỉ mang tính hình thức cho có. Điều này có thể dẫn đến sự thờ ơ, coi nhẹ của chủ dự án trong quá trình lập ĐTM liên quan đến môi trường không khí.

2.2.3.3. Quy định về kế hoạch bảo vệ môi trường không khí

Luật Bảo vệ môi trường 2017 chưa có quy định cụ thể về kế hoạch bảo vệ môi trường không khí mà chỉ quy định chung về kế hoạch bảo vệ môi trường. Có thể thấy so với Luật BVMT 2005, Luật BVMT năm 2017 đã quy định về đối tượng phải đăng ký kế hoạch BVMT cụ thể, rõ ràng và đầy đủ hơn; đồng thời quy định rõ về thời hạn cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác nhận đăng ký kế hoạch bảo vệ môi trường. Nhưng đến Luật Bảo vệ môi trường 2023 thì không còn quy định về vấn đề này nữa do đã được tách ra để quy định riêng trong  Nghị định số 18/2018/NĐ-CP ngày 14/02/2018 của Chính phủ quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường. Điều này giúp cho các quy định được rõ ràng và cụ thể hơn. Tuy nhiên, thực tiễn có nhiều chủ thể vi phạm pháp luật về vấn đề này, nhưng chưa được xử lý triệt để, có nhiều báo cáo ĐTM chưa đánh giá hết được tác động của dự án đầu tư đến môi trường mà vẫn được cấp phép đầu tưgây bất bình trong nhân dân. Ví dụ: Báo cáo đánh giá tác động môi trường dự án Đồng Nai 6, Đồng Nai 6A, Dự án san lập sông Đồng Nai đoạn đi qua thành phố Biên Hòa; hay báo cáo ĐTM dự án khai thác Bôxít Tây Nguyên,… Thậm chí, có có không ít dự án chủ đầu tư không xuất phát thực sự từ dự án đầu tư của mình mà lấy báo cáo ĐTM của dự án khác mà vẫn được thông qua. Sở dĩ có vấn đề này là do hoạt động thẩm định các báo cáo ĐTM vẫn chưa thực chất.

2.2.4. Thực trạng pháp luật về thanh tra, kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn và khắc phục ô nhiễm môi trường không khí Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

2.2.4.1. Các quy định về trách nhiệm và hoạt động thanh tra, kiểm tra ô nhiễm môi trường không khí

Luật BVMT 2023 đã quy định cụ thể hơn trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Cụ thể tại điều 160, theo đó: Thủ tướng Chính phủ ban hành và chỉ đạo thực hiện Kế hoạch quốc gia về quản lý chất lượng môi trường không khí; chỉ đạo thực hiện biện pháp khẩn cấp trong trường hợp chất lượng môi trường không khí bị ô nhiễm nghiêm trọng trên phạm vi liên tỉnh, liên vùng và xuyên biên giới. Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch quốc gia về quản lý chất lượng môi trường không khí và tổ chức thực hiện, hướng dẫn xây dựng kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí cấp tỉnh, phương pháp đánh giá chất lượng môi trường không khí. Ngoài ra Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm ban hành và tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí cấp tỉnh, đánh giá, theo dõi và công khai thông tin về chất lượng môi trường không khí; cảnh báo cho cộng đồng dân cư và triển khai biện pháp xử lý trong trường hợp chất lượng môi trường không khí bị ô nhiễm gây tác động đến sức khỏe cộng đồng, tổ chức thực hiện biện pháp khẩn cấp trong trường hợp chất lượng môi trường không khí bị ô nhiễm nghiêm trọng trên địa bàn.

Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cũng quy định cơ quan quản lý nhà nước về môi trường có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo đúng quy định của pháp luật và xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Qua phân tích trên có thể thấy pháp luật môi trường hiện hành quy định khá cụ thể về thanh tra, kiểm tra môi trường từ Bộ TN và MT đến các Bộ, cơ quan ngang Bộ, và UBND các cấp. Hoạt động thanh tra, kiểm tra môi trường, trong đó có môi trường không khí ở các cấp độ khác nhau này sẽ góp phần quan trọng vào bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, Luật BVMT vẫn còn tản mạn, phân tán, chưa có quy định riêng mang tính hệ thống về thanh tra môi trường không khí, dẫn đến sự chồng chéo về trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền.

2.2.4.2. Các quy định về phát hiện ô nhiễm môi trường không khí

Luật BVMT 2023 đã có quy định mới về hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường. Theo đó, Cơ sở dữ liệu môi trường là tập hợp thông tin về môi trường được xây dựng, cập nhật, lưu trữ và quản lý đáp ứng yêu cầu truy nhập, cung cấp, sử dụng thống nhất từ trung ương đến địa phương, phục vụ công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, cung cấp dịch vụ công về môi trường. Cơ quan nhà nước các cấp từ Bộ Tài nguyên và Môi trường, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng, quản lý, khai thác hệ thống thông tin môi trường. Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia; hướng dẫn các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức triển khai cơ sở dữ liệu về môi trường của mình. Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức triển khai cơ sở dữ liệu môi trường của mình; bảo đảm tích hợp, kết nối, liên thông với cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia. Tuy nhiên các quy định về thông tin tình hình môi trường không khí lại vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển. Cụ thể là trong việc công khai thông tin. Theo đó thì Luật BVMT năm 2023 chưa quy định thời điểm công khai, hình thức công khai, dẫn đến các chủ thể phải công khai thông tin môi trường có thể “tránh, né” công khai. Luật cũng chưa quy định rõ ràng trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước liên quan đến công khai thông tin môi trường đẫn đến thực tế cho thấy, số lượng người dân biết đến dự án trước khi xây dựng không nhiều, thậm chí chỉ các đơn vị quản lý mới có thông tin. Ví dụ như sự cố cháy nhà máy Rạng Đông, sự cố dầu thải bẩn làm ô nhiễm nước Sông Đà, vấn nạn ô nhiễm không khí ở thành phố lớn… mặc dù ảnh hưởng trực tiếp đến người dân nhưng họ lại là đối tượng được biết thông tin sau cùng. Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Về hoạt động quan trắc hiện trạng môi trường không khí, được quy định từ Điều 106 đến Điều 110 Luật BVMT 2023. Theo đó, Luật cũng đã quy định chi tiết về đối tượng quan trắc cụ thể và trách nhiệm của các Bộ và cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động quan trắc môi trường (Điều 109 Luật BVMT 2023). Mặc dù đã đạt được một số kết quả, thành công ban đầu đáng khích lệ, tuy nhiên cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng đến nay vẫn chưa có bước đột phá nhằm phát triển và đẩy mạnh hoạt động của hệ thống quan trắc môi trường theo hướng đồng bộ, tiên tiến và hiện đại, đưa hệ thống quan trắc môi trường của nước ta hội nhập với các hệ thống quan trắc của các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới do hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tài liệu hướng dẫn kỹ thuật cho hoạt động quan trắc môi trường còn chưa đầy đủ, chưa đồng bộ cùng với việc kinh phí và nguồn nhân lực thực hiện quan trắc môi trường còn hạn chế.

2.2.4.3. Các quy định về ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí:

Luật BVMT năm 2023 quy định chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ. Người tiêu dùng có trách nhiệm chuyển sản phẩm thải bỏ đến nơi quy định. Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tổ chức việc thu gom sản phẩm thải bỏ. Để cụ thể hóa quy định này Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 16/2018/QĐ-TTg về thu hồi và xử lý sản phẩm thải bỏ áp dụng đối với doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu, người tiêu dùng và tổ chức cá nhân liên quan đến hoạt động thu hồi và xử lý sản phẩm thải bỏ trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, hiệu quả thực thi các quy định này đến đâu còn liên quan đến trách nhiệm không chỉ của các chủ nguồn thải mà còn liên quan đến các cơ quan nhau, như: Cục Đăng kiểm Việt Nam, Thanh tra giao thông, Bộ Giao thông vận tải, Thanh tra Bộ, Sở Tài nguyên và Môi trường cũng như Thanh tra Tra Tổng cục Môi trường và UBND các cấp trong kiểm soát ô nhiễm môi trường.

2.2.4.4. Các quy định về khắc phục ô nhiễm môi trường không khí:

Khắc phục ô nhiễm môi trường là hoạt động giảm thiểu tác động của ô nhiễm đến môi trường, con người và nâng cao chất lượng môi trường tại khu vực môi trường bị ô nhiễm. Luật BVMT 2023 cũng quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ điều 164 đến 168, trong đó có quy định về trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức chủ nguồn thải và cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền trong khắc phục ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, Luật vẫn chưa có quy định riêng về khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường không khí. Như chúng ta biết ô nhiễm môi trường không khí và thiệt hại do nó gây ra mang tính đặc thì nên việc áp dụng các quy định chung về phục hồi ô nhiễm môi trường trên vào rất khó giải quyết được triệt để vấn đề. Hơn nữa, pháp luật môi trường hiện hành cũng chưa quy định về xác định thiệt hại môi trường không khí (Nghị định 03/2018/NĐ-CP về xác định thiệt hại môi trường), nhưng cũng chưa có quy định vấn đề này.

2.2.5. Thực trạng về xử lý hành vi vi phạm pháp luật gây ô nhiễm môi trường không khí

 Theo pháp luật Việt Nam, trách nhiệm pháp lý được cấu thành bởi 4 loại trách nhiệm: trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hình sự. Tùy từng trường hợp cá nhân, tổ chức có thể chịu các trách nhiệm pháp lý khác nhau, nhưng đối với một hành vi vi phạm, một cá nhân không phải chịu quá 3 loại trách nhiệm pháp lý.

  • Trách nhiệm hành chính: Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Luật BVMT 2023 và Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2015, Nghị định số 155/2019/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Theo đó, hình thức xử phạt hành chính do vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, gồm: cảnh cáo, phạt tiền và các hình thức xử phạt bổ sung khác. Mức phạt tiền cao nhất đối với một hành vi vi phạm pháp luật môi trường của tổ chức là 2 tỷ đồng.

Ở Nghị định 179/2016/NĐ-CP, tại điều 9 chương 2 của nghị định này nêu rõ các hình thức xử phạt đối với những trường hợp vi phạm khi thực hiện lập báo cáo đánh giá tác động môi trường. Mức phạt tiền thấp nhất là từ 5.000.000 đến 10.000.000 và cao nhất là từ 180.000.000 đến 200.000.000.

Ngoài ra, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật môi trường còn có thể bị áp dụng thêm các hình thức xử phạt bổ sung: tước quyền sử dụng giấy phép môi trường tịch thu tang vật, phương tiện. Đình chỉ hoat động từ 3 đến 6 tháng. Hơn nữa cá nhân tổ chức còn có thể bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.

  • Trách nhiệm hình sự:

Theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành, thì cá nhân có hành vi phạm tội sẽ chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Bộ luật Hình sự gồm: phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề, cấm làm công việc nhất định.

  • Trách nhiệm dân sự:

Hiện trách nhiệm dân sự khi vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được điều chỉnh bởi Luật Bảo vệ môi trường năm 2023 và Nghị định số 113/2013/NĐ-CP về xác định thiệt hại môi trường hiện nay là Nghị định số 03/2018/NĐ-CP về xác định thiệt hại môi trường. Còn xác định thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản và các lợi ích hợp pháp khác được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2017 và Bộ luật Dân sự 2018.

  • Trách nhiệm kỷ luật:

Theo quy định tại khoản 2 Điều 161 Luật Bảo vệ Môi trường năm 2023 thì trách nhiệm kỷ luật được áp dụng với người đứng đầu tổ chức, cán bộ, công chức lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây phiền hà, nhũng nhiễu cho tổ chức, công dân, bao che cho người vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí hoặc thiếu trách nhiệm để xảy ra ô nhiễm, sự cố môi trường nghiêm trọng thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật bị truy cứu trách nhiệm hình sự; trường hợp gây thiệt hại thì còn phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Tóm lại, có thể thấy các quy định trên để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật môi trường không khí còn hạn chế, nằm rải rác trong các văn bản luật khác nhau. Luật bảo vệ môi trường 2023 có thiết kế một chương riêng về bồi thường thiệt hại nhưng chưa có quy định cụ thể về xác định các mức thiệt hại về môi trường không khí. Kể cả nghị định số 03/2018/NĐ-CP của Chính phủ về xác định thiệt hại môi trường cũng chưa có quy định về xác định thiệt hại về môi trường không khí, phục hồi hiện trạng môi trường không khí. Kể cả nghị định số 03/2018/NĐ-CP của Chính phủ về xác định thiệt hại môi trường cũng chưa có quy định về xác định thiệt hại môi trường không khí nên khó áp dụng trên thực tiễn. Điều 161 Luật bảo vệ môi trường 2023 quy định về xử lý vi phạm có dẫn chiếu tới pháp luật liên quan nhưng bản thân các chế tài xử lý khác được quy định trong các văn bản Luật cũng còn nhiều bất cập. Có thể kể đến như về trách nhiệm hình sự, tội gây ô nhiễm môi trường được quy định trong Bộ luật Hình sự từ năm 1999 đến nay. Theo quy định của Bộ luật này và Bộ luật Hình sựa 1999, sửa đổi bổ sung 2012 thì Tội này cấu thành vật chất tức là phải có hậu quả nghiêm trọng xảy ra mới bị truy cứu nên cũng gây khó khăn cho quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm bởi thực tế cho thấy việc xác định thiệt hại do ô nhiễm môi trường không khí gây ra là không dễ dàng, đặc biệt là khó xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây ô nhiễm môi trường không khí và thiệt hại xảy ra. Do vậy, đến nay chưa có một cá nhân nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Hiện nay, Bộ luật Hình sự 2018 sửa đổi. Về Tội gây ô nhiễm môi trường có điểm mới là chuyển sang cấu thành hình thức (tức là chỉ cần có hành vi nguy hiểm cho xã hội là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự). Mặc dù vậy, Tội này vẫn chỉ áp dụng với hành vi thải khí và bụi, mà chưa quy định đối với hành vi vi phạm pháp luật môi trường về mùi. Hơn nữa, theo quy định thì hành vi xả thải phải đạt một tải lượng nhất định thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, quy định này khó ở chỗ việc xác định tải lượng này với môi trường không khí là không hề dễ dàng. Về trách nhiệm kỷ luật với cán bộ, công chức quản lý nhà nước về môi trường cũng chưa được quy định rõ ràng và thực tiễn áp dụng chưa thật khách quan, công khai, minh bạch. Về xử phạt hành chính với hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí ngày càng hoàn thiện hơn nhưng mức xử phạt với một hành vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân làm ô nhiễm môi trường nói chung, trong đó có môi trường không khí vẫn còn thấp, mức xử phạt cao nhất áp dụng với một hành vi vi phạm pháp luật môi trường của tổ chức là 2 tỷ đồng, còn cá nhân là 1 tỷ đồng. Thực tiễn cho thấy cũng chưa chủ nguồn thải nào phải chịu mức phạt cao nhất này nên chưa đảm bảo tính răn đe, thậm chí có trường hợp cá nhân, pháp nhân chấp nhận nộp phạt để vi phạm. Pháp luật bảo vệ môi trường chưa quy định cụ thể về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải trong ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí từ nguồn thải di động cũng như nguồn thải cố định mà chỉ có quy định về ngăn chặn sự cố môi trường. Trong 10 năm tới, nếu GDP của Việt Nam tăng gấp đôi mà không quan tâm đúng mức đến công tác bảo vệ môi trường thì ô nhiễm môi trường sẽ tăng lên 3 lần, đến năm 2030 có thể gấp 4-5 lần. Trung bình GDP cứ tăng 1% thì thiệt hại do ô nhiễm môi trường sẽ làm mất đi 3% GDP [6]. Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức về quản lý và kiểm soát khí thải nếu không có các chế tài xử lý vi phạm mạnh tay hơn.

2.3 Thực trạng thực hiện các qui phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

2.3.1 Thực trạng thực hiện pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn môi trường không khí

Có thể thấy để đánh giá chất lượng môi trường không khí xung quanh và giám sát tình trạng ô nhiễm không khí, Nhà nước ta cũng đã ban hành một loạt các quy chuẩn về chất lượng môi trường không khí xung quanh. Tuy nhiên, số liệu thống kê cụ thể cho thấy tình hình môi trường không khí xung quanh ở Việt Nam những năm gần đây ở đô thị vẫn ở mức độ đáng lo ngại.

Theo Báo cáo Hiện trạng Môi trường Việt Nam giai đoạn 2019-2023 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong giai đoạn vừa qua, ô nhiễm không khí ở nước ta tiếp tục là một trong các vấn đề nóng về môi trường. Môi trường không khí bị ô nhiễm chủ yếu là bụi (TSP, PM10, PM2.5), đặc biệt là ô nhiễm bụi ở các đô thị lớn, ở một số khu công nghiệp, một số khu vực khai thác khoáng sản và ở một số làng nghề. Ô nhiễm bụi có xu hướng tăng dần từ năm 2018 – 2022 (ô nhiễm nhất) và được giảm bớt vào năm 2023 do thực hiện gián cách vì đại dịch Covid-19. Các thông số khí ô nhiễm như SO2, NO2, O3, CO, VOC… về cơ bản vẫn nằm trong giới hạn cho phép của QCVN 05: 2016/BTNMT. Chất lượng không khí ở các đô thị nhỏ và ở các vùng nông thôn vẫn được duy trì tương đối ổn định ở mức khá tốt và trung bình. Tình trạng ô nhiễm bụi (TSP, PM10, PM2.5) đang xảy ra ở nhiều đô thị nước ta. Đặc biệt là các đô thị lớn, giá trị trung bình năm của bụi PM10, PM2.5 tại tất cả các trạm quan trắc không khí tự động của Hà Nội, giai đoạn 2021-2023 đều vượt trị số cho phép của QCVN 05:2016/BTNMT từ 1,1 – 2,2 lần, thậm chí vào ngày 4/1/2025, con số này lên tới 326, Hà Nội ngày hôm đó đứng đầu trong số các thành phố ô nhiễm không khí trên thế giới. Trong khi đó ở TP. Hồ Chí Minh và các đô thị khác ở miền Nam giá trị trung bình năm của bụi PM10, PM2.5 khá ổn định, mức biến thiên của chúng không đáng kể. Nhìn chung chất lượng không khí về bụi ở các đô thị miền Trung và miền Nam đều tốt hơn so với các đô thị ở miền Bắc.

Sở dĩ xảy ra tình trạng nay là do nhiều quy chuẩn được ban hành đã khá lâu cách đây khoảng 8 đến 10 năm nên nhiều yêu cầu về môi trường không còn phù hợp với thực tế hiện nay. Ngoài việc đã lạc hậu, các yêu cầu phát thải vẫn còn ở mức rất thấp so với các nước trong khu vực cũng như quốc tế. Ví dụ quy chuẩn kỹ thuật môi trường của Việt Nam với quy chuẩn kỹ thuật môi trường của Singapore.

2.3.2 Thực trạng thực hiện các quy định về phòng ngừa, dự báo ô nhiễm môi trường không khí

Có thể thấy, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, quy định pháp luật khuyến khích ưu đãi, hỗ trợ tổ chức, cá nhân tham gia kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Mặc dù vậy thực tế cho thấy để được hưởng một số chính sách này là không hề dễ dàng. Do vậy, tổ chức, cá nhân trên thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận và hiệu quả thực hiện một số chính sách cũng chưa cao. Ví dụ: nhiều năm nay nước ta ưu tiên phát triển khoa học công nghệ, trong đó có công nghệ phòng ngừa, xử lý ô nhiễm môi trường không khí, nhưng khoa học trong nước vẫn chưa phát triển, trong khi đó đa phần các máy móc, thiết bị sản xuất nhập khẩu vẫn lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa ô nhiễm môi trường. Trong khi các nhà khoa học được đào tạo bài bản ở nước ngoài sau khi học xong lại không muốn về Việt Nam để làm việc,…hay chính sách về sản xuất, tiêu dùng các sản phẩm thân thiện môi trường cũng có vấn đề. Hay chính sách về phát triển xăng sinh học E5 để giảm thiểu sử dụng các nguồn nhiên liệu hóa thạch gây ô nhiễm môi trường không khí, nhưng chính sách này cho tới nay có nhiều nguy cơ bị sụp đổ khi có nhiều nhà máy chế biến xăng sinh học ra đời, nhưng sản phẩm xăng sinh học lại dường như rất khó tiêu thụ,…

Nước ta cũng đã ban hành được một hệ thống các chiến lược, chính sách cũng như các quy định pháp luật về phát triển bền vững với rất nhiều các mục tiêu giải pháp thực hiện, tuy nhiên tổng kết 10 năm phát triển của Việt Nam trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII cho thấy kinh tế nước ta phát triển vẫn chưa bền vững, môi trường vẫn bị ô nhiễm, tài nguyên bị suy thoái trầm trọng. Thực tế này dường như trái với quan điểm, chiến lược, chính sách cũng như các quy định pháp luật của Việt Nam về phát triển bền vững mà vụ gây ô nhiễm môi trường, hủy hoại nguồn lợi thủy sản cho ven biển miền Trung của Công ty thép Hưng Nghiệp Fomosa gần đây hay VEDAN cách đây vài năm,… gây thiệt hại rất lớn cho môi trường cũng như người dân là những vụ việc mang tính điển hình của sự phát triển chưa bền vững.

2.3.3 Thực trạng thực hiện pháp luật về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường không khí Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Việc thực hiện tốt ĐMC là cơ sở quan trọng trong việc ngăn ngừa, phòng trước ô nhiễm môi trường, trong đó có môi trường không khí. Tuy nhiên, về nội dung báo cáo ĐMC, Luật mới chỉ quy định về dự báo liên quan đến biến đổi khí hậu mà chưa quy định cụ thể trách nhiệm phân tích, dự báo cụ thể về tác động với môi trường không khí. Chính điều này dẫn tới việc cơ quan lập, thẩm định, phê duyệt ĐMC coi nhẹ việc đánh giá ĐMC với môi trường không khí. Hơn nữa, từ lúc Luật BVMT năm 2017 được ban hành, việc Báo cáo ĐMC đã trở thành một căn cứ bắt buộc để dự án chiến lược, quy hoạch được xem xét thông qua, nhưng hiện nay việc thực hiện đánh giá ĐMC đối với các dự án chiến lược, quy hoạch vẫn còn mang nhiều tính hình thức.

Luật BVMT năm 2023 cũng không quy định riêng, rõ ràng, yêu cầu bắt buộc về đánh giá tác động môi trường không khí. Vì vậy nên các doanh nghiệp ở nước ta thường giới hạn phạm vi đánh giá tác động môi trường với môi trường đất và môi trường nước mà không đưa môi trường không khí vào nội dung đánh giá. Thực tiễn có nhiều báo cáo ĐTM chưa đánh giá hết được tác động của dự án đầu tư đến môi trường mà vẫn được cấp phép đầu tư gây bất bình trong nhân dân. Ví dụ: Báo cáo đánh giá tác động môi trường dự án Đồng Nai 6, Đồng Nai 6A, Dự án san lập sông Đồng Nai đoạn đi qua thành phố Biên Hòa; hay báo cáo ĐTM dự án khai thác Bôxít Tây Nguyên,… Thậm chí, có có không ít dự án chủ đầu tư không xuất phát thực sự từ dự án đầu tư của mình mà lấy báo cáo ĐTM của dự án khác mà vẫn được thông qua. Sở dĩ có vấn đề này là do hoạt động thẩm định các báo cáo ĐTM vẫn chưa thực chất.

2.3.4 Thực trạng thực hiện pháp luật thanh tra, kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn và khắc phục ô nhiễm môi trường không khí

Sáng 19/1 Thanh tra Bộ TN&MT đã tổ chức Hội nghị tổng kết công tác năm 2024 bằng phương thức trực tuyến. Trong năm 2024, Thanh tra Bộ đã tổ chức tiếp 137 lượt công dân với 192 người, trong đó, có 11 lượt đoàn đông người. Nội dung khiếu nại công dân trình bày chủ yếu liên quan tới sai phạm trong lĩnh vực Tài nguyên và môi trường… Về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Bộ đã tiếp nhận 2.466 lượt đơn, trong đó có 1.172 lượt đơn đủ điều kiện xử lý tương ứng với 1.172 vụ việc. Trong 1.172 vụ việc có 4 vụ việc Thủ tướng Chính phủ giao; 24 vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết; 3 vụ việc có quyết định giải quyết lần cuối cùng; 21 vụ việc có quyết định giải quyết lần hai của địa phương và 1.120 vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của địa phương. Năm 2024, do tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp nên không tổ chức triển khai thanh tra theo kế hoạch. Thanh tra Bộ cũng đã tổ chức thực hiện 03 cuộc thanh tra, kiểm tra đột xuất theo chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ.

Thực tiễn tại các tỉnh thành trên cả nước vẫn còn nhiều cá nhân, tổ chức sử dụng phương tiện giao thông còn vi phạm các quy định về tiếng ồn, khí thải, vượt quá quy chuẩn cho phép, nhưng chưa bị xử lý triệt để. Việc người dân tận dụng xe máy được sản xuất từ cuối những năm 70 hoặc những năm 80 của thế kỷ trước làm phương tiện chở hàng hóa, xe thồ hàng đã không còn quá xa lạ. tạo ra khói bụi, tiếng ồn, đặc biệt là tại các ngã ba, ngã tư trong giờ cao điểm… Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Mặc dù vậy không khó khăn để thấy rằng số liệu này vẫn chưa phản ánh một cách thực chất, đầy đủ các hành vi làm ô nhiễm môi trường do các tổ chức, cá nhân gây ra. Đồng thời thực tiễn cũng cho thấy tổ chức và thực hiện thanh tra môi trường vẫn còn những bất cập từ chính các quy định pháp luật cũng như thực tiễn. Ví dụ hoạt động thanh tra chồng chéo, thiếu phối hợp giữa thanh tra Bộ, thanh tra Tổng cục và thanh tra Sở, vẫn có những tiêu cực trong quá trình thành tra ảnh hưởng đến xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường. Vẫn tồn tại nhiều bức xúc của người dân ở những khu dân cư gần với các khu công nghiệp và làng nghề. Họ cho rằng các khu công nghiệp thải ra một lượng khí thải lớn gây mùi hôi thối và ảnh hưởng sức khỏe của cộng đồng xung quanh. Bên cạnh đó, không khí ở nhiều khu công nghiệp luôn có mùi hôi, thối, khó chịu.

2.3.5 Thực trạng thực hiện pháp luật về xử lý hành vi vi phạm pháp luật gây ô nhiễm môi trường không khí

Theo Báo cáo của Tổng cục Môi trường cho thấy, đến nay trong số 435 cơ sở có tên tại Quyết định số 1788/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (tiến độ chi tiết tại Phụ lục gửi kèm theo), tới nay đã có 370 cơ sở cơ bản đã hoàn thành xử lý triệt để, không còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, chiếm tỷ lệ 85% (trong đó có 111 cơ sở sản xuất kinh doanh, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, 164 bệnh viện, 77 bãi rác, 16 cơ sở giáo dục, lao động và xã hội, 02 cơ sở khác). Hiện nay, cả nước còn 65 cơ sở chưa hoàn thành (hoặc đang thực hiện) các biện pháp xử lý triệt để. Trong đó có 5 cơ sở sản xuất kinh doanh, 1 khu công nghiệp, 6 chợ, 3 lò giết mổ gia súc, 6 bệnh viện, 39 bãi rác, 5 cơ sở giáo dục, lao động và xã hội. Hiện nay, 35/50 địa phương hoàn thành trên 70% việc xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định số 1788/QĐ-TTg (trong đó có 24/50 địa phương hoàn thành kế hoạch 100%, chiếm tỷ lệ 48%). Điều này cho thấy sự quyết tâm của Nhà nước trong ngăn chặn, xử lý triệt để các  cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Đây có lẽ là quy định hiếm hoi mà cả cơ quan có thẩm quyền xử lý lẫn bên vi phạm đều thực hiện nghiêm chỉnh. Tuy nhiên việc xử lý này không làm cho tình trạng vi phạm giảm xuống như mong đợi, bởi khi đã vi phạm tức là họ đã sẵn sàng nộp phạt, sẵn sàng bị xử lý, chỉ khi chế tài đủ răn đe thì tình trạng vi phạm gây ô nhiễm không khí mới có thể giảm rõ rệt.

2.3.6 Thực trạng thực hiện các qui phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tại công ty TNHH một thành viên Diesel Sông Công

Nhận thức rõ được tầm quan trọng của môi trường, công ty TNHH một thành viên Diesel Sông Công luôn chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng. Công ty đã ban hành quy định về quản lý chất thải (QĐ/24-001), văn bản mới nhất sửa đổi ngày 01/7/2024. Theo đó, chấp hành nghiêm túc:

  • Một là, Luật Bảo vệ môi trường hiện hành.
  • Hai là, Nghị định số: 38/2018/NĐ-CP  ngày 24/4/2018 (Quy định quản lý chất thải và phế liệu).
  • Ba là, Thông tư số: 36/2018/TT-BLĐTBXH ngày 30/6/2018 (Quy định về quản lý chất thải nguy hại).
  • Bốn là, Nghị định số: 155/2019/NĐ-CP, ngày 18/01/2019 (Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường).
  • Năm là, Nghị định số: 40/2022/NĐ-CP, ngày 13/5/2022 (Sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật bảo vệ môi trường). Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Nội dung của QĐ/24-001 bao gồm những điều sau:

  1. Phân loại các loại chất thải gây hại cho môi trường không khí trong hoạt động sản xuất gồm: Chất thải công nghiệp kim loại; Chất thải công nghiệp phi kim loại; Chất thải độc hại, phóng xạ, lây nhiễm, dễ cháy, dễ nổ, gây ăn mòn, gây nhiễm độc hoặc có đặc tính nguy hại khác.
  2. Quy định trách nhiệm của các đơn vị phụ trách việc kiểm soát ô nhiễm môi trường, cụ thể:

Một là, lập sơ đồ phân loại, thu gom, quản lý vị trí tập kết chất thải của đơn vị gửi Ban An toàn môi trường, Ban ISO.

Hai là, mỗi quý 1 lần vào đầu quý, phổ biến cho người lao động trong đơn vị thực hiện việc phân loại, thu gom và quản lý chất thải theo quy định. Kết quả cập nhật vào biểu mẫu BM/04-000-010b, gửi về Ban An toàn môi trường trước ngày mùng 10 tháng đầu quý.

Ba là, các đơn vị phòng ban định kỳ mỗi năm 1 lần vào đầu năm phổ biến cho người lao động trong đơn vị thực hiện việc phân loại, thu gom và quản lý chất thải theo quy định. Kết quả cập nhật vào biểu mẫu BM/04-000-010b, gửi về Ban An toàn môi trường trước ngày 30/1 hàng năm.

Bốn là, cuối tháng 6 và tháng 12 hàng năm, tổ chức quan trắc, đo và đánh giá nồng độ, chất lượng không khí, kết quả được tổng hợp theo biểu BM/24-001-002 và BM/24-001-001 gửi về Ban An toàn môi trường để tổng hợp báo cáo Giám đốc.

  1. Quy định về xử lý các chất thải gây nguy hại cho môi trường không khí:

Một là, đối với chất thải thông thường thuê Công ty TNHH MTV Môi trường đô thị Sông Công xử lý theo quy định.

Hai là, đối với các chất thải nguy hiểm, chất phóng xạ, gây hại đến môi trường không khí, hàng tuần hoặc khi thùng chứa chất thải đầy, Ban An toàn môi trường sẽ phối hợp với phòng Sản xuất và đơn vị phát sinh chuyển về kho tập kết chất thải nguy hại của công ty. Công ty thuê đơn vị bên ngoài đến thu gom, vận chuyển, xử lý theo quy định, thời gian lưu giữ tại kho không quá 6 tháng. Công ty cũng quy định các yêu cầu đối với đơn vị xử lý chất thải nguy hại như giấy phép hành nghề (còn hiệu lực pháp luật), phương tiện vận chuyển đảm bảo yêu cầu theo quy định của pháp luật và hai quy định PL/24-001-001, QĐ/24-004 của công ty.

  1. Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

Thứ nhất, sau khi phân tích thực trạng các quy định pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí, tiêu chuẩn môi trường không khí và thực tiễn thực hiện các quy chuẩn này ở ở nước ta, bao gồm quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường không khí xung quanh và quy chuẩn về khí thải, có thể thấy cho đến nay Nhà nước ta ngày càng hoàn thiện hơn các quy chuẩn kỹ thuật về môi trường không khí. Tuy nhiên, luận án cũng cho thấy rất nhiều quy chuẩn hiện nay đã lạc hậu cần phải chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Đặc biệt đến nay, vẫn còn thiếu một số quy chuẩn, như quy chuẩn về chất lượng môi trường không khí xung quanh đối với mùi, quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường không khí trong nhà,…

Thứ hai, về vấn đề phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí, Nhà nước ta đã ban hành nhiều quy định ở các mực độ khác nhau. Mặc dù vậy có nhiều quy định còn chưa hoàn thiện đồng thời thực tiễn thực thi pháp luật về vấn đề này vẫn còn nhiều bất cập thiếu hiệu quả. Ví dụ như nước ta đã có chính sách, ưu đãi các tổ chức, cá nhân khi tham gia vào kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, nhưng thực tiễn lại khó thực hiện do những khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện;,…

Thứ ba, về việc thanh tra, kiểm tra, phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật môi trường không khí, các quy định còn dàn trải, hay về thông tin tình hình môi trường không khí với quy định trong pháp luật hiện hành như hiện nay còn chưa đảm bảo được sự chủ động của người dân trong tiếp cận thông tin về ô nhiễm môi trường không khí. Bên cạnh đó, thực hiện thực hiện cũng cho thấy thiếu hệ thống quan trắc về môi trường không khí và người dân còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận thông tin về môi trương không khí,… Việc thực hiện thanh tra, kiểm tra ở các cơ quan địa phương vẫn còn mang tính hình thức, hời hợt.

Bốn là, các quy định pháp luật về xử lý ô nhiễm môi trường không khí như: các quy định về xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, quy định về khắc phục ô nhiễm môi trường, các quy định về xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường,… đã bao quat được các hành vi vi phạm và theo đó chủ thể gây ô nhiễm môi trường tùy theo mức độ có thể bị xử lý trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm kỷ luật hay trách nhiệm dân sự. Nhưng chế tài có lẽ vẫn chưa đủ sức răn đe. Khóa luận: Thực trạng PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Khóa luận: Giải pháp PL kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464