Khóa luận: Giải pháp giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất

Định hướng và giải pháp khắc phục bất cập trong hoạt động giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất  tại Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam

3.1. Giải pháp chung

Để hoạt động áp dụng pháp luật được nhuần nhuyễn tại Tòa án nhân dân các cấp nói chung và Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam nói riêng thì quy định pháp luật đất đai cũng cần rõ ràng, minh bạch và phù hợp thực tế. Bên cạnh việc tìm hiểu tình hình giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tìm hiểu một số bất cập trên thực tế ở những địa phương khác thông qua các kênh báo, đài… Để góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất tại Tòa án, cần thực hiện các giải pháp như:

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật. Luật Đất đai (sửa đổi) đã chính thức được Quốc hội khóa XV biểu quyết thông qua với tỉ lệ tán thành cao. Trong lịch sử lập pháp của Quốc hội, có lẽ chưa dự án nào trải qua quy trình đặc biệt như dự án Luật Đất đai lần này khi trải qua 4 kỳ họp Quốc hội, 02 Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, 08 phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và nhiều buổi làm việc do Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội chủ trì. Điều này cho thấy tư duy và phương pháp làm việc đổi mới, quyết liệt hành động nhưng rất cẩn trọng, đề cao chất lượng và hiệu quả của Quốc hội và các cơ quan trong hoạt động lập pháp [45]. Luật Đất đai 2024 ra đời, có hiệu lực từ năm 2025 thay thế cho Luật Đất đai năm 2013, với nhiều điểm mới quan trọng để đáp ứng yêu cầu hoàn thiện đồng bộ chính sách, pháp luật về quản lý và sử dụng đất, phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để nguồn lực đất đai được quản lý, khai thác, sử dụng tiết kiệm, bền vững, hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, để các quy định của Luật Đất đai 2024 thực sự đi vào cuộc sống vẫn cần có các văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể về từng điều luật. Vậy nên, việc sớm ban hành các Nghị định, Thông tư hướng dẫn tại thời điểm hiện tại là thực sự cần thiết. Đồng thời, tăng cường công tác hướng dẫn, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động xét xử; tập trung giải đáp các vướng mắc về nghiệp vụ để kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xét xử.

Thứ hai, phải xác lập cơ chế quản lý, sử dụng đất đai trên nguyên tắc: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Trong đó, Nhà nước phân cấp thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất quá lớn cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện, song pháp luật đất đai lại chưa xác lập được cơ chế phù hợp để kiểm soát, giám sát quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của các cơ quan nhà nước. Điều này dẫn đến tình trạng có sự lạm quyền trong việc chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp, giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất; thậm chí trong nhiều trường hợp có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực gây bất bình trong nhân dân. Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung các quy định về cơ chế hữu hiệu để giám sát các cơ quan nhà nước thực hiện vai trò chủ sở hữu đất đai; tăng cường hoạt động xem xét, đánh giá việc phân cấp về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất giữa trung ương và địa phương nhằm khắc phục sự lạm quyền trong giao đất, cho thuê đất.

Thứ ba, cơ chế áp dụng pháp luật phải đảm bảo tính đầy đủ, minh bạch, công khai, dễ thực hiện, tiện lợi cho các chủ thể thực hiện pháp luật. Tìm hiểu và ghi nhận được các loại lợi ích xã hội, khuynh hướng xã hội không chỉ khi xây dựng pháp luật mà cả khi thực hiện pháp luật vì lợi ích xã hội vẫn là yếu tố có ý nghĩa chi phối. Cần làm rõ yếu tố mới xuất hiện từ sau khi pháp luật được ban hành có khả năng chi phối quá trình áp dụng pháp luật cũng như trình độ khả năng của các chủ thể thực hiện pháp luật.

Thứ tư, cần tăng cường bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ thẩm phán, cán bộ Tòa án nhân dân và giao cho Tòa án thực hiện giải quyết tranh chấp theo thủ tục tố tụng dân sự. Thực tế, hằng năm các cơ quan tư pháp tỉnh Hà Nam vẫn thường xuyên tổ chức các chương trình bồi dưỡng, tập huấn cho các cán bộ Toà án trên địa bàn tỉnh. Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm cũng có sự chủ động gửi cán bộ, thẩm phán tham gia các buổi đào tạo, định hướng giải quyết…nhưng số lượng vẫn còn hạn chế. Định hướng nhằm giúp cho các thẩm phán và cán bộ Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm phải nắm được các kỹ năng tiến hành giải quyết tranh chấp, nhận thức được tính chất đặc thù trong quá trình giải quyết các tranh chấp về đất đai để từ đó nắm vững được các nguyên tắc chỉ đạo, áp dụng đúng các quy định của pháp luật về đất đai, cũng như những quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhằm giải quyết các vụ việc về Quyền sử dụng đất có hiệu quả và chất lượng cao. Tòa án là con đường  tiếp cận công lý tốt nhất cho các bên và cũng phù hợp với con đường cải cách tư pháp, đề cao, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân bởi theo quy định tại Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013, Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý. Giải quyết tranh chấp Quyền sử dụng đất tại Tòa án có ưu điểm là công khai, minh bạch. Tại đây, các bên tranh chấp có cơ hội “tranh tụng” để tìm ra sự thật khách quan bởi Tòa án là cơ quan tư pháp, thực hiện nguyên tắc xét xử độc lập. Trong khi đó, nếu giải quyết tại cơ quan hành chính nhà nước thì hoạt động này thường mang tính khép kín và nặng tính hành chính hơn.

Thứ năm, rà soát, sắp xếp, tổ chức lại bộ máy theo hướng tinh gọn đầu mối bên trong của các Tòa án gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là công việc hệ trọng, quyết định đến chất lượng, hiệu quả công tác của tòa án, khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn, đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của tình hình mới, bắt kịp các nền tư pháp tiến bộ trên thế giới.. Thực hiện việc luân chuyển, điều động, định kỳ chuyển đổi vị trí công tác kịp thời để bổ sung nguồn nhân lực cho các đơn vị có số lượng công việc nhiều đặc biệt là nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp dân sự trong đó có tranh chấp về Quyền sử dụng đất, đồng thời bồi dưỡng, rèn luyện đối với cán bộ thuộc diện quy hoạch các chức vụ lãnh đạo, quy hoạch bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp.

Thứ sáu, đẩy mạnh việc triển khai và thi hành Luật Hòa giải và đối thoại tại Tòa án. Tăng cường tuyên truyền về Luật hòa giải và đối thoại qua các phương tiện truyền thông, hội thảo, và các buổi tập huấn để nâng cao nhận thức của người dân và cán bộ tòa án về lợi ích của hòa giải và đối thoại. Tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu về kỹ năng hòa giải, đối thoại và kiến thức pháp luật cho hòa giải viên, đối thoại viên. Tuyển dụng các chuyên gia pháp lý, tâm lý học, và các lĩnh vực liên quan làm hòa giải viên. Đồng thời, có chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút và giữ chân những người có năng lực.

Thứ bảy, tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm phòng, ngừa tranh chấp về đất đai, về quyền sử dụng đất cho người dân, cán bộ, công chức nhà nước.

Tăng cường ý thức pháp luật trong nhân dân, cán bộ, công chức nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng. Trên thực tế, những tranh chấp về quyền sử dụng đất  kéo dài một phần là do trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế, ý thức pháp luật và sự tôn trọng pháp luật của một bộ phận nhân dân chưa cao. Vì vậy, việc phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm phòng, ngừa tranh chấp về đất đai, về quyền sử dụng đất trên địa bàn huyện Thanh Liêm là một việc làm vô cùng cấp thiết. Đồng thời, qua đó giúp cơ quan, người tiến hành tố tụng giải quyết vụ án được khách quan, công bằng, đúng pháp luật.

3.2. Giải pháp cụ thể

Trong quá trình tìm hiểu thực tiễn về hoạt động giải quyết về tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân nhân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, qua những thuận lợi và khó khăn của vấn đề, cần xem xét một số kiến nghị cụ thể để hạn chế bất cập và nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất như sau:

3.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất

Pháp luật có vai trò quan trọng trong việc quản lý xã hội và nhà nước. Các quy định pháp luật được thiết lập để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo một hướng nhất định. Việc áp dụng các quy định này sẽ ảnh hưởng đến hành vi, quyền lợi và trách nhiệm của các cá nhân và tổ chức. Do đó, hiểu rõ và chính xác các quy định pháp luật và áp dụng chúng một cách nghiêm túc và hiệu quả là cần thiết cho bất kỳ hệ thống pháp luật nào. Trong việc giải quyết tranh chấp đất đai liên quan đến quyền sử dụng đất, có một số điểm cụ thể cần được xem xét:

Một, thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai nên được giao hoàn toàn cho cơ quan chuyên môn, tức là Tòa án nhân dân giải quyết. Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, việc giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của hai hệ thống cơ quan khác nhau: cơ quan xét xử (Tòa án) và cơ quan hành chính (UBND cấp huyện, cấp tỉnh; Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường). Phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai dựa trên hai tiêu chí chính:

Tính hợp pháp của việc sử dụng đất. Nếu bên tranh chấp có bằng chứng về quyền sử dụng đất (bao gồm các tài liệu như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc các tài liệu khác được quy định trong Luật Đất đai 2013), thì vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Trong trường hợp không có bằng chứng về quyền sử dụng đất và đề xuất giải quyết tại Ủy ban nhân dân, thì vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân.

Tính sở hữu của tài sản tranh chấp. Nếu tài sản (có sở hữu tư nhân) gắn liền với đất tranh chấp, thì vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tòa án nhân dân với cơ cấu tổ chức từ Tòa án nhân dân tối cao đến Tòa án nhân dân cấp huyện được xem là cơ quan có đầy đủ khả năng và điều kiện để giải quyết các tranh chấp dân sự nói chung và tranh chấp về quyền sử dụng đất nói riêng một cách hiệu quả. Để giải quyết các tranh chấp đất đai một cách đồng nhất và chính xác, việc giao toàn bộ các tranh chấp đất đai cho Tòa án nhân dân giải quyết được đề xuất, từ những vướng mắc trước đó trong quá trình giải quyết của Ủy ban nhân dân. Ủy ban nhân dân được chỉ định để giải quyết các khiếu kiện liên quan đến thu hồi đất, giải tán mặt bằng, bồi thường và hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất. Trong trường hợp đất chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Tòa án sẽ tiến hành thụ lý và giải quyết sau khi đã tham khảo ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền về tính hợp pháp của việc sử dụng đất đó.

Hai, khi giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất có một số vụ án, Toà án chỉ căn cứ vào hình thức giấy tờ như thấy bên nào có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là kết luận đất thuộc về bên đó, không căn cứ vào các quy định của pháp luật về đất đai và các văn bản pháp luật khác có liên quan để đánh giá việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có đúng hay không để xác định ai có quyền sử dụng đất hợp pháp. Vì vậy, khi xét xử tranh chấp quyền sử dụng đất nếu tài sản đất đó đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hoặc một bên đã kê khai đứng tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính…, thì Toà án phải áp dụng các quy định pháp luật yêu cầu đương sự có nghĩa vụ chứng minh được việc đứng tên trong các giấy tờ nêu trên là hợp pháp, chứng minh việc đã làm đúng trình tự, thủ tục. Trên cơ sở các quy định pháp luật cần phải rõ ràng trong việc cho phép Toà án được xác minh, kiểm tra, đánh giá về các loại tài liệu, chứng cứ mà các đương sự xuất trình, có cơ sở để xác định ai là người có Quyền sử dụng đất hợp pháp.

Ba, Luật Đất đai năm 2013 (hiện hành) vẫn chưa có định nghĩa cho khái niệm quyền sử dụng đất. Trong quá trình sửa đổi và ban hành, Luật Đất đai năm 2024 vẫn chưa đưa ra định nghĩa cụ thể cho khái niệm “quyền sử dụng đất”, thay vào đó, Luật này liệt kê các quyền chung của người sử dụng đất tại Điều 26, bao gồm:

“1.Được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về đất đai.

  1. Hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất sử dụng hợp pháp.
  2. Hưởng các lợi ích khi Nhà nước đầu tư để bảo vệ, cải tạo và phát triển đất nông nghiệp.
  3. Được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo, phục hồi đất nông nghiệp.
  4. Được Nhà nước bảo hộ khi người khác xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp về đất đai của mình.
  5. Được quyền chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
  6. Được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của Luật này.
  7. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai”[18].

“Quyền sử dụng đất” – một khái niệm có tầm quan trọng bậc nhất, là khái niệm trung tâm của Luật Đất đai vẫn chưa được định nghĩa thì đó là một hạn chế rất lớn. Để khắc phục nhược điểm này, tác giả mạnh dạn đề xuất bổ sung khái niệm quyền sử dụng đất vào Điều 3, điều giải thích thuật ngữ, nhằm đảm bảo tính nhất quán và mạch lạc trong quy định của pháp luật đất đai, tránh tình trạng mơ hồ và không rõ ràng gây khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp.  

Bốn, pháp luật hiện hành cũng cần sửa đổi quy định về hình thức và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất nhằm giảm bớt số lượng vụ án phát sinh tranh chấp như hiện nay. Số vụ án vi phạm về hình thức hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm xuất hiện ngày càng nhiều. Mặt khác, do hiện nay việc cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất lần đầu chưa đạt 100% nên hầu hết người dân thường chỉ thực hiện việc “mua bán” bằng hình thức giấy mua bán viết tay, không có công chứng, chứng thực. Chính vì vậy, pháp luật hiện hành cũng cần sửa đổi quy định về hình thức hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất nhằm giảm bớt số lượng vụ án phát sinh tranh chấp như hiện nay. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là một loại hợp đồng vô cùng phức tạp gắn liền với đất đai – một loại tài sản đặc biệt mà Nhà nước cần phải quản lý, đại diện sở hữu. Căn cứ theo Khoản 1 Điều 502 BLDS 2015: “Hợp đồng về quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản theo hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này, pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan”. 

Theo quy định pháp luật về đất đai hiện hành thì hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất phải lập thành văn bản và phải có công chứng, chứng thực. Cụ thể, tại Khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013 quy định:

“Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất được thực hiện như sau:

  1. Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này;
  2. Hợp đồng cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất mà một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của các bên;
  3. Văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật về dân sự;
  4. Việc công chứng thực hiện tại các tổ chức hành nghề công chứng, việc chứng thực thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã”. 

Luật Đất đai ban hành năm 2024 về cơ bản vẫn kế thừa và giữ nguyên ý chí của Luật Đất đai 2013 về quy định quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Việc yêu cầu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được thể hiện bằng văn bản và bắt buộc phải được công chứng, chứng thực là một điều kiện nhằm đảm bảo tính chính xác, khách quan của giao dịch. Tuy nhiên, một thực tế hiện nay, khi “thuận mua vừa bán” thì người dân thường chỉ lập một tờ giấy mua bán viết tay, hai bên ký vào và có thêm người làm chứng ký để chứng nhận có quan hệ mua bán trên. Theo Điều 129 Bộ luật dân sự 2015, những giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ hai trường hợp quy định tại khoản 1, 2 của Điều luật này. Vì vậy, khi xảy ra tranh chấp, hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất trong trường hợp “thuận mua vừa bán” nêu trên được coi là giao dịch vô hiệu do vi phạm về điều kiện hình thức có công chứng, chứng thực. Chính vì vậy, tác giả mạnh dạn đề xuất giải pháp: Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng về chế độ sở hữu về đất đai, pháp luật cần sửa đổi quy định hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất phải được thể hiện bằng văn bản nhưng không bắt buộc phải công chứng chứng thực khi đã có thêm người làm chứng ký để chứng nhận.

Cùng với đó, cần hoàn thiện quy định của pháp luật về việc xác định thời điểm  có hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất. Để các quy định của pháp luật như Luật đất đai, Luật Công chứng, BLDS, Nghị định về đăng ký giao dịch bảo đảm phù hợp với thực tiễn và thống nhất với nhau về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất cần thiết phải ban hành và bổ sung quy định về hiệu lực của Luật Công chứng theo hướng: “Hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm công chứng, trừ trường hợp các giao dịch về quyền sử dụng đất có hiệu lực từ thời điểm được đăng ký theo quy định của Luật Đất đai, BLDS” nhằm tạo điều kiện cho hoạt động giải quyết tranh chấp tại Toà án có hiệu quả cao hơn, đảm bảo các vụ án được giải quyết đúng căn cứ pháp luật.

Năm, trong việc xác định thẩm quyền của Tòa án đối với các tranh chấp liên quan đến thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, cần có những hướng dẫn và quy định cụ thể để đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình giải quyết tranh chấp. Hiện tại, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 cũng như các văn bản hướng dẫn chưa quy định đối cụ thể với tranh chấp về thừa kế, tặng cho Quyền sử dụng đất thì sẽ do Tòa án nơi mở thừa kế giải quyết mà thực tế vẫn là tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc thụ lý và giải quyết. Thiết nghĩ, nếu Pháp luật tố tụng dân sự trong tương lai xây dựng quy định theo hướng quy về thẩm quyền cho Tòa án mở thừa kế sẽ là Tòa án có thẩm quyền xét xử thì cũng là hợp lý, bởi sự thuận lợi cho việc giải quyết vụ án khi nơi mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản, nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản. Việc quy định tranh chấp về thừa kế thì sẽ do Tòa án nơi mở thừa kế giải quyết được xây dựng theo tiêu chí dựa vào nơi xảy ra sự kiện pháp lý, căn cứ như Thông tư số 39 – NCPL ngày 21/01/1972 trước đây từng quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thừa kế là Tòa án nơi phát sinh việc thừa kế và là nơi có những tài sản chủ yếu của người chết để lại.

Mặt khác, cần có sự phối hợp chặt chẽ và tham khảo ý kiến của các cơ quan quản lý đất đai trong quá trình điều tra và xác minh để tránh tình trạng sai sót và không nhất quán trong quá trình giải quyết các tranh chấp đất đai.

3.2.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Tòa án

Đối với hệ thống Tòa án, vấn đề cốt lõi là cải cách tư pháp trong ngành Tòa án theo hướng tinh giản, hiệu quả. Việc đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công chức tại Tòa án nhân dân huyền Thanh Liêm, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán là một trong những khâu then chốt để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất. Để nâng cao về chất lượng nguồn nhân lực tại Tòa án, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:

Một, đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực của cán bộ cấp cơ sở, cũng như cán bộ của Tòa án, phát triển nhân lực tư pháp đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý. Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nhằm hạn chế những sai phạm trong quá trình xử lý vụ việc. Thường xuyên tập huấn các văn bản pháp luật mới ban hành đến các cán bộ công chức ngành Tòa án, cải tiến phong cách làm việc. Tập trung nâng cao phẩm chất cho cán bộ thi hành pháp luật để giải quyết kịp thời, đúng đắn và nghiêm minh đối với các vụ tranh chấp đất đai. Xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm thực tiễn đối với từng chức danh, nhân lực tư pháp.

Hai, tổ chức các lớp tập huấn định kỳ hoặc đột xuất về chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức. Bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ, trình độ quản lý, kỹ năng thực hiện công tác dân vận, ngoại ngữ, tin học và kinh nghiệm giải quyết tình huống cụ thể. Cùng với việc tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ trong quy hoạch, cán bộ trẻ, cán bộ dự nguồn, đảm bảo đổi mới các hình thức đào tạo nhằm phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên, tăng cường các hoạt động hội thảo, trao đổi kinh nghiệm. Kết hợp với việc đào tạo lý thuyết cần phải cho học viên được tham gia nghiên cứu và nâng cao trình độ chuyên môn thông qua các hình thức thực tế tại địa phương.

Ba, xây dựng các chương trình bồi dưỡng chuyên biệt ở trong và ngoài nước cho các chức danh, cấp lãnh đạo và lĩnh vực công tác; cập nhật các kiến thức mới và kỹ năng nghiệp vụ đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, phù hợp với đối tượng cụ thể. Từng bước tạo ra đội ngũ cán bộ, công chức chuyên sâu về giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất.

Bốn, siết chặt kỷ cương, tăng cường kỷ luật công vụ và công tác xét xử, nâng cao phẩm chất đạo đức, ý thức chấp hành kỷ luật công vụ và chịu trách nhiệm trước nhiệm vụ được giao. Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án, hướng tới mục tiêu xây dựng ngành Tòa án trong sạch, vững mạnh về tư tưởng và tổ chức. Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm cần phải thường xuyên tổ chức các phiên họp rút kinh nghiệm, tổng kết về công tác giải quyết các tranh chấp Quyền sử dụng đất thông qua thực tiễn công tác xét xử.

Từ đó, chỉ ra những khuyết điểm, hạn chế còn tồn tại hay những sai lầm mà Thẩm phán thường gặp phải trong công tác xét xử các tranh chấp về Quyền sử dụng đất, đồng thời phân tích các nguyên nhân của những sai lầm đó, đề ra được những giải pháp khắc phục, nâng cao trình độ Thẩm phán, xây dựng nội dung bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ.

Năm, Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm cần đề xuất chính sách nhằm tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của các cấp chính quyền đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Việc đào tạo, bồi dưỡng phải dựa trên cơ sở quy hoạch, phải xác định rõ nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng từng bộ phận, từng chức danh để tiến hành các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp. Các khóa đào tạo và huấn luyện định kỳ về pháp luật đất đai và quy trình giải quyết tranh chấp sẽ giúp cán bộ tòa án nắm vững kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết để xử lý các vụ án phức tạp liên quan đến đất đai [28]. 

Sáu, tiếp tục đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành theo hướng phân công, phân cấp hợp lý; phát huy tính sáng tạo và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Tăng cường công tác quản lý cán bộ, Thẩm phán; chỉ đạo các Tòa án làm tốt công tác tự kiểm tra và phải coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, kịp thời khen thưởng, vinh danh những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác; đồng thời xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm. Bên cạnh đó, cần đổi mới chính sách, chế độ tiền lương, thời hạn bổ nhiệm và cơ chế bảo đảm để đội ngũ cán bộ tư áp yên tâm công tác, liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là đối với đội ngũ Thẩm phán.

Bảy, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam cũng cần có sự quan tâm tới các Tòa án nhân dân cấp huyện trong toàn tỉnh. Để năng lực nghiệp vụ giữa các Tòa án được đồng đều, chất lượng xét xử tốt thì cần tổ chức các hội thảo và buổi giao lưu kinh nghiệm giữa Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm với các cơ quan, tổ chức có liên quan sẽ là cơ hội để chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm và phương pháp giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất. Qua đó, cải thiện hiểu biết và kỹ năng của đội ngũ cán bộ tại tòa án, đồng thời mở ra cơ hội hợp tác và trao đổi thông tin để tối ưu hóa quy trình giải quyết tranh chấp.

3.2.3. Đẩy mạnh việc triển khai và thi hành Luật Hòa giải và đối thoại, nâng cao chất lượng hòa giải tại Tòa án

Hòa giải tại Tòa án là hoạt động hòa giải do Hòa giải viên tiến hành trước khi Tòa án thụ lý vụ việc dân sự, nhằm hỗ trợ các bên tham gia hòa giải thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020 [17]. Đây là một điểm mới tiến bộ nhằm giúp giảm gánh nặng cho công tác xét xử nói chung, đã và đang được ngành Tòa án triển khai một cách hiệu quả, góp phần rút ngắn thời gian tố tụng, thời gian công sức cho người dân. Để nâng cao chất lượng hòa giải trong giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất:

Một là, Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm cần tập trung chỉ đạo và tổ chức thi hành Luật

Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Chánh án phân công Thẩm phán có năng lực, kinh nghiệm phụ trách hòa giải, đối thoại; tập trung chỉ đạo việc tuyên truyền và thực hiện các hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại phải tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, thường xuyên nắm bắt việc triển khai thi hành Luật; phải kịp thời hướng dẫn, giúp đỡ Hòa giải viên thực hiện hoạt động hòa giải, đối thoại; đồng thời, đề xuất với Chánh án về những biện pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, bảo đảm hiệu quả của hoạt động hoà giải, đối thoại tại Tòa án.

Mỗi Thẩm phán, Thư ký Tòa án, ngoài nắm vững kiến thức chuyên môn cần phải trang bị thêm cho mình một số kỹ năng như kỹ năng phân vai trong từng tình huống của quá trình hòa giải, kỹ năng xây dựng kế hoạch và lựa chọn các phương pháp hòa giải phù hợp với từng vụ án, kỹ năng giao tiếp với các bên đương sự khi thực hiện hòa giải.

Hai là, tập trung kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực hoạt động của Hòa giải viên. Thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng hòa giải, đối thoại; kịp thời hỗ trợ, giúp đỡ các Hòa giải viên tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện hoạt động hòa giải, đối thoại.

Bên cạnh đó, Hòa giải viên phải phấn đấu, rèn luyện để nâng cao trình độ, năng lực, kỹ năng hòa giải, đối thoại; khắc phục khó khăn để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình nhằm tạo uy tín, niềm tin để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tin tưởng lựa chọn hòa giải, đối thoại tại Tòa án; phối hợp chặt chẽ với Tòa án để thực hiện tốt việc phổ biến, tuyên truyền Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Ba là, bảo đảm các điều kiện cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động hòa giải tại Tòa án. Trong thời gian tới, Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm cần bố trí đầy đủ phòng làm việc cho Hòa giải viên, phòng hòa giải, đối thoại cho hợp lý; trang bị những phương tiện cần thiết để bảo đảm cho các Hòa giải viên có đủ điều kiện thực hiện nhiệm vụ.

3.2.4. Xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng cho việc triển khai thi hành pháp luật 

Cơ sở vật chất, trang thiết bị là yếu tố không thể thiếu khi triển khai thi hành pháp luật giải quyết các tranh chấp nói chung và tranh chấp về quyền sử dụng đất nói riêng của Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm. Bởi khi cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc được đảm bảo về số lượng, chất lượng thì hiệu quả của công tác xét xử sẽ nâng cao, quyền lợi, nghĩa vụ của các chủ thể được bảo đảm. Trong hoạt động này, cơ sở vật chất kỹ thuật được hiểu là trụ sở làm việc của cơ quan tố tụng, công cụ phương tiện, trang thiết bị để người tiến hành tố tụng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình…

Hiện nay, tại Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm một số trang thiết bị làm việc bị hư hỏng cần được thay thế, bổ sung (bao gồm máy tính, máy in, máy fax…) chưa đáp ứng được hết các yêu cầu của công tác xét xử. Vì vậy cần phải bổ sung đầy đủ các phương tiện, kỹ thuật, tách biệt phòng xử án hình sự và dân sự, bổ sung thêm các phòng hòa giải. Phòng làm cần trang bị thêm nhiều cây xanh để tạo sự thân thiện khi làm việc và tăng cường hiệu quả của hòa giải, đối thoại.

3.2.5. Phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm phòng, ngừa tranh chấp về đất đai, về quyền sử dụng đất  

Trong những năm qua, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Hà Nam nói chung, địa bàn huyện Thanh Liêm nói riêng đã tạo được sự chuyển biến tích cực từ nhận thức đến hành động của toàn thể người dân. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được tiến hành bởi những chủ thể nhất định. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 6 Luật phổ biến, giáo dục pháp luật 2012:“Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương”.

Căn cứ vào chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ quản lý, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm ban hành theo thẩm quyền chương trình, kế hoạch, đề án phổ biến và giáo dục pháp luật; chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức triển khai và kiểm tra công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật; thực hiện chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy môn giáo dục công dân, giáo viên, giảng viên dạy pháp luật theo quy định của pháp luật; tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp hỗ trợ cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật [11].

Theo đó, Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo trách nhiệm quản lý trên địa bàn và hướng dẫn của Bộ Tư pháp; Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn trên địa bàn huyện Thanh Liêm tổ chức thực công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn theo hướng dẫn của Ủy ban nhân dân cấp huyện [3]. Xuất phát từ việc nâng cao nhận thức về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, hiện nay đội ngũ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ là cán bộ làm công tác tư pháp mà đã được mở rộng tới nhiều ngành, nhiều tổ chức, được tăng cường và nâng cao cả về số lượng và chất lượng.

Theo thống kê, huyện Thanh Liêm là một trong những địa phương có các xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật qua các năm 2019 – 2023 [42]. Với các hình thức và nội dung phổ biến giáo dục pháp luật và tinh thần trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp, các chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước cũng như đời sống xã hội.

Các văn bản luật, văn bản dưới luật đã được triển khai kịp thời, thiết thực trên từng địa bàn của huyện, bám sát các nhóm đối tượng ưu tiên cần được phổ biến, giáo dục pháp luật theo quy định, hướng dẫn của các cơ quan nhà nước ở trung ương. Ngoài ra, các tổ chức xã hội, đoàn thể, các tổ chức chính trị – xã hội cũng tham gia vào công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm phòng, ngừa tranh chấp về đất đai, về quyền sử dụng đất. Các tổ chức này thường có mối quan hệ mật thiết và tiếp xúc trực tiếp với cộng đồng, do đó có thể đóng góp đáng kể vào việc tăng cường nhận thức pháp luật trong nhân dân.

Tuy nhiên, việc vận dụng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật sẵn có đã từng bước phát huy hiệu quả, phù hợp nhưng chưa thực sự nhuần nhuyễn, thiếu đi sự đa dạng, sáng tạo, vẫn còn theo khuôn mẫu. Trên cơ sở đó, cần phải đẩy mạnh việc sử dụng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật như:

Thứ nhất, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.

Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như hiện nay, các phương tiện thông tin đại chúng như loa truyền thanh, internet, pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải trên Công báo; đăng tải thông tin pháp luật trên trang thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ chức, khu dân cư được sử dụng rất phổ biến. Với đặc tính phổ cập, nhanh chóng, kịp thời, phương thức này đã được tỉnh Hà Nam nói chung, huyện Thanh Liêm nói riêng áp dụng một cách linh hoạt, hiệu quả.

Điển hình như các trang thông tin điện tử của tỉnh và các ngành trên địa bàn tỉnh như: hanam.v.vn; pbgdpl.hanam.v.v; stp.hanam.v.v;…đã tích cực truyền tải các thông tin pháp luật tới đông đảo quần chúng nhân dân, nhất là các văn bản, chính sách pháp luật do cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương ban hành.

Đặc biệt cần quan tâm hơn nữa đến công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật đất đai tại các cấp xã phường bằng hình thức giải đáp thắc mắc về pháp luật đất đai của người dân thông qua đài phát thanh, truyền hình. Chú trọng hình thức tuyên truyền miệng trong việc phổ biến, triển khai thực hiện các văn bản pháp luật cần thiết cho từng đối tượng, nhất là cán bộ chính quyền cấp cơ sở, các tầng lớp nhân dân. Tuyên truyền miệng về pháp luật là một hình thức tuyên truyền mà người nói trực tiếp nói với người nghe về lĩnh vực pháp luật trong đó chủ yếu là các văn bản pháp luật nhằm nâng cao nhận thức của người dân và giúp họ có ý thức hỗ trợ, cùng tham gia tạo điều kiện cho các cán bộ quản lý nhà nước trong quá trình thực thi pháp luật. Đây là một hình thức linh hoạt, có thể thực hiện ở hầu hết mọi lúc, mọi nơi, tiết kiệm chi phí và đem lại hiệu quả cao.

Thứ hai, phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật.

Trước hết cần tuyên truyền giáo dục người dân về pháp luật đất đai bằng các biện pháp giáo dục tại chỗ như truyền thanh, truyền hình, mở các lớp tìm hiểu pháp luật tranh chấp đất đai tại địa phương với sự tham gia tuyên truyền của các cán bộ hành chính nhà nước. Sử dụng các hình thức tuyên truyền đa dạng, hấp dẫn, phù hợp với từng đối tượng.

Phổ biến giáo dục pháp luật đất đai cũng như thủ tục trình tự giải quyết vụ việc để tránh tình trạng khiếu kiện, kháng cáo, kháng nghị không đúng thẩm quyền, vượt cấp. Tập trung phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, trong đó chú trọng liên quan đến tranh chấp về quyền sử dụng đất, tặng cho, thừa kế quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất,…

Thứ ba, tổ chức thi tìm hiểu pháp luật, lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế văn hóa khác ở cơ sở.

Các hình thức biểu diễn nghệ thuật kết hợp với phổ biến pháp luật đất đai, tổ chức các cuộc thi cộng đồng tìm hiểu về pháp luật liên quan đến đất đai. Đây là hình thức phổ biến giáo dục pháp luật hấp dẫn, đem lại hiệu quả cao và được sử dụng phổ biến. Nhiều nội dung pháp luật được truyền tải đến các đối tượng thông qua các cuộc thi một cách đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, sinh động hơn và tránh được sự cứng nhắc khô cứng. Bên cạnh đó, nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ năng tuyên truyền pháp luật của người tổ chức.

Phổ biến giáo dục pháp luật thông qua sinh hoạt câu lạc bộ pháp luật đất đai. Cần mở rộng mô hình các câu lạc bộ pháp luật, thông qua các câu lạc bộ này người dân được quyền tự do tìm hiểu pháp luật, tham gia đấu tranh bảo vệ pháp luật, giúp đỡ nhau giải quyết những vướng mắc về pháp luật đất đai. Mô hình câu lạc bộ pháp được tổ chức tại các cấp cơ sở với nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tất cả mọi người đều có thể tham gia. Để nâng cao hiệu quả của các câu lạc bộ giáo dục pháp luật cần phải có sự giao lưu giữa các hội viên trong câu lạc bộ với các khách mời có trình độ chuyên môn về pháp luật đất đai. Ngoài hình thức câu lạc bộ, hoạt động tuyên truyền cũng có thể cân nhắc thực hiện các chương trình giáo dục pháp luật, buổi tư vấn và chiếu phim, cũng như việc phát hành tài liệu hướng dẫn và thông tin về quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực đất đai có thể giúp nâng cao nhận thức và hiểu biết của cộng đồng về vấn đề quyền sử dụng đất.

Đồng thời, tăng cường quản lý, khai thác tủ sách pháp luật trên địa bàn huyện Thanh Liêm, xác định rõ tủ sách pháp luật là một trong những hình thức quan trọng của phổ biến, giáo dục pháp luật. Tủ sách pháp luật phải được xây dựng dựa trên mô hình thống nhất, tiếp thu có chọn lọc nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật cho người dân thông qua văn hóa đọc của người Việt. Hiện nay 16/16 xã, thị trấn thuộc huyện Thanh Liêm đều đã xây dựng được tủ sách pháp luật với số lượng sách trung bình khoảng 80 cuốn sách/tủ và nhiều tài liệu pháp luật khác, được đặt tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả tại Ủy ban nhân dân xã, nên rất thuận tiện cho người dân tiếp cận và tìm đọc.

Thứ tư, thông qua công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở. 

Ngoài việc thực hiện chức năng là cơ quan xét xử của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tòa án cũng cần thực hiện các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các hoạt động của mình, lựa chọn các vụ án thích hợp có tính giáo dục cao để tổ chức xét xử lưu động nhằm phổ biến, giáo dục pháp luật cho người tham dự phiên tòa và nhân dân. Bên cạnh đó, hòa giải cơ sở cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật. Các thành viên của tổ hòa giải thông qua hoạt động hòa giải của mình cung cấp các kiến thức về pháp luật, bồi dưỡng tình cảm cho các bên phát sinh tranh chấp và những người khác trong cộng đồng dân cư, từ đó dần hình thành sự hiểu biết, ý thức tôn trọng pháp luật trong đời sống nhân dân.  

Thứ năm, thông qua chương trình giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. Phổ biến giáo dục pháp luật thông qua việc lồng ghép trong các hoạt động giáo dục ở cấp mầm non; môn học đạo đức ở cấp tiểu học; môn học giáo dục công dân ở cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông; môn học pháp luật, pháp luật đại cương, pháp luật chuyên ngành tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học; các môn học trong cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân. Bên cạnh đó, kết hợp giáo dục ngoại khóa với các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.  

Thứ sáu, xây dựng các quy định cụ thể về quy trình và thủ tục về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất một cách thống nhất, cụ thể, kịp thời. Đồng thời tăng cường cung cấp các dịch vụ công trực tuyến về đất đai, tạo điều kiện thúc đẩy người dân thực hiện quyền sử dụng đất của mình. Với sự phát triển của công nghệ thông tin như hiện nay, việc ứng dụng công nghệ số trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất không những giảm thiểu áp lực về các thủ tục hành chính lên các cơ quan quản lý nhà nước mà còn giúp người dân tiết kiệm thời gian, giảm thiểu chi phí và tránh được các rủi ro về pháp lý.

3.2.6. Tăng cường công tác thanh tra công vụ, giám sát, kiểm tra hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm

Qua công tác kiểm tra, giám sát phát hiện, xử lý kịp thời đối với các tập thể và cá nhân cán bộ, công chức tại Tòa nếu có vi phạm, đặc biệt là xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng nghề nghiệp, chức vụ, quyền hạn để tham nhũng và vụ lợi cá nhân:

Cần tăng cường công tác giám sát việc chấp hành pháp luật đối với hoạt động tư pháp nói chung và đối với hoạt động xét xử các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng của Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm; Viện kiểm sát nhân dân; Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và các tổ chức thành viên, quần chúng Nhân dân và các cơ qan công luận.

Nâng cao chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn đối với hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm. Mặt khác, lãnh đạo Tòa án nhân dân cần thường xuyên tiến hành tự kiểm tra nội bộ hoạt động của Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra viên trong quá trình giải quyết các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất .

Nâng cao, kiểm tra hiệu quả hoạt động của Hội thẩm nhân dân. Cần có các buổi tập huấn, trao đổi, giới thiệu nội dung những văn bản pháp luật mới được áp dụng trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất. Thành lập đoàn Hội thẩm nhân dân với Trưởng, phó đoàn là người có trình độ từ cử nhân Luật trở lên hoặc cán bộ Tòa, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật đã nghỉ hưu, có kinh nghiệm công tác trong Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất. Tổ chức thường xuyên họp đoàn Hội thẩm nhân dân với Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân huyện để tổng kết rút kinh nghiệm, tìm ra những giải pháp để công tác xét xử được thực hiện công bằng, đúng pháp luật.

Kết luận chương 3

Tại nội dung chương 3 của khoá luận đã kết hợp những bất cập, khó khăn còn tồn tại trong quá trình giải quyết tranh chấp Quyền sử dụng đất nói chung và thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm nói riêng từ đó xác định những định hướng chung trong công tác hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp Quyền sử dụng đất tại Toà án.

Mặt khác, nội dung của chương đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật nội dung và pháp luật thủ tục tố tụng, đề xuất việc nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết tranh chấp về Quyền sử dụng đất không chỉ là một vấn đề quan trọng mà còn là một yếu tố then chốt trong việc bảo đảm sự công bằng và ổn định cho cộng đồng và kinh tế tại địa phương.

Tóm lại, những giải pháp về pháp luật và giải pháp nâng cao cần có sự kết hợp nhuần nhuyễn với nhau để đảm bảo rằng quá trình giải quyết tranh chấp về Quyền sử dụng đất tại Tòa án Nhân dân Huyện Thanh Liêm diễn ra một cách công bằng, nhanh chóng và hiệu quả, tạo niềm tin tuyệt đối trong nhân dân.        

KẾT LUẬN

TCQSDĐ là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong xã hội. Tranh chấp về quyền sử dụng đất ảnh hưởng tiêu cực đến các tất cả các mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian qua, Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam đã giải quyết số lượng lớn các tranh chấp quyền sử dụng đất nhằm ổn định tình hình chính trị, xã hội, góp phần vào việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật cho người dân và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất trong địa bàn huyện. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, khiếm khuyết. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ sự hạn chế về năng lực và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ tại Tòa án nói chung, các Hòa giải viên nói riêng. Bên cạnh đó, sự thay đổi liên tục của hệ thống pháp luật về đất đai cũng là một nguyên nhân gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật vào giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất tại Tòa án. Hơn nữa, nhận thức và hiểu biết của người dân còn hạn chế, không thể tránh khỏi được những tranh chấp phát sinh trong quá trình sử dụng đất.

Để nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, trong thời gian tới cần tích cực thực hiện các giải pháp như tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đất đai; tổ chức tập huấn nâng cao trình độ, kiến thức cho đội ngũ cán bộ, công chức tại Tòa án nhân dân, tích cực phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân. Khóa luận tốt nghiệp với hi vọng sẽ đóng góp một tiếng nói bé nhỏ vào quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng ở nước ta hiện nay.

Do khả năng và sự hiểu biết còn có hạn, trong khi đó nội dung cần giải quyết của đề tài rộng lớn và phức tạp, chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót nhất định, tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý Thầy Cô để khóa luận ngày một hoàn thiện hơn.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464