Báo cáo:Pháp luật và ký kết hợp đồng tại công ty

Chia sẻ cho các bạn sinh viên ngành luật bài Báo cáo:Pháp luật và ký kết hợp đồng tại công ty. Theo mình biết hiện nay có rất nhiều bạn sinh viên đang có một vấn đề chung là gặp khó khăn trong khi viết bài: luận văn, khóa luận, báo cáo, tiểu luận. Biết được điều đó nên mình đã ở đây để trợ giúp các bạn những bài tiểu luận hay nhất. Hãy liên hệ với mình khi các bạn chưa lên được ý tưởng cho bài làm của mình nhé.

CHƯƠNG I: NHẬN XÉT, KIẾN NGHỊ VỀ THỰC TIỄN ÁP DUNG PHÁP LUẬT VÀ KÝ KẾT HỢP ĐỒNG TẠI CÔNG TY TNHH NHÀ NƯỚC MỘT THÀNH VIÊN THĂNG LONG GTC

1.1. Nhận xét Báo cáo:Pháp luật và ký kết hợp đồng tại công ty 

Do đây là một Công ty dịch vụ Nhà nước chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ du lịch nên việc ký kết hợp đồng của Công ty với khách du lịch tương đối đơn giản, chưa có tranh chấp lớn nào xảy ra trong suốt quá trình hoạt động của mình. Công ty tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về hợp đồng dịch vụ, ngoài ra còn đáp ứng đầy đủ các quy định của Luật du lịch 2005 vì đây là lĩnh vực luật chuyên ngành. Hoạt động lữ hành của Công ty liên quan đến việc đưa hành khách ra nước ngoài nên trong hợp đồng còn phải tuân theo các quy định của pháp luật về xuất nhập cảnh.

Đa số các hợp đồng du lịch mà Công ty ký kết đều là những hợp đồng được soạn thỏa theo mẫu đã có sẵn nên nó tạo ra sự thuận lợi rất lớn cho quá trình đàm phán ký kết hợp đồng, tiết kiệm được thời gian và chi phí, đơn giản hóa được thủ tục giao kết. Trong quá trình ký kết hợp đồng Công ty đã triệt để tuân thủ các quy định của pháp luật về hợp đồng về cả hình thức và nội dung, người tham gia ký kết là người có đủ thẩm quyền được Công ty ủy quyền tham gia ký kết

Mặc dù hợp đồng du lịch của Công ty còn rất đơn giản nhưng nó lại có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện hợp đồng một cách có tổ chức và triệt để. Từ đó nâng cao hiệu quả áp dụng và thực hiện hợp đồng đã ký kết được hiệu quả, nhanh chóng hơn, tạo ra sự chủ động trong quá trình đàm phán, thoả thuận với khách du lịch. Chính vì nội dung không quá phức tạp, và giá trị hợp đồng không quá lớn, nên hầu như không có tranh chấp nào lớn xảy ra, nếu có tranh chấp thì cũng rất dễ giải quyết và mức độ bồi thường không quá lớn. Đa số các tranh chấp được giải quyết thông qua con đường hoà giải, tự thoả thuận mà không phải đưa ra toà án để giải quyết. Báo cáo:Pháp luật và ký kết hợp đồng tại công ty 

Thủ tục đàm phán ký kết hợp đồng du lịch của Công ty cũng rất thuận lợi cho hai bên, nên có tính cạnh tranh lớn trong giai đoạn mà nước ta đã ra nhập WTO. Sự tự do ý chí của các bên được đề cao.

Tuy nhiên vẫn còn những mặt tồn tại trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng du lịch của Công ty. Công ty vẫn đưa vào hợp đồng những điều khoản có lợi cho mình hơn và gây ra sự không công bằng trong việc xác định trách nhiệm của cả hai bên khi có sự vi phạm hợp đồng xảy ra.

Trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi và đang tiến tới cổ phần hoá nên tuy là một doanh nghiệp Nhà nước nhưng Công ty Thăng Long cũng rất tự chủ trong hoạt động kinh doanh du lịch của mình. Không còn hoạt động theo kế hoạch của Nhà nước giao cho, mà tự tìm kiếm thị trường, hầu như không nằm trong sự bao cấp từ phía Nhà nước. Vì vây, số lượng hợp đồng du lịch nói riêng cũng như các đơn đặt hàng dịch vụ khác không ngừng tăng lên làm cho doanh thu của Công ty có sự tăng trưởng đáng kể. Từ 150 hợp đồng du lịch nước ngoài, 200 hợp đồng du lịch trong nước năm 2005 với giá trị đạt 30 tỷ đồng. Đến năm 2006 số lượng hợp đồng này đã có sự tăng lên đáng kể cả về số lượng và giá trị của hợp đồng: 150 hợp đồng du lịch nước ngoài, 300 hợp đồng du lịch trong nước, với tổng trị giá các hợp đồng là trên 50 tỷ đồng. Qua quá trình thực tập và nghiên cứu hoạt động của Công ty TNHH Nhà nước Thăng Long GTC thì tôi thấy hoạt động kinh doanh dịch vụ của Công ty ngày càng đa dạng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của Công ty. Đặc biệt là các hợp đồng du lịch được ký kết không ngừng gia tăng.

Ngoài những thành quả mà Công ty đã đạt được thì Công ty cũng gặp phải những vấn đề khó khăn mang tính chủ quan như; Trước đây Công ty TNHH Nhà nước Thăng Long GTC là một Công ty Nhà nước và mới được chuyển đổi mô hình quản lý Công ty TNHH Nhà nước một thành viên cách đây 2 năm trong đó Nhà nước vẫn nắm đa số vốn chủ sở hữu.Tuy cơ chế quản lý có những thay đối nhưng về cơ bản mọi hoạt động vẫn còn mang tính quan liêu bao cấp, xa dời thực tiễn kinh tế thị trường, có tính ỷ lại cao trong hoạt động của mình dựa dẫm vào Nhà nước. Chưa có tính độc lập tự chịu trách nhiệm. Chưa chủ động sáng tạo trong việc tìm kiếm thị trường du lịch cũng như những thị trường khác để đầu tư mà ỷ lại vào kế hoạch của nhà nước hoặc những thị trường mà trước đó Nhà nước đã xây dựng được. Năng lực chuyên môn của cán bộ chưa cao, thiếu am hiểu về pháp luật và thị trường nên không taọ được động lực phát triển cho Công ty. Những người nắm chức vụ cao đa số là những người đã nhiều tuổi nên thiếu sự nhạy bén đối với thị trường nên không dám mạnh dạn đầu tư nhằm tìm kiếm thị trường mới, nên vấn đề đặt ra là phải đào tạo đội ngũ cán bộ mới có trình độ chuyên môn ngiệp vụ cao

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Bảng Giá Viết Thuê báo cáo Môn

1.2. Kiến nghị. Báo cáo:Pháp luật và ký kết hợp đồng tại công ty 

1.2.1 Một số kiến nghị cho việc phát triển nghành du lịch của Công ty TNHH Nhà nước Thăng Long GTC.

Sự hài lòng của du khách là nhân tố kích cầu du lịch qua trọng nhất trong lĩnh vực du lịch. Chỉ khi hài lòng với những dịch vụ được cung cấp thì người tiêu dùng mới có nhu cầu sử dụng lại dịch vụ ấy. Vì vậy để thu hút được khách du lịch đến Công ty của mình. Để làm được điều đó Công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ du khách. Mức độ hài lòng của du khách là dấu hiệu cơ bản cho thấy sự thoả mãn nhu cầu của họ. Đây đồng thời là lý do để họ quay trở lại sử dụng dịch vụ của Công ty và quảng bá, giới thiệu về sản phẩm du lịch của Công ty. Muốn đo lường được sự hài lòng của du khách, cần tiếp cận họ bằng những phương pháp tâm lý, tìm hiểu nguyện vọng và sở thích của họ từ đó nghiên cứu về mức độ hài lòng. Vì sự hài lòng của du khách là thước đo cho chất lượng sản phẩm du lịch. Chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của du khách có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Chất lượng dịch vụ càng cao càng đáp ứng tốt nhu cầu của du khách nên mức độ hài lòng của du khách càng cao.

Đối với Công ty TNHH Nhà nước Thăng Long GTC thì mức độ hài lòng của du khách còn chưa cao, chỉ đạt từ 70- 79% nên chưa đủ hấp dẫn để thu hút du khách trở lại( theo tài liệu cung cấp của phòng kinh doanh du lịch). Báo cáo:Pháp luật và ký kết hợp đồng tại công ty 

a) Nguyên nhân chưa hài lòng của du khách.

Chương trình du lịch chưa hấp dẫn:

  • Việc xây dựng chương trình du lịch của Công ty Thăng Long còn rất đơn giản chưa độc đáo để thu hút khách du lịch. Đa số Công ty chỉ tìm kiếm các di tích, danh lam thắng cảnh có sẵn, rồi sâu chuỗi chúng lại, kết hợp với các cơ sở lưu trú là thành một tuyến du lịch. Với những chuyến du lịch như vậy, du khách chỉ là những người thụ động tham quan ngắm cảnh chứ không có hoạt động gì hấp dẫn để khách du lịch tham gia.
  • Do công tác tổ chức chưa cụ thể, chưa có sự kết hợp với các Công ty lữ hành khác nên có nhiều tour du lịch của Công ty bị chồng chéo với tour của Công ty khác gây quá tải chồng chéo trong các địa điểm du lịch.
  • Vẫn còn hiện tượng hướng dẫn viên dồn các hoạt động trong ngày theo kiểu “làm khoán cho xong”. Tại một số tour hướng dẫn viên tự ý thay đổi:“ lịch trình” cho tiện và tiết kiệm. Chất lượng các danh lam thắng cảnh chưa cao.
  • Các danh lam thắng cảnh này bị khai thác quá mức nhưng lại không được tôn tao thường xuyên nên đang bị xuống cấp trầm trọng, gây mất mỹ quan
  • Môi trường xã hội tại các địa điểm du lịch còn gặp nhiều bất cập, xuất hiện những dịch vụ ăn theo, Công ty du lịch cấu kết với địa phương có danh lam thắng cảnh để lừa du khách.
  • Điều kiện vệ sinh môi trường tại địa điểm du lịch không được bảo đảm.
  • Trong các chuyến du lịch hoạt đồng giải trí còn hạn chế về số lượng, nghèo nàn về chất lượng, đơn điệu về hình thức, không tạo được sự hấp dẫn đối với du khách chính vì vậy số lượng hợp đồng được ký kết tăng chưa cao sau mỗi năm. Còn rất nhiều thời gian trống gây cảm giác nhàm chán cho du khách. Các chương trình du lịch của Công ty lữ hành Thăng Long mới chỉ quan tâm đến hoạt động ban ngày, và chủ yếu là các cuộc tham gia thụ động ít có hoạt động cho du khách tham gia một cách chủ động. Điều này tạo nên sự buồn tẻ cho du khách nhất là du khách phương Tây có nhiều thói quen giải trí về đêm.
  • Chính sách giá cả cũng là một vấn đề lớn gây ra sự băn khoăn cho khách du lịch. Vì giá vé cho du khách nước ngoài cao hơn vượt trội so với khách du lịch trong nước. Tạo ra sự phân biệt đối xử trong chương trình du lịch của Công ty đối với từng đối tượng du khách.
  • Trình độ quản lý và năng lực của hướng dẫn viên còn chưa đồng đều, tạo ra sự kém hấp dẫn trong nhiều chuyến đi. Sự yếu kém thể hiện ở các lĩnh vực như:
  • Thiếu kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường.
  • Thiếu công cụ phân tích hữu hiệu về quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh.
  • Thiếu ý thức tự vươn lên nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ

b) Biện pháp khắc phục.

Để khắc phục được những mặt hạn chế nói trên Công ty TNHH Nhà nước Thăng Long GTC cấn đưa ra những giải pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng để làm xuất hiện những nhu cầu mới, làm gia tăng nhu cầu còn thấp, và làm tăng cao hơn nữa nhu cầu vốn đã tăng cao của du khách. Muốn kích thích nhu cầu của du khách chúng ta trước hết cần phải tìm hiểu xu hướng vận động của nhu cầu đó như sau: Báo cáo:Pháp luật và ký kết hợp đồng tại công ty 

  • Để giải quyết vấn đề nhân lực Công ty cần có chính sách hậu đãi tương xứng để thu hút nhân tài trong quản lý cũng như đội ngũ nhân viên. Thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ nhân lực về du lịch để nâng cao nhận thức cho họ trong công tác phục vụ du khách. Cần đào tạo cả đội ngũ cán bộ cả ở trong và ngoài nước
  • Tăng cường công tác tuyên truyền quảng bá sản phẩm du lịch của Công ty nhằm thu hút khách trong và ngoài nước.
  • Nghiên cứu tâm lý, thị hiếu, tập quán thói quen tiêu dùng dịch vụ du lịch của từng đối tượng khách hàng để đưa ra những sản phẩm phù hợp
  • Thiết lập các đại diện du lịch ở nhiều tỉnh thành phố lớn để mở rộng thị trường du lịch.
  • Tạo nhu cầu mới cho khách hàng tiềm năng. Đáp ứng nhu cầu của du khách hiện tại là phát triển du lịch trong hiện tại. Tạo nhu cầu thị trường mới cho du khách tiềm năng là mở đường cho du khách phát triển trong tương lai. Nếu không thực hiện được điều này thì Công ty sẽ luôn bị động chạy theo nhu cầu của du khách mà không có sự chuẩn bị chu đáo như dự báo nhu cầu, lập kế hoạch đáp ứng chúng một cách khoa học. Để tạo ra thị trường khách hàng tiềm năng Công ty phải sáng tạo và đổi mới sản phẩm du lịch, nâng cao sức hấp dẫn của những sản phẩm du lịch hiện có, đưa ra các chương trình khuyến mại hấp dẫn vào các dịp lễ hội. Quảng bá sản phẩm du lịch thông qua sách báo, tờ dơi, mạng Internet… Xây dựng các chương trình du lịch mang màu sắc đặc trưng cho Công ty mình. Thông qua các sự kiện du lịch Công ty cũng có thể quảng bá sản phẩm du lịch của mình rất hiệu quả.
  • Trong quá trình ký kết thực hiện hợp đồng cần phải có những điều khoản phạt hợp đồng cao để tránh tình trạng bên cung ứng dịch vụ tùy tiện thay đổi chương trình du lịch mà không thông báo trước với khách hàng, cũng như khách hàng tự động hủy bỏ hợp đồng gây thiệt hại về kinh tế và uy tín cho nhà cung cấp dịch vụ.
  • Trong trường hợp công ty tổ chứ các chuyến du lịch nước ngoài, khi du khách gặp khó khăn trong các thủ tục xuất nhập cảnh tại cửa khẩu biên giới thì phía Công ty du lịch lại không có sự can thiệp kịp thời mà để cho hành khách tự giải quyết nên sẽ gây tâm lý lo ngại cho khách du lịch khi du lịch nước ngoài. Nên các hướng dẫn viên du lịch cần phải được trang bị những kiến thức về thủ tục hướng dẫn khách hàng làm thủ tục xuất nhập cảnh một cách nhanh chóng nhất và can thiệp kịp thời khi có những tình huống khó khăn xảy ra nhằm tạo tâm lý an toàn cho hành khách trong chuyến đi đồng thời thu hút được khách du lịch .
  • Để những hợp đồng đã được ký kết được thực hiện một cách đầy đủ thì cần phải có những sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận trong Công ty như: bộ phận vận tải, bộ phận lo thủ tục hậu cần, … , nhằm đảm bảo cho chuyến đi được an toàn hiệu quả đúng lịch trình.

Do trong quá trình ký kết, đàm phán soạn thảo hợp đồng du lịch thì

Công ty đã soạn thảo mẫu hợp đồng trước dành cho mọi đối tượng du khách mà không tính đến có những hợp đồng có những đặc thù riêng nên nó tạo ra sự cứng nhắc trong việc đàm phán các điều khoản có tính chất đặc trưng cho từng đối tượng khách hàng. Vì vậy cần thiết phải có những điều khoản bổ sung vào nội dung của hợp đồng để hợp đồng được rõ ràng tránh nhầm lẫn trong khâu thực hiện hợp đồng. Báo cáo:Pháp luật và ký kết hợp đồng tại công ty 

  • Do Công ty thường ít quan tâm đến vấn đề thẩm quyền ký kết hợp đồng vì nhiều khi tham gia ký kết hợp đồng các bên đã quen nhau và phía Công ty tin tưởng rằng họ đang đàm phán với những người có đủ thẩm quuyền ký kết hợp đồng. Nhiều khi các bên còn không đặt vấn đề tìm hiểu thẩm quyền ký kết của đối tác. Chính vì vậy mà đôi khi hợp đồng tuy đã được ký kết nhưng sau đó lại vô hiệu do người ký không có đủ thẩm quyền ký kết, hoặc khi nảy sinh tranh chấp thì một bên viện cớ người ký kết hợp đồng là không có đủ thẩm quyền để tránh được những khoản bồi thường thiệt hại đáng kể do vi phạm hợp đồng. Vì lý do đó để tránh được những thiệt hại không đáng có có thể xảy ra thì trong quá trình ký kết hợp đồng các bên phải tìm hiểu rõ thẩm quyền ký kết của bên kia.
  • Khi ký kết hợp đồng dịch vụ du lịch đại diện phái Công ty luôn là giám đốc. Còn bên đối tác thì đôi khi lại rất khó xác định người đại diện đó là đại diện theo ủy quyền hay đại diện theo pháp luật. Nếu họ là dại diện đương nhiên thì không đáng lo ngại nhưng nhiều khi đó lại là đại diện theo ủy quyền và họ thường giao kết hợp đồng ngòai phạm vi ủy quyền nên khi có tranh chấp xảy ra thì phía Công ty lại không phải là người chịu trách nhiệm với phần hợp đồng đã được giao kết ngoài phạm vi ủy quyền, nên phái Công ty du lịch mà muốn đòi bồi thường thì chỉ được đòi người đã giao kết hợp đồng với mình, như vậy sẽ gặp rất nhiều khó khăn vì họ có thể bỏ trốn, hoặc không có khả năng thanh toán.
  • Trong hợp đồng còn có những điều khoản quá chung chung trong việc đáp ứng yêu cầu chất lượng dịch vụ của du khách chẳng hạn như việc xác định thể nào là tiêu chuẩn khách sạn 2 sao, 3 sao… Công ty cũng chưa có sự giải thích cụ thể nên khách hàng không biết là mình có được hưởng những dịch vụ tương ứng với số tiền mà mình bỏ ra hay không. Chính vì vậy trong hợp đồng cần phải có những điều khoản rõ ràng hơn về tiêu chuẩn chất lượng phục vụ du khách.
  • Hợp đồng đa số được thanh toán bằng tiền mặt nên gây thất thoát rất nhiều cho ngân sách của Công ty và cũng tạo điều kiện cho những người đại diện tham gia ký kết hợp đồng mắc ngoặc với nhau để tham ô công quỹ của Công ty mình. Để khấưc phục tình trạng trên thì biện pháp an toàn nhất là hợp đồng nên đưa vào đó điều khoản về thanh toán là phải thanh toán bằng chuyển khoản, qua đó cũng nhằm ổn định tình hình thị trường tiền tệ đang trong giai đoạn lạm phát quá cao do lượng tiền mặt lưu thông quá lớn trong nền kinh tế.

Thống nhất, thực hiện nhất quán nguyên tắc ký kết, thực hiện hợp đồng du lịch tại Công ty. Ban giám đốc chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, đôn đốc các phòng ban hữu quan nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng. Các phòng ban có sự phối hợp thực hiện nhằm bảo đảm thực hiện đúng hợp đồng để tạo uy tín với khách du lịch, mở rộng tiềm năng cho việc xây dựng hợp đồng cho tương lại.

Nguyên tắc ký kết thực hiện hợp đồng du lịch cần phải được cụ thể hoá dựa trên tinh thần của pháp luật

1.2.2. Một số kiến nghị đối với cơ quan ban hành pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch. Báo cáo:Pháp luật và ký kết hợp đồng tại công ty 

Do tính chất đặc thù của hợp đồng dịch vụ du lịch như đã nói trong phần đầu. Hiện nay hành lang pháp lý đối với hợp đồng dịch vụ nói chung và hợp đồng dịch vụ du lịch nói riêng còn thiếu và yếu về nhiều mặt.

Đa số các quy định về hợp đồng dịch vụ đều là những quy định chiếu theo Bộ luật dân sự 2005 mà chưa có những quy định cụ thể. Trong Bộ luật dân sự 2005 tuy đã có những quy định về hợp đồng dịch vụ nhưng đối với ngành dịch vụ đặc thù như dịch vụ du lịch thì còn chưa có quy định cụ thể mà. Nên vấn đề đặt ra là cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng dịch vụ nói chung và hợp đồng dịch vụ du lịch nói riêng để tạo ra cơ sở pháp lý cho việc giao kết thực hiện hợp đồng cho các bên trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng. Hiện nay Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế tuy đã hết hiệu lực nhưng nó vẫn có ảnh hưởng rất lớn đối với tâm lý của các bên trong quá trình ký kết hợp đồng vì từ trước tới giờ họ vẫn có thói quen áp dụng pháp lệnh hợp đồng kinh tế để giải quyết các quan hệ hợp đồng. Cùng với sự ra đời của Bộ luật dân sự 2005 góp phần hoàn thiện đáng kể pháp luật về hợp đồng, đồng thời chính thức chấm dứt hiệu lực của pháp lệnh hợp đồng kinh tế.

Để nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành du lịch thì Nhà nước cũng đưa ra một số chính sách vĩ mô nhằm phát triển ngành du lịch trong nước, thu hút được du khách nước ngoài, đồng thời tăng thu ngân sách trong ngành kinh tế du lịch.Vấn đề đặt ra hiện nay là :

a) Kiện toàn và đổi mới tổ chức, cơ chế quản lý.

Để thực hiện thành công chiến lược phát triển du lịch giai đoạn 2001-2010 cần kiện toàn bộ máy và cơ chế quản lý tương ứng chức năng nhiệm vụ một số ngành kinh tế mũi nhọn và yêu cầu của sự phát triển trong xu thế hội nhập quốc tế. Đổi mới phương pháp quản lý tạo điều kiện cho kinh doanh du lịch phát triển theo pháp luật. Các nhiệm vụ chủ yếu đặt ra như:

  • Kiện toàn quản lý nhà nước về dịch vụ. Báo cáo:Pháp luật và ký kết hợp đồng tại công ty 
  • Sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước, hình thành các Công ty hoặc tổng Công ty mạnh, tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong hoạt động du lịch. Đa dạng hóa sở hữu. Thành lập hiệp hội du lịch Việt Nam.
  • Gắn mô hình đổi mới quản lý với tính hiệu quả, đồng bộ và bảo đảm ổn định, anh ninh, an toàn trong hoạt động của ngành và với nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc gia trật tự an toàn xã hội.
  • Từng bước hoàn thiện pháp luật về du lịch.
  • Đẩy mạnh cải cách hành chính, phân cấp và đơn giản hóa các thủ tục liên quan đến khách du lịch và doanh nghiệp kinh doanh du lịch.

b) Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách.

Chính sách tài chính.

Có chính sách ưu tiên thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm cho dịch vụ du lịch mà trong nước chưa sản xuất được. Xây dựng các vùng trọng điểm du lịch

Chính sách đầu tư.

Đầu tư hợp lý phát triển hạ tầng tại các vùng du lịch trọng điểm, cũng như các địa điểm du lịch quốc gia. từng bước có chính sách thuận lợi cho việc đầu tư vốn của các doanh nghiệp du lịch.

Chính sách xuất nhập cảnh hải quan.

Đơn giản hóa thủ tục xuất nhập cảnh, quá cảnh đối với người và hành lý của khách du lịch phù hợp với pháp luật trong nước và thông lệ quốc tế.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng dịch vụ và hợp đồng dịch vụ du lịch nói riêng.

Hiện nay hành lang pháp lý cho hoạt động du lịch còn chưa được đầy đủ rõ ràng, vì vậy vấn đề đặt ra đối với cơ quan ban hành pháp luật là phải không ngừng hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật nhàm điều chỉnh các quan hệ hợp đồng vè du lịch.

Hiện nay, trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng thì hợp đồng có vai trò càng quan trọng hơn trong bất cứ giao dịch kinh tế nào, nên Nhà nước cần phải có những văn bản để quy định mang tính hướng dẫn cho hành vi của các chủ thể trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng. Báo cáo:Pháp luật và ký kết hợp đồng tại công ty 

  • Pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch cần phải nêu rõ đối tượng của hợp đồng, mục đích mà các bên tham gia muốn hướng tới. Các bên có thể cùng nhằm mục đích lợi nhuận, hoặc chỉ có một bên nhằm mục đích lợi nhuận còn bên kia là muốn thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt. Tùy vào mục đích của các chủ thể mà lựa chọn áp dụng pháp luật sao cho phù hợp
  • Quy định đầy đủ về chủ thể ký kết hợp đồng, để tránh tình trạng người tham gia ký kết hợp đồng lại không có đủ thẩm quyền ký kết, nên nếu người ký hợp đồng là người đại diện theo uỷ quyền thì phải có giấy ủy quyền có giấy xác nhận.
  • Hình thức của hợp đồng cũng phải được pháp luật quy định cụ thể, để ránh tình trạng các bên tùy tiện trong việc giao kết và Nhà nước khó kiểm soát, gây ra tình trạng hỗn loạn trong nền kinh tế vì có quá nhiều các giao dịch ngầm.
  • Các văn bản pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch cũng phải giải thích rõ thế nào là đại diện hợp pháp, đại diện theo ủy quyền, đai diện đương nhiên, để hạn chế sự mập mờ của các chủ thể khi giao kết hợp đồng và ký hợp đồng vượt ra ngoài phạm vi thẩm quyền.
  • Quy định các trường hợp hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu và các điều khoản bồi thường hợp đồng, nhằm tránh tình trạng các bên vi phạm hợp đồng mà không có lý do chính đáng. Quy định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người ủy quyền và người được ủy quyền. Hiện nay pháp luật còn quy định rất sơ sài về vấn đề này “Có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác ký hợp đồng kinh tế… người được ủy quyền chỉ được ký kết hợp đồng trong phạm vi ủy quyền và không được ủy quyền. Giai đoạn hiện nay cần phải xây dựng nội dung hợp đồng dịch vụ nói chung và hợp đồng dịch vụ du lịch nói riêng đầy đủ chặt chẽ hơn. Cơ quan ban hành pháp luật cần phải đưa vào hợp đồng những nội dung chủ yếu và bắt buộc các bên phải thảo thuận đưa vào nội dung hợp đồng. Khi soạn thảo nội dung hợp đồng cần phải đưa vào đó những nội dung về giá cả hợp đồng, chất lượng phục vụ, bảo hiểm hành khách, phạt hợp đồng, cùng những điều khoản về trường hợp bất khả kháng…

Như vậy để cho việc giáo kết hợp đồng dịch vụ du lịch được đơn giản và bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, lợi ích Nhà nước, và lợi ích của toàn xã hội thì hành lang pháp lý về hợp đồng dịch vụ du lịch cần phải hết sức rõ ràng cụ thể nhưng vẫn phải đảm bảo hướng mở để cho các bên tự do thể hiện ý chí đồng thời đưa vào hợp đồng những nội dung đặc thù cho từng loại đối tượng khách hàng.

Pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch ngoài việc không được trái với đường lối chính sách của Nhà nước còn phải phù hợp với thông lệ quốc tế vì hiện nay nước ta đã hội nhập WTO, các quan hệ giao lưu kinh tế ngày càng được mở rộng.

1.2.3. Một số kiến nghị với các ngành chức năng. Báo cáo:Pháp luật và ký kết hợp đồng tại công ty 

Đối với các ngành chức năng hoạt động trong lĩnh vực du lịch thì cơ quan quản lý chủ yếu là Tổng cục du lịch Việt Nam, cần phải có những chiến lược cụ thể để phát triển ngành du lịch trong nước. Hoàn thiện các văn bản pháp lý để điều chỉnh việc ký kết hợp đồng du lịch. Đầu tư kinh phí nhăn\mf phát triển các khu du lịch tạo điều kiện cho các Công ty lữ hành hoạt động hiệu quả. Tổng cục du lịch cần đệ trình Chính phủ các dự thảo văn bản nhằm phát triển ngành của mình và thông qua các kỳ họp Quốc hội thảo luận thông qua. Hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật về du lịch bằng cách cụ thể hóa các văn bản đã có để đưa vào thực tế các chủ thể của hợp đồng du lịch đơn giản trong việc áp dụng.

KẾT LUẬN

Kể từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự định hướng của Nhà nước thì nền kinh tế nước ta tăng trưởng không ngừng và ngày càng ổn định, đời sống người dân được nâng cao, phúc lợi xã hội được trú trọng phát triển. Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế phát triển, kéo theo hệ thống pháp luật Việt Nam trong đó pháp luật về kinh tế có nhiều thay đổi được hoàn thiện hơn tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi và tin cậy trong hoạt động kinh doanh.

Trong điều kiện hiện nay sản xuất hàng hoá để lại nhiều vấn đề bất cập về môi trường và ổn định xã hội thì kinh doanh dịch vụ là ngành công nghiệp không khói đem lại nguồn thu lớn cho thu nhập quốc dân. Trong khi chất lượng đời sống của người dân được nâng cao thì thì nhu cầu về du lịch và giải trí ngày càng tăng. Dịch vụ du lịch đem lại nguồn thu rất lớn góp phần ổn định an ninh kinh tế trong nước, đồng thời quảng bá hình ảnh đất nước trên trường quốc tế. Chính vì hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch có vai trò lớn như vậy nên cần thiết phải có một hành lang pháp lý cho hoạt động này. Hiện nay việc hoàn thiện quy định của pháp luật về hợp đồng du lịch là một yêu cầu cấp thiết và trở thành vấn đề cần được quan tâm thích đáng.

Xuất phát từ vấn đề đó đề tài đã đi sâu nghiên cứu những vấn đề pháp lý về chế độ ký kết và thực hiện hợp đồng du lịch, chúng ta có thể nhận thấy vai trò, vị trí của hợp đồng du lịch với sự nghiệp đổi mới nền kinh tế thị trường của nước ta.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về hợp đồng du lịch và thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thăng Long GTC chúng ta thấy được vai trò, vị trí của hoạt động du lịch,cũng như những hạn chế, bất cập và đưa vào đó một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về hợp đồng du lịch.

Trên cơ sở học tập và thực tế tại đơn vị thực tập khoá luận tốt nghiệp này cho ta cái nhìn tổng quan nhất liên quan đến “ pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch và thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH Nhà nước một thành viên

Thăng Long GTC” và sự cần thiết phải nghiên cứu pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch. Do thời gian nghiên cứu ít, trình độ nhận thức còn hạn chế nên khoá luận tốt nghiệp của tôi còn nhiều thiếu sót nên rất mong nhận được sự đóng góp kiến và nhận xét của các thầy cô trong khoa Luật kinh tế và hội đồng thẩm định để khoá luận được hoàn thiện hơn về nội dung và hình thức. Báo cáo:Pháp luật và ký kết hợp đồng tại công ty 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464