Chia sẻ cho các bạn sinh viên ngành luật bài Tiểu luận: Luật trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp. Theo mình biết hiện nay có rất nhiều bạn sinh viên đang có một vấn đề chung là gặp khó khăn trong khi viết bài: luận văn, khóa luận, báo cáo, tiểu luận. Biết được điều đó nên mình đã ở đây để trợ giúp các bạn những bài tiểu luận hay nhất. Hãy liên hệ với mình khi các bạn chưa lên được ý tưởng cho bài làm của mình nhé.
LỜI MỞ ĐẦU
Song song với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam, nhu cầu xác lập giao dịch dân sự theo đó ngày càng gia tăng. Hệ quả tất yếu là tranh chấp, xung đột lợi ích giữa các bên trong quan hệ dân sự cũng tăng theo. Nhu cầu giải quyết tranh chấp giữa các bên ngày 1 lớn, như chúng ta đã biết, tranh chấp có thể được giải quyết thông qua 4 phương thức: Thương lượng, Hòa giải, Trọng tài và Tòa án. Thương lượng và hòa giải ít phổ biến vì nó phụ thuộc nhiều vào ý chi chủ quan của các bên. Khi mâu thẫn gay gắt, xung đột lợi ích càng lớn thì sẽ càng khó thông nhất ý chí giữa các bên. Do lẽ đó, các bên thường tìm tới phương thức giải quyết mang tính phán quyết, bắt buộc các bên thi hành như là Trọng tài và Tòa án. Vì cả 2 phương thức giải quyết tranh chấp đều mang tính chất phán quyết, vì vậy vấn đề đặt ra là phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của mỗi phương thức. Cụ thể những tranh chấp nào sẽ được giải quyết bằng Trọng tài? Những tranh chấp nào sẽ được giải quyết bằng Tòa án? Bài tiểu luận này sẽ phân tích, bình luận cụ thể những tranh chấp nào sẽ được giải quyết bằng Trọng tài trên cơ sở pháp luật Việt Nam.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
I. Nội dung qui định pháp luật Tiểu luận: Luật trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp
Như đã phân tích ở trên, do phát sinh nhu cầu phân định thẩm quyền của Trọng tài và Tòa án dẫn tới sự ra đời của Điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010 về các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải của trọng tài như sau:
Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.
Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
Về phân định thẩm quyền giữa Tòa án và Trọng tài ở Điều 2 Luật trọng tài 2010 được hướng dẫn thi hành cụ thể tại Điều 2 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP:
- Trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp quy định tại Điều 2 Luật TTTM nếu các bên có thoả thuận trọng tài quy định tại Điều 5 và Điều 16 Luật TTTM, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này. Tiểu luận: Luật trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp
- Khi có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực quy định tại Điều 2 Luật TTTM thì Tòa án yêu cầu một hoặc các bên cho biết tranh chấp đó các bên có thoả thuận trọng tài hay không. Tòa án phải kiểm tra, xem xét các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện để xác định vụ tranh chấp đó có thuộc trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này hay không. Tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý như sau:
- a) Trường hợp tranh chấp không có thoả thuận trọng tài hoặc đã có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định, phán quyết có hiệu lực pháp luật của Trọng tài xác định vụ tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài thì Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.
- b) Trường hợp tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài không thuộc trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này thì Tòa án căn cứ quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011 (sau đây gọi tắt là BLTTDS) để trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
Trường hợp sau khi thụ lý vụ án Tòa án mới phát hiện vụ tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài không thuộc trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này thì Tòa án căn cứ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
- Trường hợp đã có yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp và Hội đồng trọng tài đang giải quyết vụ tranh chấp thì dù Tòa án nhận thấy tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Trọng tài, không có thỏa thuận trọng tài hoặc tuy đã có thoả thuận trọng tài nhưng thuộc trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này mà người khởi kiện có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, trường hợp Tòa án đã thụ lý thì ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, trừ trường hợp Tòa án thụ lý vụ tranh chấp trước khi có yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp. Sau khi có quyết định, phán quyết của Hội đồng trọng tài quy định tại các điều 43, 58, 59 và 61 Luật TTTM mà người khởi kiện có yêu cầu Tòa án giải quyết, thì Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
- Tranh chấp có thỏa thuận trọng tài nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác:
- a) Có quyết định của Tòa án huỷ phán quyết trọng tài, hủy quyết định của Hội đồng trọng tài về việc công nhận sự thỏa thuận của các bên;
- Có quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài, Trung tâm trọng tài quy định tại khoản 1 Điều 43 các điểm a, b, d và đ khoản 1 Điều 59 Luật TTTM; Tiểu luận: Luật trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp
- Tranh chấp thuộc trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 4 Nghị quyết này.
- Trường hợp các bên vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Tòa án mà các bên không có thỏa thuận lại hoặc thỏa thuận mới về cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này mà phát sinh tranh chấp thì xử lý như sau:
- Trường hợp người khởi kiện yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp trước khi yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hoặc yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp khi Tòa án chưa thụ lý vụ án quy định tại điểm b khoản 4 Điều này thì Tòa án căn cứ quy định tại Điều 6 Luật TTTM để từ chối thụ lý, giải quyết. Trong trường hợp này, khi nhận được đơn khởi kiện Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện, nếu đã thụ lý vụ án thì căn cứ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án vì không thuộc thẩm quyền của Tòa án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện.
- Trường hợp người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, thì ngay sau khi nhận được đơn khởi kiện, Tòa án phải xác định một trong các bên đã yêu cầu Trọng tài giải quyết hay chưa.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện mà Tòa án xác định người bị kiện, người khởi kiện đã yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, trường hợp người bị kiện, người khởi kiện chưa yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp thì Tòa án xem xét thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.
Trường hợp Tòa án đã thụ lý vụ án mà phát hiện tranh chấp đã có yêu cầu Trọng tài giải quyết trước thời điểm Tòa án thụ lý vụ án thì Tòa án căn cứ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án vì không thuộc thẩm quyền của Tòa án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện.
II. Phân tích nội dung qui định pháp luật Tiểu luận: Luật trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp
Về quy định ở Khoản 1 Điều 2 Luật trọng tài 2010, đây là qui định về điều kiện các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, phụ thuộc vào tính chất của tranh chấp phát sinh là từ hoạt động thương mại, đây là sự kế thừa của Luật trọng tài thương mại 2010 đối với Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. Tuy nhiên, đây là điều khoản gây tranh cãi khá nhiều. Lý do phát sinh từ khái niệm hoạt động thương mại có thể hiểu theo 2 nghĩa rộng và hẹp. Hoạt động thương mại thương mại theo nghĩa rộng được hiểu là tất cả các hoạt động phát sinh nhằm mục đích sinh lời tức là phạm vi của nó rất rộng. Tuy nhiên, hoạt động thương mại theo nghĩa hẹp được định nghĩa luật nội dung tức Luật thương mại 2005 là chỉ các hoạt động được phát sinh giữa các thương nhân tức các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh (Khoản 1 Điều 6 Luật thương mại 2005). Từ đây, sẽ phát sinh 2 luồng quan điểm trái ngược trong các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài phát sinh từ tinh chất tranh chấp như đã phân tích ở trẻn.
Nắm bắt được bất cập ở Khoản 1, Khoản 2 qui định 1 cách khái quát, rõ ràng hơn về điều kiện các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, ở đây là điều kiện về chủ thể, chỉ cần ít nhất 1 bên trong tranh chấp có hoạt động thương mại thì tranh chấp đó có thể giải quyết bằng trọng tài. Mà theo luật nội dung (Luật thương mại 2005), hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác (Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005). Tóm lại, chỉ cần ít nhất 1 bên có hoạt động nhằm mục đích sinh lời thì tranh chấp đó có thể giải quyết bằng trọng tài => Giaỉ quyết được tranh cãi phát sinh từ Khoản 1. Tuy nhiên, cũng có vài lĩnh vực đặc biệt theo dân sự nghĩa hẹp như hôn nhân – gia đình, thừa kế, lao động tuy có thể có 1 bên hoạt động thương mại nhưng vẫn bắt buộc phải giải quyết bằng Tòa án.
Khoản 3 là 1 điều khoản mở để phù hợp với các ngành luật khác. Có những tranh chấp không thuộc 2 khoản trên nhưng theo qui định của luật chuyên ngành thì phải quyết bằng trọng tài. Ví dụ, trong Điều 30, 38 Luật bảo vệ người tiêu dùng và Điều 17 Luật trọng tài thương mại 2010 thì người tiêu dùng có quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp.
III. Thực tiễn áp dụng: Tiểu luận: Luật trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp
Trong thời đại nền kinh tế ngày một phát triển hoạt động thương mại diễn ra phổ biến mỗi ngày. Tuy nhiên không phải lúc nào việc giao kết hợp đồng cũng diễn ra suôn sẻ, mà nó luôn tiềm ẩn những tranh chấp do vi phạm hợp đồng hoặc một số lý do khác. Vậy khi tranh chấp xảy ra sẽ xử lý như thế nào, đó là lựa chọn của các bên doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng. Trong trường hợp thương lượng hoặc hòa giải không thành công tranh chấp kinh tế có thể giải quyết bằng một trong hai con đường là họ có thể chọn Tòa án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để giải quyết tranh chấp mà cũng có thể nộp đơn khởi kiện lên giải quyết bằng trọng tài theo quy định Luật trọng tài thương mại 2010. Vậy việc giải quyết tranh chấp trọng tài diễn ra như thế nào và thực trạng các vụ việc được giải quyết bằng trọng tài ở Việt Nam có những điểm gì nổi bật sau đây chúng ta cùng đi tìm hiểu.
Thực chất việc dùng trọng tài để giải quyết tranh chấp không còn xa lạ đối với các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên các doanh nghiệp ở Việt Nam vẫn còn dè dặt khi phải chọn giải quyết tranh chấp tại trọng tài và khi các vụ tranh chấp xảy ra các bên thường khởi kiện tại Tòa án. Có thể nói mặc dù phương thức trọng tài đã xuất hiện từ rất lâu, nhưng ở Việt Nam thì mới xuất hiện nổi bật 10 năm trở lại đây, do đó các cách thức hoạt động cũng như các quy định tại trung tâm trọng tài chưa đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp. Theo thống kê thì tại Việt Nam hiện có khoảng 15 Trung tâm trọng tài thương mại[1], nhưng phần lớn các vụ việc tranh chấp xảy ra được giải quyết tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam có tên viết tắt là VIAC. Điển hình là số liệu báo cáo thường niên năm 2018 của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC)[2], cho biết năm 2018 vừa qua, tổ chức này đã giải quyết 180 vụ tranh chấp thương mại với tổng trị giá 9.400 tỷ đồng – mức cao nhất trong 25 năm qua kể từ khi được thành lập theo Quyết định 204/TTg ngày 28/4/1993 của Thủ tướng Chính phủ với tính chất tranh chấp là 51% quốc tế và 49% trong nước trải dài ở các lĩnh vực như mua bán hàng hóa, hợp tác kinh doanh, bất động sản, bảo hiểm, xây dựng, dịch vụ. Từ số liệu trên có thể thấy tín hiệu hết sức khả quan của phương thức giải quyết bằng trọng tài nhưng đồng thời cho thấy tình trạng có rất nhiều các Trung tâm trọng tài, nhưng các vụ việc chỉ tập trung giải quyết ở một trung tâm trọng tài nhất định, điều này đặt ra bài toán khó để có thể cải thiện lòng tin của các doanh nghiệp đối với phương thức trọng tài nói chung và các trung tâm trọng tài nói riêng.
Bên cạnh đó kiến thức pháp luật của bản thân các doanh nghiệp hiện nay chưa cao, nhiều doanh nghiệp chính bản thân họ cũng chưa biết được Luật trọng tài thương mại có tồn tại hay không chính vì vậy mà đa số các vụ việc tranh chấp thương mại xảy ra họ đều nghĩ đến biện pháp khởi kiện tại Tòa án do các quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự có đề cập đến thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến kinh tế thương mại. Cộng thêm việc Luật trọng tài đã ban hành từ năm 2010 và cách nay đã hơn mười năm chính vì vậy một vài các điều luật khi áp dụng đã không còn phù hợp nữa bộc lộ ra rất nhiều nhược điểm. Cách nhìn về luật chưa thực sự rõ ràng, các điều luật quy định cũng chồng chéo lên nhau khiến các tổ chức, doanh nghiệp cá nhân họ không tin tưởng để giải quyết trọng tài vì có thể những quy định không rõ ràng ấy có thể gây bất lợi cho họ. Tiểu luận: Luật trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp
Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của trọng tài theo Điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010 chỉ đề cập rằng các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại, giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại hoặc tranh chấp giữa các bên mà pháp luật quy định giải quyết bằng trọng tài. Quy định này rất chung khiến cho những người không am hiểu về luật trọng tài thương mại có thể hiểu sai về thẩm quyền giải quyết chỉ gói gọn trong các tranh chấp về hoạt động thương mại như các hoạt động mua bán và không biết được tranh chấp khác mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài là những tranh chấp gì. Thực tế, các tranh chấp về sở hữu trí tuệ không phải tranh chấp về thương mại mà có thể giải quyết bằng trọng tài nếu luật quy định với một số ngoại lệ và hạn chế nhất định vì hầu hết các tranh chấp sở hữu trí tuệ là các bằng sáng chế, nhãn hiệu, bí mật thương mại, bản quyền[3], … hay điểm b Khoản 8 Điều 146 Luật Xây dựng 2014 sửa đổi bổ sung năm 2020 cho phép các bên có thể đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài “Các bên hợp đồng có trách nhiệm tự thương lượng giải quyết tranh chấp. Trường hợp các bên hợp đồng không tự thương lượng được thì tranh chấp được giải quyết thông qua hòa giải, trọng tài thương mại hoặc tòa án theo quy định của pháp luật.” Những tranh chấp này có thể liên quan đến bản chất quốc tế, một số bản án áp dụng luật nước ngoài nên việc lựa chọn giải quyết tranh chấp tại trọng tài hợp lý hơn bao giờ hết. Chính vì vậy nên nếu như không am hiểu thì có thể sẽ không biết vụ tranh chấp liên quan đến xây dựng hay sở hữu trí tuệ có thể giải quyết bằng trọng tài tại các trung tâm trọng tài hay trọng tài vụ việc thay cho việc khởi kiện tại Tòa án vừa có thể tiết kiệm được thời gian xét xử và vừa có các trọng tài viên am hiểu kiến thức kỹ thuật và chuyên môn trong lĩnh vực nhất định.
IV. Bất cập Tiểu luận: Luật trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp
Theo khoản 2 Điều 2 Luật Trọng tài thương mại, trọng tài có thẩm quyền giải quyết “tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại”. Qui định này chỉ tập trung vào chủ thể tranh chấp chứ không hề đề cập đến bản chất của tranh chấp. Nói cách khác, qui định như vậy có thể dẫn đến cách hiểu là chỉ cần một bên tranh chấp có hoạt động thương mại thì bất kỳ tranh chấp nào mà họ là một bên đều có thể được giải quyết bằng phương thức trọng tài. Chẳng hạn, trong tranh chấp về nhà ở, một bên có đầu tư phát triển nhà thương mại thì đây là tranh chấp có ít nhất một bên có hoạt động thương mại và có thể được giải quyết bằng phương thức trọng tài. Quy định tập trung vào chủ thể của tranh chấp như vậy sẽ dẫn đến hệ quả phức tạp trong việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài hoặc Tòa án. Chẳng hạn, trong trường hợp A là một thương nhân (là chủ thể có hoạt động thương mại) muốn ly hôn với B thì xét từ góc độ chủ thể, tranh chấp này cũng thuộc qui định trên, nhưng về bản chất tranh chấp thì trọng tài Việt Nam chưa có thẩm quyền để giải quyết.
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có nhiều ưu điểm so với các hình thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án, hòa giải và thương lượng. Tuy nhiên hình thức này chưa phải là hoàn hảo, bên cạnh những ưu điểm của mình thì trọng tài vẫn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập điển hình như bản chất trọng tài Việt Nam có những hạn chế nhất định như đối với các tranh chấp thương mại rất nhỏ về mặt giá trị, thì hiệu quả kinh tế các bên sẽ phải suy nghĩ lại trước khi giải quyết tranh chấp tại trọng tài vì chí phí để giải quyết tại trọng tài sẽ cao hơn so với Tòa án theo án phí của Tòa.
Các tranh chấp thương mại thường là các tranh chấp liên quan đến bí mật kinh doanh hay ảnh hưởng trực tiếp đến danh tiếng, uy tín của các doanh nghiệp, vì vậy mà thủ tục tố tụng của trọng tài thương mại phải tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc bảo mật khiến cho các trọng tài viên không thể tìm hiểu kinh nghiệm qua các vụ kiện trọng tài khác mà mình không được tham gia, đặc biệt là đối với các trọng tài viên mới vào ngành rất khó có được kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề tương tự một cách chính xác.
Thủ tục tố tụng khi giải quyết các tranh chấp từ khi bắt đầu cũng có một số nhược điểm đáng kể như việc gửi thông báo cho các bên theo khoản 3 Điều 12 Luật trọng tài thương mại 2010 như việc gửi thông báo, tài liệu sẽ được gửi đến đúng địa chỉ mà các bên thông báo tuy nhiên sẽ có các trường hợp khi khởi kiện các bên ở đúng địa chỉ đã thông báo nhưng sau đó lại chuyển đi nơi khác khiến các thông báo cũng như tài liệu được gửi đến sẽ không nhận được, đây là một điểm trừ đối với các bên giải quyết tranh chấp tại trọng tài vì khi họ không nhận được thông báo sẽ mất đi quyền lợi cộng thêm việc các Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài khi gửi đi không cần biết các bên đã nhận được hay chưa chỉ cần giao đến đúng địa chỉ đã thông báo thì đều tính là đã nhận được theo khoản 5 Điều 12 Luật trọng tài thương mại 2010. Điều này không giống với khi giải quyết các vụ việc tại Tòa án vì khi tòa án gửi giấy triệu tập hay bất kỳ tài liệu khác nếu các bên không thực ở tại địa chỉ đó họ sẽ niêm yết tại địa phương. Tiểu luận: Luật trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp
Để có thể được hoãn phiên họp giải quyết tranh chấp khi có lý do chính đáng. Tuy nhiên trong luật thương mại thì lại không quy định rõ ràng như thế nào là lý do chính đáng và lý do chính đáng đó phải được sự chấp nhận của trọng tài theo Điều 57 Luật trọng tài thương mại 2010, đây là một vướng mắc rất lớn vì lý do chính đáng để được hoãn phiên tòa đều phụ thuộc sự chấp nhận của Hội đồng trọng tài chẳng hạn như đại diện bị đơn đột nhiên bị bệnh bên phía bị đơn sẽ cho rằng phiên Tòa được hoãn nhưng Hội đồng trọng tài có thể cho rằng đây không phải là lý do chính đáng để có thể hoãn phiên tòa, gây bất lợi về quyền, đặc biệt là mất quyền phản đối nếu một bên không tham gia tố tụng trọng tài theo theo Điều 13 Luật trọng tài thương mại 2010.
Ngoài ra trọng tài chỉ xét xử một lần, phán quyết của Trọng tài có giá trị chung thẩm đây là một nguyên tắc cơ bản của trọng tài, điều này làm tăng hiệu lực cho phán quyết trọng tài. Trong khi đó, đối với việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án lại được thực hiện theo nguyên tắc hai cấp xét xử nên phán quyết của Tòa án có nhiều cơ hội để xem xét lại theo thủ tục Tái thẩm hoặc giám đốc thẩm. Nếu phán quyết của trọng tài có sai sót về mặt nội dung, không đảm bảo giải quyết quyền và nghĩa vụ của các bên thì cũng không có cơ hội sửa chữa, thay đổi cũng như hủy bỏ. Các bên không có quyền yêu cầu Tòa án cũng như bất kì cơ quan nào xem xét lại quyết định trọng tài.
Phán quyết chỉ mất giá trị khi bị Tòa án tuyên hủy quyết định trọng tài nếu HĐTT ra quyết định trọng tài đã vi phạm các quy định về tố tụng theo Điều 44 Luật trọng tài thương mại 2010. Đây có thể coi là một rủi ro của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Bên cạnh đó, phán quyết trọng tài lại do cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết chứ không phải trọng tài theo khoản 1 Điều 8 Luật trọng tài thương mại 2010.
V. Kinh nghiệm nước ngoài Tiểu luận: Luật trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp
Trong lĩnh vực trọng tài nói chung, chưa nói đến việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài, căn cứ liên hệ kinh nghiệm nước ngoài tại Quyển số IV của Bộ luật Tố tụng dân sự của Pháp có tựa đề rất ngắn gọn là “Trọng tài”. Liên quan đến thẩm quyền của trọng tài, từ Điều 2059 đến Điều 2061 Bộ luật Dân sự của Pháp; trong đó đáng chú ý là Điều 2059 quy định rằng, các chủ thể có thể thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đối với lĩnh vực mà các bên có quyền tự do định đoạt. Điều 2060 của Bộ luật này quy định, những trường hợp không được thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài bao gồm những vấn đề liên quan đến lý lịch, năng lực của các chủ thể, những vấn đề liên quan đến ly hôn, ly thân, những tranh chấp liên quan đến chủ thể công và một cách chung nhất là những vấn đề thuộc về trật tự công cộng trừ những trường hợp mà các chủ thể công trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại được pháp luật cho phép giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.[4] Có thể thấy không giống với pháp luật Việt Nam việc các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự của Pháp có rất nhiều và điểm đặc biệt là có thể thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau và chủ yếu do các bên định đoạt, nó không gói gọn chỉ trong các hoạt động thương mại hoặc liên quan đến thương mại giống như luật Ở Việt Nam. Từ thực tế trên có thể thấy việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở Pháp không được quy định thành một bộ luật riêng mà nó được quy định trong Bộ luật dân sự luôn, còn ở Việt Nam thì có luật quy định riêng tên Trọng tài thương mại 2010.
Ngoài Pháp, chúng ta có thể học tập kinh nghiệm của nước rất gần gũi với Việt Nam là Singapore. Singapore là một trong những nước cũng ban hành Luật mang tên là “Luật trọng tài” (không sử dụng thuật ngữ “thương mại”) và Điều 4 của Luật này cho phép các bên được đưa ra trọng tài giải quyết mọi tranh chấp phát sinh từ hơp đồng và ngoài hợp đồng. [5]Tại Việt Nam có Trung Tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC), các tranh chấp có thể sử giải quyết bằng trọng tài tại SIAC sẽ bao gồm: các tranh chấp trong doanh nghiệp và thương mại, thương mại và đầu tư, xây dựng, kỹ thuật, vận tải biển, hàng hải, bảo hiểm, sở hữu trí tuệ, ngân hàng và tài chính cùng với hàng loạt các tranh chấp khác. Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) có Quy tắc trọng tài (SIAC Rules) dựa trên Luật mẫu do Ủy ban Luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) ban hành và được luật pháp Singapore thừa nhận (Luật trọng tài quốc tế của Singapore). [6]
Tại Anh, cũng chỉ ban hành “Luật Trọng tài 1996” – không có thuật ngữ “thương mại” và khoản 1 Điều 6 Luật này cho phép các bên được thoả thuận giải quyết tranh chấp hợp đồng cũng như tranh chấp ngoài hợp đồng. Theo 1996 Đạo luật trọng tài Anh[7], thỏa thuận trọng tài đề cập đến một thỏa thuận để đưa ra tranh chấp trong tương lai hoặc hiện tại cho trọng tài, trong đó sẽ bằng văn bản hoặc bằng chứng bằng văn bản. Mặc dù các bên được tự do đưa ra một loạt các vấn đề hợp đồng và phi hợp đồng cho trọng tài, nhưng không phải tất cả các tranh chấp có thể được giải quyết bằng một hội đồng trọng tài. Tiểu luận: Luật trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp
Hay hoạt động trọng tài tại Liên bang Nga giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được xem là sự lựa chọn của các bên. Các Trung tâm Trọng tài giải quyết rất nhiều tranh chấp giữa các doanh nghiệp tại Liên bang Nga, kể cả các tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Luật trọng tài của Liên bang Nga được ban hành năm 2002 quy định rằng theo thỏa thuận của các bên, bất kỳ tranh chấp nào phát sinh từ qua hệ pháp luật dân sự, nếu không có quy định khác của pháp luật đều có thể giải quyết bằng trọng tài theo điểm 1 Điều 1 Luật trọng tài 2002 của Nga. Ngoài ra Bộ Luật Dân sự Liên bang Nga Điều 11 có đề cập rằng, bên cạnh Tòa án Nhà nước, trọng tài có thẩm quyền bảo vệ quyền đang bị tranh chấp và bị vi phạm, đảm bảo cho việc giải quyết được tiến hành nhanh chóng. Pháp luật Nga chia trọng tài ra làm hai loại là trọng tài giải quyết các tranh chấp trong nước và trọng tài giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ hợp đồng và các quan hệ khác trong quá trình thực hiện kinh tế đối ngoại và các tranh chấp có sự tham gia của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.[8]
Hoặc lấy một ví dụ khác như Trung Quốc cũng chỉ ban hành “Luật Trọng tài” và tại Điều 2 cho phép các bên thoả thuận giải quyết bằng trọng tài đối với cả tranh chấp ngoài hợp đồng về quyền và lợi ích liên quan đến tài sản của các bên.
VI. KẾT LUẬN
Có thể nói rằng, những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài và cả Tòa án được xác định bởi nhiều yếu tố chính trị – xã hội, văn hóa và pháp lý, bao gồm vấn đề về hiệu quả giải quyết tranh chấp của Tòa án, của trọng tài trong từng thời điểm phát triển của đất nước, mức độ của các hình thức giải quyết tranh chấp mà các bên lựa chọn, khả năng thi hành phán quyết của trọng tài, tập quán pháp lý của công dân, lợi ích của nhà nước trong việc tham gia giải quyết một số loại tranh chấp nhất định,… Ngoài ra, các yếu tố về mặt kinh tế, và mức độ phát triển thương mại của quốc gia. Vì lẽ đó, tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thường xuyên thay đổi theo chiều hướng mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Việc mở rộng phạm vi thẩm quyền tranh chấp sẽ một phần nào đó làm giảm gánh nặng công việc cho Tòa án nên sẽ làm giảm ngân sách chi tiêu cho hoạt động Tòa án. Bên cạnh đó, cần lưu ý rằng việc mở rộng thẩm quyền của trọng tài không chỉ xuất phát từ ý chí chủ quan của người làm luật, mà còn phụ thuộc và điều kiện kinh tế – xã hội và cam kết quốc tế của các quốc gia. Ở các quốc gia khác nhau, chính sách công có thể khác nhau, thậm chí ở ngay chính một quốc gia thì chính sách đó có thể thay đổi theo thời gian. Chính vì vậy ở nước ta rất có thể sau một thời gian thực hiện, dựa trên những kết quả thực tế nhà nước ta sẽ nghiên cứu, tiếp tục hoàn thiện, mở rộng thẩm quyền của trọng tài theo lộ trình phù hợp. Trong quá trình xây dựng các qui định về phạm vi các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài cần xác định 3 mục tiêu chính sau đây: Quyền tự do cá nhân, tổ chức trong việc lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp; Bảo vệ lợi ích của xã hội trong trường hợp trọng tài viên vi phạm pháp luật; Đáp ứng yêu cầu của hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư bằng cách xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp độc lập.
Việc Điều 2 Luật Trọng tài đã mở rộng đáng kể những tranh chấp có thể được giải quyết bằng trọng tài. Sẽ chính xác hơn nếu Luật Trọng tài thương mại VN được gọi là Luật trọng tài. Như vậy sẽ không còn hạn chế thẩm quyền trọng tài chỉ trong lĩnh vực tranh chấp thương mại. Mà lúc đó cả tranh chấp dân sự, thương mại, lao động đều có thể giải quyết bằng trọng tài, nếu các bên có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Tiểu luận: Luật trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp
Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com