Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Chia sẻ cho các bạn sinh viên ngành luật Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến. Hiện nay có rất nhiều bạn sinh viên đang gặp khó khăn trong việc viết các bài: luận văn, khóa luận, báo cáo, tiểu luận, mà chưa biết biết bắt đầu viết từ đâu và viết như nào cho đủ ý. Chính vì vậy nên mình đã ở đây đỡ trợ giúp các bạn khi viết bài, hãy liên hệ với mình khi các bạn cần nhé.

PHẦN MỞ ĐẦU

1 1. Tính cấp thiết của tiểu luận: Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Trong toàn bộ học thuyết của C.Mác thì học thuyết giá trị thặng dư được Lênin đánh giá là “viên đá tảng của học thuyết kinh tế C.Mác”. Điều đó cho chúng ta thấy vai trò ý nghĩa to lớn của học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác. Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác khẳng định rõ cả luận cứ về mặt lý thuyết và luận cứ về mặt thực tế, mang ý nghĩa khoa học sâu sắc, đã giải thích được trọn vẹn nhất, cho phép giải thích được những hạn chế của các nhà kinh tế trước C.Mác.

Chiến lược phát triển kinh tế ở nước ta đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Để thực hiện được mục tiêu đề ra, Đảng và Nhà nước ta cần vận dụng tốt nhiều học thuyết kinh tế trong đó có học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác. Tiểu luận đề tài “Học thuyết giá trị thặng dư và sự cống hiến của C.Mác, liên hệ thực tiễn ở Việt Nam hiện nay” sẽ mang lại ý nghĩa thiết thực về cả phương diện lý luận và giá trị thực tiễn.

2 Mục tiêu nghiên cứu tiểu luận:

Tiểu luận nhằm đạt được các mục tiêu sau đây:

  • Làm sáng tỏ những lý luận cơ bản liên quan đến học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.
  • Liên hệ thực trạng ở Việt Nam liên quan đến học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.

3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

  • Đối tượng nghiên cứu: học thuyết trước C.Mác, học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác, học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.
  • Phạm vi nghiên cứu: tiểu luận có liên hệ đến thực tiễn trong phạm vi ở Việt Nam.

4 Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

  • Tiểu luận đã sử dụng phương pháp mô tả: để mô tả các khái niệm, tính chất đặc điểm của học thuyết giá trị thặng dư.
  • Tiểu luận đã sử dụng phương pháp phân tích: để phân tích các ưu điểm và hạn chế của học thuyết giá trị thặng dư trước C.Mác,phân tích học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.
  • Tiểu luận đã sử dụng phương pháp chuyên gia: tham khảo, thu thập ý kiến của các nhà khoa học, các nhà kinh tế, tham khảo tài liệu sách báo mạng internet…

5 Hạn chế của tiểu luận:

Trong quá trình làm tiểu luận, nhóm tiểu luận cũng gặp phải những khó khăn nhất định: Xuất phát từ nhiều vấn đề thực tiễn ở nước ta liên quan đến đề tài nên một số vấn đề thực tiễn có thể nhóm chưa đề cập đến trong tiểu luận.

6 Kết cấu của tiểu luận:

  • Chương 1: Thuyết giá trị thặng dư
  • Chương 2: Sự cống hiến của C.Mác
  • Chương 3: Ý nghĩa và sự vận dụng thuyết giá trị thặng dư ở Việt Nam hiện nay

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Tiểu Luận Giữa Kỳ

CHƯƠNG 1:  HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

1.1 Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản

1.1.1 Công thức chung của tư bản Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Theo Các Mác thì tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công thức: H – T – H (Hàng – Tiền – Hàng) còn tiền trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thì theo công thức: T – H – T’ (Tiền – Hàng – Tiền).

Trong lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng hành vi bán (H – T tức là Hàng – Tiền) và kết thúc bằng hành vi mua (T – H tức là Tiền – Hàng), ngoài ra điểm xuất phát và điểm kết thúc đều là hàng hóa, tiền chỉ đóng vai trò trung gian. Mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng. Trong khi đó, lưu thông của tư bản bắt đầu bằng hành vi mua (T – H tức Tiền – Hàng) và kết thúc bằng hành vi bán (H – T’ tức Hàng – Tiền’); tiền vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc, còn hàng hóa chỉ đóng vai trò trung gian. Mục đích của lưu thông tư bản là giá trị, và giá trị tăng thêm. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Như vậy thì tư bản phải vận động theo công thức T-H-T’ để có giá trị mới. T’ (tức là Tiền sau một vòng lưu thông sẽ được tính bằng công thức: T’ = T + ΔT, trong đó: ΔT là số tiền trội hơn được gọi là giá trị thặng dư. Còn số tiền ứng ra ban đầu (Tiền ban đầu dùng để mua hàng ở đầu chu trình lưu thông này) với mục đích thu được giá trị thặng dư trở thành tư bản và tiền chỉ biến thành tư bản khi được dùng để mang lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản.

Sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn. Vì vậy sự vận động của tư bản cũng không có giới hạn. Mác gọi công thức T-H-T’ là công thức chung của tư bản, với T’ = T + m

1.1.2 Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản

Tư bản vận động theo công thức T-H-T’ trong đó T’ = T + t.

Trong lưu thông, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá cũng không tạo ra giá trị mới và do đó không tạo ra giá trị thặng dư. Nếu mua – bán ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị từ tiền thành hàng hoặc từ hàng thành tiền. Còn tổng số giá trị trong tay mỗi người tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi. Tiền không lớn lên, do đó giá trị không tăng thêm. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Trong trường hợp trao đổi không ngang giá, hàng hóa có thể bán cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thực của hàng hóa nhưng cũng không làm tăng giá trị thặng dư vì tính chung tổng thể trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất đều vừa là người bán, vừa là người mua. Cái lợi mà họ thu được khi bán sẽ bù lại cái thiệt khi mua hoặc ngược lại. Trong trường hợp có những kẻ chuyên mua rẻ, mua may, bán đắt hay lừa lọc, ép giá, nói thách, nói xạo để được lợi thì chính bản thân người thực hiện hành vi đó được lợi nhưng tổng giá trị toàn xã hội cũng không hề tăng lên, bởi vì số giá trị mà những người này thu được chẳng qua chỉ là sự ăn chặn, đánh cắp số giá trị của người khác. Như vậy trao đổi không ngang giá thì giá trị không tăng thêm Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Xem xét nhân tố tư bản ngoài lưu thông đồng nghĩa với việc không có sự tiếp xúc giữa tiền- hàng. Nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông ví dụ như đem chôn, cất, dấu, tích trữ, tàng trữ, không đầu tư gì cả…. thì cũng không thể làm cho tiền của mình tăng thêm lên được , sẽ không có hiện tượng lãi mẹ đẻ lãi con. Mặt khác nếu hàng không được đưa vào lưu thông nghĩa là hàng sẽ dùng trực tiếp vào sản xuất hoặc tiêu dùng thì cũng không làm tăng giá trị thặng dư được. Cụ thể, khi hàng dùng vào sản xuất thì giá trị của nó sẽ dịch chuyển vào sản phẩm. Còn khi hàng dùng vào tiêu dùng cá nhân thì cả giá trị và giá trị sử dụng cũng mất đi.

Như vậy, cả trong lẫn ngoài lưu thông xét tất cả các nhân tố thì T không tăng thêm.Nhưng nhà tư bản không thể vận động ngoài lưu thông, có nghĩa là nhà tư bản phải tìm thấy trên thị trường mua được một thứ hàng hoá (trong lưu thông ) nhưng nhà tư bản không bán hàng hoá  đó, vì nếu bán cũng   không thu được gì. Nhà tư bản tiêu dùng hàng hoá đó (ngoài lưu thông) tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó – hàng hoá đó là sức lao động. Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư.

Thông qua hàng hóa sức lao động này mà tạo ra sự chuyển hóa trong lưu thông, tạo ra giá trị mới, theo đó công thức T – H – T’ có thể được hiểu là: T là tư bản, là số tiền đầu tư ban đầu, trong đó một phần sẽ đầu tư vào để mua máy móc, nhà xưởng, một phần mua nguyên liệu và một phần thuê nhân công, H chính là hàng hóa sức lao động, thông qua sức lao động của con người sẽ tác động vào máy móc, vật liệu để tạo nên những H (hàng hóa) có giá trị cao hơn so với giá trị ban đầu và nhà tư bản chỉ việc chiếm đoạt H này và bản để thu về T’ (giá trị mới cao hơn và đã bao hàm trong đó là giá trị thặng dư).

Như vậy thì mâu thuẫn của công thức chung là: “Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”.

1.1.3 Hàng hóa sức lao động Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Sức lao động là toàn bộ những năng lực (gồm thể lực và trí lực) tồn tại trong một con người và được người đó sử dụng vào sản xuất. Trong mọi xã hội, sức lao động cũng đều là điều kiện cần thiết để sản xuất, nhưng sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện:

  • Người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao động của mình và chỉ bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất định.
  • Người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình đứng ra tổ chức sản xuất nên muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng.

Sự tồn tại đồng thời 2 điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng hoá. Sức lao động biến thành hàng hoá báo hiệu một giai đoạn mới trong sự phát triển xã hội: giai đoạn sản xuất hàng hoá trở thành phổ biến, đó là sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Hàng hoá sức lao động là nhân tố tách chủ nghĩa tư bản ra khỏi sản xuất hàng hoá giản đơn. Như vậy, sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để chuyển hoá tiền tệ thành tư bản.

Sức lao động là hàng hoá đặc biệt: Sức lao động phải là hàng hoá và giống hàng hoá thông thường khác nhưng có tính đặc biệt.  Trong quan hệ mua bán, chỉ bán quyền sử dụng chứ không bán quyền sở hữu và có thời gian nhất định. Trong mua bán chịu: Giá trị sử dụng thực hiện trước, giá trị thực hiện sau. Vì sức lao động phải bán trong mọi điều kiện – mua bán trong mọi điều kiện để sinh sống. cũng như hàng hóa khác thì hàng hóa sức lao động có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.

Giá trị hàng hoá sức lao động cũng giống như hàng hoá thông thường, lượng giá trị sức lao động cũng được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Nhưng khác hàng hoá thông thường vì sức lao động là năng lực (khả năng) tồn tại trong cơ thể sống của con người, để tái sản xuất ra năng lực đó người công nhân phải tiêu dùng một khối lượng sinh hoạt nhất  định  để thực hiện nhu cầu tái tạo sức lao động. Như vậy lượng giá trị sức lao  động  được  đo lường gián tiếp bằng lượng giá trị sinh hoạt. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Yếu tố cấu thành giá trị sức lao động:

  • Giá trị tư liệu sinh hoạt cho bản thân người công nhân
  • Giá trị tư liệu sinh hoạt cho gia đình anh ta
  • Chi phí đào tạo

Sự vận động của lượng giá trị sức lao động (tăng và giảm): Nhân tố làm tăng là do chí phí đào tạo tăng, do đòi hỏi của cách mạng khoa học kỹ thuật. Nhân tố làm giảm lượng giá trị sức lao động: do giá trị tư liệu sinh hoạt giảm và năng suất lao động của ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt tăng.

Giá trị sức lao động đặc biệt khác hàng hoá thông thường: nó mang yếu tố tinh thần và lịch sử. Con người sống trong những điều kiện kinh tế cụ thể ngoài nhu cầu vật chất còn có nhu cầu tinh thần.

Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động: cũng giống như hàng hoá khác đó là giá trị sử dụng cũng được thể hiện khi tiêu dùng. Nhưng nó khác ở chỗ nhà tư bản tiêu dùng sức lao động của công nhân và bắt công nhân lao động kết hợp với tư liệu sản xuất để tạo ra hàng hoá. Trong quá trình lao động đó người công nhân đã tạo ra một giá trị mới (v + m ). Trong đó có một bộ phận ngang bằng với giá trị sức lao động của người công nhân nhà tư bản dùng để trả lương cho người công nhân đó (đó là v), còn một bộ phận dôi ra ngoài bộ phận sức lao động (m) nhà tư bản chiếm không.

Như vậy, có thể nói rằng giá trị sức lao động khi nhà tư bản tiêu dùng nó tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Hay nói cách khác: Giá trị sử dụng đặc biệt của hàng hoá sức lao động là nguồn gốc của giá trị và giá trị thặng dư.

1.2 Qúa trình sản xuất giá trị thặng dư

1.2.1 Sản xuất giá trị thặng dư Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Giá trị thặng dư được C.Mác xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và số tiền nhà tư bản bỏ ra. Trong quá trình kinh doanh, nhà tư bản bỏ ra tư bản dưới hình thức tư liệu sản xuất gọi là tư bản bất biến và bỏ ra tư bản để thuê mướn lao động gọi là tư bản khả biến. Tuy nhiên, người lao động đã đưa vào hàng hóa một lượng giá trị lớn hơn số tư bản khả biến mà nhà tư bản trả cho người lao động. Phần dư ra đó gọi là giá trị thặng dư. Tức là sản lượng của hàng hóa làm ra có giá trị cao hơn phần tiền mà nhà tư bản trả cho công nhân và mức chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư.

Quá trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động có hai đặc trưng:

  • Công nhân làm việc dưới sự điều khiển của nhà tư bản như là một bộ phận của tư bản và được nhà tư bản sử dụng với hiệu quả cao nhất.
  • Sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của nhà tư bản chứ không phải của công nhân.

Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.

1.2.2  Bản chất của tư bản và sự phân chia tư bản (Tư bản bất biến và tư bản khả biến)

1.2.2.1 Bản chất của tư bản

Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà tư bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế độ tư bản bị xoá bỏ thì tư liệu sản xuất không còn là tư bản nữa.

Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Đó là một định nghĩa rất chung về tư bản, nó bao trùm cả tư bản cổ xưa lẫn tư bản hiện đại. Nhưng sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể định nghĩa chính xác tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê. Như vậy bản chất của tư bản là thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.

1.2.2.2. Tư bản bất biến và tư bản khả biến

 Muốn tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng tư bản ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động, tức là biến tư bản tiền tệ thành các yếu tố của quá trình sản xuất, thành các hình thức tồn tại khác nhau của tư bản sản xuất. Trước hết, xét bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất có nhiều loại, có loại được sử dụng toàn bộ trong quá trình sản xuất, nhưng chỉ hao mòn dần, do đó chuyển dần từng phần giá trị của nó vào sản phẩm như máy móc, thiết bị, nhà xưởng…, có loại khi đưa vào sản xuất thì chuyển toàn bộ giá trị của nó trong một chu kỳ sản xuất như nguyên liệu, nhiên liệu. Song, giá trị của bất kỳ tư liệu sản xuất nào cũng đều do lao động cụ thể của công nhân mà được bảo toàn và di chuyển vào sản phẩm, nên giá trị đó không thể lớn hơn giá trị tư liệu sản xuất đã bị tiêu dùng để sản xuất ra sản phẩm. Cái bị tiêu dùng của tư liệu sản xuất là giá trị sử dụng, kết quả của việc tiêu dùng đó là tạo ra một giá trị sử dụng mới. Giá trị tư liệu sản xuất được bảo toàn dưới dạng giá trị sử dụng mới chứ không phải là được sản xuất ra. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động thể hiện trong hàng hoá đã giúp C.Mác xác định sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến. Sự phân chia đó dựa vào vai trò khác nhau của các bộ phận của tư bản trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư, do đó nó vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.

Tư bản bất biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không thay đổi về lượng trong quá trình sản xuất. Tư bản bất biến gồm máy móc, nhà xưởng, nguyên nhiên vật liệu.  Giá trị của chúng được bảo tồn và chuyển dịch nguyên vẹn vào giá trị sản phẩm.Giá trị tư liệu sản xuất được bảo tồn dưới hình thức giá trị sử dụng mới.

Tư bản khả biến là bộ phận tư bản ứng trước dùng để mua hàng hóa sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng, người công nhân làm thuê đã sáng tạo ra một giá trị mới, lớn hơn giá trị của sức lao động, tức là có sự biến đổi về số lượng. Tư bản khả biến tồn tại dưới hình thức tiền lương.

Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa giúp C.Mác tìm ra chìa khóa để xác định sự khác nhau giữa tư bản khả biến và tư bản bất  biến. Sự phân chia đó vạch rõ nguồn gốc của m, chỉ có bộ phận tư bản khả biến mới tạo ra giá trị thặng dư, còn tư bản bất biến chỉ là điều kiện cần thiết để tiến hành sản xuất. Sự phân chia đó cũng cho thấy vai trò của mỗi bộ phận tư bản trong việc tạo ra giá trị hàng hóa. Giá trị của hàng hóa gồm (c+v+m)Tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để sản xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá trình đó, vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên.

1.2.3 Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Tỷ suất giá trị thặng dư (m’) là tỷ lệ phần trăm giữa số lượng giá trị thặng dư (m) với tư bản khả biến (v) và được tính bằng công thức:

Công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư còn có dạng:

Trong đó:  t là thời gian lao động tất yếu

                  t’ là thời gian lao động thặng dư

Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê.

Khối lượng giá trị thặng dư (M) là số lượng giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được trong một thời gian sản xuất nhất định và được tính bằng công thức: M = m’ . V Trong đó: V là tổng tư bản khả biến được sử dụng trong thời gian trên.

Khối lượng giá trị thặng dư tỷ lệ thuận với cả hai nhân tố m’ và V. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì khối lượng giá trị thặng dư càng tăng vì trình độ bóc lột sức lao động càng tăng.

1.2.4 Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

1.2.4.1 Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động cần thiết không đổi. Việc kéo dài ngày lao động không thể vượt quá giới hạn sinh lý của công nhân (vì họ còn phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khoẻ) nên gặp phải sự phản kháng gay gắt của giai cấp công nhân đòi giảm giờ làm. Theo chủ nghĩa Mác-Lenin thì vì lợi nhuận, khi độ dài ngày lao động không thể kéo dài thêm, nhà tư bản tìm cách tăng cường độ lao động của công nhân. Tăng cường độ lao động về thực chất cũng tương tự như kéo dài ngày lao động. Vì vậy, kéo dài thời gian lao động và tăng cường độ lao động là để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.

Phương pháp này được áp dụng phổ biến trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản khi còn dựa trên lao động thủ công.

Sản xuất m tuyệt đối bằng cách kéo dài thời gian lao động thành 10 giờ trong khi thời gian lao động cần thiết là 6 giờ

Tỷ suất giá trị thặng dư là:  m’ = 4/6*100% = 150%

Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động. Nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao  động do thể chất và tinh thần của người lao  động quyết định, còn giới hạn dưới của ngày lao động là thời gian lao động cần thiết.

Như vậy về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động cần thiết nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động. Độ dài cụ thể của ngày  lao động do cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định. Do cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nên chế độ ngày làm 8 giờ đã được thực hiện ở các nước tư bản chủ nghĩa.

1.2.4.2 Sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao  động cần thiết, kéo dài tương  ứng thời gian lao  động thặng dư trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi.

Ví dụ: Ngày lao động 8 giờ chia thành:

  • Thời gian lao động cần thiết là 4 giờ
  • Thời gian lao động thặng dư là 4 giờ

Tỷ suất giá trị thặng dư là m’= 4/4 *100%= 100%

Sản xuất giá trị thặng dư bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết còn 2 giờ. Thời gian lao động thặng dư là 6 giờ.

 Tỷ suất giá trị thặng dư là m’= 6/2 *100%= 300%

Bằng cách nào để rút ngắn thời gian lao động cần thiết, biết rằng thời gian lao động cần thiết bằng giá trị tạo ra sức lao động, bằng giá trị tư liệu sinh hoạt.  Muốn rút ngắn giá trị lao động cần thiết  hạ thấp giá trị sức lao động, hạ thấp giá trị tư liệu sinh hoạt bằng cách tăng năng suất lao động trong ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt. Khi đã có nền sản xuất công nghiệp thì có sự kết hợp cả hai phương pháp trên.

Giá trị thặng dư siêu ngạch: Là giá trị thặng dư thu được ngoài mức trung bình do tăng năng suất lao động cá biệt, hạ thấp giá trị cá biệt so với giá trị xã hội.

Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối có một cơ sở chung, đó là đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động nên giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ là biến tướng cuả giá trị thặng dư tương  đối. Tuy vậy giữa chúng vẫn có sự khác nhau. Đó là giá trị thặng dư tương đối dựa trên năng suất lao động xã hội còn giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên năng suất lao động cá biệt. Giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ được thay thế bằng giá trị thặng dư tương đối khi trình độ kỹ thuật mới được áp dụng cá biệt trở thành được áp dụng phổ biến. Vì vậy giá trị thặng dư siêu ngạch mang tính chất tạm thời. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. Sự khác nhau giữa chúng còn thể hiện ở chỗ: giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được. Nó biểu hiện sự tiến bộ kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản được áp dụng rộng rãi. Xét về mặt đó thì nó thể hiện quan hệ của giai cấp công nhân và toàn bộ giai cấp các nhà tư bản.

Giá trị thặng dư siêu ngạch là mục đích trực tiếp cạnh tranh mà mỗi nhà tư bản cố gắng đạt được trong cạnh tranh với các nhà tư bản khác. Xét về mặt này, giá trị thặng dư siêu ngạch không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa công nhân làm thuê và nhà tư bản mà còn thể hiện mối quan hệ giữa các nhà tư bản với nhau. Như vậy giá trị thặng dư siêu ngạch là  động lực trực tiếp mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức lao động để tăng năng suất lao động, làm giảm giá trị của hàng hoá. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

1.2.5 Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.

Có thể thấy vì giá trị thặng dư là cội nguồn sinh ra sự giàu có, sung túc vì xuất hiện giá trị mới, nên để duy trì và phát triển sự giàu có, dôi dư này, giai cấp tư sản có xu hướng không ngừng sản xuất ra càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt, sản xuất với quy mô ngày càng lớn hơn trước. Những lợi tức, tiền bạc thu được đều được đưa vào tái đầu tư, tái sản xuất, thuê mua nguyên vật liệu nhà xưởng để vận hành tạo giá trị thặng dư.

Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản vì nó quy định bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, chi phối mọi mặt đời sống kinh tế của xã hội tư bản. Không có sản xuất giá trị thặng dư thì không có chủ nghĩa tư bản. Ở đâu có sản xuất giá trị thặng dư thì ở đó có chủ nghĩa tư bản, ngược lại, ở đâu có chủ nghĩa tư bản thì ở đó có sản xuất giá trị thặng dư. Lênin gọi quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.

Sản xuất nhiều và ngày càng nhiều giá trị thặng dư là mục đích, là động lực thường xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là nhân tố đảm bảo sự tồn tại, thúc đẩy sự vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản đồng thời nó làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc. Quy luật giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản: Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động; mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân.

Quy luật giá trị thặng dư đứng đằng sau cạnh tranh tư bản chủ nghĩa. Với mục đích là thu được ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư, các nhà tư bản cạnh tranh với nhau, tiêu diệt lẫn nhau để có được quy mô giá trị thặng dư lớn hơn, tỉ suất giá trị thặng dư cao hơn.

Để sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản ra sức áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến sản xuất. Từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, nền sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt.

1.3 Tiền công trong chủ nghĩa tư bản

1.3.1 Bản chất kinh tế của tiền công

Công nhân trong xã hội tư bản làm việc cho nhà tư bản một thời gian nhất định thì được nhà tư bản trả cho một số tiền gọi là tiền công. Tiền công được trả theo thời gian lao động, hoặc theo số lượng hàng hóa đã sản xuất được.
Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả của lao động. Sự thật thì tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động, vì lao động không phải là hàng hoá.

Nếu lao động là hàng hoá, thì nó phải có trước, phải được vật hoá trong một hình thức cụ thể nào đó. Tiền đề để cho lao động vật hoá được là phải có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất, thì họ sẽ bán hàng hoá do mình sản xuất ra, chứ không bán “lao động”.

Việc thừa nhận lao động là hàng hoá dẫn tới một trong hai mâu thuẫn về lý luận sau đây: thứ nhất, nếu lao động là hàng hoá và nó được trao đổi ngang giá, thì nhà tư bản không thu được lợi nhuận (giá trị thặng dư); điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế của quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản. Thứ hai, còn nếu “hàng hoá lao động” được trao đổi không ngang giá để có giá trị thặng dư cho nhà tư bản, thì phải phủ nhận quy luật giá trị.

Nếu lao động là hàng hoá, thì hàng hoá đó cũng phải có giá trị. Nhưng lao động là thực thể và là thước đo nội tại của giá trị, bản thân lao động không có giá trị. Vì thế, lao động không phải là hàng hoá, cái mà công nhân bán cho nhà tư bản chính là sức lao động. Do đó tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là giá cả của sức lao động. Vậy bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là giá trị hay giá cả của sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bề ngoài thành giá trị hay giá cả của lao động.

1.3.2 Các hình thức cơ bản của tiền công: Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công mà số lượng của nó ít hay nhiều tuỳ theo thời gian lao động của công nhân (giờ, ngày, tháng) dài hay ngắn. Tiền công ngày hay tháng chưa nói rõ được mức tiền công đó cao hay là thấp, vì còn tuỳ theo ngày lao động dài hay ngắn. Muốn đánh giá mức tiền công không chỉ căn cứ vào tiền công ngày mà còn phải căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cường độ lao động. Giá cả của một giờ lao động là thước đo chính xác mức tiền công tính theo thời gian.

Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà số lượng của nó phụ thuộc vào số lượng sản phẩm hay số lượng những bộ phận của sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra hoặc là số lượng công việc đã hoàn thành. Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức chuyển hoá của tiền công tính theo thời gian. Thực hiện tiền công tính theo sản phẩm, một mặt, giúp cho nhà tư bản trong việc quản lý, giám sát quá trình lao động của công nhân dễ dàng hơn; mặt khác, kích thích công nhân tích cực lao động tạo ra nhiều sản phẩm để nhận được tiền công cao hơn.

1.3.3 Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế. 

Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa tư liệu tiêu dùng và dịch vụ mà người công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình.

Tiền công danh nghĩa là giá cả sức lao động, nên nó có thể tăng lên hay giảm xuống tuỳ theo sự biến động của quan hệ cung – cầu về hàng hoá sức lao động trên thị trường. Nếu tiền công danh nghĩa không thay đổi, nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên hoặc giảm xuống, thì tiền công thực tế sẽ giảm xuống hay tăng lên.

Tiền công là giá cả của sức lao động, nên sự vận động của nó gắn liền với sự biến đổi của giá trị sức lao động. Lượng giá trị sức lao động chịu ảnh hưởng của các nhân tố tác động ngược chiều nhau. Nhân tố tác động làm tăng giá trị sức lao động như sự nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động, sự tăng cường độ lao động và sự tăng lên của nhu cầu cùng với sự phát triển của xã hội. Nhân tố tác động làm giảm giá trị sức lao động, đó là sự tăng năng suất lao động làm cho giá cả tư liệu tiêu dùng rẻ đi. Sự tác động qua lại của các nhân tố đó dẫn tới quá trình phức tạp của sự biến đổi giá trị sức lao động, do đó dẫn tới sự biến đổi phức tạp của tiền công thực tế.

Xu hướng chung của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là nâng cao mức tiền công trung bình mà là hạ thấp mức tiền công ấy. Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền công danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều khi không theo kịp mức tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ; đồng thời thất nghiệp là hiện tượng thường xuyên, khiến cho cung về lao động vượt quá cầu về lao động, điều đó cho phép nhà tư bản mua sức lao động dưới giá trị của nó, vì vậy tiền công thực tế của giai cấp công nhân có xu hướng hạ thấp. Sự hạ thấp của tiền công thực tế chỉ diễn ra như một xu hướng, vì có những nhân tố chống lại sự hạ thấp tiền công. Một mặt, đó là cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi tăng tiền công. Mặt khác, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản ngày nay, do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ nên nhu cầu về sức lao động có chất lượng cao ngày càng tăng buộc các nhà tư sản phải cải tiến tổ chức lao động cũng như kích thích người lao động bằng lợi ích vật chất.

1.4 Tích lũy tư bản

1.4.1.Thực chất và động cơ của tích lũy tư bản

Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp lại và tiếp diễn một cách liên tục, không ngừng. Tái sản xuất được chia thành hai loại: Tái sản xuất giản đơn là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô như cũ. Tái sản xuất giản đơn là đặc trưng của nền sản xuất nhỏ. Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô lớn hơn trước, với một tư bản lớn hơn trước. Hình thái điển hình của tái sản xuất trong chủ nghĩa tư bản không phải là tái sản xuất giản đơn mà là tái sản xuất mở rộng. Muốn vậy, phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản hay sự chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản. Như vậy, thực chất của tích luỹ tư bản là tư bản hoá giá trị thặng dư.

Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành tư bản được là vì giá trị thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới.

Nghiên cứu tích luỹ tư bản chủ nghĩa cho phép rút ra kết luận:

  • Một là, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản tích luỹ chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. Theo C.Mác, tư bản ứng trước sau quá trình tích lũy tư bản chỉ là một giọt nước trong dòng sông của tích luỹ mà thôi.
  • Hai là, quá trình tích luỹ đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hoá biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hoá giản đơn, sự trao đổi giữa những người sản xuất hàng hoá theo nguyên tắc ngang giá về cơ bản không dẫn tới người này chiếm đoạt lao động của người kia. Trái lại, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt một phần lao động của công nhân, mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó. Nhưng điều đó không vi phạm quy luật giá trị.

Động cơ thúc đẩy tích luỹ và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản – quy luật giá trị thặng dư, quy luật này chỉ rõ mục đích sản xuất của nhà tư bản là giá trị và sự tăng thêm giá trị. Để thực hiện mục đích đó, các nhà tư bản không ngừng tích luỹ để mở rộng sản xuất, xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột công nhân làm thuê. Mặt khác, cạnh tranh buộc các nhà tư bản phải không ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên bằng cách tăng nhanh tư bản tích luỹ.

1.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến qui mô tích luỹ tư bản

1.4.2.1. Trình độ bóc lột giá trị thặng dư (m’) Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Thông thường, muốn tăng khối lượng giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tăng thêm máy móc, thiết bị và công nhân. Nhưng ở đây, nhà tư bản không tăng thêm công nhân mà bắt buộc số công nhân hiện có cung cấp thêm một lượng lao động bằng cách tăng thời gian lao động và cường độ lao động, đồng thời tận dụng một cách triệt để công suất của số máy móc hiện có, chỉ tăng thêm nguyên liệu tương ứng. Nhà tư bản có lợi là không cần ứng thêm tư bản để thuê thêm công nhân và máy móc, mặt khác thiết bị và máy móc được khấu hao nhanh hơn, giảm được hao mòn vô hình và chi phí bảo quản. Trong ngành khai thác, đối tượng lao động là tặng vật tự nhiên; Tư bản bất biến chủ yếu là tư liệu lao động, chỉ cần dựa vào sức lao động có thể tăng qui mô tích luỹ mà không cần ứng tư bản mua thêm nguyên liệu. Trong nông nghiệp cũng vậy, với một số nông cụ, vật tư như cũ, độ phì của đất thì sản lượng tăng lên nếu như một số công nhân như cũ lại cung cấp một lượng lao động lớn hơn.

1.4.2.2. Năng suất lao động.

Năng suất lao động xã hội tăng lên thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng giảm. Sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ:

Với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ có thể lấn sang phần tiêu dùng, trong khi sự tiêu dùng của nhà tư bản không giảm mà vẫn có thể có thể bằng hoặc cao hơn trước;

Một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ cũng có thể chuyển hoá thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm nhiều hơn trước.

Sự tiến bộ của khoa học và công nghệ đã tạo ra nhiều yếu tố phụ thêm cho tích luỹ nhờ việc sử dụng vật liệu mới và công cụ mới của vật liệu hiện có đó là những phế thải vốn không có giá trị trong tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân của xã hội. Cuối cùng, năng suất lao động tăng sẽ làm cho giá trị của tư bản cũ tái hiện dưới hình thái hữu dụng mới càng nhanh.

1.4.2.3. Chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng

Tư bản sử dụng là khối lượng giá trị những tư liệu lao động mà toàn bộ qui mô hiện vật của chúng đều hoạt động trong quá trình sản xuất sản phẩm; còn tư bản tiêu dùng là phần giá trị những tư liệu lao động ấy được chuyển vào sản phẩm theo từng chu kì sản xuất dưới dạng khấu hao. Do đó, có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Sự chênh lệch này là thước đo sự tiến bộ của lực lượng sản suất. Sau khi trừ đi những tốn phí hàng ngày trong việc sử dụng máy móc và công cụ lao động, nghĩa là sau khi trừ đi giá trị hao mòn của chúng đã chuyển vào sản phẩm, nhà tư bản sử dụng những máy móc và công cụ lao động đó mà không đòi hỏi một chi phí khác. Kĩ thuật càng hiện đại, sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn, thì sự phục vụ không công của tư liệu lao động càng lớn.

1.4.2.4. Đại lượng tư bản ứng trước.

Muốn tăng khối lượng giá trị thặng dư thì phải tăng qui mô tư bản. Đại lượng tư bản ứng trước càng lớn thì quy mô sản xuất càng được mở rộng theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu, khối lượng giá trị thặng dư tăng lên càng nhiều.

1.5 Hình thái tư bản và những hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Giá trị thặng dư là phạm trù nói lên mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong đời sống thực tế của xã hội tư sản, giá trị thặng dư chuyển hóa và biểu hiện thành lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận ngân hàng, lợi tức cho vay, địa tô tư bản chủ nghĩa.

1.5.1.  Chi phí sản xuất TBCN, lợi nhuận và tỷ xuất lợi nhuận .

1.5.1.1 Chi phí sản xuất TBCN.

Nếu gọi giá trị hàng hoá là G ta có: G = c + v + m        (1)

Đối với xã hội, đây chính là chi phí lao động thực tế của xã hội để sản xuất ra hàng hoá gồm: Chi phí lao động quá khứ được vật chất hoá vào TLSX ( c ) và chi phí lao động sống tạo ra giá trị mới ( v + m ).

Đối với nhà tư bản, để sản xuất ra hàng hoá, họ chỉ cần bỏ ra một số vốn ban đầu (tư bản) để mua các yếu tố sản xuất: TLSX + SLĐ (c + v). Đây gọi là chi phí sản xuất TBCN, ký hiệu bằng K . K = c + v  (2)

Vậy, Chi phí sản xuất TBCN là phần giá trị bù lại giá cả của những TLSX và giá cả SLĐ đã tiêu dùng để sản xuất ra hàng hoá cho nhà tư bản.

 Sự khác nhau của G và K:

  • Về chất: Chi phí thực tế (G) là chi phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá, là giá trị của hàng hoá. Còn chi phí sản xuất TBCN (K) là chi phí về tư bản – là vốn ứng ra ban đầu.Sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) che đậy thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Giá trị hàng hóa: W = k + m, trong đó k = c+v.
  • Về lượng: Chi phí sản xuất TBCN luôn nhỏ hơn chi phí thực tế của xã hội để sản xuất ra hàng hoá một lượng là  (m). Từ (1) và (2) suy ra: G = K + m      K = G – m

Ví dụ: Một nhà tư bản sản xuất đầu tư tư bản với số tư bản cố định (c1) là 1200 đơn vị tiền tệ; số tư bản lưu động (c2 và v) là 480 đơn vị tiền tệ (trong đó giá trị của nguyên, nhiên, vật liệu (c2) là 300, tiền công (v) là 180. Nếu tư bản cố định hao mòn hết trong 10 năm, tức là mỗi năm hao mòn 120 đơn vị tiền tệ thì: Chi phí sản xuất (k) là: 120 + 480 = 600 đơn vị tiền tệ Tư bản ứng trước (K) là: 1200 + 480 = 1680 đơn vị tiền tệ Tức là: K › k Nhưng khi nghiên cứu, Mac thường giả định tư bản cố định hao mòn hết trong 1 năm, nên tổng tư bản ứng trước (K) và chi phí sản xuất luôn bằng nhau (K = k)

1.5.1.2 Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận

1.5.1.2.1 Lợi nhuận

Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất TBCN, nên sau khi bán hàng hóa, nhà tư bản thu được một khoản dôi ra so với chi phí sản xuất TBCN, khoản đó gọi là lợi nhuận (ký hiệu p). Khi xuất hiện phạm trù lợi nhuận thì giá trị hàng hoá G = c + v + m được chuyển thành:

G = K + p = chi phí sản xuất TBCN + Lợi nhuận

Vậy: Lợi nhuận là số tiền thu được trội hơn so với chi phí sản xuất TBCN. Nó chính là giá trị thặng dư khi được coi là con đẻ của tư bản ứng trước.

So sánh lợi nhuận và giá trị thặng dư:

Về chất: Thực chất lợi nhuận chỉ là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư, nó phản ánh sai lệch bản chất bóc lột của CNTB. Cái khác nhau giữa chúng chỉ là ở chỗ: Khi nói là (m) tức là so sánh với (v), là con đẻ của tư bản khả biến, còn khi nói (p) lại có hàm ý so sánh với cả (c + v), là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước (K). Mục đích ở đây là muốn xoá nhoà nguồn gốc đích thực của lợi nhuận.

Về lượng: (p) và (m) thường không bằng nhau, (p) có thể cao hơn, hoặc thấp hơn (m), do giá cả hàng hoá có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị hàng hoá do cung – Cầu và cạnh tranh trên thị trường quy định. Nhưng xét trên bình diện xã hội tổng (p) vẫn bằng tổng (m). Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

1.5.1.2.2 Tỷ suất lợi nhuận.

Khi giá trị thặng dư chuyển hoá thành lợi nhuận thì tỷ suất giá trị thặng dư (m’) chuyển hoá thành tỷ suất lợi nhuận.

Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư và toàn bộ tư sản ứng trước. Ký hiệu là P’.

Trong thực tế người ta thường tính tỷ suất lợi nhuận hàng năm bằng tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi nhuận thu được hàng năm (P) và tổng tư bản ứng trước (K).

So sánh giữa m’ và P’.

Về lượng: Tỷ suất lợi nhuận luôn nhỏ hơn tỷ suất giá trị thặng dư. P’ < m’ vì (Về chất: Nếu (m’) phản ánh đúng mức độ bóc lột công nhân, thì (P’) lại phản ánh sai lệch mức độ đó (bao giờ p’ cũng ở mức thấp hơn m’). Nhưng (p’) lại phản ánh mức doanh lợi của việc đầu tư tư bản, nó chỉ cho các nhà tư bản thấy đầu tư vào ngành nào có lợi hơn. Do đó (P’) là mục tiêu cạnh tranh và là động lực thúc đẩy sự hoạt động của các nhà tư bản.

Các nhân tố ảnh hưởng tới P’.

  • Tỷ suất giá trị thặng dư: Tỷ suất gía trị thặng dư càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn và ngược lại.
  • Cấu tạo hữu cơ của tư bản: Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư không đổi, nếu cấu tạo hữu cơ tư bản càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại.
  • Tốc độ chu chuyển của tư bản: Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản càng lớn, thì tần suất sản sinh ra giá trị thặng dư trong năm của tư bản ứng truớc càng nhiều lần, giá trị thặng dư theo đó mà tăng lên, làm cho tỷ suất lợi nhuận cũng càng tăng.
  • Tiết kiệm tư bản bất biến: Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư và tư bản khả biến không đổi, nếu tư bản bất biến càng nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn. Bốn nhân tố trên đây đều được các nhà tư bản sử dụng, khai thác một cách triệt để để đạt được tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Song, với những đặc điểm, điều kiện khác nhau, nên cùng một lượng tư bản như nhau đầu tư vào các ngành khác nhau thì tỷ suất lợi nhuận lại đạt được khác nhau. Vì vậy, các nhà tư bản ra sức cạnh tranh kịch liệt với nhau và dẫn tới việc hình thành lợi nhuận bình quân. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

1.5.1.2.3.1 Cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường.

Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, sản xuất cùng một loại hàng hoá, nhằm giành ưu thế trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch.

Cạnh tranh trong nội bộ ngành thông qua các biện pháp: Cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao NSLĐ, chất lượng hàng hoá… làm giảm giá trị cá biệt của hàng hoá so với giá trị xã hội để thu được lợi nhuận siêu ngạch.

Kết quả của cạnh tranh trong nội bộ ngành là hình thành giá trị thị trường của hàng hoá (giá trị xã hội của hàng hoá) và làm cho điều kiện sản xuất trung bình của một ngành thay đổi, giá trị xã hội của hàng hoá giảm xuống, chủng loại hành hoá đa dạng với chất lượng ngày càng cao. Giá trị thị trường là giá trị trung bình của những hàng hoá được sản xuất ra trong một khu vực sản xuất nào đó. Hay là giá trị cá biệt của những hàng hoá được sản xuất và chiếm đại bộ phận hàng hoá đó trên thị trường.

1.5.1.2.3.2 Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.

Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp tư bản kinh doanh trong các ngành nghề sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.

Do trong xã hội có nhiều ngành sản xuất khác nhau và các điều kiện sản xuất không giống nhau, do đó lợi nhuận thu được và tỷ suất lợi nhuận không giống nhau, nên các nhà tư bản cạnh tranh với nhau để tìm ngành nào có tỷ suất lợi nhuận cao nhất để đầu tư.

Biện pháp cạnh tranh là di chuyển tư bản từ những ngành có (p’) thấp sang những ngành có (p’) cao. Kết quả dẫn tới sự phân bố lại các yếu tố sản xuất, làm thay đổi quan hệ cung cầu và giá cả hàng hoá, dẫn tới (p’) của các ngành xấp xỉ nhau tức là (p’) bình quân.

Tỷ suất lợi nhuận bình quân là con số trung bình của tất cả các tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Hay là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư và tổng tư bản xã hội. ký hiệu là p’. Tính theo công thức

Theo bảng trên, ngành da là ngành có (p’) cao nhất, do đó, tư bản ở ngành cơ khí sẽ di chuyển đến ngành da làm cho quy mô ngành da mở rộng, sản phẩm ngành da tăng lên, cung sẽ lớn hơn cầu, giá cả sản phẩm da giảm xuống, do đó lợi nhuận cũng giảm theo. Còn sự vận động ở  ngành cơ khí thì ngược lại.

Như vậy, sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến sự phân bố lại các yếu tố sản xuất và làm thay đổi tỷ suất lợi nhuận của ngành và dẫn đến hình thành tỷ suất lợi nhuận ngang nhau (30%). Đó là tỷ suất lợi nhuận bình quân ( ‘ ). Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân thì ta tính được lợi nhuận bình quân của từng ngành theo công thứcK:

Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận bằng nhau của những tư bản bằng nhau đầu tư vào các ngành sản xuất khác nhau. Đó là lợi nhuận mà các nhà tư bản thu được căn cứ vào tư bản đầu tư, nhân với tỷ suất lợi nhuận bình quân, không kể cấu tạo hữu cơ của tư bản như thế nào.

Sự hình thành lợi nhuận bình quân làm cho quy luật giá trị thặng dư hoạt động trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh biểu hiện thành quy luật lợi nhuận bình quân.

1.5.1.2.3.3 Sự hình thành giá cả sản xuất.                                  

Trong nền sản xuất hàng hoá TBCN khi hình thành P’ và  thì giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất:

Giá cả sản xuất là giá cả bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân.

Giá trị là cơ sở của giá cả sản xuất, còn giá cả sản xuất là cơ sở giá cả thị trường, giá cả sản xuất điều tiết giá cả thị trường, còn giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá cả sản xuất.

Khi giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá cả sản xuất thì quy luật giá trị có hình thức biểu hiện là quy luật giá cả sản xuất.

Ý nghĩa: Việc tìm hiểu sự hình thành ’,  và giá cả sản xuất có ý nghĩa quan trọng. Nó giúp chúng ta thấy được sự phát triển lý luận giá trị và giá trị thặng dư của C.Mác theo tiến trình đi từ trừu tượng đến cụ thể, thấy rõ sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nhà tư bản trong việc giành giật lợi nhuận, mặt khác thấy được toàn bộ giai cấp tư sản đã bóc lột toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê. Từ đó có thể rút ra kết luận muốn giành lại quyền lợi cho mình, giai cấp công nhân phải đoàn kết lại, kết hợp đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị để xoá bỏ CNTB, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn.

1.5.2. Các hình thái tư bản và lợi nhuận của chúng. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

1.5.2.1. Tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp.

1.5.2.1.1. Tư bản thương nghiệp, nguồn gốc và vai trò của nó.

Về mặt lịch sử, tư bản thương nghiệp có từ rất sớm, tồn tại trên cơ sở lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. Lợi nhuận của nó chủ yếu do mua rẻ bán đắt mà có. Trong CNTB, Tư bản thương nghiệp là bộ phận của tư bản công nghiệp tách ra chuyên đảm nhiệm khâu lưu thông hàng hoá phục vụ cho tư bản công nghiệp. Tư bản thương nghiệp vận động theo công thức: T – H – T’

Đặc điểm của tư bản thương nghiệp: Tư bản thương nghiệp vừa phụ thuộc vào tư bản công nghiệp, vừa có tính độc lập tương đối.

  • Sự phụ thuộc thể hiện ở chỗ tư bản thương nghiệp chỉ là một phận tư bản hàng hoá của tư bản công nghiệp. Số lượng, chủng loại và chất lượng hàng hoá mà tư bản thương nghiệp lưu thông đều do tư bản công nghiệp quyết định.
  • Tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ chức năng chuyển tư bản hàng hoá (H) thành tư bản tiền tệ (T) trở thành chức năng riêng biệt, tách khỏi tư bản công nghiệp và thuộc về tư bản thương nghiệp. Mua hàng hoá nào, số lượng bao nhiêu, bán ở đâu do tư bản thương nghiệp quyết định.

Vai trò của tư bản thương nghiệp đối với xã hội: Nhờ có tư bản thương nghiệp chuyên việc mua – bán hàng hoá nên tư bản công nghiệp có thể tập trung vốn cho sản xuất, nâng cao được hiệu quả kinh tế, tăng được giá trị thặng dư. Mặt khác, do có sự chuyên trách mua – bán hàng hoá nên giảm được chi phí lưu thông, rút ngắn được thời gian lưu thông, tăng nhanh được tốc độ chu chuyển của tư bản, do đó tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

1 5.2.1.2 Lợi nhuận thương nghiệp.

Tư bản thương nghiệp (chỉ giới hạn trong lĩnh vực mua bán hàng hoá)  không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, nhưng nó vẫn có lợi nhuận. Vậy lợi nhuận thương nghiệp là gì? và do đâu mà có. Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhượng cho tư bản thương nghiệp, để tư bản thương nghiệp bán hàng hoá thay cho mình.

Thực chất, lợi nhuận thương nghiệp chỉ là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư nên nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp chính là một bộ phận lao động của công nhân không được trả công.

Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp: Tư bản công nghiệp nhượng một phần giá trị thặng dư cho tư bản thương nghiệp bằng cách bán hàng hoá thấp hơn giá trị của nó, để rồi tư bản thương nghiệp bán hàng hoá theo đúng giá trị sẽ thu được khoản chêch lệch (hoa hồng), đó là lợi nhuận thương nghiệp.

Việc nhượng giá trị thặng dư giữa nhà tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp cũng diễn ra theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Nghĩa là, tư bản thương nghiệp cũng tham gia vào cạnh tranh giữa các ngành để thu được lợi nhuận bình quân cho mình.

1.5.2.2 Tư bản cho vay và lợi tức cho vay

1.5.2.2.1 Sự hình thành và đặc điểm của  tư bản  cho vay

Sự hình thành tư bản cho vay: Trước TBCN, tư bản cho vay đã xuất hiện trên cơ sở sản phẩm trở thành hàng hoá và tiền tệ đã phát triển các chức năng của nó. Hình thức đặc trưng của nó là tư bản cho vay nặng lãi.

Trong xã hội TBCN, tư bản cho vay là tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, mà người chủ của nó cho nhà tư bản khác sử dụng trong một thời gian nhất định để nhận được số tiền lời nào đó – gọi là lợi tức.

Tư bản cho vay có những đặc điểm sau:

  • Quyền sở hữu tư bản tách rời quyền sử dụng tư bản: Nghĩa là cùng một tư bản nhưng đối với người cho vay nó là tư bản sở hữu, đối với người đi vay nó là tư bản sử dụng.
  • Tư bản cho vay là một hàng hoá đặc biệt, vì khi cho vay (bán) thì người bán không mất quyền sở hữu, còn người đi vay (mua) chỉ được quyền sử dụng trong một thời gian nhất định. Khi sử dụng thì giá trị của nó không mất đi mà lại tăng lên. Giá cả của nó không do giá trị quyết định mà do giá trị sử dụng của tư bản cho vay quyết định.
  • Tư bản cho vay là tư bản được sùng bái nhất: Do tư bản cho vay vận động theo công thức T – T’ nên dễ gây ấn tượng hình như tiền đẻ ra tiền, vì vậy mà nó trở nên thần bí và được sùng bái nhất. Thực ra tư bản cho vay không thể tách rời sự vận động thực tế của tư bả n công nghiệp. Trong công thức thì: T T chỉ là điểm mở đầu và T’- T’chỉ là điểm kết thúc, chỉ là sự chuẩn bị và kết quả của sự vận động tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Tư bản cho vay không thể tách rời sự vận động đó.

Nguồn gốc tư bản cho vay là tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong quá trình chu chuyển của tư bản. Trong khi có những nhà tư bản có tiền tạm thời nhàn rỗi thì một số nhà tư bản khác lại thiếu tiền để hoạt động, từ đó xuất hiện quan hệ vay – mượn và tư bản cho vay xuất hiện.

Vai trò của tư bản cho vay: Góp phần vào việc tích tụ tập trung tư bản, mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản, do đó góp phần làm tăng thêm tổng giá trị thặng dư trong xã hội.

1.5.2.2.2 Lợi tức và tỷ suất lợi tức. 

Lợi tức là một phần của lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay trả cho nhà tư bản cho vay về quyền sở hữu tư bản để được quyền sử dụng tư bản trong một thời gian nhất định. Ký hiệu là z.

Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho vay trong một thời gian nhất định. Ký hiệu z’

Tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận bình quân và quan hệ cung  cầu về tư bản cho vay. Thông thường giới hạn vận động của tỷ suất lợi tức là:

1.5.2.3 Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

1.5.2.3.1 Công ty cổ phần.

Sự phát triển của nền kinh tế TBCN và các quan hệ tín dụng làm xuất hiện công ty cổ phần. Công ty cổ phần là loại xí nghiệp lớn mà vốn của nó hình thành từ việc liên kết nhiều tư bản  cá biệt và các nguồn tiết kiệm cá nhân thông qua việc phát hành cổ phiếu.

Cổ phiếu là loại chứng khoán có giá, bảo đảm cho người sở hữu nó được quyền nhận một phần thu nhập của Công ty cổ phần dưới hình thức lợi tức cổ phiếu (cổ tức). Lợi tức cổ phiếu cao, thấp phụ thuộc vào kết quả hoạt động của Công ty cổ phần.Về nguyên tắc, công ty cổ phần không hoàn lại vốn cho chủ cổ phiếu, cổ phiếu không còn giá trị khi công ty bị phá sản. Trên thị trường, cổ phiếu được mua bán như một loại hàng hoá, giá cả của nó gọi là thị giá cổ phiếu. Thị giá cổ phiếu tỷ lệ thuận với lợi tức cổ phiếu và tỷ  lệ nghịch với tỷ suất lợi tức tiền gửi ngân hàng.

Ví dụ: Một cổ phiếu mỗi năm đem lại lợi tức là 9USD, tỷ suất lợi tức ngân hàng là 3% thì thị gía cổ phiếu là 300USD.

Người mua cổ phiếu gọi là cổ đông, được tham gia đại hội cổ đông, bầu ra hội đồng quản trị và thông qua các quyết định của công ty. Tuy nhiên, phiếu biểu quyết trong đại hội cổ đông được quyết định theo số lượng cổ phiếu, do đó những nhà tư bản nắm được cổ phiếu khống chế sẽ thao túng được mọi hoạt động của công ty cổ phần.

Ngoài cổ phiếu, công ty cổ phần còn có thể phát hành trái phiếu để thu hút thêm vốn. Khác với cổ phiếu, người sở hữu trái phiếu được hưởng khoản lợi tức cố định và được trả lại vốn sau thời hạn ghi tên trái phiếu. Người mua trái phiếu không phải là cổ đông.

Tác dụng của Công ty cổ phần: Sự hình thành Công ty cổ phần làm cho tư bản được tập trung nhanh chóng, xuất hiện những xí nghiệp khổng lồ làm tăng sức mạnh cạnh tranh… đem lại nguồn lợi lớn cho các nhà tư bản. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho sự di chuyển tư bản đầu tư, tăng tính linh hoạt và cạnh tranh trong nền kinh tế.

1.5.2.3.2 Thị trường chứng khoán.

Thị trường chứng khoán là nơi giao dịch, mua- bán các loại chứng khoán có giá như: cổ phiếu, trái phiếu, công trái, kỳ phiếu, tín phiếu, văn tự cầm cố….Thị trường chứng khoán thường diễn ra chủ yếu ở sở giao dịch chứng khoán và một phần ở ngân hàng lớn.

Thị trường chứng khoán là loại thị trường rất nhạy cảm với các biến động kinh tế, chính trị, xã hội…, nó được coi là “phong vũ biểu” của nền kinh tế. Chỉ số giá cả chứng khoán tăng hay giảm biểu hiện nền kinh tế phát triển hay sa sút.

1.5.2.4 Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp và địa tô TBCN. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

1.5.2.4.1 Tư bản kinh doanh nông nghiệp.

Trong nông nghiệp quan hệ sản xuất TBCN được hình thành chủ yếu theo hai con đường:

Một là, thông qua cải cách, dần dần chuyển kinh tế địa chủ phong kiến sang kinh doanh theo phương thức TBCN (sử dụng lao động làm thuê) như ở Đức, Ý, Nga, Nhật.

Hai là, thông qua cách mạng dân chủ tư sản, xoá bỏ kinh tế địa chủ phong kiến, phát triển kinh tế TBCN, như ở Anh, Mỹ, Pháp. Đặc điểm quan hệ sản xuất  TBCN trong nông nghiệp. Tồn tại chế độ độc quyền sở hữu ruộng đất và độc quyền kinh doanh ruộng đất.

Quan hệ sản xuất TBCN trong nông nghiệp gồm ba giai cấp: Địa chủ (độc quyền sở hữu ruộng đất); nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp (độc quyền kinh doanh ruộng đất) và giai cấp công nhân làm thuê trong nông nghiệp.

1.5.2.4.2 Bản chất của địa tô TBCN.

Trong nông nghiệp, nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp cũng phải thu được lợi nhuận bình quân như các ngành khác, nhưng họ phải thuê ruộng đất của địa chủ để kinh doanh, do vậy ngoài lợi nhuận bình quân họ phải thu được phần lợi nhuận siêu ngạch để trả cho nhà tư bản dưới hình thức địa tô. Phần lợi nhuận siêu ngạch phải ổn định và lâu dài.

Vậy: Địa tô TBCN là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân của tư bản kinh doanh trong nông nghiệp do công nhân nông nghiệp tạo ra, mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ với tư cách là kẻ sở hữu ruộng đất.

Bản chất của địa tô TBCN là mối quan hệ bóc lột giá trị thặng dư giữa 3 giai cấp trong đó, giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ cùng tham gia bóc lột giai cấp công nhân làm thuê trong nông nghiệp.

1.5.2.4.3  Các hình thức điạ tô TBCN

 Địa tô chêch lệch.

Trong kinh doanh nông nghiệp, giá cả của hàng hoá nông phẩm được hình thành trên cơ sở điều kiện sản xuất xấu nhất (độ màu mỡ xấu nhất, vị trí địa lý khó khăn nhất…), chứ không phải ở điều kiện trung bình như trong công nghiệp. Vì thế, nếu kinh doanh trên đất tốt hoặc trung bình sẽ có lợi nhuận siêu ngạch. Phần lợi nhuận siêu ngạch này tồn tại thường xuyên, tương đối ổn định và nó thuộc về người chủ ruộng đất (nhà tư bản phải trả cho địa chủ) gọi là địa tô chêch lệch.

Vậy: Địa tô chêch lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân thu được trên ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số chêch lệch giữa giá cả sản xuất chung được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình.

Địa tô chêch lệch có hai loại: Địa tô chêch lệch I và địa tô chêch lệch II.

Địa tô chêch lệchI: là loại địa tô thu được trên những ruộng đất có những điều kiện tự nhiên thuận lợi, tức là có độ màu mỡ hay vị trí thuận lợi hơn.

Bảng 1: Địa tô chêch lệch I thu được trên ruộng đất tốt và trung bình.

Bảng 2: Địa tô chêch lệch I thu được trên ruộng đất có vị trí thuận lợi gần nơi tiêu thụ.

Địa tô chêch lệch II là loại địa tô thu được gắn liền với thâm canh tăng năng suất, là kết quả của tư bản đầu tư thêm trên cùng một đơn vị diện tích. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Bảng 3B: Địa tô chêch lệch II thu được gắn liền với thâm canh tăng năng suất.

Trong thời hạn hợp đồng, lợi nhuận siêu ngạch do đầu tư thâm canh đem lại thuộc nhà tư bản kinh doanh ruộng đất. Nhưng khi hết hợp đồng, địa chủ sẽ tìm cách nâng giá thuê ruộng đất lên, tức là biến địa tô chêch lêch II thành địa tô chêch lêch I. Tình trạng này dẫn đến mâu thuẫn: Nhà tư bản muốn kéo dài thời hạn thuê ruộng đất, ngược lại, địa chủ lại chỉ muốn cho thuê trong thời hạn ngắn. Vì vậy trong thời hạn thuê đất nhà tư bản tìm mọi cách quay vòng sản xuất, tận dụng và vắt kiệt độ màu mỡ của đất đai. Mác cho rằng lối kinh doanh TBCN trong nông nghiệp dẫn đến quy luật màu mỡ đất đai ngày càng giảm xuống.

 Địa tô tuyệt đối.

Địa tô tuyệt đối là số lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, hình thành bởi sự chêch lệch giữa giá trị nông sản và giá cả sản xuất chung.

Đây là loại địa tô mà nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp tuyệt đối phải nộp cho địa chủ, bất kể ruộng đất tốt hay xấu. Cơ sở của địa tô tuyệt đối là do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp.

Nguyên nhân tồn tại của địa tô tuyệt đối là do chế độ độc quyền sở hữu ruộng đất đã ngăn cản nông nghiệp tham gia cạnh tranh để hình thành lợi nhuận bình quân.

Ví dụ: Có hai nhà tư bản công nghiệp và nông nghiệp cùng bỏ ra một số tư bản là 100. với m’ bằng 100% nhưng c /v của công nghiệp là 4/1 và c /v của nông nghiệp là 3/2. Giá trị  sản phẩm sẽ là.

Trong công nghiệp  : 80c + 20v + 20m = 120.

Trong nông nghiệp  : 60c + 40v + 40m = 140.

Giá trị thặng dư dôi ra trong nông nghiệp so với công nghiệp là 40 – 20 = 20. Số chêch lệch này là lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân, chuyển hoá thành địa tô tuyệt đối.

Địa tô độc quyền.

Địa tô độc quyền là hình thức địa tô đặc biệt của địa tô TBCN nó tồn tại cả trong nông nghiệp, công nghiệp khai thác và các khu đất trong thành phố. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Trong nông nghiệp, địa tô độc quyền hình thành ở những nơi đất có tính chất đặc biệt, nó cho phép nuôi trồng những cây, con đặc sản, hoặc sản xuất ra những nông sản phẩm đặc biệt.

Trong công nghiệp khai thác, địa tô độc quyền có ở những khu đất khai thác những loại khoáng sản quý hiếm.

Trong thành phố, địa tô độc quyền có ở những khu đất có vị trí thuận lợi đặc biệt cho phép xây dựng các trung tâm công nghiệp, thương mại dịch vụ, nhà cho thuê mang lại lợi nhuận cao.

Nguồn gốc địa tô độc quyền cũng là lợi nhuận siêu ngạch do giá cả độc quyền của sản phẩm thu được trên đất đai ấy, mà nhà tư bản phải nộp cho địa chủ.

1.5.2.4.4 Giá cả ruộng đất

Trong CNTB, ruộng đất không chỉ cho thuê mà còn có thể mua, bán. Giá cả ruộng đất là hình thức địa tô tư bản hoá. Bởi vì ruộng đất đem lại địa tô tức là đem lại thu nhập ổn định bằng tiền nên nó được xem như một loại tư bản đặc biệt, còn địa tô chính là lợi tức của số tư bản đó.

Trên thực tế giá cả ruộng đất chỉ là giá mua địa tô do ruộng đất mang lại. Nó tỷ lệ thuận với địa tô và tỷ lệ nghịch với tỷ suất lợi tức của tư bản gửi vào ngân hàng.

Ví dụ: Một mảnh đất đem lại địa tô bình quân 200USD/năm, tỷ suất lợi tức ngân hàng là 5% thì giá cả mảnh đất đó là:

Nếu số tiền đó (4000USD) không mua đất mà đem gửi vào ngân hàng với tỷ suất lợi tức 5% cũng sẽ thu được 200 USD.

Nghiên cứu lý luận địa tô TBCN có ý nghĩa: Vạch rõ quan hệ sản xuất TBCN trong nông nghiệp đó là giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản chia nhau giá trị thặng dư do bóc lột lao động của công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo ra. Ngoài ra, lý luận địa tô của Mác còn là cơ sở khoa học xây dựng các chính sách thuế trong nông nghiệp và các ngành kinh tế khác có liên quan đến đất đai có hiệu quả hơn.

Chương 2 SỰ CỐNG HIẾN CỦA C.MÁC Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

2.1 Quan điểm của các trường phái trước C.Mác 

2.1.1 Quan điểm của trường phái trọng thương Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Chủ nghĩa trọng thương ra đời vào thời kỳ quá độ mà nền kinh tế phong kiến bước vào thời suy thoái  và nền kinh tế TBCN bắt đầu hình thành. Nó ra đời phản ánh những quan điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản và nó được phát triển rộng rãi ở các nước Tây Âu. Mặc dù thời kỳ này chưa biết đến quy luật kinh tế và còn hạn chế về tính quy luật nhưng hệ thống quan điểm học thuyết kinh tế trọng thương đã tạo ra nhiều tiền đề về kinh tế xã hội cho các lý luận kinh tế thị trường sau này phát triển. Điều này được thể hiện ở chỗ họ đưa ra quan điểm sự giàu có không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị tiền.

Học thuyết kinh tế trọng thương coi lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông mua bán, trao đổi sinh ra. Nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt mà có.

2.1.2 Quan điểm của trường phái cổ điển

Trong thời kỳ chủ nghĩa trọng thương, sự hoạt động của tư bản chủ yếu là trong lĩnh vực lưu thông. Do quá trình phát triển của công trường thủ công, tư bản đã chuyển sang lĩnh vực sản xuất. Lúc này các vấn đề kinh tế của sản xuất đã vượt quá khả năng giải thích của lý thuyết chủ nghĩa trọng thương và học thuyết kinh tế cổ điển xuất hiện. Các nhà kinh tế học của trường phái này lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Lần đầu tiên, họ xây dựng một hệ thống các phạm trù và quy luật của nền kinh tế thị trường. Tiêu biểu là các quan điểm của Keneys, A.Đ Smith, Ricacdo.

a)Quan điểm của Keneys :

Keneys được C.Mac đánh giá là cha đẻ của kinh tế chính trị học cổ điển và ông có công lao to lớn trong lĩnh vực kinh tế. Keneys đã đặt nền tảng cho việc nghiên cứu sản phẩm, tức là nền móng cho việc nghiên cứu quan hệ thặng dư sau này. Ông đã đưa ra những quan điểm kinh tế để tiến hành phê phán chủ nghĩa trọng thương. Keneys cho rằng trao đổi thương mại chỉ đơn thuần là việc đổi giá trị này lấy giá trị sử dụng khác theo nguyên tắc ngang giá cả. Hai bên không có gì để mất hoặc được cả. Bởi vậy thương nghiệp không thể đẻ ra tiền được. Theo ông, sản phẩm thặng dư chỉ được tạo ra từ sản xuất- nông nghiệp kinh doanh theo kiểu TBCN bởi vì trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đã tạo ra được chất mới nhờ có sự giúp đỡ của tự nhiên. Đây là một quan điểm sai lầm. Nhưng ông cũng manh nha bước đầu tìm ra được nguồn gốc của giá trị thặng dư. Ông cho chi phí sản xuất là tiền lương, sản phẩm thuần tuý là số chênh lệch giữa thu hoạch và tiền lương, đó chính là phần do lao động thặng dư tạo ra. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

b)Quan điểm của A.Đ Smith

Theo ông địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên vào sản phẩm lao động, lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của người lao động, chúng đều có chung nguồn gốc là lao động không được trả công của công nhân.Về mặt chất, nó phản ánh quan hệ bóc lột. Xuất phát từ sự phân tích giá trị hàng hoá do người công nhân tạo ra A.Đ Smith thấy một thực tế là công nhân chỉ nhận  được một phần tiền lương, phần còn lại là địa tô và lợi nhuận của tư bản. Ông cho rằng nguồn gốc của lợi nhuận là do toàn bộ tư bản đầu tư đẻ ra trong lĩnh vực sản xuất và trong lĩnh vực lưu thông.

Ông thấy địa tô chênh lệch I do màu mỡ đất đai và vị trí gần xa quyết định nhưng không nghiên cứu địa tô chênh lệch II và phủ nhận địa tô tuyệt đối. Những tư tưởng kinh tế của A.Đ Smith tuy còn hạn chế và mâu thuẫn, song cũng gây tiếng vang lớn trong giới học giả kinh tế cổ điển. Ông được nhiều tác giả hậu bối coi là “cha đẻ của kinh tế học”.

c) Quan điểm của Ricacdo

Nếu như A.Đ Smith sống trong thời kỳ công trường thủ công phát triển mạnh mẽ thì David Ricacdo sống trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Đó là điều kiện khách quan để ông vượt được ngưỡng giới hạn mà A.Đ Smith dừng lại. Ông là người kế tục xuất sắc của A.Đ Smith. Theo C.Mac, A.Đ Smith là nhà kinh tế của thời kỳ công trường thủ công còn Ricacdo là nhà tư tưởng của thời đại cách mạng công nghiệp. Ông sử dụng phương pháp khoa học tự nhiên, sử dụng công cụ trừu tượng hoá, đồng thời áp dụng các phương pháp khoa học chính xác, đặc biệt là phương pháp suy diễn để nghiên cứu kinh tế chính trị học.

Về lợi nhuận, Ricacdo cho rằng “Lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân”. Ông đã thấy xu hướng giảm sút tỷ xuất lợi nhuận và giải thích nguyên nhân của sự giảm sút nằm trong sự vận động, biến đổi thu nhập giữa ba giai cấp: địa chủ, công nhân và nhà tư bản. Về địa tô, Ricacdo dựa vào quy luật giá trị để giải thích địa tô, rằng địa tô hình thành không trái với quy luật giá trị. Ông bác bỏ quan niệm cho rằng địa tô là sản phẩm của những lực lượng tự nhiên hoặc năng xuất đặc biệt trong nông nghiệp. Ông đã nhận thức rằng giá trị nông phẩm được hình thành trong điều kiện ruộng đất xấu nhất, nếu kinh doanh trên ruộng đất trung bình sẽ thu lợi nhuận siêu ngạch và lợi nhuận này rơi vào tay địa chủ dưới hình thức địa tô ( địa tô chênh lệch I). nhưng ông không biết địa tô chênh lệch II và phủ nhận địa tô tuyệt đối.

2.2  Những hạn chế của những quan điểm trước C.Mác Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Smith và D. Ri-các-đô đã quan niệm một cách hời hợt, bề ngoài rằng, mua bán giữa tư bản và công nhân là mua bán lao động nên cả hai ông đều gặp bế tắc trong việc lý giải một cách khoa học bản chất và nguồn gốc của lợi nhuận, không giải thích được vì sao trao đổi hàng hóa theo đúng quy luật giá trị mà nhà tư bản thu được lợi nhuận

Chẳng hạn, nếu lao động là hàng hóa thì nó phải được kết tinh vào vật, như vậy là công nhân bán hàng hóa chứ không bán lao động; lao động được xác định là thước đo của mọi giá trị thì không thể tự lấy nó để đo lường giá trị của bản thân nó. Mặt khác, nếu mua bán lao động mà trao đổi ngang giá thì không còn cơ sở tồn tại của lợi nhuận, nhưng thực tế lợi nhuận tồn tại một cách khách quan. Vậy, theo các cách giải thích đó, quy luật giá trị mâu thuẫn với quy luật sản xuất ra lợi nhuận và ngược lại.

Hạn chế lớn nhất của A.Smith là ở chỗ: Cho rằng sản phẩm xã hội chỉ thể hiện ở hai phần là tiền công (v) và giá trị thặng dư (m), loại bỏ phần giá trị tư bản bất biến (c), đồng nhất thu nhập quốc dân và toàn bộ tổn sản phẩm xã hội. Theo ông giá trị tổng sản phẩm gồm: tiền công, lợi nhuận và địa tô. Từ đó dẫn đến sai lầm tiếp theo: cho rằng tích luỹ chỉ là biến giá trị thặng dư thành tư bản khả biến phụ thêm mà không có tư bản bất biến phụ thêm. Tức là bỏ qua giá trị tư bản bất biến trong phân tích tái sản xuất và không tính đến tư bản bất biến phụ thêm trong phân tích tái sản xuất mở rộng.

Học thuyết của Ricardo, Ông chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động mà không chú ý đến quá trình sản xuất ra GTTD. Ở đây Ricardo đã nhầm lẫn giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến với tư bản lưu động và tư bản cố định. Ông cũng không phân biệt giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư nên đã bóp méo quy  luật giá trị thặng dư. Về lợi nhuận: Ricardo xác nhận giá trị mới do công nhân sáng tạo ra bao gồm tiền lương và lợi nhuận. Ông đã phát hiện ra quy luật vận động của tư bản là: Nếu năng suất lao động tăng thì tiền lương sẽ giảm tương đối còn lợi nhuận của tư bản sẽ tăng tuyệt đối. Tuy nhiên ông chưa biết đến phạm trù giá trị thặng dư. Ông đã có nhận xét tiến gần đến lợi nhuận bình quân (những tư bản có đại dương bằng nhau thì đem lại lợi nhuận như nhau) nhưng không chứng minh được. Ông cho rằng nếu hạ thấp tiền công thì lợi nhuận tăng lên còn giá trị hàng hoá không đổi. Ông đã thấy xu hướng giảm xuống của tỷ suất lợi nhuận tuy nhiên chưa giải thích được cạn kẽ.

2.3 Đóng góp của C.Mác đối với học thuyết giá trị thặng dư Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

PhĂngghen cho rằng: C.Mác có hai phát hiện lớn: một là phát hiện ra quan niệm duy vật lịch sử, hai là phát hiện về giá trị thặng dư. Còn theo đánh giá của V.I Lênin, học thuyết giá trị thặng dư là hòn đá tảng của lý luận kinh tế chính trị của Mác. Nó đã bóc trần sử bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Học thuyết về giá trị thặng dư là một trong hai phát kiến lớn nhất mà C.Mác đã đóng góp cho nhân loại. Cho đến nay học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác vẫn giữ nguyên giá trị. Chúng ta, ai cũng biết rằng: bất cứ một học thuyết kinh tế nào ra đời hay hình thành cũng đều dựa trên hai tiền đề là thực tiễn và học thuyết . Bởi lẽ kinh tế học bắt nguồn từ thực tiễn rồi quay trở lại thực tiễn để kiểm nghiệm tính đúng đắn của học thuyết. Hơn nữa một đặc điểm kinh tế của Các Mác là tính kế thừa và tính phê phán: kế thừa cái đã có, còn đúng và phê phán để tìm ra những hạn chế của học thuyết đã có để lọc bỏ, bổ sung, sáng tạo, phát triển và hoàn thiện. C.Mác đã dựa vào kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh ( W. Petty, A.Smith, D.Ricardo), chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp, Triết học cổ điển Đức (Hêghen và Phoiơbắc). Mác đã kế thừa những tư tưởng của nhân loại, sửa đổi, bổ sung và phát triển học thuyết kinh tế của mình ở trình độ cao hơn. Lênin đã nhận xét:

Tất cả thiên tài của C.Mác chính là ở chỗ đã giải đáp được những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra C.Mác đã kế thừa tất cả những cái gì tốt đẹp nhất mà loài người đã sáng tạo ra trong thế kỷ XIX. Các nhà kinh tế trước C.Mác chưa ai đề cập đến giá trị thặng dư mà chỉ đề cập tới lợi nhuận và được biểu hiện dưới hình thức lợi tức và địa tô. Nhà kinh tế Thomson đã nêu ra phạm trù giá trị thặng dư, tuy nhiên ông lại cho rằng nếu tồn tại phạm trù giá trị thặng dư sẽ vi phạm quy luật giá trị. Vì vậy ông chỉ thừa nhận quy luật giá trị mà không thừa nhận phạm trù giá trị thặng dư nữa. C.Mác là người đầu tiên xây dựng hoàn chỉnh hoàn chỉnh học thuyết gia trị thặng dư và khẳng định giá trị thặng dư tồn tại và phát triển hoàn toàn tuân theo quy luật giá trị. Với phát minh này, C.Mác đã vạch rõ được bản chất của chủ nghĩa tư bản, đó chính là quan hệ bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê, đồng thời vạch ra quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản, đó chính là quy luật giá trị thặng dư.

Trước C.Mác, ngay cả những nhà kinh tế tư bản lỗi lạc như Ricardo cũng không giải thích được vì sao trao đổi hàng hóa theo đúng quy luật giá trị mà nhà tư bản vẫn thu được lợi nhuận. Nhờ phân biệt được phạm trù lao động và tính chất hai mặt lao động sản xuất hàng hóa C.Mác đã chứng minh một cách khoa học rằng trong quá trình sản xuất hàng hóa lao động cụ thể của công nhân chuyển giá trị của tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng sang sản phẩm, đồng thời lao động trừ tượng của người đó thêm vào sản phẩm một giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động của mình. Khoản lớn hơn đó, từ là số dư ra ngoài khoản bù lại giá trị sức lao động, C.Mác gọi là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt. Công nhân chỉ được tiếp tục làm thuê chừng nào còn tạo ra được khối lượng giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động mà nhà tư bản đã trả cho người đó dưới hình thức tiền công, nếu không sẽ bị sa thải.

Mác là người đầu tiên trong lịch sử các học thuyết kinh tế phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, nội dung tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có thể khái quát như sau: Một quá trình lao động của người sản xuất hàng hóa có tính chất hai mặt, một mặt nó là quá trình lao động cụ thể, lao động cụ thể là lao động hao phí dưới một hình thức cụ thể của một nghề nghiệp chuyên môn nhất định, có mục đích riêng, có đối tượng riêng, thao tác, phương tiện và kết quả riêng. Lao động cụ thể bảo tồn và di chuyển giá trị cũ vào trong giá trị của sản phẩm mới. Mặt khác, nó là quá trình lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng là sự hao phí sức lực của con người nói chung, không kể hình thức cụ thể của nó như thế nào. Việc C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa đã giúp ông hoàn thiện lý luận về giá trị-lao động mà các nhà kinh tế trước đó không làm được.

Lý luận giá trị lao động mà C.Mác là người hoàn thiện, với nội dung là giá trị hàng hóa là lao động của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa, lượng giá trị của hàng hóa tỷ lệ thuận với lượng lao động đã hao phí để sản xuất ra nó. Trên thị trường, lượng giá trị của hàng hóa được quyết định bởi thời gian lao động xã hội cần thiết trong điều kiện trung bình, như vậy, muốn được lợi, người sản xuất hàng hóa phải quan tâm làm sao cho hao phí thời gian lao động cá biệt của mình thấp hơn thời gian lao động xã hội cần thiết. Như vậy, nhờ phân biệt được tính hai mặt của lao động mà đã có cơ sở để hoàn thiện lý luận giá trị lao động và khẳng định chính lao động trừu tượng là nguồn gốc của giá trị, nó tạo nên giá trị. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Ngoài ra, cũng nhờ việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động trong sản xuất đã giúp Mác tìm ra sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến, là cơ sở cho việc khẳng định chỉ có lao động của người công nhân mới tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Từ những điều trên, có thể phân tích một cách khoa học các lý luận kinh tế khác, trong đó có lý luận giá trị thặng dư, lý luận này đã vạch rõ được nguồn gốc giá trị thặng dư, từ đó phân tích một cách sâu sắc bản chất bóc lột tinh vi của chủ nghĩa tư bản, đó là bóc lột không công của người công nhân làm thuê. Lý luận giá trị thặng dư được coi là hòn đá tảng trong học thuyết kinh tế chính trị của C.Mác, từ lý luận này đã đưa đến hàng loạt các khái niệm, những phạm trù của kinh tế chính trị học của Mác. Từ tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa dẫn tới việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến, Mác đã nghiên cứu quá trình tích lũy tư bản, xem xét mối quan hệ giữa chúng, từ đó đưa ra được cấu tạo hữu cơ của tư bản. Như vậy, việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa chính là cốt lõi, là cơ sở để hoàn thiện lý luận giá trị-lao động, để xây dựng lý luận giá trị  thặng dư và từ đó góp phần hình thành nên các phạm trù của kinh tế chính trị.

Học thuyết giá trị thặng dư, một trong hai phát kiến vĩ đại của C. Mác, đó là kết quả của một công trình tiến hành trong suốt cuộc đời nhằm nghiên cứu quy luật vận động của xã hội tư bản. Học thuyết này đã đưa ra những kết luật hoàn chỉnh nhất về xã hội tư bản:

  • Một là, vạch ra quy luật vận động kinh tế của xã hội tư bản- quy luật giá trị thặng dư, và từ đó vạch ra bản chất bóc lột của xã hội tư bản.
  • Hai là, làm rõ địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong lịch sử nhân loại; làm rõ vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người lãnh đạo cuộc đấu tranh để lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng chế độ xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa”.

Sự phát triển kinh tế và chính trị của thế giới từ nửa sau thể kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, đã làm xuất hiện nhiều luồng ý kiến khác nhau đối với học thuyết kinh tế của Mác. Đặc biệt từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, hệ thống chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, các thế lực thù địch đã hí hửng và ráo riết tìm mọi cách để tấn công vào chủ nghĩa C.Mác, đặc biệt là lý luận giá trị thặng dư. Bởi vì, chúng nhận thức rất rõ rằng, lý luận giá trị thặng dư là hòn đá tảng của toàn bộ học thuyết kính tế của Mác, nếu bác bỏ được lý luận giá trị thặng dư sẽ đánh đổ được toàn bộ học thuyết kinh tế của Mác, từ đó tước bỏ được vũ khí lý luận cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thực hiện mưu đồ dập tắt phong trào cách mạng của những người cộng sản chân chính.

Những quan điểm phê phán, hoài nghi hoặc phủ định học thuyết kinh tế của C.Mác chủ yếu tập trung vào phần lý luận giá trị thặng dư, từ phương pháp nghiên cứu- phương pháp trừu tượng hóa khoa học đến các luận điểm cụ thể, cơ bản của học thuyết ấy như: máy móc có tạo ra giá trị hay không; lao động trí tuệ, lao động quản lý có vai trò như thế nào trong quá trình sản xuất và quá trình tạo ra giá trị; chủ nghĩa tư bản ngày nay có còn dựa trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê hay không; về sứ mệnh cải tạo thế giới của giai cấp công nhân…

Song suy cho cùng, các luận điệu đó dù có lập luận, xuyên tạc như thế nào đi nữa, họ cũng không thể phủ nhận một thực tế có tính chất bản lề rằng: quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn dựa trên chế độ chiếm hữa tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất , và do đó bản chất của xã hội tư bản vẫn không thay đổi, vẫn là: toàn bộ xã hội tư bản bóc lột toàn bộ giai cấp công nhân dưới phạm trù giá trị thặng dư và quy luật giá trị thặng dư vẫn là quy luật tuyết đối của chủ nghĩa tư bản.

Chương 3: Ý NGHĨA VÀ SỰ VẬN DỤNG THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1 Thực tiễn Hàng hóa sức lao động ở Việt Nam:

Ở Việt Nam hiện nay sức lao động là hàng hóa vì :

  • Hàng hóa sức lao động là khái niệm phạm trù chịu sự chi phối của văn hóa lịch sử.
  • Lý thuyết lợi thế so sánh cho phép ta chọn cách tốt nhất.
  • Hàng hóa sức lao động gắn liền với kinh tế thị trường.

Trong thực tiễn :

Đối với nhà nước thì nhà nước cần phải ban hành đầy đủ luật pháp, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho cả người lao động và người sử dụng lao động.

Đối với doanh nghiệp: doanh nghiệp phải quan tâm đến người lao động, tiền lương phải cho người lao động đủ sống, có biện pháp kế hoạch bố trí phân công lao động hợp lý, tổ chức lớp học nâng cao tay nghề, tuyên truyền pháp luật.

Đối với người lao động: người lao động phải không ngừng học tập nâng cao kiến thức để tăng khả năng cạnh tranh so sánh, đòi hỏi học tập suốt đời.

Hiện nay nước ta đang thuộc thời kỳ dân số vàng vì 40% dân số có số tuổi từ 60 tuổi trở lên, do đó nhà nước ta đang khuyến khích nên duy trì dân số ở mức sinh thấp hợp lý để đáp ứng được nguồn lao động cho xã hội. Cơ cấu dân số vàng là thách thức nhiều hơn cơ hội, đặt ra những thách thức gay gắt đối với sự phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta trong thời gian tới, đó là các vấn đề trong việc tạo công ăn việc làm, bảo hiểm xã hội, an ninh trật tự, an ninh lương thực, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, giáo dục…

3.2  Thực tiễn vấn đề “sản xuất giá trị thặng dư” ở Việt Nam: Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Sản xuất giá trị thặng dư là phạm trù bị chi phối bởi văn hóa lịch sử xã hội, là sản phẩm gắn liền với kinh tế thị trường. Nếu không có sản xuất giá trị thặng dư thì sẽ không có tích lũy tư bản sẽ không có tái sản xuất mở rộng khi đó kinh tế xã hội sẽ trì trệ không phát triển.

Chiếm đoạt giá trị thặng dư là động lực thúc đẩy các nhà tư bản doanh nghiệp hăng hái tham gia sản xuất,bên cạnh đó cũng do theo đuổi giá trị thặng dư đưa đến mâu thuẫn đối kháng giữa hai giai cấp công nhân và nhà tư bản. Hiện nay việc chiếm đoạt giá trị thặng dư mang tính toàn cầu, ở Việt Nam vấn đề đặt ra vai trò của nhà nước trong nền kinh tế hàng hóa giải quyết mâu thuẫn giữa tăng trưởng cao và công bằng xã hội, nếu tăng trưởng cao thì đưa đến sự bất bình đẳng còn nếu công bằng xã hội thì xã hội trì trệ, chậm phát triển. Do đó vai trò của nhà nước là phải vừa kích thích tăng trưởng vừa đảm bảo công bằng xã hội, đòi hỏi phải có chế độ xã hội ưu việt.

3.3 Sự vận dụng học thuyết giá trị thặng dư đối với công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, Việt Nam chúng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành tựu đạt được, thì vẫn còn không ít những khó khăn, trở ngại, do đó trở thành trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Những người có tư tưởng đối lập đã lập luận rằng: xây dựng CNXH mà lại thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, thực hiện chính sách mở cửa, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển tức là ở Việt Nam thừa nhận lý luận giá trị thặng dư và toàn bộ chủ nghĩa Mác – Lênin đã bị phá sản. Những người có “thiện chí” hơn thì tỏ ra “khách quan” và cho rằng: lý luận giá trị thặng dư của Mác ra đời từ thế kỷ XIX, vào lúc CNTB còn đang là CNTB “cổ điển”, còn nhiều tính chất hoang dã, thiếu tính nhân văn, là sản phẩm của văn minh cơ khí; ngày nay bước sang thời kỳ mới – thời kỳ hậu công nghiệp thì lý luận giá trị thặng dư của Mác đã hết sứ mạng lịch sử và không còn phù hợp nữa Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Khi nghiên cứu, vận dụng học thuyết giá trị thăng dư vào sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phải quán triệt tư tưởng của Mác, đó là: phải đặt trong mối quan hệ giữa cái “bất biến” và cái “khả biến” trong việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư. Cái bất biến chính là tính khoa học bền vững của lý luận giá trị thặng dư, nhưng tính khoa học đó cần phải được vận dụng sáng tạo và phải đặt trong những điều kiện lịch sử nhất định của thực tiễn sinh động (tức là cái khả biến). Hay như Lênin đã căn dặn rằng: Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là cái gì đó đã xong xuôi và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phát triển hơn nữa mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Như vậy chính những người sáng lập và đặt nền móng cho sự tồn tại của chủ nghĩa Mác- Lênin cũng đã chỉ dẫn và nhắc nhở chúng ta cần phải nghiên cứu, xem xét, bổ sung, hoàn chỉnh chủ nghĩa Mác nói chung, lý luận giá trị thặng dư nói riêng cho phù hợp với những điều kiện, những mối quan hệ hiện thực cụ thể, chứ không phải vận dụng nó một cách máy móc, khô cứng hay để phê phán, phủ nhận nó…

Như vậy, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay không hề phủ nhận lý luận giá trị thặng dư, mà ngược lại, lý luận giá trị thặng dư của Mác vẫn giữ nguyên giá trị.

Đồng thời, nghiên cứu vận dụng Học thuyết giá trị thặng dư vào phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần chú ý một số vấn đề sau đây:

Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều và xơ cứng cũ. Bởi lẽ trong thời kỳ quá độ quan hệ sản xuất cũ chưa bị thủ tiêu hoàn toàn và quan hệ sản xuất mới chưa thể chiến thắng toàn diện. Do vậy, càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó

Hai là, phải biết khai thác những di sản lý luận của học thuyết giá trị thặng dư để đẩy mạnh phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta. Học thuyết giá trị thặng dư của Mác được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu lịch sử nền sản xuất hàng hóa, đặc biệt là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao dưới chủ nghĩa tư bản. Cho nên chính C. Mác chứ không phải ai khác, là một trong những nhà nghiên cứu sâu sắc về kinh tế thị trường. Mặc dù nền kinh tế hàng hóa ở nước ta có tính đặc thù của nó (sản xuất nhỏ, đang từng  bước vươn lên sản xuất lớn…), song đã là kinh tế hàng hóa thì ở đâu cũng đều có tính phổ biến, cũng phải nói đến giá trị và giá trị thặng dư. Cho nên việc nghiên cứu những công cụ, chính sách làm tăng gía trị và giá trị thặng dư cho xã hội tư bản có ý nghĩa cả lý luận và thực tiễn to lớn đối với phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đặc biệt là nghiên cứu 2 phương pháp bóc lột giá trị thặng dư dưới chủ nghĩa tư bản mà C. Mác đã chỉ ra để từng bước áp dụng, đổi mới khoa học công nghệ, đào tạo và đào tạo lại tay nghệ người lao động.. .từng bước nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, để hàng hóa nước ta đủ sức cạnh tranh trên thị trường cả trong và ngoài nước vươn lên phát triển nền kinh tế hàng hóa lớn.

Ba là, trong đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước  hiện nay, để thực hiện mục tiêu: dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta cần khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, theo phương châm: ai làm giàu hợp pháp thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh, ai làm giàu bất hợp pháp thì bị xử phạt thông qua các công cụ, chế tài và pháp luật của Nhà nước. Trong nhận thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính là mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội thì phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để, một mặt chống thất thu thuế, mặt khác bảo đảm sự “công bằng” thông qua điều tiết thu nhập xã hội thông qua các “kênh” phân phối lại , nhất là sử dụng linh hoạt và có hiệu quả các quỹ phúc lợi xã hội của cả chính phủ và các tổ chức, các nhân phi chính phủ trong và ngoài nước.

Bốn là, khai thác giá trị lý luận của C. Mác nói về quá trình tổ chức sản xuất và tái sản xuất tư bản chủ nghĩa với tính cách là một nền sản xuất lớn gắn với quá trình xã hội hóa ngày càng cao nhằm tạo ra khối lượng giá trị thặng dư ngày càng lớn. Trên cơ sở những gì được coi là tất yếu của quá trình lịch sử tự nhiên, đặc biệt là về mặt tổ chức- kinh tế, vận dụng vào phát triển nền kinh tế nước ta thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sản xuất theo hướng  sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.

3.4 Liên hệ tư bản thương nghiệp ở Việt Nam hiện nay: Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Thương nghiệp Việt Nam, vốn ra đời và tồn tại từ lâu, đã được đặt vào một hoàn cảnh thuận lợi để phát triển và đóng góp cho nước nhà. Thương nghiệp Việt Nam phải gắn liền với truyền thống thương mại Việt Nam và là một thuộc tính tất yếu của đời sống xã hội. Với lợi thế về giao thông cả về đường thuỷ lẫn đường bộ, cũng như nhu cầu tự thân của đời sống, các hoạt động thương mại xuất hiện rất sớm trong văn hóa Việt Nam. Các dấu vết khảo cổ tại di chỉ văn hóa Đông Sơn, Óc Eo, đều phát hiện những sản phẩm mang dấu tích nước ngoài. Và ngược lại, các nhà khoa học cũng đã phát hiện nhiều sản phẩm của Việt Nam ở nước ngoài.

Trong xã hội phong kiến,thương nghiệp không được coi trọng, tầng lớp thương nhân bị xếp vào thứ hạng cuối cùng theo thứ tự SĨ, NÔNG, CÔNG, THƯƠNG. Các nhà nước phong kiến Việt Nam, vì nguồn gốc kinh tế chính trị xã hội của mình đã phải ức thương, coi trọng nông nghiệp để duy trì sự ổn định. Các thế hệ người Việt Nam ý thức rất rõ “Phi thương bất phú, phi công bất hoạt, phi trí bất hưng và phi nông bất ổn” (tức là không buôn bán thì không giàu có được, không làm nghề thủ công công nghiệp thì xã hội không năng động, không có kiến thức thì không hưng thịnh, không có nông nghiệp thì không ổn định). Song vì muốn duy trì sự ổn định, nên nhà nước phong kiến chỉ cho phép một thứ phát triển, đó là nông nghiệp, nhằm phục vụ cho quyền lực chính trị của mình. Trên thực tế, bản thân nền sản xuất nông nghiệp tiểu nông vẫn có nhu cầu trao đổi, buôn bán. Nhiều ngôi chợ đã được mọc lên nhằm giải quyết nhu cầu ấy. Buôn bán ngoại thương thời kỳ đó cũng dần phát triển.

Tất nhiên, trên nền tảng kinh tế tiểu nông, đặc biệt là sự kìm hãm có ý thức của chính quyền phong kiến trung ương thì thương mại không thể phát triển mạnh. Sự may rủi trong buôn bán vốn đã lớn, thì trong chế độ phong kiến tập quyền lại càng lớn hơn. Một loạt hệ thống hạch sách, ngăn sông cấm chợ, hệ thống tuần ti mọc lên khắp triền sông. Người kinh doanh luôn đối mặt với nguy cơ mất cả vốn lẫn lãi. Chính quyền phong kiến, mỗi lần muốn chứng tỏ sự quan tâm phát triển kinh tế, lại cắt giảm tuần ti. Và đến khi cần tiền lại tăng cường lực lượng hạch sách này.

Đến cuối thế kỷ 19 đầu 20, khi thực dân Pháp hoàn thành xâm chiếm và bắt đầu khai thác, xã hội Việt Nam bị phân hoá mạnh mẽ. Giai cấp tư sản ra đời, họ đầu tư vào kinh doanh, buôn bán. Hàng loạt cuộc vận động cải cách, canh tân đất nước thời đó đều đề cao thương mại. Nhà cải cách Nguyễn Trường Tộ đã đề xuất những việc cần làm ngay trong đó có ý tưởng dùng thương mại, trao đổi buôn bán bên ngoài như một biện pháp quan trọng nhằm tích góp cho đất nước. Cũng trong thời kỳ này, nhân vật nổi tiếng như Đặng Huy Chứ, được lệnh của triều đình đã tự đi buôn ở nước ngoài và lập ra công ty Bình Chuẩn nhằm đưa ra giá trị chung để điều tiết hoạt động thương mại của cả nước.

Như vậy, vào đầu thế kỷ 20, thương mại Việt Nam được đặt trong hoàn cảnh phát triển mới, có sự tác động của tư bản phương tây, với điều kiện kinh doanh rộng rãi hơn song cũng cạnh tranh gay gắt hơn. Nét đáng chú ý là hoạt động thương mại của Việt Nam thời ấy còn gắn liền với tinh thần dân tộc, yêu nước. Họ kinh doanh để tạo vốn ra nước ngoài hoạt động. Điển hình như ông vua đường thủy Bạch Thái Bưởi, với một đội thuyền vận tải hùng hậu, luôn đề cao tinh thần dân tộc, kêu gọi sự ủng hộ của dân chúng để cạnh tranh lại với giới tư sản phương tây vốn có quá nhiều lợi thế. Hàng loạt nhà thương nghiệp khác, dù sớm hay muộn, đều gắn liền hoạt động kinh doanh của mình với vận mệnh dân tộc. Và trong bối cảnh cạnh tranh bất bình đẳng như vậy, sự thành công ban đầu của các doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ 20 là đáng ghi nhận và tôn vinh.

Thương mại Việt Nam thực sự lóe sáng và được tạo điều kiện phát triển khi cách mạng thành công. Từ sau cách mạng tháng Tám, Đảng và nhà nước chủ trương xây dựng nền thương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Tuy còn non trẻ, lại phát triển trong điều kiện có chiến tranh nhưng nền thương nghiệp mới đã có những đóng góp to lớn trong suốt thời kì chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.

Thành tựu lớn nhất có ý nghĩa chính trị – xã hội là Việt Nam đã chuyển hướng thương nghiệp vào lợi ích của nhân dân, phục vụ kháng chiến. Theo đó, nền thương nghiệp được tổ chức lại. Ngành nội thương bảo đảm luân chuyển hàng hoá phục vụ tiêu dùng trong xã hội và chuyển ra cho tiền tuyến. Ngành ngoại thương làm tròn nhiệm vụ trao đổi, tiếp nhận hàng hoá từ các nước bạn, kịp thời đáp ứng tình hình kinh tế đất nước trong thời chiến. Hình ảnh các cô mậu dịch viên trở thành thân quen đối với mọi người dân thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Tuy vậy, do hạn chế có tính lịch sử, thương nghiệp trước 1975 vẫn còn mang nặng cơ chế tập trung, bao cấp. Từ sau 1975, khi cả nước chuyển sang giai đoạn xây dựng, phát triển và hoà nhập vào kinh tế thế giới thì cơ chế đó bộc lộ rõ những nhược điểm của nó. Nhược điểm quan trọng là quan hệ phân phối không phù hợp với trình độ sản xuất và lực lượng sản xuất hiện có của chúng ta. Quá trình đẩy quan hệ sản xuất đi trước một bước khi lực lượng sản xuất chưa cho phép đã làm cho nền thương nghiệp chựng lại và có chiều hướng tuột dốc. Thêm vào đó, hai nhược điểm cơ bản của thương nghiệp truyền thống (GIAN và DỐI) vốn chưa được chú ý khắc phục thì, nay lại có cơ hội trỗi dậy, đẩy nhanh sự suy thoái của thương nghiệp và cả nền kinh tế nước nhà.

Từ sau đổi mới, thương nghiệp nước nhà đã có những chuyển biến tích cực. Đảng chủ trương “Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Để thực hiện được chủ trương đó, chúng ta đang ra sức xây dựng những luật định cần thiết cho lĩnh vực kinh doanh và xây dựng hành lang pháp lí để các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài vào làm ăn ở Việt Nam hoạt động có hiệu quả. Các điều luật về kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực thương nghiệp phải tập trung vào việc hạn chế tối đa những nhược điểm có tính truyền thống của thương nghiệp Việt Nam.

Có như vậy, chúng ta mới giữ được chữ “TÍN” với khách hàng trong bối cảnh kinh tế nước nhà đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Sự chiến thắng hoàn toàn của phương cách kinh doanh khoa học, có đạo đức đối với lối làm ăn cẩu thả, gian dối là sự sống còn của nền thương nghiệp Việt Nam trong thời kì hội nhập kinh tế thế giới. Điều này đòi hỏi hệ thống quản lí nhà nước phải có thái độ kiên quyết, cứng rắn trong quá trình xử lí các sai phạm của gian thương và những doanh nhân muốn nhanh chóng làm giàu bằng con đường bất chính. Qua hơn 20 năm đổi mới, thương nghiệp Việt Nam đã có diện mạo mới và từng bước khẳng định đẳng cấp trong nền kinh tế thế giới. Việc khởi xướng phong trào tôn vinh doanh nhân thành đạt đã tạo đà cho thương nghiệp phát triển đồng thời khuyến khích doanh nhân vươn lên làm giàu một cách chính đáng. Các doanh nhân đã có nhiều đóng góp tích cực cho nền kinh tế nước nhà. Trong thực tế, chính hiệu quả kinh doanh và những hoạt động xã hội của giới doanh nhân đã làm thay đổi cách nhìn của xã hội về tầng lớp thương nhân nói chung. Do có sự thay đổi cơ cấu thành phần kinh tế và vai trò của các thành phần kinh tế, trong xã hội hiện đại sẽ không còn sự “xếp hạng” giai tầng như trước đây; và thương nhân với tư cách là những “chiến sĩ” trên thương trường quốc gia và quốc tế, đã và đang được cả xã hội quan tâm, khuyến khích.

Có thể nói rằng, hiện nay, thương nghiệp đang từng ngày, từng giờ góp phần tích cực vào quá trình làm cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tuy còn nhiều vấn đề cần tháo gỡ nhưng, nhìn đại thể, thương nghiệp Việt Nam đã có những bước đi vững chắc và đang tiếp tục phát triển trong một môi trường xã hội – chính trị có nhiều thuận lợi nhất so với trước đây.

3.5 Liên hệ tư bản cho vay ở Việt Nam hiện nay: Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Ngành ngân hàng năm 2013 nhìn chung vẫn còn nhiều sóng gió. Nhưng so với năm trước, tình hình hệ thống ngân hàng đã được cải thiện đáng kể. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Thời gian qua, dù lãi suất huy động liên tục giảm mạnh và không phải lúc nào cũng “kịch trần”, cụ thể NHNN đã giảm 2% các mức lãi suất điều hành; giảm 3%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn với lĩnh vực ưu tiên; giảm 1% lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi và từ cuối tháng 6 cho phép các tổ chức tín dụng (TCTD) tự ấn định lãi suất huy động kỳ hạn từ 6 tháng trở lên nhưng người dân vẫn tiếp tục gửi tiền vào với kỳ hạn dài bởi đây vẫn là kênh đầu tư an toàn và hiệu quả nhất so với các kênh đầu tư khác hiện nay. Tính đến cuối tháng 12/2013, tiền gửi VND của dân cư vẫn tăng 15,61%. Các giải pháp tín dụng tiếp tục được điều hành linh hoạt hơn theo hướng “tái tạo” đường cong lãi suất, mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn hoạt động của TCTD, phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, đồng thời tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Nhờ đó, cuối tháng 12/2013, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống gần sát mục tiêu 12%.

Cùng với điều chỉnh nhanh lãi suất, NHNN cũng sử dụng các công cụ cung tiền hợp lý như thị trưởng mở, mua vào ngoại tệ… và tốc độ tăng trưởng tín dụng khớp với mục tiêu đề ra (khoảng 12%) nên đã kiểm soát lạm phát khá thành công ở mức 6,04% – mức tăng thấp nhất trong vòng 10 năm trở lại đây.

Dấu ấn quan trọng của ngành ngân hàng năm qua là sự ra đời của công ty quản lý tài sản của các TCTD (VAMC). Sau thời gian dài chuẩn bị, ngày 9/7/2013, VAMC được thành lập, ngày 26/7/2013 NHNN tổ chức ra mắt VAMC và ngày 1/10/2013 VAMC bắt tay vào mua món nợ xấu đầu tiên của Agribank.

VAMC ban đầu mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt. Trái phiếu này được TCTD mang lên NHNN vay với lãi suất tái cấp vốn thấp hơn 2% so với lãi suất tái cấp vốn do NHNN quy định tại từng thời điểm. TCTD được vay tái cấp vốn tối đa bằng 70% giá trị trái phiếu đặc biệt.

Bên cạnh sự ra đời của VAMC, các TCTD cũng đẩy mạnh tự giải quyết nợ xấu bằng nguồn dự phòng, tái cơ cấu nợ theo Quyết định 780, đến nay tỷ lệ nợ xấu đã giảm còn 4,55% trên tổng dư nợ, từ mức 4,73% vào tháng 10. Tốc độ tăng nợ xấu cũng đã chậm lại, chỉ còn 2,2%/tháng, thay vì 3,91%/tháng trong năm 2012.

Việc xử lý nợ qua VAMC cũng đã có những tiến triển nhất định. Tính đến ngày 24/12, VAMC đã mua được gần 32.000 tỷ đồng dư nợ gốc của gần 30 TCTD. Dự kiến, năm 2014 VAMC sẽ mua khoảng 100-150 nghìn tỷ đồng. Nhờ nỗ lực của Chính phủ, NHNN cũng như sự quyết liệt của từng TCTD trong việc xử lý nợ xấu, nên tỷ lệ nợ xấu đã giảm mạnh từ mức 8,86% tổng dư nợ cuối năm 2012 xuống còn 4,55% đến tháng 11/2013

Quá trình tái cơ cấu ngân hàng đã đạt được những kết quả ban đầu đáng khích lệ theo đúng mục tiêu đã được Chính phủ cũng như NHNN xác định. Tuy nhiên, dù nhìn vào các con số thì có thể thấy rằng nợ xấu đang giảm đi nhưng mức độ giảm thực tế ra sao thì vẫn chưa thể đánh giá được, bởi việc xử lý nợ xấu phụ thuộc nhiều vào các điều kiện kinh tế vĩ mô và thị trường, trong khi tiêu thụ hàng hoá còn chậm, năng lực tài chính và khả năng trả nợ của doanh nghiệp còn thấp. Thị trường BĐS chậm phục hồi, TTTC trì trệ càng gây khó khăn cho việc bán, xử lý TSBĐ tiền vay để thu hồi nợ. Trong khi đó các giải pháp điều hành kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho SXKD, hỗ trợ thị trường BĐS luôn có độ trễ và cần phải có thời gian phát huy tác dụng. Đã vậy, các giải pháp xử lý nợ xấu lại chưa được triển khai đồng bộ mà chủ yếu vẫn là TCTD tự xử lý nợ xấu nên đã làm giảm mức độ lành mạnh tài chính, hiệu quả kinh doanh của TCTD trong ngắn hạn. Cơ chế, chính sách xử lý TSBĐ còn nhiều rất vướng mắc, phức tạp, chậm được khắc phục, hoàn thiện để tạo điều kiện thuận lợi cho xử lý nợ xấu. Bên cạnh đó, hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) trong lĩnh vực ngân hàng diễn ra sôi động.

WesternBank sáp nhập với PVFC thành PvcomBank; nhóm nhà đầu tư mới mua 85% cổ phần của TrustBank và đổi tên thành Ngân hàng Xây dựng Việt Nam; UOB của Singapore chính thức tìm hiểu GPBank và có thể mua đứt ngân hàng này; HDBank mua công ty tài chính SGVF của Pháp và sáp nhập DaiABank vào HDBank, nhiều ngân hàng đang tìm nhà đầu tư nước ngoài để bán cổ phần như Sacombank, HDBank, MB, ABBank, SouthernBank…

Tháng 5/2013 gói 30.000 tỷ đồng cho vay hỗ trợ nhà ở mới ra đời. Gói này được kỳ vọng sẽ giải cứu thị trường bất động sản. Tuy nhiên, thay cho dự báo giải ngân 15.000 – 17.000 tỷ đồng ngay trong năm 2013, sau 6 tháng số tiền giải ngân chiếm chưa tới 2%, khiến gói này được báo giới đánh giá thất bại trong năm 2013. Cái khó, chính là điều kiện cho vay được “siết” khá chặt, quy trình quản lý còn quá chặt chẽ, từ chỗ xác nhận về diện tích nhà ở, thu nhập vào diện được vay vốn… cộng thêm nhiều ngân hàng không nhiệt tình lắm với việc giải ngân này bởi khá nhiều doanh nghiệp bất động sản muốn vay không còn khả năng trả nợ.

Bên cạnh việc cơ cấu cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng vẫn còn nhiều yếu tố bất cập xuất hiện trong thời gian qua. Viện KSND tối cao đã “điểm danh” 10 đại án tham nhũng, trong đó có 8 đại án liên quan tới lĩnh vực ngân hàng và đang được đưa ra xét xử. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Vụ đại án tham nhũng tại Công ty cho thuê tài chính II thuộc Agribank (ALC II) làm thất thoát gần 532 tỷ đồng của Nhà nước được xét xử hồi tháng 11 với 2 án tử hình. Vụ Huỳnh Thị Huyền Như và 22 đồng phạm chiếm đoạt hơn 4.900 tỷ đồng, vụ bầu Kiên cùng 6 đồng phạm gây thiệt hại gần 1.700 tỷ đồng.

Bên cạnh xét xử các đại án, Cơ quan điều tra Bộ công an cũng đã bắt giữ hàng loạt các cán bộ ngân hàng vì chiếm đoạt tài sản, lừa đảo, lợi dụng tín nhiệm… Điển hình như bắt lãnh đạo chi nhánh của các ngân hàng ABBank, VDB, LienVietPostBank, Vietcombank, Sacombank… vì liên quan đến công ty Phương Nam (cựu chủ tịch Phương Nam bỏ trốn sang Mỹ để loại khoản nợ hơn 1.500 tỷ đồng) hay một loạt cán bộ của Agribank vì làm giả hồ sơ, làm chứng từ khống chiếm đoạt tài sản… Việc các ngân hàng thay đổi nhân sự cấp cao là bình thường nhưng năm 2013 sự thay đổi này lại diễn ra như một làn sóng ồ ạt.

Điển hình là VIB thay 2 Tổng giám đốc chỉ trong 3 tháng (nếu tính cả Quyền tổng giám đốc thì thay đổi 3 lần); SCB, NamABank cũng thay Tổng giám đốc; Eximbank thay Tổng giám đốc và một loạt nhân sự cấp cao khác sau khi nguyên Tổng giám đốc được bổ nhiệm làm Phó chủ nhiệm UBGSTCQG; TrustBank thay đổi HĐQT; Vietcombank có tổng giám đốc mới sau khi tổng giám đốc cũ lên làm phó Thống đốc; Techcombank thay CEO ngoại bằng một Tổng giám đốc nội…

Ngoài ra, làn sóng cắt giảm nhân sự cấp thấp và cấp trung cũng diễn ra ồ ạt. Trong năm, ACB cắt giảm hơn 1.000 nhân sự, riêng quý 3 là hơn 700 người; Maritimebank tuyên bố giảm hơn 1.400 nhân sự; Eximbank có kế hoạch giảm 1.000 nhân sự; SHB giảm hơn 300 người; Vietcombank giảm gần 200 nhân viên; nhiều ngân hàng thay nhân sự không làm được việc bằng những người mới có trình độ nghiệp vụ tốt…Cùng với giảm nhân sự, năm 2013 nhiều ngân hàng cũng cắt giảm lương của nhân viên từ 10 – 20% để tiết giảm chi phí hoạt động.

Nền kinh tế khó khăn, hàng tồn kho cao nên doanh nghiệp hạn chế vay vốn ngân hàng, các doanh nghiệp không tiếp cận được vốn do điều kiện vay không đáp ứng thì hoạt động sa sút, phá sản buộc các ngân hàng phải giảm lãi suất cho vay khiến chênh lệch lãi suất huy động và cho vay giảm xuống, tăng trưởng tín dụng thấp, giải quyết nợ xấu tăng cao và trích lập dự phòng đầy đủ trong bối cảnh nợ xấu của các ngân hàng đều tăng khiến cho lợi nhuận của ngân hàng tiếp tục lao dốc, có đến 17% tổ chức tín dụng lỗ trong năm 2013.

3.6 Thị trường chứng khoán ở Việt Nam và vận dụng học thuyết giá trị thặng dư vào thực tiễn hoạt động TTCK:

 Sự hình thành và hoạt động của Thị trường Chứng khoán Việt Nam

Ngày 11/07/1998, Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức được khai sinh. Cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ cũng ký Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Hai năm sau, vào ngày 28/07/2000, phiên giao dịch đầu tiên với 2 mã cổ phiếu niêm yết đã chính thức được tổ chức tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của Thị trường chứng khoán Việt Nam.

Đến nay đã có gần 100 công ty chứng khoán thành viên, 48 công ty quản lý quỹ,và hàng trăm công ty niêm yết trên cả hai sàn. TTCK Việt Nam về cơ bản đã có các hoạt động tương tự các TCKT khác trên thế giới. TTCK Việt Nam là một bộ phận quan trọng của thị trường vốn, hoạt động chính của nó là nhằm huy động những nguồn vốn trong xã hội tập trung thành nguồn vốn lớn tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và Chính phủ để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu tư.

TTCK Việt Nam là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán. Việc mua bán được tiến hành ở hai thị trường sơ cấp và thứ cấp. Thị trường sơ cấp là nơi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, còn thị trường thứ cấp là nơi diễn ra sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Hàng hóa giao dịch trên TTCK bao gồm: các cổ phiếu, trái phiếu và một số công cụ tài chính khác.

Thị trường chứng khoán thực hiện các chức năng chủ yếu sau:

  • Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế;
  • Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng;
  • Cung cấp khả năng thanh toán cho các chứng khoán;
  • Đánh giá giá trị doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế;
  • Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô.

Các hình thức của thị trường :

  • Thị trường tập trung
  • Thị trường phi tập trung (OTC);

Vận dụng Giá trị thặng dư vào hoạt động thực tiễn của TTCK

TTCK là một bộ phận của nền kinh tế, thực hiện chức năng luân chuyển nguồn vốn từ đối tượng thừa vốn sang đối tượng thiếu vốn, thực hiện chức năng tập trung nguồn vốn, tài trợ, thu hồi vốn. Vì vậy, TTCK là một phần quan trọng trong quá trình luân chuyển Giá trị thặng dư (GTTD) từ hoạt động sản xuất sang các chủ thể sở hữu vốn.

GTTD không thể xuất hiện trong lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. TTCK không là nơi tạo ra GTTD, nhưng là nơi giá trị thặng dư được luân chuyển thông qua các hoạt động luân chuyển vốn, phân phối lại lợi nhuận trên TTCK.

Các hoạt động trên TTCK và mối liên hệ với GTTD:

  • Phát hành cổ phiếu lần đầu: đây là hoạt động của công ty thực hiện bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng để tạo lập vốn chủ sở hữu. Đây là hoạt động góp vốn để đầu tư vào một công ty của những người mua cổ phiếu, chỉ là hiện tượng tích lũy và đầu tư tư bản, chưa tạo ra và luân chuyển GTTD.
  • Phát hành thêm cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu (cổ phiếu thưởng): là việc công ty cổ phần dùng lợi nhuận tạo ra được để phát hành thêm cổ phiếu cho các cổ đông hiện hữu, nhằm duy trì tỷ lệ vốn góp của họ tại công ty. Lợi nhuận của công ty có nguồn gốc từ GTTD xuất phát từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây chính là hoạt động chiếm dụng GTTD từ quá trình sản xuất của người lao động, làm gia tăng nguồn vốn sở hữu của các nhà tư bản có vốn góp vào công ty.
  • Mua cổ phiếu quỹ: là hoạt động của công ty nhằm mua vào hoặc bán ra cổ phiếu của chính công ty mình, nhằm điều chỉnh tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của công ty hoặc điều chỉnh giá cổ phiếu trên thị trường. Đây là hoạt động điều chỉnh lại cơ cấu vốn chủ sở hữu của công ty. Nguồn tiền dùng để thực hiện hoạt động này có thể xuất phát từ lợi nhuận giữ lại, hoặc các nguồn quỹ khác của công ty, có liên hệ mật thiết đến GTTD công ty đó tạo ra được.

Lợi nhuận từ trái phiếu:

  • Nguồn trả lãi định kỳ: về bản chất, trái phiếu thể hiện khoản nợ mà người phát hành phải trả cho cho người mua trái phiếu. Vì vậy, tiền lãi trả định kỳ của chủ sở hữu phát hành trái phiếu cho người nắm giữ trái phiếu là việc trích một phần GTTD của người đi vay đối với người cho vay. GTTD ở đây được luân chuyển tương tự như trong tư bản cho vay.

Lợi nhuận từ Cổ phiếu:

  • Trả cổ tức: được trích một phần từ lợi nhuận tạo ra của công ty phát hành cổ phiếu, chính là một phần của GTTD nhà tư bản thu được.
  • Từ chênh lệch giá mua và bán cổ phiếu: đây là phần lợi nhuận không xuất phát từ GTTD, mà là từ sự mua giá thấp và bán giá cao (hoặc ngược lại). Trong giao dịch này, có một chủ thể thu lợi ích cao hơn và chủ thể khác mất đi lợi ích tương ứng.

3.7 Liên hệ tư bản địa tô ở Việt Nam hiên nay: Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Thông qua những lí luận về địa tô đã nghiên cứu ở trên , ta thấy địa tô tư bản chủ nghĩa là sự bóc lột của chủ ruộng đất đối với công nhân nông nghiệp làm thuê. Nó tồn tại ở nhiều hình thức: địa tô chênh lệch, địa tô tuyệt đối, địa tô cây đặc sản, địa tô về đất xây dựng, địa tô về hầm mỏ, địa tô về bãi cá….Ngày nay, khi đất nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những lí luận địa tô đó được Đảng và nhà nước ta vận dụng một cách sáng tạo trong thực tiễn để xây dựng đất nước giàu mạnh. Lí luận địa tô của Mác đã trở thành cơ sở khoa học để xây dựng các chính sách thuế đối với nông nghiệp và các ngành có liên quan nhằm kích thích phát triển nông nghiệp và các ngành trong nền kinh tế bằng vận dụng luật đất đai và ban hành các thông tư, nghị định. Ngày nay, đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân do Nhà nước đại diện quản lí. Nhà nước giao đất, rừng cho các tổ chức kinh tế , đơn vị vũ trang .. để sử dụng. ở đây thực hiện sự tách rời giữa quyền sở hữu với quyền sử dụng ruộng đất nhằm sử dụng tài nguyên của đất nớc một cách hiệu quả. Để bổ sung cho nguồn nhân sách và thông qua ngân sách thực hiện một số chính sách phát triển nông nghiệp những người thuê đất phải đóng thuế cho Nhà nước. Thuế này khác xa với địa tô phong kiến và địa tô t bản chủ nghĩa vì thuế này tập chung vào ngân sách mang lại lợi ích cho toàn dân, nó không mang bản chất bóc lột của địa tô phong kiến và địa tô t bản chủ nghĩa…..

Mặc dù luật pháp hiện hành đã có nhiều tiến bộ, đất đai được quản lý chặt chẽ hơn, chính sách giao quyền sử dụng ổn định lâu dài cho nông dân, thúc đẩy nông nghiệp phát triển, tuy nhiên Luật Đất đai hiện tại vẫn còn nhiều bất cập. Trong đó nổi lên một số điểm hạn chế kềm hãm sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Cụ thể về phân loại đất, chưa có quy định quỹ đất phát triển làng nghề, dịch vụ kết cấu hạ tầng nông thôn. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa quy định rõ việc phối hợp cũng như trách nhiệm của ngành NN-PTNT liên quan đến phát triển nông nghiệp, nông thôn. Việc giao đất có thời hạn đến năm 2013 đối với đất trồng cây hằng năm khiến nông dân không yên tâm đầu tư, phát triển lâu dài. Chính sách hạn điền hiện tại không khuyến khích nông dân tích tụ ruộng đất để phát triển kinh tế trang trại, nhiều trang trại khi tích tụ ruộng đất đã phải mượn người khác đứng tên sổ đỏ để tránh vượt hạn điền, khi muốn vay vốn ngân hàng thì thế chấp không được. Chính sách đất đai hiện hành cũng không khuyến khích các nhà đầu tư, các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn do thiếu cơ chế để có đất quy hoạch cho phát triển làng nghề, chăn nuôi tập trung, nuôi trồng thủy sản tập trung; chưa tạo điều cho cơ chế thị trường đất đai vận hành lành mạnh, không chỉ gây khó khăn cho phát triển sản xuất mà còn tạo điều kiện cho tham nhũng, đầu cơ làm giàu bất chính, khiến dân không đồng tình. Chính sách thu hồi đất cho các mục đích phi nông nghiệp với  cơ chế xác định giá cả đền bù chưa hợp lý, các quy định về đăng ký chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng đất rườm rà mà vẫn lỏng lẻo, việc phân cấp quản lý đất nông nghiệp dẫn đến tình trạng thu hồi đất lúa cho mục đích phi nông nghiệp đang ở mức báo động.

Riêng tại tỉnh An Giang, mặc dù là địa phương có sản lượng lúa cao nhất cả nước nhưng số hộ có diện tích đất dưới 1 ha chiếm tỷ lệ khá cao, các hộ có quy mô diện tích sản xuất lớn phải sử dụng rất nhiều giấy chứng nhận với nhiều tên khác nhau và chịu nhiều thiệt thòi trong quan hệ tín dụng, nhiều trường hợp người sang nhượng bội tín, xảy ra tranh chấp, Ngân hàng Nông nghiệp không giải quyết cho vay vốn tín dụng với lý do cần phải đợi cấp giấy mới. Nếu cơ quan chức năng xử lý không kịp thời sẽ ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất của nông dân”. Nông dân phải tự gánh chịu nhiều rủi ro, do thu hồi đất đai đền bù không thỏa đáng, thủy điện xả lũ không đúng quy trình, huy động đóng góp quá mức… làm tăng thêm khó khăn đời sống nông dân. Theo báo cáo gửi Bộ NN&PTNT của các địa phương ở miền Trung, con số nông dân bỏ ruộng lên đến hàng chục nghìn hộ dân và hàng nghìn ha đất trồng lúa hoang hóa trong mấy năm lại đây và tình trạng này đang ngày càng gia tăng. Trong năm 2012 – 2013, cả nước đã có 42.785 hộ bỏ không đất canh tác với trên 6.882 ha, có trên 3.407 hộ trả ruộng. Ruộng đất chia cho đầu người quá ít, chỉ vài sào đất, thậm chí là vài thước đất cho mỗi người, rồi thiên tai, dịch bệnh triền miên, cộng với vật tư đầu vào cho sản xuất nông nghiệp quá cao, trong lúc sản phẩm làm ra bán với giá rẻ mạt, thu không đủ bù chi… là những nguyên nhân chính khiến người nông dân bỏ ruộng. Tiểu luận: giá trị thặng dư và sự cống hiến

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464