Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng

Chia sẻ đề tài Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng cho các bạn đang chuẩn bị làm bài tiểu luận cùng nhau tham khảo nhé. Tiểu luận môn học là một trong những yêu cầu bắt buộc của các trường đại học, và Cao Học. Đối với sinh viên hay học viên tất cả các khóa học đều bắt buộc phải làm một bài tiểu luận, với đề tài bắt buộc hoặc là một đề tài cụ thể nào đó ví dư như đề tài: Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng Xã hội chủ nghĩa các bạn cùng tham khảo đề tài tiểu luận dưới đây nhé.

LỜI MỞ ĐẦU

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xó hội và con đường đi lên chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đó đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xó hội. Đại hội đã quyết định chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập chung( nền kinh tế đã kìm hãm sự phát triển của xã hội trong một thời gian khá dài) sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kinh tế tổng quát mà nước ta lựa chọn trong thời kỳ đổi mới. Nó vừa mang tính chất chung của kinh tế thị trường, vừa có những đặc thù, được quyết định bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xó hội. Đây là sự vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm trong nước và thế giới về phát triển kinh tế thị trường, là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng trong quá trình lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước. Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xó hội, nâng cao đời sống nhân dân . Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Sau 18 năm đổi mới chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu, nền kinh tế nước ta thoát ra khỏi tình trạng trì trệ, luôn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức cao.Với những thành tựu đã đạt cũng đã chứng minh được phần nào bản chất nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Bên cạnh những thành tựu trên nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của chúng ta cũng còn rất nhiều khó khăn cần phải giải quyết.

Khái niệm kinh tế thị trường giờ đã trở nên rất quen thuộc đối với mỗi chúng ta. Song không phải ai cũng hiểu được bản chất nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta đã chọn. Vịêc nghiên cứu vấn đề này giúp em hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn để góp sức lực nhỏ bé của mình đưa nền kinh tế nước ta phát triển sánh ngang với các cường quốc trên thê giới. Ngoài ra đối với em là một trong những cử nhân kinh tế tương lai của đất nước thì việc nghiên cứu vấn đề này lại càng quan trọng, đặc biệt cho công việc sau này.

Để thực hiện được đề tài này em xin chân thành cảm ơn thầy, người đã cung cấp cho em những kiến rất quan trọng.Đây là đề tài tương đối rộng mà kiến thức của em còn hạn chế nên trong đề tài không tránh khỏi sai sót, vì vậy em rất mong sự giúp đỡ của thầy để bài làm của em trở nên hoàn thiện hơn./

I. Những vấn đề lí luận chung về kinh tế thị trường. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

1. Kinh tế thị trường là gì ?

Lịch sử phát triển của xã hội loài người, là lịch sử phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, đồng thời cũng là quá trình thay thế lẫn nhau của các phương thức sản xuất xã hội. Nhưng bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng đều phải giải quyết 4 vấn đề cơ bản: Sản suất cái gì? Với số lượng bao nhiêu? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai và phân phối sản phẩm như thế nào? Giải quyết những vấn đề này có hai kiểu tổ chức kinh tế- xã hội, đó là: Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa

Kinh tế tự nhiên là hình thức kinh tế đầu tiên của xã hội loài người. Kinh tế tự nhiên là nền kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân của con người sản xuất trong một đơn vị kinh tế nhất định. Người sản xuất quyết định về số lượng, chủng loại sản phẩm theo yêu cầu của mình, gắn với điều kiện tự nhiên và phong tục tập quán cổ truyền. Trình độ phân công lao động, công cụ lao động, phương thức tổ chức sản xuất còn rất thấp và giản đơn: sản xuất mang tính tự cấp, tự túc, khép kín theo từng vùng từng địa phương, lãnh thổ. Trong các xã hội nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ phong kiến chủ yếu là nền kinh tế tự nhiên.

Kinh tế hàng hóa ra đời từ kinh tế tự nhiên, kế tiếp kinh tế tự nhiên trên cơ sở sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế của những người sản xuất. đó là hình thức kinh tế trong đó người sản xuất ra sản phẩm không phải để thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của mình, mà nhằm để trao đổi, để bán trên thị trường. Vì vậy số lượng và chủng loại sản phẩm suy cho cùng là do người mua quyết định. Việc phân phối sản phẩm được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi ( mua- bán) trên thị trường. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Kinh tế hàng hóa ra đời từ rất sớm- vào thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và đã từng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất. Hình thức đầu tiên của nó là nền kinh tế hàng hóa giản đơn. đó là kiểu sản xuất do những người nông dân, thợ thủ công tiến hành dựa trên cơ sở tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và sức lao động của chính bản thân người sản xuất, họ trực tiếp trao đổi sản phẩm với nhau trên thị trường.Quan hệ hàng –tiền tệ phát triển mạnh trong thời kì tan rã của phương thức sản xuất phong kiến quá độ sang chủ nghĩa tư bản . Đồng thời đó cũng là quá trình chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn lên kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa(TBCN) là hình thức sản xuất hàng hóa cao nhất, phổ biến nhất trong lịch sử,dựa trên sự tách rời tư liệu sản xuất với sức lao động. Hay nói cách khác, đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa TBCN là dựa trên cơ sở chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Nền kinh tế hàng hóa TBCN đã trải qua hai giai đoạn :kinh tế thị trường tự do (cổ điển) và kinh tế thị trường hỗn hợp(hiện đại). Như vậy với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản(CNTB) kinh tế hàng hóa giản đơn phát triển thành kinh tế hàng hóa phát triển hay kinh tế thị trường.

Nói như trên không có nghĩa là đồng nhất kinh tế thị trường với sản xuất hàng hóa TBCN. Khi nói sản xuất hàng hóa TBCN là muốn nhấn mạnh mặt xã hội của sản xuất tính chất của nến sản xuất. Còn nói kinh tế thị trường là muốn nhấn mạnh mặt tự nhiên của sản xuất dựa trên trình độ phát triển của lực lượn sản xuất.

Ngày nay, kinh tế hàng hóa đã phát triển và phổ biến trên phạm vi toàn cầu. Sản xuất hàng hóa tiếp tục tồn tại, phát triển dưới chủ nghĩa xã hội (CNXH). đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa là dựa trên cơ sở người lao động làm chủ xã hội về tư liệu sản xuất ; thực hiện tổ chức và quản lý nền sản xuất thông qua nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) – Nhà nước của dân, do dân vì nhân dân nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vật chất tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không dựa trên cơ sở người bóc lột người: mục tiêu của phát triển sản xuất, kinh doanh nhằm thực hiện công bằng tiến bộ xã hội và văn minh. Như vậy sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã xây dựng. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Tóm lại kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa. Nó khác với kinh tế tự nhiên ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ phân công lao động xã hội và cách thức tổ chức kinh tế xã hội, trong đó sản xuất và toàn bộ quá trình tái sản xuất gắn chặt với thị trường. Quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất và tiêu thụ sản phẩm biểu hiện qua thị trường , qua việc mua bán sản phẩm lao động của nhau. Việc sản xuất ra những hàng hóa gì, cần có những dịch vụ nào đều phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Mọi sản phẩm đi vào sản xuất phân phối, trao đổi , tiêu dùng đều phải thông qua thị trường.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Tiểu Luận Môn

2. Điều kiện hình thành và các bước phát triển của kinh tế thị trường.

a.Những điều kiện cơ bản để hình thành kinh tế thị trường

Thứ nhất là phải tồn tại nền kinh tế hàng hóa. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa nên những điều kiện để phát triển kinh tế hàng hóa chính là điều kiện để phát triển kinh thị trường.- Thứ hai là phải dựa trên cơ sở tự do kinh tế , tự do sản xuất xã hội kinh doanh.Trong một nền kinh tế thị trường có nhiều người cùng sản xuất một loại sản phẩm và ngược lại.Mỗi đơn vị sản xuất và người tiêu dùng cần nhiều loại sản phẩm hàng hóa khác nhau.Vì vậy việc tự do lựa chọn mối quan hệ bán hàng giữa các chủ thể kinh tế , tự do trao đổi mua bán là hết sức cần thiết cho quá trình giải phóng sức sản xuất và điều hòa lợi ích giữa người mua và người bán .Sự tự do mua bán còn thể hiện tập chung qua giá cả hình thành trên thị trường tuân theo sự chi phối của các quy luật kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hóa theo giá cả thị trường – giá cả thỏa thuận giữa người mua và người bán , là sự gặp gỡ giữa cung và cầu ,là biểu hiện tác động của quy luật giá trị .Nói đến kinh tế thị trường thì phải nói đến sự tự do cạnh tranh hay nói đúng hơn cạnh tranh là môi trường của kinh tế thị trường ,là quy luật của kinh tế thị trường Cạnh tranh đòi hỏi người sản xuất phải tích cực, năng động, nhạy bén : phải thường xuyên đổi mới kỹ thuật, công nghệ và phương pháp tổ chức sản xuất … để đạt hiệu quả cao nhất. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Thứ ba là nền kinh tế phải đạt đến một trình độ pt nhất định được thể hiện ở sự pt các ngành kinh tế thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng vật chất kĩ thuật cùng với hệ thống tiền tệ phương tiện để lưu thông hàng hóa .sự tăng cường sức mạnh các lĩnh vực công nghiệp nông nghiệp và thương nghiệp cùng các ngành sản xuất khác khẳng định sự chiến thắng cuả kinh tế thị trường đối với sản xuất nhỏ .Dựa trên cơ sở phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất ,quá trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra nhanh chóng ,cơ cấu kinh tế có sự biến đổi to lớn sự phát trỉền của thị trường được mở rộng .Lĩnh vực trao đổi không còn mức hạn hẹp trong từng vùng mà hình thành thị trường thống nhất trên phạm vi cả nước .Hệ thống các thị trường sản phẩm tư liệu sản xuất ,sức lao động tiền tệ …được xác lập và hoạt động đồng bộ.Giá trị của đồng tiền ổn định khối lượng tiền tệ đủ nhu cầu cần thiết cho việc lưu thông hàng hóa ,có hệ thống phục vụ tiền tệ(ngân hàng thương mại ,qũy tín dụng ,thị trường ngoại tệ ,thị trường chứng khoán ..)là vô cùng cần thiết để nền kinh tế vận động trôi chảy.Đồng thời hệ thống lưu thông hàng hóa …là không thể thiếu được.

Sự hình thành và phát triển của các điều kịên trên đây luôn gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất xã hội nói chung và của sản xuất trao đổi hàng hóa nói riêng .Kinh tế thị trường chỉ có thể được xác lập và pt trên cơ sở mở rộng và làm sâu sắc không ngừng những điều kiện đó .

b. Các bước chuyển biến của nền kinh tế hàng hóa.

Kinh tế hàng hóa ra đời từ nền kinh tế hàng hóa tự nhiên thay thế và đối lập vơí nền kinh tế tự nhiên .Trong lịch sử nó đã pt qua các loại hình :kinh tế hàng hóa gỉan đơn ,kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị trường hỗn hợp gắn liền với ba bước chuyển biến sau. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

-Bước chuyển từ nền kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc lên kinh tế hàng hóa giản đơn.

Bước chuyển này gắn liền với sự phát triển của phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về liệu sản xuất .Trong suốt quá trình tồn tại của nền kinh tế hàng hóa giản đơn đã diễn ra 3 lần phân công lao động xã hội lớn :lần 1 nghề chăn nuôi tách khỏi trồng trọt ,lần 2 công nghiệp tách khỏi nông nghiệp ,lần 3 thương nghịêp tách khỏi các ngành sản xuất vật chất khác.Như vậy phân công lao động xã hội đã tách sự lệ thuộc của người lao động sản xuất với tự nhiên và chuyển thành sự phụ thuộc giữa con người vớí con người trong quá trình sản xuất .Phân công lao động xã hội đã thực sự là cơ sở của sản xuất và trao đổi hàng hóa.

Đặc trưng cơ bản của giai đoạn sản xuất hàng hóa giản đơn là dựa trên cơ sở kĩ thuật thủ công tương ứng với văn minh nông nghiệp ,tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất ,cơ cấu kinh tế là nông nghiệp-thủ công nghiệp ;tính chất hàng hóa của sản phẩm chưa hoàn toàn phổ biến .

Bước chuyển từ nền kinh tế hàng hóa giản đơn lên nền kinh tế thị trường tự do

Từ giữa thế kỉ XV đến giữa thế kỉ XVII ở nứơc Anh và một số nước châu Âu diễn ra quá trình qúa độ từ chế độ phong kiến sang CNTB . Đó là thời kì tích lũy nguyên thủỷ của CNTB châu Âu thương nghiệp và đặc biệt là ngọai thương phát triển mạnh .Các lí thuyết kinh tế của trường phái trọng thương đã góp phần quan trọng vào quá trình chuyển nền kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường tự do .Sau khi tích lũy được một khối lượng tiền của lớn các nhà kinh doanh tập trung sức pt thị trường dân tộc theo nguyên tắc tự do kinh tế .Trong thời kì này vốn được đầu tư để pt các lĩnh vực công nghiệp nhẹ ,nông nghiệp và công nghiệp nặng nhằm tạo ra tiềm lực của nền kinh tế thị trường .Việc tạo ra nền đại công nghiệp cơ khí ,kết cấu hạ tầng cơ sở vật chất ,tín dụng đã pt ở một trình độ nhất định các thị trường đất đai và thị trưòng lao động được xác lập …là chỗ dựa cho sự phát triển kinh tế thị trường .Điều này có thể minh chứng bằng một ví dụ lịch sử theo Mac vào thế kỷ 17 Hà lan là nước tư bản điển hình nhưng bước sang thế kỷ 18 Hà lan đã phải nhường vị trí nền kinh tế phát triển nhất cho nước Anh.Nguyên nhân chính là ở chỗ các nhà kinh doanh Hà lan chủ trương phát triển kinh tế bằng con đường buôn bán đầu cơ, không chú trọng vào phát triển nền công nghiệp .Trong khi đó ở nước Anh các nhà kinh doanh đã biết kết hợp vốn tích lũy từ ngoài nước với điều kiện tài nguyên, lao động trong nước đầu tư vào phát triển công nghiệp nhẹ và cuối cùng là phát triển công nghiệp nặng nhanh chóng tạo ra nền đại công nghiệp đại cơ khí. Vì vậy khi nước Anh trở thành một cường quốc công nghiệp thì Hà lan vẫn chỉ là một nước cộng hòa thương nghiệp. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Như vậy đặc trương cơ bản của kinh tế thị trường tự do là dựa trên cơ sở kỹ thuật điện gắn với nền văn minh công nghiệp tồn tại những hình thức tư hữu nhỏ và tư hữu lớn về tư liệu sản xuất; Cơ cấu kinh tế nông- công- thương nghiệp tiến tới công- nông nghiệp- dịch vụ vận động theo cơ chế kinh tế thị trường tự điều chỉnh.

– Bước chuyển từ nền kinh tế thị trường tự do lên kinh tế thị trường hỗn hợp Kinh tế thị trường hỗn hợp là hình thức phát triển cao của nền kinh tế hàng hóa ở đó các chức năng cơ bản của nền kinh tế sản xuất cái gì ,bằng cách nào cho ai đều được sử lý trên nguyên tắc của cơ chế thị trường có sự quản lí vĩ mô củă nhà nước .Sự phát triển cuả kinh tế thị trường hỗn hợp diễn ra từ những năm 40-50 của thế kỉ XX đến nay nó gắn liền với sự xuất hiện và phát

Đặc trưng của kinh tế thị trường là dựa trên kĩ thuật điện tử tin học gắn với nền văn minh hậu công nghiệp hay văn minh trí tuệ , tồn tại các hình thức sở hữu nhà nứơc ,sở hữu cổ phần ,sở hữu quốc tế ,dựa trên cơ cấu kinh tế công nghịêp –dịch vụ –nông nghiệp ;vận động theo cớ chế kinh tế hỗn hợp ;cơ chế thị trường và sự quản lý vĩ mô của nhà nứơc.

3.Các nhân tố của kinh tế thị trường. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

a. Giá cả.

Giá cả thị trường là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường của hàng hóa.Giá cả thị trường có những chức năng chủ yếu sau:

(-) Chức năng thông tin :chức năng thông tin về giá cả cho người sản xuất biết được tình hình sản xuất trong các ngành,biết được tương quan cung-cầu,biết được sự khan hiếm với các hàng hóa, nhờ đó các nhà sản xuất có những quyết định thích hợp.

(-) Chức năng phân bổ các nguồn lực kinh tế : sự biến đổi về giá cả sẽ dẫn đên sự biến động của cung cầu, sản xuất và tiêu dùng và dẫn đến biến đổi trong phân bổ các nguồn lực kinh tế.

(-) Chức năng thúc đẩy cải tiến kỹ thuật: để có thể cạnh tranh được về giá cả, buộc những người sản xuất phải giảm chi phí đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Do đó thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học công nghệ và sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngoài ra giá cả còn thực hiện chức năng phân phối lại.

Giá cả thị trường phụ thuộc vào các nhân tố:

Thứ 1 : Giá trị thị trường.

Giá trị thị trường là kết quả của sự san bằng các giá trị cá biệt của hàng hóa trong cùng một ngành thông qua cạnh tranh.Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn tới hình thành một giá trị xã hội trung bình .Tùy thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của mỗi ngành mà giá trị thị trường có thể ứng với một trong ba trường hợp sau:

  • Giá trị thị trường của hàng hóa do giá trị của đại bộ phận hàng hóa sản xuất ra trong điều kiện trung bình quyết định.
  • Giá trị thị trường của hàng hóa do giá trị của đại bộ phận hàng hóa sản xuất ra trong điều kiện xấu quyết định.
  • Giá trị thị trường của hàng hóa do giá trị của đại bộ phận hàng hóa sản xuất ra trong điều kiện tốt quyết định.

Thứ hai, Giá trị của tiền . “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Giá cả thị trường tỷ lệ thuận với giá trị thị trường của hàng hóa và tỷ lệ nghịch với giá trị ( hay sức mua của tiền ).Bởi vậy khi giá trị thị trường của hàng hóa không đổi thì giá cả của hàng hóa vẫn có thể thay đổi do giá trị của tiền tăng lên hoặc giảm xuống.

Thứ ba, Cung và cầu .

Trong nền kinh tế thị trường, cung và cầu là những lực lượng hoạt động trên thị trường. Giữa cung và cầu tồn tại một mối quan hệ biện chứng ;sự tác động giữa chúng hình thành nên giá cả cân bằng hay giá cả thị trường . Thư tư : cạnh tranh trên thị trường.

Trong kinh tế thị trường các chủ thể hành vi kinh tế vì lợi ích kinh tế của bản thân mình mà tiến hành cạnh tranh với nhau. Cạnh tranh được hiểu là sự đấu tranh giữa các chủ thể hành vi kinh tế nhằm giành mục đích tối đa cho mình. Cạnh tranh là yếu tố cơ bản của kinh tế thị trường. Nó là hiện tượng tự nhiên, tất yếu của kinh tế thị trường, ở đâu có sản xuất hàng hóa thì ở đó có cạnh tranh.

b. Hàng hóa và dịch vụ: hàng hóa là những sản phẩm được làm ra để thỏa mãn nhu cầu của con người .

Đời sống con người càng nâng cao thì nhu cầu về hàng hóa của con người cũng tăng.

Trước nền kinh tế thị trường do trình độ khoa học kỹ thuật còn lạc hậu nên năng suất lao động thấp , do đó khối lượng hàng hóa nhỏ bé, chủng loại hàng hóa còn nghèo làn, chất lượng hàng hóa thấp, giá cả cao vì thế khả năng cạnh tranh còn yếu.

Trong nền kinh tế thị trường do sự cạnh tranh mà các doanh nghiệp luôn áp dụng những tiến bộ khoa học- kỹ thuật mới nhất. Do đó các sản phẩm được đưa ra thị trường với chất lượng cao , chủng loại phong phú, khối lượng lớn và giá cả thấp. Người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn các sản phẩm hàng hóa- dịch vụ mà mình mong muốn.

Cùng với sự phát triển của các loại hàng hóa ,các ngành dịch vụ cũng không ngừng được phát triển nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

c.Lợi nhuận.

Lợi nhuận là mục đích và là động cơ để các doanh nghiệp tham gia thị trường.Để cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho thị trường ,các nhà sản xuất phải bỏ vốn trong quá trình sản xuất và kinh doanh .Họ chỉ muốn chi phí đầu vào thấp nhất và bán hàng hóa với giá cao nhất để sau khi trừ đi các chi phí còn dư dôi để mở rộng và phát triển sản xuất ,củng cố và tăng cường địa vị của mình trên thị trường.

Khi tham gia vào thị trường các nhà sản xuất luôn tìm mọi cách để tối thiểu hóa chi phí sản xuất ,làm chi phí cá biệt của mình nhỏ nhất để giành ưu thế trên thị trường và thu được lợi nhuận tối đa.Để đạt được điều đó các nhà sản xuất đầu tư nghiên cứu , ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới nhất .Chính điều đó góp phần thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển.

Như vậy lợi nhuận là một trong những nhân tố quan trọng của kinh tế thị trường mà nếu thiếu nó kinh tế thị trường sẽ không thể ra đời và phát triển được.

d. Tiền tệ.

Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hóa làm vật ngang giá chung thống nhất; nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.

Lịch sử phát triển của tiền tệ là lịch sử phát triển các hình thái giá trị từ thấp đến cao, từ hình thái giá trị giản đơn cho đến hình thái đầy đủ nhất của tiền tệ, nó đã trải qua những hình thức : “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

  • (-) Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên.
  • (-) Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng.
  • (-) Hình thái chung của giá trị.
  • (-) Hình thái tiền tệ.

Bản chất của tiền tệ được thể hiện qua năn chức năng sau:

  • (-)Thước đo giá trị.
  • (-)Phương tiện lưu thông.
  • (-)Phương tiện cất trữ.
  • (-)Phương tiện thanh toán.
  • (-)Tiền tệ thế giới.

Trong nền kinh tế hàng hóa cũng như trong nền kinh tế thị trường năm chức năng này của tiền tệ có quan hệ mật thiết với nhau.

Sự phát triển các chức năng của tiền tệ phản ánh sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa.Nhờ có tiền tệ mà lưu thông trở nên thông suốt hơn, ,nâng cao sản xuất kinh doanh, xúc tiến giao lưu kinh tế ,khoa học kỹ thuật với bên ngoài, góp phần đẩy nhanh sự phát triển kinh tế …

4. Các quy luật của kinh tế thị trường.

a) Quy luật lưu thông tiền tệ

Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật quy định số lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa ở mỗi thời kì nhất định .

Khi tiền mới chỉ thực hiện chức năng là phương tiện lưu thông ,thì số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được tính theo công thức :

  • M=P.Q/V
  • Trong đó: là lượng tiền cần thíêt cho lưu thông P :là mức giá cả
  • Q :là khối lừợng hàng hóa đem ra lưu thông
  • V: là số vòng luân chuyển trung bình của một đơn vị tiền tệ

Tức :

M= Tổng giá cả hàng hóa đem ra lưu thông / số vòng luân chuyển trung bình của một đơn vị tiền tệ

Khi tiền thực hiện cả chức năng phương tiện thanh toán thì số lượng cần thiết cho lưu thông được xác định như sau :

Quy luật giá trị “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

  • Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị :

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của nó ,tức trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết .

Trong sản xuất quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phải phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết ,có như vậy họ mới có thể tồn tại được .Còn trong trao đổi hay lưu thông phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá .Hai hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau hoặc trao đổi mua bán hàng hóa phải thực hiện với giá cả bằng gía trị .

Cơ chế tác động của quy luật giá trị được thể hiện cả trong trường hợp giá cả bằng giá trị.

-Tác động của quy luật giá trị

Trong nền sản xuất hàng hóa quy luật giá trị có 3 tác động sau:

(+)Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa :

Quy luật giá trị điều tiết sản xuất hàng hóa được thể hiện trong hai trường hợp sau:

Thứ nhất ,nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị ,hàng hóa bán chạy và lãi cao những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất ,đầu tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động .Mặt khác ,những người sản xuất hàng hóa khác nhau cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này ,do đó tư liệu sản xúât và sức lao động ở ngành này tăng lên quy mô sản xuất ngày càng mở rộng. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Thứ hai,nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị sẽ bị lỗ vốn.Tình hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi ở ngành khác lại có thể tăng lên.

Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng gía trị thì người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này.

Như vậy quy luật gía trị đã tự động điều tiết tỉ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy lụât giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút hàng hóa từ nơi có giá trị thấp đến nơi có giá cả cao và do đó góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định .

(+)Kích thích cải tiến kĩ thuật ,hợp lí hóa sản xuất tăng năng xuất lao động hạ giá thành sản phẩm.

Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau nhưng trên thị trường thì các hàng hóa thì đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động cá biệt khác nhau ,nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết .Vậy người sản xuất hàng hóa nào mà có mức hao phí lao động thấp hơn mức lao hao phí lao động xã hội cần thiết thì sẽ đựơc nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hóa cải tíên kĩ thuật ,hợp lí hóa sản xuất ,cải tiến tổ chức quản lí ,thực hiền tiết kịêm …nhằm tăng năng xuất lao động ,hạ chi phí sản xuất.

Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn.Nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng xuất lao động xã hội không ngừng tăng lên ,chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống.

(+)Phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo.

Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức lao động hao phí xã hội cần thiết ,khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ thu được nhiều lãi ,giàu lên có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất ,mở rộng sản xuất kinh doanh,thậm chí thuê lao động trở thành ông chủ. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Ngược lại những người sản xuất hàng hóa nào có mức lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết ,khi bán hàng hóa sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ ,nghèo đi ,thậm chí có thể phá sản,trở thành lao động làm thuê.

Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất TBCN ,cơ sở ra đời của CNTB. Như vậy quy luật giá trị vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực .Do đó đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển ,nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực của nó ,đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.

c. Cạnh tranh và quan hệ cung cầu

– Cạnh tranh :

Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.

Cạnh tranh có thể diễn ra giữa những người sản xuất và người tiêu dùng Trong cuộc cạnh tranh này người ta có thể dùng nhiều biện pháp khác nhau .

Cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một trong những động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy sản xuất phát triển.Nó buộc người sản xuất phải thường xuyên năng động nhạy bén ,thường xuyên cải tiến kĩ thuật ,áp dụng tiến bộ khoa học,công nghệ nâng cao tay nghề hoàn thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng xuất chất lượng và hiệu quả kinh tế .Đó chính là cạnh tranh lành mạnh.Thực tế cho thấy ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì đó thường trì trệ bảo thủ ,kém phát triển.

Bên cạnh mặt tích cực cạnh tranh cũng có mặt tiêu cực thể hiện ở cạnh tranh không lành mạnh như dùng những thủ đoạn vi phạm đạo đức hoặc vi phạm pháp luật nhằm thu được nhiều lợi ích nhất cho mình gây tổn hại đến lợi ích của tập thể ,xã hội cộng đồng như làm hàng giả ,buôn lậu ,trốn thuế ,ăn cắp bản quyền tung tin phá hoại uy tín đối thủ ,hoặc cạnh tranh làm tăng sự phân hóa giau nghèo hoặc tổn hại đối với môi trường sinh thái …

– Quan hệ cung cầu và gía cả hàng hóa

(+)Cầu là nhu cầu có khả năng thanh toán .Như vậy cầu là nhu cầu nhưng không phải là nhu cầu bất kì mà là nhu cầu được đảm bảo bằng số lượng tiền tương ứng gọi là nhu cầu có khả năng thanh toán .Quy mô của cầu phụ thuộc vào các nhân tố chủ yếu như :thu nhập ,sức mua của đồng tiền ,giá cả hàng hóa ,lãi xuất thị hiếu của người tiêu dùng …trong đó giá cả là yếu tố có í nghĩa đặc biệt quan trọng . “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

(+)Cung là tổng số hàng hóa có ở thị trường hoặc có khả năng thực tế cung cấp cho thị trường. Cung biểu hiện kết quả sản xuất dưới hình thức hàng hóa. Như vậy cung do sản xuất quyết định nhưng cung không phải bao giờ cũng đồng nhất với sản xuất .Ví dụ :những sản phẩm sản xuất để tự tiêu thụ hoặc không có khả năng đưa tới thị trường thì không nằm trong cung .Cụ thể lượng cung phụ thuộc chủ yếu vào số lượng ,chất lượng các yếu tố sản xuất ,chi phí sản xuất ,giá cả hàng hóa trong đó cũng như cầu giá cả là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng .

Cung và cầu có quan hệ chặt chẽ với nhau .Cầu xác định cung và ngược lại cung xác định cầu .Cầu xác định khối lượng ,cơ cấu của cung về hàng hóa: hỉ có những hàng hóa nào có cầu thì mới được sản xuất,cung ứng ,hàng hóa nào tiêu thụ được nhiều ,nhanh nghĩa là có cầu lớn sẽ được cung ứng nhiều và ngựơc lại. Đến lượt mình cung tác động đến cầu ,kích thích cầu :những hàng hóa được sản xuất cung ứng phù hợp với nhu cầu ,thị hiếu sở thích của người tiêu dùng sẽ được ưa thích hơn ,bán chạy hơn ,làm cho cầu về chúng tăng lên

.Vì vậy người sản xuất hàng hóa phải thường xuyên nghiên cứu nhu cầu ,thị hiếu ,sở thích của người tiêu dùng ,dự đoán sự thay đổi của cầu ,phát hiện các nhu cầu mới ..,để cải tiến chất lượng ,hình thức mẫu mã cho phù hợp ;đồng thời phải quảng cáo để kích thích cầu ..

Cung- cầu không chỉ có mối quan hệ với nhau mà còn ảnh hưởng tới giá cả:

  • Khi cung = cầu , thì giá cả = giá trị
  • Khi cung > cầu , thì giá cả < giá trị
  • Khi cung < cầu , thì giá cả > giá trị

Đồng thời giá cả cũng có tác động đến cung và cầu .Nhìn chung trong cơ chế thị trường khi không có sự nhất trí giữa cung và cầu ,thì giá cả có tác động đìêu tíêt đưa cung và cầu trở về xu hướng cân bằng nhau .Ví dụ :khi cung >cầu ,giá cả sẽ giảm xuống ,khi giá cả gỉam thì cầu sẽ tăng lên ngược lại cung sẽ giảm dần và như vậy cung và cầu lại trở về xu thế cân bằng .Đó cũng chính là cơ chế tự điều chỉnh của nền kinh tế hàng hóa .

Như vậy chúng ta thấy rằng :cạnh tranh,cung-cầu ,giá cả .gía trị là những yếu tố luôn đi liền với nhau và cùng tác động đến sản xuất và lưu thông hàng hóa.

II: Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

1.Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.

Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt tích cực nó cũn cú mặt trỏi, cú khuyết tật từ trong bản chất của nó do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xó hội, làm tăng thêm tính bất công và bất ổn của xó hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, nó cũn ràng buộc cuộc nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột theo quan hệ “trung tâm – ngoại vi”. Có thể nói, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa toàn cầu ngày nay là sự thống trị của một số ít nước lớn hay là một số tập đoàn xuyên quốc gia đối với đa số các nước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giàu và các nước nghèo.

Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.

-Phân công lao động với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hóa chẳng những không mất đi mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động ở từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú đa dạng và chất lượng ngày càng cao của các sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

  • Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân(gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp.Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ được thể hiện bằng quan hệ hàng hóa- tiền tệ.
  • Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật- công nghệ, về trình độ quản lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
  • Quan hệ hàng hóa- tiền tệ còn rất cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người sở hữu đối với các hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải tuân theo nguyên tắc ngang giá.

Như vậy khi kinh tế thị trường tồn tại ở nước ta là một tất yếu khách quan thì không thể lấy ý chí chủ quan mà xóa bỏ được.

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xó hội và con đường đi lên chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam, Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đó đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xó hội. Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xó hội , đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hóa xó hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cỏ nhõn, tập thể và xã hội ; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xó hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xó hội và con đường đi lên chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam. Đó là kết quả của cả một quá, thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ và công sức của toàn Đảng, toàn dân trong nhiều năm. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), khóa VI, phát triển thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xó hội Đến Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rừ hơn chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xó hội của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xó hội của Đảng khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xó hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đưa ra một kết luận mới rất quan trọng: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xó hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xó hội và cả khi chủ nghĩa xó hội đó được xây dựng”. Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm “kinh tế thị trường”. Phải đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa”. Đại hội khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam.

2. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Quá trình chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường ở nước ta có thể chia thành một số giai đoạn nhưng giữa các giai đoạn không có danh giới tuyệt đối nên phải chọn sự kiện điển hình và quan trọng để làm mốc phân chia các giai đoạn . Quá trình chuyển sang nền KTTT ở nước ta có thể chia thành các giai đoạn:1979-1985,1986-1990 và từ 1991 đến nay.

a.Giai đoạn từ 1979-1985

Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 6 khóa IX tháng 9/1979 có thể được coi là mốc đánh dấu khởi đầu công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta Tại hội nghị lần đầu tiên Đảng ta đưa ra quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa ,kinh tế nhiều thành phần với chủ trương cụ thể như “bỏ ngăn sông cấm chợ “thừa nhận nhiều thành phần kinh tế v ới quy định cụ thể ;ở miền Nam có năm thành phần ,miền Bắc có ba thành phần :kinh tế tư bản tư nhân không được thuê mướn quá 5-10 công nhân.

Hội nghị trung ương 6 đề ra một số quan điểm ,chủ trương đổi mới ,tuy chưa cơ bản và toàn diện như đại hội 6 nhưng đó là bước khởỉ đầu có í nghĩa .Từ những quan điểm đó nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích pt sản xuất .Những chính sách tiêu biểu như :Chỉ thị 357 của chính phủ (3-10-1979) cho phép các hộ nông dân được nuôi và bán trâu bò ,chấp nhận trâu bò là hàng hóa .Chỉ một năm sau khi ban hành chính sách tại nhiều địa phương ở phía Bắc đàn trâu bò đã tăng gấp đôi .Chỉ thị 100 của ban bí thư về khoán sản phẩm cuối cùng cho xã viên hợp tác xã nông nghiệp đã tạo điều kiện cho nông dân bổ xung đầu tư tích cực lao động đạt sản lượng vượt khoán của hợp tác xã .Trong công nghiệp có nghị quyết 25 CP cho phép các xí nghiệp làm kế hoạch ba phần ,trong đó phần C xí nghiệp tự xác định thị trường kế hoạch tự cân đối vật tư tiền vốn ,tự đánh giá và tiêu thụ sản phẩm lợi nhuân làm ra được hưởng quyền sử dụng 80%. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Từ đó trong nền kinh tế nước ta xuất hiện tình huống mới :tồn tại song song hai cơ chế quản lý .Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp tác động trong kế hoạch phần A của xí nghiệp công nghiệp ,trong sản phẩm khoán của hợp tác xã nông nghiệp. Cơ chế thị trường tác động trong kế hoạch của xí nghiệp và trong sản phẩm vượt khoán của hộ nông dân .Cũng từ đó bắt đầu cuộc chiến tranh quyết liệt giữa 2 cơ chế ở nhiều khâu ,nhiều yếu tố .Trong đó yếu tố mấu chốt để chuyển sang cơ chế thị trường là cơ chế giá cả .Trong cơ chế tập trung bao cấp cơ chế định giá bằng mệnh lệnh hành chính của nhà nước ,việc định giá thấp đã đánh vào ngân sách nhà nứơc và tài chính quốc gia dẫn đến việc nhà nước phải bù lỗ ,bù giá , bù lương ..làm cho ngân sách ngày càng kiệt quệ ,sản xuất càng thua lỗ ,tiêu cực càng phát triển .Vì vậy nhà nước đã tiến hành cải cách giá và lương lần 1 (1981-1982)với những nét nổi bật là: tăng giá tăng lương ,thực hiện chuyển cơ chế một giá do nhà nước định đoạt sang cơ chế hai giá đối với giá cả hàng tíêu dùng ,hàng vật tư và giá mua sản phẩm theo hợp đồng gỉam mặt hàng cung cấp theo tem phiếu ,chuyển phần lớn giá cung cấp sang gía kinh doanh thương nghịêp . Nhưng do thời gian thực hiện hai giá kéo dài c(1981-1985)trên diện rộng ,trong khi hầu như không có giải pháp hữu hiệu nào làm giảm phát nên lạm phát trầm trọng thêm lại đẩy giá thị trường tiếp tục tăng nhanh .Nếu lấy mốc giá năm 1979 là 100 thì năm 1981 là:313,7%;1984:1400% ;19852390%.Trước tình hình trên 6/1985 Hội nghị trung ương lần thứ 8 bàn về giảm lương –tiền đã rút ra bài học tổng quát là :phải dứt khoát xóa bỏ tập trung quan liêu bao cấp , thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN.

b.Giai đoạn từ 1986-1990

Đại hội lần thứ 6 của Đảng (12/1986) đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp đổi mới tiến lên xây dựng CNXH ở nước ta . Đây thực sự là một cuộc cách mạng sâu sắc tiến hành đồng thời trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế.

  • Thực sự chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
  • Chuyển từ nền kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thực hiện tự do kinh doanh theo pháp luật . “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

(+)Thực hiện cơ cấu kinh tế mở đa dạng hóa và đa phường hóa quan hệ kinh tế đối ngoại từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới .

Trên cơ sở đó ,vai trò quản lý của nhà nước cũng chuyển đổi từ quản lý trực tiếp sang quản lý vĩ mô nền kinh tế bằng pháp luật , các chính sách kinh tế ,các công cụ điều tiết có hiệu lực .

Với những quan điểm đổỉ mới của nghị quyết đại hội 7 chúng ta đã có những biện pháp và chủ trương tích cực trên nhiều mặt .Trong công nghiệp nghị định 217HĐBT của hội đồng bộ trưởng ban hành đã ‘cởi trói ‘phát huy quyền tự chủ kinh doanh của đơn vị kinh tế quốc doanh .Đối với nông nghiệp nghị quyết của bộ chính trị đã xác định hợp tác xã là đơn vị kinh tế tự chủ ,tự quản ;hộ gia đình xã viên là đơn vị nhận khoán của hợp tác xã và dần dần chuyển thành đơn vị kinh tế độc lập tự chủ .Về sử lý giá cả từ hội nghị trung ương lần 6 khóa 6 vào tháng 3/1989 nhà nứơc quyết định thực hịên chuyển toàn bộ lương thực sang kinh doanh ,bỏ hoàn tòan chế độ cung cấp lường thực chuyển 80%vật tư sang kinh doanh còn lại 20% vẫn giữ giá phân phối.Đây là lần đầu tiên trên thực tế về cơ bản chúng ta có hàng hóa theo đúng nghĩa ,thực hiện quan điểm một thị trường một cơ chế giá kinh doanh có tác động lớn trong việc xóa bỏ cơ chế tập trung bao cấp chuyển sàng cơ chế thị trường.Mặt khác chúng ta đã tạo r a được tiền đề cần thiết để mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại thông qua việc ban hành luật đầu tư ,đẩy mạnh hợp tác đầu tư với nước ngoài .

Tóm lại thời kì này của công cuôc đổi mới đã đạt được nhiều bước tíên đáng khích lệ đã đưa nền kinh tế nước ta vào qũy đạo phát triển vốn có của nó .Đó là phải đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa ,thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.

c. Giai đoạn 1991đến nay giai đoạn này gắn với ba sự kiện lịch sử quan trọng đó là đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, lần thứ VIII và lần thứ IX .

  • Đại hội Đảng lần thứ VII (tháng 6-1991)đã khẳng định :” Đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra là đúng đắn,bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp. Qua thực tiễn chúng ta có thêm những nhận thức mới và kinh nghiệm quan trọng về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm nước ta. Đó là cơ sở rất quan trọng để chúng ta tiếp tục tiến lên ”. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”
  • Đại hội Đảng lần thứ VII (tháng 6/1996) đã chỉ rõ :” Đại hội VI đề ra đường lối đổi mới toàn diện .Đại hội VII thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chiến lược ổn định và phát triển-xã hội đến 2000. Xét trên tổng thể, việc thực hiện nhưng chính sách mới nhưng năm qua về cơ bản là đúng ,đúng định hướng XHCN.
  • Đại hôi Đảng lần thứ IX (4/2001) đánh giá lại 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế –xã hội (1991-2000)đã đạt những thành tựu to lớn và rất quan trọng.

Đại hội lần này đã xác định rõ đường lối và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của nước ta:

“ Đường lối kinh tế của Đảng ta là : Đẩy mạnh phát triển công nghiệp hóa ,hiện đại hóa ,xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ , đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp ;ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất theo định hướng XHCN ;phát huy cao độ nội lực, tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế để phát triển nhanh,có hiệu quả và bền vững ; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa ;thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường ;kết hợp phát triển kinh tế –xã hội và tăng trưởng quốc phòng an ninh.

Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm (2001-2010) nhằm : Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển , nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân , tạo nền tảng đểt đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hưóng hiện đại. Nguồn lực con người,năng lực khoa học và công nghệ ,kết cấu hạ tầng , tiềm lực kinh tế,quốc phòng và an ninh được tăng cường ; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản;vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.

3. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

a.Sự cần thiết phải chuyển sang cơ chế thị trường của nhà nước XHCN

Do nhận thức còn giản đơn về CNXH và con đường đi lên CNXH nên chúng ta đã thiết lập thể chế kinh tế kế họach và cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế quản lý tập chung ,quan liêu, bao cấp. Mô hình kinh tế và cơ chế đó có những đặc trưng chủ yếu sau:

Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Do đó hoạt động của các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào chỉ tiêu pháp lệnh hoặc là quyết định của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Thứ hai, các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất với các quyết định của mình.

Thư ba, trong cơ chế cũ quan hệ hàng hóa- tiền tệ bị coi thường nhà nước quản lý nền kinh tế và kế hoách hóa bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ bằng hiện là chủ yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức : (-) Bao cấp qua giá là hình thức phổ biến và quan trọng nhất

(-) Bao cấp qua chế độ tem phiếu.

(-) Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách.

Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý nhưng phong cách cửa quyền quan liêu.Mô hình kinh tế chỉ huy, mà điển hình là kinh tế kế hoạch hóa, tập chung, bao cấp…Với những đặc trưng trên có những ưu điểm là tập chung được nguồn lực vạo những mục tiêu chủ yếu nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh nên đã kìm hãm tiến bộ khoa học- kỹ thuật.

Vì vậy, dưới đổi mới tư duy về kinh tế Đảng ta đã đề ra phương thức đổi mới kinh tế là chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hóa nhiêu thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng XHCN.

Cơ chế thị trường “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường do sự tác động của các quy luật vốn có của nó.Nói cụ thể hơn cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau,tự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố giá cả, cung-cầu, cạnh tranh…trực tiếp phát huy tác dụng trên thị trường để điều tiết nền kinh tế thị trường.

Cơ chế thị trường, hay cơ chế kinh tế thị trường không đồng nhất với kinh tế thị trường. Cơ chế kinh tế thị trường hay cơ chế thị trường là guồng máy vận hành của nền kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường phụ thuộc vào tính chất và yêu cầu khách quan của kinh tế thị trường, song nó bị chi phối bởi yếu tố chủ quan, do con người thiết lập nên trên cơ sở nắm bắt các quy luật phát triển khách quan. Nó phản ánh sự vận dụng của con người bằng việc tổ chức ra guồng máy kinh tế “tự do” hay có điều tiết của nhà nước theo yêu cầu vận động khách quan của nền kinh tế thị trường trong các giai đoạn phát triển khác nhau. Cơ chế thị trường vận động có sự tham gia của nhiều yếu tố, trong đó nổi bật nhất là quan hệ thị trường cung – cầu và giá cả. Bản chất sâu xa của cơ chế thị trường là cơ chế vận hành theo sự chi phối của quy luật giá trị. Tuy vậy, trong một nền kinh tế hàng hóa cụ thể, sự vận động chung cũn tựy thuộc vào chế độ sở hữu thống trị, chịu sự tác động qua lại với các quy luật kinh tế đặc thù của phương thức sản xuất chủ đạo, hơn nữa cũn chịu sự chi phối của quy luật kinh tế chủ đạo trong phương thức sản xuất đó.

Tín hiệu của cơ chế thị trường chính là giá cả thị trường ( giá cả thị trường đã được trình bày ở phần trên).

-Ưu điểm và khuyết tật của cơ chế kinh tế thị trường.

(+) Ưu điểm: “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Thứ nhất ,cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động,có hiệu quả.

Thứ hai, sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu sản xuất với khối lượng và cơ cấu tiêu dùng

Thứ ba, cơ chế thị trường kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất Thứ tư, cơ chế thị trường thực hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối ưu.

Thứ năm, sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều tiết của cơ quan nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trứơc những điều kiện kinh tế biến đổi.

(+) Những khuyết tật của cơ chế thị trường

Thứ nhất, cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế kinh tế thị trường bị giảm.

Thứ hai, mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận, do đó họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ôi nhiễm môi trường sống. Do đó hiệu quả kinh tế xã hội không được đảm bảo.

Thư ba, phân phối thu nhập không công bằng, sự tác động của cơ chế thị trường dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo,sự phân cực về của cải.

Thứ tư, một nên kinh tế  do cơ chế thị trường thuần tuý điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng.

c. Vai trò điều tiết của Nhà nước. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Như đã phân tích ở trên kinh tế thị trường là cơ chế tốt nhất để điều tiết nền kinh tế hàng hóa một cách hiệu quả, tuy nhiên cơ chế thị trường cũng có một loạt những khuyết tật. Vì vậy cần có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế, Nhà nước can thiệp ở tầng vĩ mô nhằm phát huy tác dụng tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.

Vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam .

Một là, Nhà nước đảm bảo cho sự ổn định chính trị, kinh tế , xã hội và thiết lập khôn khổ pháp luật để tạo điều kiện cho hoạt động kinh tế , vì ổn định chính trị xã hội là điều kiện cần thiết để phát triển nền kinh tế.

Hai là, Nhà nước hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định,Nhà nước xây dựng các chiến lược và quy hoạch phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế- xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế .

Ba là, Nhà nước đảm bảo cho các họat động kinh tế có hiệu quả. Vì các doanh nghiệp vì lợi ích riêng mình có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ôi nhiễm môi trường sống của con người. Vì vậy Nhà nước cần thực hiện những biện pháp ngăn chặn những tác động xấu bên ngoài để nâng cao hiệu quả kinh tế-xã hội

Bốn là, Nhà nước cần hạn chế, khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường, thực hiện công bằng xã hội.

Nội dung quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.

  • (-) Quyết định chiến lược phát triển kinh tế-xã hội.
  • (-) Kế hoạch, kế hoạch ở đây là thực hiện mục tiêu của quyết định chiến lược đó, nó triển khai và cụ thể hóa chiến lược.
  • (-)Tổ chức, là nội dung của quản lý nhằm đảm bảo thực hiện kế hoạch đã định.

(-)Chỉ huy và phối hợp, nền kinh tế là một hệ thống phức tạp, bao gồm nhiều chủ thể khác nhau,vì thế để đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả cần có sự chỉ huy thống nhất( điều chỉnh từ trung tâm).Để quản lý nền kinh tế phải có cơ quan quản lý thống nhất, cơ quan đó có quyền lực, có đầy đủ các thông tin về các mặt để điều hòa, phối hợp các mặt hoạt động của nền sản xuất xã hội. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

(-)Khuyến khích và trừng phạt, bằng các đòn bẩy kinh tế động viên tinh thần, khuyến khích mọi tổ chức hoạt động kinh tế hoạt động theo định hướng của kế hoạch. Muốn vậy phải thưởng phạt rõ ràng,làm tốt thì thưởng, làm hại thì phải phạt.

Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bằng các công cụ quản lý vĩ mô :

(-) Kế hoạch và thị trường :kế hoạch Nhà nước bao gồm kế hoạch dài hạn và ngắn hạn. Thông qua kế hoạch dài hạn, Nhà nước cụ thể hóa chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, từ đó vạch ra các chương trình kinh tế có mục tiêu để định hướng đầu tư, điều tiết các hoạt động kinh tế và đề ra các chính sách kinh tế thích hợp .

(-) Xây dựng kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác hoạt động có hiệu quả : đây là những thành phần kinh tế có vai trò quyết định nhất đối với việc quản lý nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần phát triển theo định hướng XHCN.

(-) Hệ thống pháp luật: nhà nước phải sử dụng hệ thống pháp luật làm công cụ điều tiết của các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm làm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, phát huy các mặt tích cực và hạn chế, ngăn chặn các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

(-) Các công cụ tài chính : sử dụng hệ thống thuế ,các chính sách thuế đúng đắn không chỉ tạo nguồn thu cho ngân sách mà còn khuyến khích sản xuất ,xuất khẩu, điều tiết tiêu dùng ,khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực trong nền kinh tế, thu hút vốn đầu tư nước ngòai…Ngân sách nhà nước là công cụ rất quan trọng để tác động vào nền kinh tế thực hiện mục tiêu tăng trưởng và công bằng xã hội.

(-) Các công cụ tiền tệ : trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ có vai trò vô cùng quan trọng. Việc thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ ,kiềm chế lạm phát thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến tình hình kinh tế .Bằng công cụ tiền tệ Nhà nước có thể hướng dẫn phát triển theo định hướng XHCN,ngăn chặn tính tự phát tư bản chủ nghĩa.

(-) Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại: để thực hiện chiến lược kinh tế mở, xúc tiến các quan hệ kinh tế đối ngoại Nhà nước phải sử dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là thuế xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái.Thông qua các chính sách này Nhà nước có thể khuyến khích việc xuất nhập khẩu, đồng thời bảo hộ một cách hợp lí nền sản xuất nội địa, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

4.Thực trạng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

a.Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai.

Đó là do các nguyên nhân :

Cơ sở vật chất- kỹ thuật còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trong nhiều ngành kinh tế, máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. Theo UNDP thì Việt Nam đang ở trình độ công nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2-3 thế hệ của thế giới( có lĩnh vực 4-5 thế hệ). Lao động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so với khu vực và thế giới ( năng suất lao động của nước ta chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới ).

Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, biến cảng, hệ thống thông tin liên lạc…còn lạc hâụ, kém phát triển( mật độ đường giao thông/1km bằng 1% so với mức trung bình của thế giới; tốc độ truyền thông trung bình cả nước chậm hơn thế giới 30 lần). Hệ thống giao thông kém phát triển làm cho các địa phương, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau, do đó làm cho nhiều tiềm năng của các địa phương không thể được khai thác, các địa phương không thể chuyên môn hóa sản xuất để phát huy thế mạnh. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Do cơ sở vật chất- kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp vẫn sử dụng 70% lực lượng lao động, nhưng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP , các ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỷ trọng thấp .

Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài còn rất yếu. Do cơ sở vật chất- kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, nên năng suất lao động thấp, do đó khối lượng hàng hóa nhỏ bé, chủng loại hàng hóa còn nghèo nàn, chất lượng hàng hóa thấp, giá cả cao vì thế khả năng cạnh tranh còn yếu.

Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ .

Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hóa thống nhất .

Thị trường hàng hóa dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực( hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn làm rối loạn thị trường).Thị trường hàng hóa sức lao động mới manh nha, một số trung tâm giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện đã nảy sinh hiện tượng khủng hoảng. Nét nổi bật của thị trường này là sức cung người lao động lành nghề nhỏ cầu hơn rất nhiều trong khi đó cung về sức lao động giản đơn lại vượt quá xa cầu, nhiều người có sức lao động không tìm được việc làm. “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Thị trường tiền tệ, thị trường vốn có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trăn trở, như nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng mắc thủ tục, trong khi đó nhiều ngân hàng thương mại huy được tiền gửi mà không thể cho vay để ứ đọng trong két dư nợ quá hạn trong nhiều ngân hàng thương mại đã đến mức báo động .

Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường do vậy nền kinh tế ở nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hóa cùng tồn tại đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hóa nhỏ phân tán còn phổ biến.

d. Sự hình thành thị trường trong nước với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế-kỹ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước khác.

Quản lý nhà nước về kinh tế xã hội còn yếu. Công tác tài chính, ngân hàng, kế hoạch hóa xây dựng, quản lý còn yếu kém, thủ tục hành chính phức tạp, chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý,bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn , lạm pháp được kiềm chế nhưng chưa vững chắc.

KẾT LUẬN “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Như vậy, quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam bước đầu đã thu được những thành tựu đáng kể. Nó đã làm thay đổi bộ mặt nền kinh tế của đất nước ta kể từ khi đất nước hoàn toàn giải phóng. Tuy còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và sự đồng lòng của toàn dân chúng ta đã gặt hái được nhiều kết quả to lớn. Từ một nước còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế chúng ta đã từng bước phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực và đang khẳng định mình trên trường quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó chúng ta cũng đang phải đối phó với nhiều khó khăn do nền kinh tế thị trường đem lại.

Đó là những mặt trái của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam. Chúng ta cần kiên quyết loại bỏ những yếu tố tiêu cực có thể gây mất ổn định nền kinh tế đất nước cũng như nền chính trị của đất nước. Chỉ có thể phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta mới có thể đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Và cũng chỉ có vậy mới phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta . “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Đặc biệt trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới gặp nhiều khủng hoảng gây ảnh hưởng đến nền kinh tế của nước ta. Tuy nhiên nhờ có đường lối lãnh đạo sáng suốt của Đảng mà nền kinh tế của ta vẫn tăng trưởng ổn định. Đó chính là nét đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở nước ta.Có thể nói rằng, nền kinh tế thị trường ở nước ta đã và sẽ là mô hình kinh tế cho nhiều nước tham khảo trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội.

Với tư cách là những sinh viên Việt Nam – những người chủ của đất nước và đặc biệt hơn nữa khi chúng ta là những sinh viên của trường đại học kinh tế quốc dân ngôi trường đầu ngành trong khối kinh tế chúng ta phải biết phấn đấu góp phần phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tất cả vì một mục tiêu làm cho nền kinh tế của đất nước ta ngày càng phát triển, ngày càng vững mạnh và đặc biệt không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất-tinh thần của nhân dân.

Với phương châm “Hãy bắt tay vào hành động, thực tiễn sẽ cho câu trả lời”, hy vọng rằng từng bước, từng bước, thực tiễn sẽ làm sáng tỏ được các vấn đề “Tiểu Luận: Bản chất nền kinh tế thị trường và định hướng”

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464