Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Luận văn: Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè truyền thống tại các vùng chè đặc sản Thái Nguyên dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1. Khái quát về tỉnh Thái Nguyên

2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện kinh tế xã hội

Thái Nguyên là tỉnh miền núi, phía Bắc giáp tỉnh Bắc Cạn, phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, phía Đông giáp tỉnh Lạng Sơn và Bắc Giang,  phía Nam giáp Thủ đô Hà Nội (cách Thủ đô Hà nội 80km) và có toạ độ địa lý từ 20020– 22025vĩ độ Bắc và 105025– 106016 kinh độ Đông [4]. Tỉnh Thái Nguyên có diện tích 3.562,82 km2 (năm 2013); dân số 1.156.000 người (năm 2013). Với tổng số 28 đơn vị hành chính (19 phường, 9 xã), với 8 dân tộc anh em (Kinh, Tày, Nùng, Sán Dìu, Dao, Mông, Hoa, Thái) sinh sống Thái Nguyên là cửa ngõ giao lưu kinh tế giữa vùng miền núi, trung du phía Bắc với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Việc giao thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông hình rẻ quạt mà đầu nút là thành phố Thái Nguyên cách thủ đô Hà Nội 80km dọc theo quốc lộ 3 Thành phố Thái Nguyên có 98 di tích, trong đó 4 di tích cấp quốc gia, 14 di tích cấp tỉnh. Nổi bật là cụm di tích Khởi nghĩa Thái Nguyên (1917) – Một trong những cuộc khởi nghĩa lớn diễn ra sớm nhất trên cả nước và gây tiếng vang lớn Năm 2010 thành phố Thái Nguyên được công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh và đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhất. Cho đến nay, thành phố Thái Nguyên là một trong những trung tâm công nghiệp lớn của miền Bắc, có khu công nghiệp Gang Thép là đứa con đầu lòng  của ngành công nghiệp nặng cả nước [26, tr.1]

Là trung tâm giáo dục đào tạo đứng thứ 3 cả nước, với trên 30 trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp

Về nông nghiệp: Thành phố Thái Nguyên có vùng chè đặc sản Tân Cương nằm ở phía Tây thành phố đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận chỉ dẫn địa lý, được bảo hộ độc quyền vô thời hạn cho sản phẩm vùng chè đặc sản Tân Cương. Nằm ở phía Tây cách trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 10km, vùng chè đặc sản Tân Cương tập trung chủ yếu tại 03 xã: Tân Cương, Phúc Trìu, Phúc Xuân. Năm 2013, địa phương đã trồng mới và phục hồi được 80ha chè, tăng 60% so với kế hoạch nâng tổng diện tích chè trên địa bàn lên 1.377 ha, năng suất bình quân ước đạt 150 tạ/ha;  lượng chè búp tươi năm 2013 ước đạt 16.968 tấn (tương đương 3.394 tấn chè búp khô), tăng 3,17% so với cùng kỳ năm 2012. Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Cây chè là cây đặc sản chiến lược của thành phố Thái Nguyên, được thành phố xác định là cây chủ lực trên đất vườn đồi, là cây không chỉ đem lại giá trị kinh tế mà còn mang tính văn hóa, xã hội sâu sắc, tạo công ăn việc làm cho hàng chục nghìn người lao động, giúp nông dân có cuộc sống ổn định, no ấm hơn trên vùng đất trung du miền núi, có ý nghĩa quan trọng góp phần xóa đói giảm nghèo, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, ổn định và phát triển xã hội của địa phương (Tiến sỹ Mộc Quế, năm 2013). Từ nhận thức đúng về tài nguyên “Vùng chè đặc sản Tân Cương”, thành phố Thái Nguyên đã chọn cho mình một cách đi riêng đó là phát triển kinh tế địa phương bằng cách xây dựng dự án “Làng văn hóa du lịch cộng đồng” [26, tr.2]

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Du Lịch

2.1.2. Điều kiện phát triển du lịch Thái Nguyên

2.1.2.1. Điều kiện tự nhiên

  • Địa hình

Phía tây bắc và đông bắc là núi cao bao bọc bởi dãy núi Bắc Sơn, Ngân Sơn và Tam Đảo, đỉnh cao nhất thuộc dãy Tam Đảo cao 1592m và thấp dần về phía đông nam. Địa hình, địa mạo của tỉnh có thể chia làm ba vùng chính:

Vùng núi: bao gồm các dãy núi từ tây bắc huyện Phổ Yên dọc dãy Tam Đảo qua Đèo Khế, núi Hồng vòng qua Định Hoá đi đông bắc Võ Nhai, có độ cao trung bình từ 500 – 1000m độ dốc hơn 25%

Vùng đồi cao núi thấp: gồm các dãy núi thấp đan xen với các dãy đồi cao tạo thành bậc thềm lớn dọc sông Cầu và quốc lộ 3 thuộc nam Đại Từ, Phú Lương, Đồng Hỷ, bắc Phú Bình, tây thành phố Thái Nguyên, có độ cao trung bình từ 100 – 300 m, độ dốc dưới 25o – 15o

Vùng đồi thấp – đồng bằng: gồm các đồi bát úp xen các khu đất đồng bằng thuộc nam Đại Từ, thành phố Thái Nguyên, Phú Bình, Phổ Yên, thị xã Sông Công, có độ cao trung bình 30 – 50m, độ dốc dưới 10o

  • Khí hậu

Khí hậu Thái Nguyên được hình thành từ một nền nhiệt cao của đới chí tuyến và sự thay thế của các hoàn lưu lớn theo mùa, kết hợp với hoàn cảnh địa lý cụ thể đã làm nên khí hậu nóng ẩm, mưa mùa, có mùa đông lạnh và rất thất thường trong năm

Cũng như mọi nơi ở miền Bắc Việt Nam, chế độ nhiệt ở Thái Nguyên có hai mùa rõ rệt: Mùa nóng và mùa lạnh.

  • Mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 3, lạnh nhất vào tháng 1.
  • Mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 10.
  • Lượng mưa trung bình ở Thái Nguyên đạt khoảng 1.600 – 1.900 mm.

Nhiệt độ trung bình năm từ 22o – 23oC, ở các vùng đồi núi cao khoảng 600m, trị số này giảm xuống 200C và từ 900 – 1000m trở lên nhiệt độ trung bình năm chỉ còn 180C trở xuống. Độ ẩm tương đối trung bình ở Thái Nguyên khá cao, trung bình năm đạt khoảng 82 – 84%  [4, tr.53]  c. Nguồn nước, thuỷ văn Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Sông Cầu: nằm trong hệ thống sông Thái Bình bắt nguồn từ chợ Đồn (Bắc Cạn) vào đất Thái Nguyên chảy qua các huyện: Phú Lương, Đồng Hỷ, thành phố Thái Nguyên, Phú Bình. Đây là con sông lớn nhất của tỉnh có chiều dài 110km, diện tích lưu vực 3480km2, có rất nhiều tiềm năng phục vụ cho giao thông, thuỷ lợi, nông nghiệp cũng như các hoạt động dịch vụ khác

Sông Công có lưu vực 951km2 bắt nguồn từ vùng núi Ba Lá huyện Định Hoá chạy dọc chân núi Tam Đảo, dòng nước sông được ngăn lại ở huyện Đại Từ tạo thành Hồ Núi Cốc có mặt nước rộng khoảng 2500 ha, chứa 175 triệu m3 nước. Hiện nay, hệ thống thuỷ nông Hồ Núi Cốc dùng tưới tiêu cho 12000 ha lúa hai vụ, màu và cây công nghiệp

Ngoài ra, còn có nhiều sông hồ nhỏ khác chảy qua tỉnh thuộc hệ thống sông Cầu, sông Công có thể xây dựng được nhiều công trình thuỷ lợi và thuỷ điện quy mô nhỏ

Về chế độ thuỷ văn, các sông ở Thái Nguyên phụ thuộc vào hai mùa lũ và mùa cạn: mùa lũ xuất hiện vào tháng 5 và kết thúc vào cuối tháng 10 đầu tháng 11, mùa cạn bắt đầu vào tháng 11 năm sau d. Sinh vật

Thái Nguyên có nguồn tài nguyên sinh vật phong phú, đa dạng, thuộc khu hệ Việt Bắc – Hoa Nam

Hệ thực vật ở Thái Nguyên phong phú có trên 2000 loài, trong đó vùng Tam Đảo đã có 490 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 344 chi và 130 họ với thảm thực vật rừng nhiệt đới ẩm và á nhiệt đới, thường xanh [4]. Tổng diện tích rừng tính đến năm 2008 là 160 333 ha chiếm 45.4% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, trong đó rừng tự nhiên chiếm 99 922  ha (28.3% diện tích), rừng trồng là 60 411 nghìn ha (17.1% diện tích). Thực vật có giá trị làm cảnh khoảng 26 loài (kim giao, tuế, họ ngọc lan…)

Rừng tập trung ở khu vực phía Tây và Tây Bắc (Định Hóa, Đại Từ), vùng núi Tam Đảo và vùng núi đá vôi ở phía Đông (Võ Nhai). Nhiều cây đặc hữu của địa phương như các loại cây gỗ quý đã được đưa vào sổ sách đỏ Việt Nam (Nghiến, Lát hoa, Săm bông, Sến mặt, Kim giao, Pơmu, Trai); cây công nghiệp (chủ yếu là chè); cây lâm nghiệp (mỡ, bồ đề, bạch đàn, keo lá chàm, keo tai tượng); cây vật liệu xây dựng (cọ, tre, vầu, xoan); ngoài ra còn có cây dược liệu (34 loài: sữa, ngũ gia bì, móc diều, dùi dôi, gạo…), cây lấy dầu Rừng đặc dụng của tỉnh đã được quy hoạch thành ba khu: Vườn Quốc gia Tam Đảo 11.910 ha; rừng đặc dụng ATK Định Hóa 10.255ha; rừng bảo tồn thiên nhiên Phượng Hoàng – Thần Sa Hệ động vật có khoảng 422 loài, 91 họ, 28 bộ [4] của 4 lớp động vật: chim, thú, bò sát, ếch nhái.

Khu bảo tồn cảnh quan môi trường thiên nhiên có diện tích 2.050 ha (mặt nước, đảo, đất liền) Hồ Núi Cốc có trồng cây phòng hộ, cây công nghiệp, sinh vật cảnh ở đảo, các vườn con phục vụ du lịch nghiên cứu, những cánh rừng bạch đàn, cây keo, cây mỡ trải sát mép hồ là điều kiện thuận lợi cho các loại hình du lịch thể thao, săn bắn, du lịch nghiên cứu sinh thái rừng hồ, du lịch thể thao leo núi… Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Hệ sinh thái của Thái Nguyên có tiềm năng phong phú tuy nhiên hiện nay lớp phủ rừng của Thái Nguyên nói chung và rừng nguyên sinh còn rất ít. Phần lớn diện tích là rừng thứ sinh, chất lượng và giá trị kinh tế thấp, nên có chính sách cụ thể để bảo vệ được các loài đặc hữu và các loài động vật, thực vật quý hiếm. Từ đó mới có thể đẩy mạnh loại hình du lịch sinh thái và giáo dục môi trường.

Còn rất nhiều thế mạnh nữa do tự nhiên đem lại mà Thái Nguyên đã và sẽ khai thác phục vụ cho du lịch. Chính môi trường tự nhiên thuận lợi này giúp cho Thái Nguyên tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo thu hút du khách trong và ngoài nước

  • Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên

Tài nguyên tự nhiên đa dạng và phong phú của Thái Nguyên được hình thành từ các tố chất như địa chất, địa hình, khí hậu, thuỷ văn, động thực vật… Với tài nguyên thiên nhiên đa dạng này, Thái Nguyên sẽ là nơi có khả năng phát triển nhiều loại hình du lịch như: du lịch sinh thái, thể thao, nghỉ dưỡng, tìm hiểu, nghiên cứu. Tài nguyên du lịch tự nhiên của Thái Nguyên tập trung chủ yếu ở Hồ Núi Cốc, chùa Hang, hang Phượng Hoàng, suối Mỏ Gà. Vì vậy, việc đầu tư khai thác tương đối thuận lợi. Trong chiến lược phát triển vùng du lịch Bắc Bộ, tuyến du lịch Hà Nội – Hồ Núi Cốc – Hồ Ba Bể được hình thành trên cơ sở khai thác tài nguyên du lịch ở khu vực này, sẽ là tuyến du lịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần tích cực vào sự phát triển của du lịch Thái Nguyên. Việc khai thác tài nguyên du lịch tự nhiên ở Thái Nguyên hiện nay là bất hợp lý, các khu rừng và đồi núi ở một số huyện vùng cao miền núi như Đại Từ, Định Hoá, Võ Nhai, trong đó có những khu rừng nhỏ ở Hồ Núi Cốc bị khai thác kiệt quệ, làm gia tăng quá trình làm xói mòn đất, làm hại môi trường và cảnh quan, chỉ còn lại những lớp thực vật thưa thớt. Cùng với sự biến đổi của những lớp phủ thực vật, hệ động vật cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đối với nhiều loài số lượng cá thể giảm nhanh, thậm chí một số loài dường như bị tuyệt diệt

2.1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn

  • Dân cư và lao động

Dân số năm 2013 của tỉnh là 1.156.000 người, trong đó nam 569.800 người chiếm 49,29%, nữ 586.200 người chiếm 50,71%; dân số nông thôn 826.100 chiếm 71,46%, dân số thành thị 329.900 người chiếm 28,54%; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 0,99%  Dân số trong độ tuổi lao động (năm 2013) có 716.300 người, chiếm 61,96% tổng số dân, trong đó số lao động trong độ tuổi đang làm việc trong các ngành kinh tế chiếm 61,4%. Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế: nông – lâm – thuỷ sản chiếm 69,1%, ngành dịch vụ chiếm 20,81%, ngành công nghiệp – xây dựng chiếm 10,99%  Về chất lượng lao động: có khoảng 60% số lao động trong độ tuổi có trình độ tốt nghiệp phổ thông trung học, trong đó lao động có trình độ cao đẳng trở lên có 32 508 người, chiếm 5,12%, bao gồm: cao đẳng chiếm 16,1%, đại học chiếm 3,31%, trên đại học 0,2%

Thái Nguyên vốn là địa bàn tiếp giáp với Hà Nội và các tỉnh miền núi phía bắc cho nên trong suốt quá trình phát triển đã có nhiều lớp dân cư từ nơi khác đến sinh sống. Người Việt ở đây chủ yếu là từ đồng bằng sông Hồng đến, mang tới Thái Nguyên các đặc trưng văn hoá khác nhau  b. Các di tích lịch sử – văn hoá Thái Nguyên có nhiều di tích lịch sử văn hoá, theo thống kê tỉnh có 780 điểm di tích lịch sử văn hoá được kiểm kê (2002), trong đó 23 điểm được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia. Như vậy có thể nói di tích lịch sử Thái Nguyên có giá trị rất cao đối với hoạt động du lịch. Vấn đề là các cấp chính quyền nhân dân địa phương biết quản lý, bảo vệ và khai thác chúng một cách hợp lý để phát huy được những giá trị mà mình có.  c. Các lễ hội

Lễ hội ở Thái Nguyên khá phong phú, diễn ra trong cả bốn mùa nhưng tập trung hơn cả là trong dịp đón chào xuân mới và khởi đầu cho mùa vụ nông trang, phân bổ hầu khắp ở các vùng, các tộc người trong tỉnh Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Các loại hình lễ hội phổ biến là hội du xuân, hội đền đình gắn với việc sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, thờ phụng, lễ hội cầu may, tạ ơn trời đất, thánh thần Hội du xuân ở vùng xuôi có các hội làng, ở vùng người Tày, Nùng có hội lồng tồng, người Dao, người Sán Dìu có hội Thanh minh (đạp thanh)… Hội đền, đình, chùa cũng thường gắn với các hội xuân, trong dịp du xuân đồng bào tâm niệm là đến đình, đền, chùa và những nơi thờ tự công cộng lễ tạ thần thánh, cầu an. Hội xuân, hội đền – chùa ở Thái Nguyên thường có quy mô trong một làng, xã, chỉ có một số ít hội có quy mô vùng như hội Đền Đuổm (Phú Lương), hội chùa Hang (Đồng Hỷ), Hội Đền Lục Giáp (Phổ Yên). Tính giao lưu trong các lễ hội ngày càng cởi mở, thu hút đông đảo khách thập phương hơn. Các lễ hội cầu mùa, cầu may thường được tổ chức vào dịp bắt đầu vào mùa vụ sản xuất hoặc khi vừa thu hoạch Năm 2005 “Hội chè xuân xóm Guộc” (xã Tân Cương, thành phố Thái Nguyên) được tổ chức 2 lần đã thu hút du khách thập phương tới rất đông. Hội chè có nhiều hoạt động phong phú: thi chất lượng chè ngon, thi sao chè bằng chảo gang, các cô gái làng Guộc thi pha trà mời khách, văn nghệ, tung còn, đánh đu, chọi gà, đấu võ, bình thơ. Năm 2007 tỉnh Thái Nguyên lần đầu tiên tổ chức Lễ hội văn hóa trà Thái Nguyên lần thứ nhất; ngày hội có lễ rước cây chè Tân Cương ra khu vực trung tâm hội là Công viên sông Cầu, nội dung hoạt động đa dạng như thi búp chè ngon, thi văn hóa trà Việt Nam (pha trà, mời trà). Có chương trình nghệ thuật và trưng bày cổ vật, thi múa rồng lân, thi đấu vật, đánh đu, thi thơ về trà.  Năm 2011, Tân Cương đã tổ chức Lễ hội “Hương sắc Trà xuân – Vùng chè đặc sản Tân Cương” nhằm tôn vinh nghề truyền thống của vùng đất Tân Cương.Việc nâng cấp đường xá, tân trang chợ chè, xây dựng nhà truyền thống chè Tân Cương để sẵn sàng đón khách

  • Các làng nghề truyền thống

Các ngành nghề thủ công truyền thống của Thái Nguyên rất đa dạng như mây tre đan, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông sản, chế biến chè, đồ gỗ mỹ nghệ… Phần lớn các dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên đều có nghề trồng bông, trồng lanh dệt vải, nhuộm chàm như người Tày, Nùng, Hoa, người Dao, người HMông… Người Hoa nổi tiếng với nghề làm đường mía, làm miến dong, nghề đan lát. Người HMông với nghề rèn sắt có kỹ thuật tôi quặng thành thép, nghề đan lát. Người Dao có nghề làm giấy bản, làm cao chàm nhuộm vải, làm đồ trang sức bằng bạc…

Các làng nghề chè truyền thống ở Thái Nguyên hợp thành vùng chè có tiếng nhất, nhì cả nước; Cây chè ở đây được ưu đãi bởi các điều kiện tự nhiên, kết hợp việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thâm canh, chế biến nên đã có năng suất chất lượng cao. Hiện nay, những giống chè mới như: Chè lai LDP1, LDP2, Phúc Vân Tiên, Bát Tiên… cho năng suất và chất lượng cao đã được đưa vào trồng. Đặc biệt, việc sản xuất chè an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP đã làm cho thương hiệu chè ngày càng được nhiều người tin dùng. Quy trình sản xuất mới này đã thay cho phương thức làm chè truyền thống kém hiệu quả trước đây. Bắt đầu từ việc trồng và chăm sóc chè, người dân đã biết tận dụng nguồn rơm rạ sẵn có để ủ thành phân hữu cơ cung cấp chất dinh dưỡng cho cây chè (thay vì sử dụng phân bón hóa học như trước kia). Việc dùng thuốc bảo vệ thực vật cũng được người làm chè tiến hành một cách cẩn thận, đúng liều lượng và thời gian quy định.

Tuy nhiên, để có được những cánh chè thơm ngon, dậy hương, làm nên đặc trưng riêng của chè thì nhất thiết vẫn phải áp dụng các phương thức truyền thống với  sự công phu, tỉ mỉ của người làm chè ngay từ khâu thu hái cho đến khâu chế biến. Công đoạn hái chè thường được người dân thục hiện vào ngày nắng, tránh ngày mưa để chè không bị nhạt và vẫn giữ được vị ngon, thời điểm thu hái tốt nhất là từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều vì khi đó búp chè không bị ướt sương. Khi hái chè cũng phải tuân thủ đúng cách hái “một tôm hai lá” để lấy được phần ngon nhất của búp chè. Sau khi mang chè tươi về phải trải ra nền sạch trong thời gian khoảng 2-3 tiếng để chè thoáng, bay hết hơi nước, sau đó đưa vào sao sấy ngay, nếu để qua đêm khi búp chè đã héo, nhựa đã chảy thì dù có sao tẩm kiểu gì nước chè cũng vẫn bị đỏ. Đây là kinh nghiệm quý báu đã được những người làm chè ở đây đúc rút qua nhiều đời… Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

  • Văn hóa – văn nghệ

Trong kho tàng văn hóa phi vật thể, văn học dân gian truyền miệng Thái Nguyên có những nét đặc sắc, khá phong phú, đa dạng gồm nhiều thể loại như truyền thuyết địa danh, thể loại này nổi đậm màu sắc tiếp xúc và hội tụ của các dân tộc Thái Nguyên như: sự tích gò Chúa Chỏm, sự tích ruộng Thác Đao, sự tích chàng Cốc nàng Công, sự tích đền Thượng – núi Đuổm… Ngoài ra phải kể đến truyện cổ tích, truyện thơ cũng là cả một kho tàng phong phú.

Là tỉnh nằm trong cái nôi văn hóa dân gian Việt Bắc, Thái Nguyên cũng nổi tiếng với các làn điệu hát sli, hát lượn và hát then độc đáo. Diễn xướng Sli, lượn của đồng bào Tày Nùng, hát Soọng cô của người Sán Dìu, hát Sán cố (hát sơn ca) của người Hoa đều là những hình thức hát giao duyên đặc sắc. Hát Sli, lượn đều sử dụng thơ thất ngôn, đôi khi xen kẽ tiếng Việt và tiếng Hán. Ngoài ra, người Tày còn có hình thức hát then. Lời của then cô đọng, xúc tích, giàu hình tượng và tâm hồn thẩm mỹ văn học cao. Nhạc then: Nhạc cụ gồm có một cây đàn tính và bộ nhạc xóc (Mạ). Nhìn chung, giai điệu của then ấm cúng, nhẹ nhàng, tâm tình diễn cảm. Nhạc then làm phấn chấn tinh thần người nghe, khơi dậy một ý thức trân trọng đối với một hình thức nghệ thuật dân tộc có giá trị cao. Người Sán Chay có hát tình ca, người HMông có hát cúng ma. Các nhạc cụ truyền thống ngoài đàn tính còn có khèn, đàn môi, sáo trúc, thanh la, não bạt, b chiêng, kèn, đàn tỳ bà, đàn tam thập lục  Một số phong tục tập quán – lễ nghi của đồng bào các dân tộc trên địa bàn như lễ cưới, tục mừng sinh nhật, tục đón tết Nguyên Đán, Rằm tháng bảy, tục vào nhà mới, lễ cấp sắc, múa kỳ lân, múa sư tử… cũng có nhiều nét đặc sắc và hấp dẫn.

  • Văn hóa chợ

Trên địa bàn toàn tỉnh Thái Nguyên hiện có 126 chợ lớn nhỏ, trong đó có 1 chợ loại II và các chợ trung tâm thị trấn, thị tứ là nơi giao lưu trao đổi mua bán hàng nông, lâm, thổ sản mang tính dân tộc độc đáo của mọi miền trong tỉnh, các chợ lớn như các chợ Đồng Quang, chợ Thái (chợ Trung Tâm)… Hệ thống chợ ở Thái Nguyên không chỉ đáp ứng nhu cầu mua sắm, kinh doanh của nhân dân mà còn là một nét văn hóa độc đáo, ra đời loại hình du lịch thăm quan các chợ quê.

Chợ Đồn là chợ lớn nhất trong các chợ quê Thái Nguyên, từng được gọi là chợ Đồn Ấp. Chợ lớn thứ hai là chợ Tân Đức (xưa có tên là chợ Đức Lân). Hai chợ này ra đời từ xa xưa, trên đất huyện Phú Bình. Ngoài ra còn có rất nhiều chợ khác rất độc đáo của từng địa phương trung du, miền núi như chợ Thanh Ninh, chợ Đình, chợ Cầu Gô, chợ Lũ Yên, chợ Tân Khánh, chợ Cầu, chợ Đò, chợ Hích… Chợ được họp theo “phiên”, cứ 5 ngày một “phiên”. Tùy theo từng vùng, có thể lấy ngày chẵn hoặc lẻ đầu tháng làm mốc họp chợ. Vào những ngày chợ phiên, du khách sẽ được ngắm những bộ trang phục truyền thống sặc sỡ của đồng bào dân tộc nơi đây, cùng trao đổi – mua sắm

2.2. Khái quát về thực trạng phát triển du lịch Thái Nguyên: Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

2.2.1. Số lượng khách du lịch đến Thái Nguyên

Số lượng khách du lịch và đặc điểm về thị trường khách là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức độ phát triển du lịch của một khu, điểm, vùng du lịch hay là một quốc gia. Do những đặc trưng riêng của ngành mà việc nghiên cứu thị trường khách du lịch là khâu quan trọng nhất và không thể thiếu được trong việc nghiên cứu sự phát triển du lịch. Các chỉ tiêu về khách phản ánh mức độ phát triển của điểm du lịch, sức hấp dẫn của điểm du lịch, xu hướng phát triển cũng như có thể kiểm nghiệm được việc phát triển thị trường khách hiện tại đã đúng hướng chưa, có phù hợp với điểm du lịch không…

Thái Nguyên là một tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển du lịch. Lượng khách du lịch đến Thái Nguyên trong thời gian qua đều tăng. Năm 2008 có 1.340.000 lượt khách nhưng đến năm 2011 là 1.620.000 lượt; năm 2012 là 1.830.600 lượt, đạt mức tăng trưởng trung bình khoảng 14%, mức tăng trưởng đánh dấu triển vọng mới đối với du lịch Thái Nguyên

Bảng  2.1 : Lượng khách du lịch đến Thái Nguyên từ năm 2008 – 2014

Hiện nay khách quốc tế đến Thái Nguyên còn hạn chế, chỉ chiếm khoảng gần 2% tổng số khách du lịch hàng năm của tỉnh. Nhưng số khách quốc tế tăng đều qua các năm, nếu năm 2008 đạt 27.000 lượt thì năm 2009 đạt 31.000 lượt đến năm 2014 đạt  70.000 lượt, tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2008 – 2014 đạt 8,36%

2.2.2. Thu nhập từ du lịch

Bảng 2.2 : Doanh thu du lịch toàn tỉnh từ 2008 – 2014

Như vậy, số chỉ tiêu kinh tế cơ bản trong hoạt động kinh doanh du lịch tại tỉnh có tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn so với năm trước, tuy nhiên tốc độ tăng thể hiện sự phát triển không đồng đều, đó là tăng nhưng không cao, tăng không đều trong các năm. Năm 2007 là năm du lịch quốc gia Thái Nguyên nhưng đã góp phần cho doanh thu toàn xã hội về du lịch tăng lên 12%, đặc biệt năm 2009 tổng doanh thu du lịch đạt 800 tỉ đồng tăng 25% so với năm trước. Đồng thời, tốc độ tăng trưởng còn tăng trưởng không cân đối trong năm giữa tổng doanh thu toàn xã hội về du lịch và doanh thu lưu trú du lịch đó là các năm 2009 và 2011. Nếu năm 2011 cùng với sự kiện đặc biệt là tỉnh đã tổ chức thành công Festival Trà Thái Nguyên thì tổng doanh thu toàn xã hội về du lịch tăng 15% so với năm 2010 trong khi đó tốc độ tăng trưởng về doanh thu lưu trú du lịch chỉ đạt 115 tương đương tốc độ tăng trưởng có 4,5%. Năm 2014 tổng doanh thu xã hội về các dịch vụ du lịch đạt 1.265 tỷ đồng. Điều này cho thấy là số đêm khách lưu trú tại Thái Nguyên không nhiều, chủ yếu là khách đi về trong ngày hoặc nghỉ tại tỉnh khác. Ngoài tốc độ tăng trưởng của lượt khách, của doanh thu du lịch thì tốc độ tăng trưởng của số ngày lưu trú của khách du lịch cũng là một trong những chỉ tiêu mà du lịch Thái Nguyên cần xem xét, tính toán và đưa ra giải pháp thích hợp, kịp thời.

2.2.3. Số lượng cơ sở lưu trú Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Trong giai đoạn từ 2008 đến nay, cùng với sự gia tăng về số lượng khách du lịch, số ngày lưu trú thì hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, cụ thể là cơ sở phục vụ lưu trú cho khách du lịch đã tăng cả về mặt số lượng và chất lượng  Năm 2008, toàn tỉnh Thái Nguyên có 105 cơ sở kinh doanh lưu trú (nhà nghỉ và khách sạn) với 1950 buồng trong đó có 550 buồng ngủ được xếp hạng thì đến năm 2013 tổng số cơ sở kinh doanh lưu trú đã tăng lên 220 với gần 3500 buồng ngủ trong đó gần 1300 buồng ngủ được xếp hạng

Bảng 2.3 : Số lượng cơ sở kinh doanh lưu trú tại tỉnh từ 2008 – 2014

Xét về cơ cấu khách sạn cho thấy năm 2013 toàn tỉnh có 4 khách sạn đạt tiêu chuẩn 3 sao, 9 khách sạn đạt tiêu chuẩn 2 sao, gần 20 khách sạn 1 sao và trên 100 nhà nghỉ lưu trú du lịch đã thẩm định theo quy định của Tổng cục Du lịch, một số cơ sở lưu trú du lịch hiện đang tiếp tục thực hiện hướng dẫn và thẩm định theo quy định. Năm 2014 cả tỉnh có 250 cơ sở hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch (trong đó 42 khách sạn từ 1 đến 3 sao: 4 khách sạn 3 sao, 14 khách sạn 2 sao, 24 khách sạn 1 sao) ; tổng số phòng nghỉ là 3708, số giường: 5514. Nguyên nhân do tài nguyên du lịch của Thái Nguyên còn ở dưới dạng tiềm năng, cơ sở hạ tầng chưa phát triển nên kém sức thu hút với các nhà đầu tư và khách du lịch.

2.2.5. Lao động du lịch :

Số lượng lao động trong ngành du lịch Thái Nguyên hiện làm việc tại các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thái Nguyên, Ban Quản lý di tích lịch sử và danh thắng ATK Định Hóa, Ban Quản lý Khu du lịch Hồ Núi Cốc, phòng Văn hóa Thông tin các huyện, thị xã và thành phố), số còn lại tập trung tại 250 cơ sở hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch, các nhà nghỉ đạt tiêu chuẩn hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch. 17 đơn vị hoạt động kinh doanh lữ hành với gần 200 lao động; trong đó có 40 hướng dẫn viên du lịch, 30% trình độ đại học, 70% trình độ trung cấp, cao đẳng đã được cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch nội địa và quốc tế

Qua điều tra thực tế tại các đơn vị hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, phần lớn cán bộ quản lý kinh doanh chưa được đào tạo chuyên sâu, lao động trình độ phổ thông chiếm 50% (trình độ văn hóa 10/10 hoặc 12/12), lao động có trình độ trung cấp, cao đẳng chiếm 30%, còn lại 20% trình độ đại học (chủ yếu được đào tạo từ nhiều chuyên ngành khác nhau). Do đó các đơn vị áp dụng phương thức đào tạo, bồi dưỡng tại chỗ đã sử dụng lao động có trình độ chuyên môn (trung cấp, cao đẳng, đại học về du lịch…) trong quá trình hoạt động kinh doanh, vừa làm việc vừa chuyển tải kiến thức được học, kinh nghiệm công tác cho các lao động phổ thông tại đơn vị nhằm nâng cao chất lượng phục vụ đáp ứng yêu cầu của khách du lịch; nhưng lao động vẫn còn thiếu tính chuyên nghiệp và trình độ ngoại ngữ còn yếu [11, tr.4]. Khả năng giao tiếp của các nhân viên chỉ đạt trình độ chuyên nghiệp đối với các khách sạn từ 3 sao trở lên. Khả năng giao tiếp tốt đối với nhân viên làm việc từ nhà nghỉ trở lên, trừ ngoại ngữ, nhân viên làm việc tại các khách sạn 2-3 sao mới giao tiếp được bằng ngoại ngữ. Từ đó cho thấy chất lượng nguồn nhân lực du lịch còn rất nhiều hạn chế , chậm đổi mới, chưa biết cách tự lập trong công việc và thiếu kỹ năng giao tiếp cơ bản trong hoạt động du lịch nên ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng dịch vụ cũng như hoạt động kinh doanh trên địa bàn tỉnh [11, tr.8] Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

2.2.6. Dịch vụ vui chơi giải trí

Nhìn chung Thái Nguyên có các khu vui chơi giải trí chưa được đầu tư phát triển đồng bộ, mới chỉ ở dạng tiềm năng nên các tiện nghi thể thao, tiện nghi phục vụ du lịch khác vẫn chưa phát triển. Hiện nay, Thái Nguyên mới chỉ có các dịch vụ như Karaoke, Massage trong các cơ sở lưu trú. Còn tiện nghi vui chơi giải trí thể thao để hấp dẫn khách thì chưa có. Thái Nguyên có thể phát triển khu du lịch vườn sinh thái, nhà vườn, khu du lịch Homestay, các trang trại, các khu bán hàng đồ thủ công truyền thống của người dân địa phương nhằm phục vụ nhu cầu mua sắm của du khách. Thái Nguyên còn thiếu các khu vui chơi giải trí; nếu có thì quy mô còn nhỏ lẻ, cơ sở vật chất chưa phong phú, không thu hút được du khách và  hoạt động chưa hiệu quả

Vì vậy việc xây dựng các khu vui chơi giải trí ở Thái Nguyên là yêu cầu bức xúc, việc xây dựng sản phẩm mới không những kéo dài thời gian lưu trú của khách du lịch để tăng doanh thu mà còn đáp ứng được nhu cầu của các tầng lớp dân cư trên địa bàn Thái Nguyên

2.2.7. Hệ thống cơ sở kinh doanh lữ hành

Hiện tại hoạt động kinh doanh lữ hành đã có nhiều chuyển hướng chuyển biến tích cực, số lượng doanh nghiệp lữ hành tăng nhanh. Năm 2006 mới chỉ có 5 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, đến năm 2012 đã có 15 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành. Năm 2014 đã tăng lên 17 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh lữ hành, trong đó có 16 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh lữ hành nội địa, 01 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế.  Khi hoạt động các đơn vị đã thực hiện nghiêm túc các quy định của nhà nước về lữ hành, chủ động nghiên cứu, tiếp cận thị trường, tích cực tham gia các hoạt động để quảng bá thương hiệu. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng doanh nghiệp sau khi đăng ký ngành nghề kinh doanh lữ hành đi vào hoạt động nhưng không đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định như: Doanh nghiệp lữ hành nội địa nhưng lại núp bóng kinh doanh chào bán chương trình du lịch quốc tế, hướng dẫn viên du lịch dẫn khách không có thẻ, đặc biệt là số lượng hướng dẫn viên du lịch quốc tế thông thạo ngoại ngữ còn ít, phải thuê hướng dẫn nơi khác để đưa, đón khách.

Trang thiết bị máy móc, thiết bị văn phòng tại các doanh nghiệp lữ hành nhìn chung tương đối đầy đủ, hiện đại

2.2.8. Hàng hóa tiêu dùng và đồ lưu niệm

Nhìn chung, hàng hóa tiêu dùng và đồ lưu niệm Thái Nguyên chưa đa dạng về nội dung và hình thức. Các trung tâm mua sắm hàng hóa của Thái Nguyên còn thiếu, chủng loại hàng hóa không phong phú, chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách.  Những mặt hàng thủ công có giá trị tập trung ở khu buôn bán lớn xen lẫn các mặt hàng không phải xuất xứ trong nước như hàng Trung Quốc có quá nhiều, những mặt hàng nơi đây không phong phú, các mặt hàng của các cửa hàng thường tương tự như nhau không có gì là khác biệt Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Các mặt hàng chưa làm nổi rõ nét đặc sắc của “Thủ đô gió ngàn” hay hình ảnh của đất nước Việt Nam

Tại các điểm tham quan không có các khu, các quầy hàng bán hàng lưu niệm được quy hoạch và có sự quản lý…

Trong thời gian tới hy vọng sự phối hợp giữa các cấp các ngành có liên quan chú ý và tạo ra nhiều sản phẩm mang tính đặc thù về đất nước, con người nhằm thu hút khách du lịch tiêu dùng ngày một nhiều.

Các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch: Ngoài các dịch vụ chính để phục vụ khách du lịch những dịch vụ du lịch bổ sung khác cũng phát triển rất mạnh như:

  • Hệ thống thông tin liên lạc: Internet, Telephone, Fax…
  • Dịch vụ hướng dẫn viên thông thạo các điểm du lịch trong địa bàn khách du lịch yêu cầu
  • Đại lý bảo hiểm các hãng lớn: Bảo Việt, Bảo Minh, AIG… cho khách du lịch quốc tế, nội địa và hàng hóa…

2.3. Khái quát về làng nghề chè truyền thống ở Thái Nguyên:

Cách nay cả nửa thế kỷ, làng nghề chè ở Thái Nguyên đã hình thành với số lượng ban đầu không nhiều (chưa đầy 3 làng nghề), các sản phẩm làm ra chủ yếu là để phục vụ nhu cầu của người dân Thái Nguyên. Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, đổi thay của lịch sử và những biến động của nền kinh tế, giống như nhiều làng nghề khác trong cả nước, đa số các làng nghề chè của Thái Nguyên rơi vào cảnh lao đao, làng nghề dần bị mai một, thất truyền, tồn tại nhưng trong tình trạng lay lắt, không ổn định. Làng nghề chè chủ yếu được du nhập vào theo hình thức tự phát, nhỏ lẻ, không mang tính đa dạng, độc đáo. Chất lượng các sản phẩm chè làm ra của các làng nghề chưa cao, mẫu mã, kiểu dáng còn nghèo nàn, sản phẩm sơ sài, phổ thông.

Do phát triển tự phát nên vấn đề xây dựng thương hiệu, tạo uy tín cho sản phẩm của làng nghề chè ít được người dân quan tâm; cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ sản xuất còn khiêm tốn, thiết bị cũ kỹ, công nghệ lạc hậu, chi phí tiêu hao nguyên vật liệu lớn; lực lượng lao động phổ thông là chủ yếu, ít có nghệ nhân cũng như thiếu lao động có tay nghề cao.

Ngày nay thị trường tiêu thụ phát triển, thu nhập bình quân cho lao động tăng, sản phẩm chè Thái Nguyên đã có một thương hiệu chính thống, được nhà nước bảo hộ. Tỉnh Thái Nguyên có 18.665 ha trồng chè, 25 doanh nghiệp, hợp tác xã và 52 làng nghề sản xuất và kinh doanh (năm 2013). Với đôi tay khéo léo và phương pháp chế biến truyền thống, sản phẩm trà Thái Nguyên rất thơm ngon và mang vị đặc trưng. Thương hiệu trà Thái Nguyên được người tiêu dùng trong cả nước và quốc tế biết đến với nhiều sản phẩm đặc sắc. Sản phẩm trà Thái Nguyên đã có mặt trên thị trường ở hầu hết tỉnh thành trên cả nước và nhiều quốc gia trên thế giới. Hai thị trường xuất khẩu chè tiềm năng của chè Thái là Pakistan và Srilanca thông qua các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu chè trên địa bàn như Hiệp hội chè tỉnh Thái Nguyên; Công ty Cổ phần Tân Cương Hoàng Bình, Công ty Cổ phần Chè Sông Cầu; Công ty Cổ phần chè Thái Nguyên. .

Các làng nghề chè Thái Nguyên này nằm giữa một vùng cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, giữa vùng di tích lịch sử độc đáo và vùng văn hóa đậm đà bản sắc nhiều dân tộc. Làng chè Đại Từ nằm sát chân Tam Đảo, vùng rừng núi bao la đồ sộ với những cánh rừng quốc gia trải dài. Những làng chè của Định Hóa, Đồng Hỷ, Võ Nhai chạy theo dọc ven chân những rặng núi đá vôi lô nhô ở với nhiều hang động, thác nước kỳ thú mộng mơ. Làng chè Tân Cương nằm bên Hồ Núi Cốc- một cảnh quan mênh mang “sơn thủy hữu tình”

Thái Nguyên được biết đến không những là cái nôi của Chiến khu Việt Bắc mà còn nổi tiếng bởi những vùng chè như Tân Cương, La Bằng, Tức Tranh… và các làng nghề chè truyền thống khác. Nhằm quảng bá đặc sản chè Thái Nguyên nói chung và qua đó để giới thiệu các làng nghề chè truyền thống ở Thái Nguyên nói riêng, trong những năm qua hoạt động xúc tiến quảng bá chè Thái Nguyên đã được quan tâm với  việc tổ chức nhiều đoàn văn hóa chè đi giới thiệu ở sự kiện, lễ hội như: Lễ hội Quảng Nam- Hành trình Di sản tại TP. Hội An; Lễ hội ẩm thực thế giới tại TP. Vũng Tàu; Lễ hội Đền Hùng tại Phú Thọ; Sự kiện giới thiệu văn hóa trà Việt Nam ở Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam; Sự kiện giới thiệu văn hóa trà tại Hội thảo Quốc tế về phát triển chè ở thủ đô Hà Nội v.v.…

2.4. Thực trạng phát triển du lịch làng nghề tại các vùng chè đặc sản Thái Nguyên Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Thái Nguyên, nơi “Đệ nhất danh trà” đã được xem như một vùng tài nguyên thu hút khách du lịch, bởi trước hết nơi đây đã luôn bao hàm các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của Trà Thái Nguyên. Từ lâu, Thái Nguyên được biết đến như một “Thủ đô chè” của Việt Nam, với những sản phẩm chè thơm ngon nức tiếng. Làng nghề chè hiện chiếm tới 40% tổng số các làng nghề của tỉnh Thái Nguyên. Để tìm hiểu về thực trạng phát triển du lịch làng nghề tại các vùng chè đặc sản Thái Nguyên đề tài nghiên cứu các làng nghề truyền thống chè Tân Cương (Thành phố Thái Nguyên) và làng nghề truyền thống chè La Bằng (Huyện Đại Từ). Các vùng chè, làng chè này đặc trưng bởi vị trí địa lý nằm giữa vùng non nước hữu tình và quan trọng hơn cả là chất lượng chè cao, có hương vị thơm ngon nổi tiếng cùng với những người nông dân hiền hậu, hiếu khách.

2.4.1. Các làng nghề chè Tân Cương, TP Thái Nguyên

Về lịch sử: Cây chè có trên đất Thái Nguyên từ lâu, những địa danh gắn với thương hiệu Tân Cương thì mới có từ giữa thập kỷ 20 của thế kỉ trước. Xã Tân Cương xưa nằm trên đất huyện Đồng Hỷ nhưng đến sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc (1918) một số lính tòng chiến  sang Pháp được hồi hương và giải ngũ được chính sách của chế độ thuộc địa cấp đất lập làng mới. Tư liệu về tỉnh Thái Nguyên lưu trữ tại trường Viễn Đông Bác Cổ, nay do Viện khoa học Xã hội quản lý ghi rõ: “Bản xã Tân Cương thành lập năm Bảo Đại nguyên niên (1926) có 4 giáp Đông Thọ, Tây Thượng, Nam Cương và Bắc Hà…”. Những khảo sát cho biết người cắm đất và chọn hướng đình, về sau được tôn là Thành hoàng làng Tân Cương là cụ Nghè Sổ, tên thực là Nguyễn Đình Tuân. Chính cụ là người đã gợi ý đưa cây chè ở Phú Thọ về trồng đại trà trong làng và cụ Vũ Văn Hiệt ( Đội Năm) là người gây dựng các vùng trồng và lập xưởng, sản xuất và mở cửa hàng tiêu thụ chè Thái Nguyên và chè Tân Cương ở xóm Guộc [17, tr.11] . Từ đó chè Tân Cương ngon nổi tiếng, nhãn hiệu chè “Cánh Hạc”  không những nổi tiếng ở trong nước mà còn xuất khẩu sang nhiều nước như Pháp, Ấn Độ, Trung Quốc… Nhãn hiệu chè “Cánh Hạc” Tân Cương đoạt giải nhất cuộc thi Đấu Xảo tại Hà Nội năm 1935, để rồi từ đó dân gian truyền tụng: “Thái Nguyên đệ nhất danh trà”.

Sở dĩ chè Tân Cương nổi tiếng có lẽ là do tầm nhìn và cách làm ăn của người đã từng qua bên Pháp nên quan tâm đến cách sản xuất và tiêu thụ hàng hóa kiểu mới có hiệu quả kinh tế và quảng bá tốt thương hiệu của mình so với các làng nghề truyền thống vốn có [17, tr.11] Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Vùng chè đặc sản Tân Cương ngày nay cách trung tâm T.P Thái Nguyên từ 5 đến 10km về phía Tây. Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã cấp chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý “Tân Cương” cho sản phẩm chè Tân Cương (Thái Nguyên). Chỉ dẫn địa lý “Tân Cương” cho chè Tân Cương bao gồm vùng địa danh tương ứng với ba xã Phúc Xuân, Phúc Trìu, Tân Cương của TP Thái Nguyên  với diện tích chè trên 4800ha. Tân Cương có khoảng 400ha chè, với 1.300 hộ dân trồng và chế biến.

Điều cốt lõi làm ra nét đặc sắc của sản phẩm trà Tân Cương chính là sự riêng có của nơi đây. Theo phân tích, lượng bức xạ hữu hiệu ở Tân Cương chỉ là 61,2Kcal/cm2/năm, ở các vùng khác là 122,4 Kcal/cm2/năm, nhiệt độ ngày và đêm trên vùng chè Tân Cương có sự chênh lệch trung bình 7,90C, cao hơn những vùng khác, nên rất thích hợp với điều kiện sinh trưởng và phát triển của cây chè, tạo cho chè Tân Cương có chất lượng đặc biệt. Cùng với đó là bàn tay tài hoa, tinh tế của nghệ nhân nơi đây, với những bí quyết cha truyền con nối về trồng, chăm sóc và chế biến ra thứ đặc sản “danh bất hư truyền” [5, tr.72]

Các làng nghề chè truyền thống xã Tân Cương bao gồm Xóm Hồng Thái I (là một trong những làng nghề chè đầu tiên của thành phố, đứng đầu ở làng chè Tân Cương được đón nhận: búp chè vàng, bàn tay vàng), làng nghề chè xóm Hồng Thái II (làng nghề hình thành cách nay hơn 60 năm), xóm Soi Mít- xã Phúc Trìu, hợp tác xã Chè Minh Thu – xã Tân Cương, xóm Rộc Lầy – xã Tân Cương, xóm Khuôn II – xã Phúc Trìu, xóm Cây De – xã Phúc Trìu. Đặc biệt làng nghề chè Phúc Thuận – xã Phúc Trìu có các chương trình giao lưu văn nghệ cho du khách thưởng thức các làn điệu hát Sli, hát then với đánh đàn tính để du khách được hòa nhập vào không gian văn hóa, đây thực sự là hoạt động để lưu giữ chân du khách Hạ tầng giao thông của vùng khá tốt, với các tuyến huyết mạch là đường Tố Hữu và đường Tân Cương, hầu hết các đường liên xóm, xã là đường nhựa và bê tông.

Nghệ nhân đất chè Tân Cương: Nghệ nhân Nguyễn Văn Thắng, nghệ nhân Bùi Trọng Đại và nghệ nhân Lê Quang Nghìn  xóm Hồng Thái II, xã Tân Cương.

Sản phẩm du lịch: Đến với làng chè Tân Cương, du khách có thể đi thăm quan vườn chè kết hợp với loại hình du lịch sinh thái tham quan Khu du lịch văn hóa Hồ Núi Cốc (cách Hồ Núi Cốc gần 7km). Nơi đây không những nổi tiếng vì có sản phẩm chè ngon mà còn có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, có núi, sông và rất gần khu du lịch hồ Núi Cốc. Du khách có thể đến thăm cây chè tổ gần 90 tuổi ở làng chè Tân Cương, đây là cây chè nhiều tuổi nhất của Thái Nguyên.

Ngoài ra, do làng chè Tân Cương chỉ cách Trung tâm TP Thái Nguyên 8,5km nên rất thuận tiện cho khách đi tham quan Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam, Đền thờ Đội Cấn, chùa Phủ Liễn, chùa Đồng Mỗ và tham gia đi mua sắm các sản phẩm du lịch ở Chợ Thái

2.4.2. Các làng  nghề chè La Bằng (huyện Đại Từ)  Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

La Bằng có địa hình nằm sát dãy núi Tam Đảo, với độ ẩm cao, khí hậu mát mẻ phù hợp cho cây chè sinh trưởng và phát triển. Ngược dòng lịch sử, chè trung du truyền thống đã được trồng tại La Bằng từ thời Pháp thuộc. Cây chè cổ nhất của La Bằng cũng có dư 60 năm tuổi nhưng vẫn xanh tốt và cho năng suất cao. Hiện nay vùng chè này có diện tích gần 400 ha chè, với khoảng trên 1.000 hộ trồng chè (100% hộ dân của xã La Bằng đều trồng chè). Chè La Bằng được phân bố ở 10/10 xóm, nhưng tập trung nhiều nhất tại các xóm La Cút, Tiến Thành, Rừng Vần, Kẹm và Đồng Đình…Năm 2012, sản lượng chè toàn xã đạt hơn 2.300 tấn, năng suất 100 tạ/ha. Ngoài giống chè trung du, xã đã chuyển đổi được 157 ha (khoảng 40% diện tích) sang các giống chè cành có năng suất cao như: LDP1, Kim Tuyên, Keo Amtich, Phúc Thọ 10…Trong tổng số trên 1.000  hộ dân của xã La Bằng thì có 120 hộ giàu, thu nhập từ 100 triệu đồng/năm trở lên, đều là những hộ có thu nhập chủ yếu từ cây chè

Chè La Bằng có màu mật ong vàng óng, uống vào có mùi thơm đặc trưng, phảng phất hương hoa thiên nhiên, dịu mát, vị đậm, bền nước. Chè La Bằng đã 2/4 lần đạt giải nhất hội thi chất lượng trà ngon của tỉnh Thái Nguyên. Để có được chất lượng chè như vậy, ngoài sự ưu đãi về chất đất, khí hậu, người dân La Bằng cũng rất khắt khe trong việc lựa chọn giống, khâu trồng, chăm sóc và chế biến chè. Đặc biệt, nơi đây còn có kinh nghiệm làm chè đông đem lại hiệu quả kinh tế cao so với nhiều vùng chè khác.

Nghệ nhân đất chè La Bằng: Ông Trần Trọng Bình, xóm Đồng Đình. Ông Trần Hữu Đôn, xóm Tiến Thành

Sản phẩm du lịch: Đến với đất chè La Bằng của Thái Nguyên, du khách có thể đi thăm quan vườn chè an toàn theo tiêu chuẩn VietGap, xem người dân thu hái chè, thăm vườn chè cổ, thưởng thức trà ngon và nghe người dân hát đàn then, đàn tính, thưởng thức các món ăn đặc sản của địa phương… Du khách cũng có thể đi thăm đập Kẹm, nơi chăn nuôi cá nước lạnh (cá tầm), cảm nhận không khí trong lành của núi rừng Tam Đảo… Chè là cây mũi nhọn trong phát triển kinh tế của địa phương nên đã được Đảng uỷ, chính quyền nơi đây đã ra nghị quyết chuyên đề về  phát triển sản xuất chè, khẳng định tầm cao, vị thế của chè trong nền kinh tế hàng hoá và phát triển du lịch. Trong một tương lai không xa chắc chắn chè La Bằng sẽ toả hương vươn cánh bay xa mang theo tình người La Bằng đến với trăm miền và để lại trong lòng du khách những ấn tượng khó phai.

2.4.3. Thực trạng khai thác du lịch làng nghề tại các vùng chè đặc sản Thái Nguyên 

2.4.3.1. Số lượng khách du lich

  • Số lượng khách đến vùng chè đặc sản Tân Cương :

Lượng khách đến vùng chè đặc sản Tân Cương ngày một tăng cùng với thời gian

  • Bảng 2.4 : Số lượng khách đến vùng chè đặc sản Tân Cương
  • Biểu đồ 1:  Số lượng khách đến vùng chè đặc sản Tân Cương

Số lượng khách đến vùng chè Tân Cương tăng lên từ 2010 đến năm 2013 nhưng tốc độ tăng chưa tương xứng với tiềm năng phát triển du lịch của vùng chè. Cụ thể: So sánh tốc  độ tăng năm 2012/2011 là 25%, năm 2013/2012 giảm xuống còn 20%, điều này cho thấy nhiều du khách đến một lần đã không trở lại. Thực trạng này đặt ra yêu cầu về các dịch vụ chưa thực sự có chất lượng cao để thỏa mãn nhu cầu của du khách Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Số lượng khách đến vùng chè Tân Cương chủ yếu thông qua festival trà Thái Nguyên năm 2011, 2013. Đặc biệt Lễ hội văn hóa Trà năm 2013– một trong những điểm nhấn của Festival đã thu hút 73 đoàn trà trong nước và 6 đoàn trà quốc tế (Nhật Bản, Ấn Độ, Sri Lanka, Hàn Quốc, Trung Quốc) tham dự với không gian trưng bày, giới thiệu nhiều sản phẩm trà có chất lượng, độc đáo của các tỉnh, thành phố, các địa phương, tạo sự hấp dẫn khó quên đối với du khách trong nước và quốc tế.

Riêng xóm Hồng Thái II xã Tân Cương, gia đình ông Lê Quang Nghìn trong năm 2013 đã đón 7 đoàn khách nước ngoài là: Mỹ, Úc, Canada, Nhật, Đài Loan, Trung Quốc đến tham quan và trải nghiệm với vườn chè. Xóm Cây Thị, xã Phúc Xuân (T.P Thái Nguyên) tính từ đầu năm đến tháng 9 năm 2014, xóm đã đón 4 đoàn khách quốc tế đến tham quan, nghiên cứu.

Khách nội địa là đối tượng khách đặc biệt quan trọng của làng nghề. Họ là các đoàn khách ngoại giao của UBND Tỉnh Thái Nguyên, khách thanh niên, trung niên đến từ các tỉnh lân cận như: Lai Châu, Hòa Bình, Hà Giang, Phú Thọ, Hà Nội … Ngoài ra còn có khách nội địa ngoài tỉnh như Miền Trung, Miền Nam, họ đi ngoài mục đích du lịch thuần túy, còn có mục đích thăm quan, mua sắm, nghiên cứu hay tìm kiếm cơ hội kinh doanh… Đặc biệt vào những dịp cuối tuần, học sinh, sinh viên tại các trường Đại học, Cao đẳng của tỉnh vào thăm quan, chụp ảnh, dã ngoại tại khu vực Không gian Văn hoá trà Thái Nguyên. Làng nghề chè xã Tân Cương đang được các cấp Trung Ương đặc biệt quan tâm, do đó đã nhiều lần vinh dự được đón cán bộ Trung Ương đến thăm, động viên và chỉ đạo, cụ thể là:

  • + Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (tháng 1/2009)
  • + Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết (tháng 3/2010)
  • + Đồng chí Nguyễn Bắc Sơn – Bộ trưởng Bộ Thông tin và truyền thông (tháng 11/2011)
  • + Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh (tháng 8/2012)
  • + Đồng chí Lê Hồng Anh (tháng 1/2013)
  • + Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân (tháng 8/2014)

Khách quốc tế đến Làng chè Tân Cương chủ yếu là khách Nhật Bản, khách Trung Quốc, khách CHDCND Lào, khách CHND Campuchia, khách Ucraina, khách Việt kiều về thăm quê hương. Đoàn khách Nhật Bản vào tháng 2 năm 2014 khi đến làng nghề chè xóm Cây Thị họ đi bộ tham quan những nương chè, vào một số nhà để tìm hiểu và trực tiếp trải nghiệm công việc hái thu và chế biến chè. Các khách du lịch đều tỏ ra rất hứng thú với những gì được chứng kiến, sau khi thưởng thức chè ngon, họ đã mua khá nhiều sản phẩm chè của Cây Thị. b. Số lượng khách đến vùng chè đặc sản La Bằng:

  • Bảng 2.5:  Số lượng khách đến vùng chè đặc sản La Bằng
  • Biểu đồ 2: Số lượng khách đến vùng chè đặc sản La Bằng

Số lượng khách đến vùng chè đặc sản La Bằng tăng lên từ năm 2010 đến 2012, nhưng tốc độ tăng còn giảm đáng kể theo thời gian. Cụ thể: So sánh tốc độ tăng năm 2011/2010 là 16,67% nhưng năm 2012/2011 giảm xuống chỉ còn 14,29% điều này cho thấy du khách đến La Bằng “một đi không trở lại”. Lượng khách đến La Bằng còn ít so với so với làng chè Tân Cương, nguyên nhân do cơ sở vật chất còn tương đối đơn sơ, chưa có điểm dừng chân cho du khách, khu Không gian văn hóa trà La Bằng còn là khu nhà sàn đang sửa chữa và chưa có đường đi thuận lợi

Đối tượng khách đến La Bằng là các đoàn khách đến tham quan Tỉnh Thái Nguyên, đặc biệt vào những dịp cuối tuần, lượng du khách đi tham quan du lịch Hồ Núi Cốc, thăm khu di tích 27/7 xã Hùng Sơn huyện Đại Từ, thăm khu di tích thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên tại xã La Bằng. Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Mục đích chủ yếu: Du khách muốn được thưởng thức văn hoá trà, tìm hiểu về quy trình truyền thống sản xuất chè, ngắm cảnh và tắm mát ở Suối La Bằng

Khách quốc tế đến Làng chè La Bằng còn hạn chế, chủ yếu là Việt kiều về thăm quê hương

Trong những năm tới, lượng khách du lịch đến làng chè Tân Cương, La Bằng sẽ có xu hướng tăng lên. Đối tượng khách du lịch sẽ là tiền đề quan trọng để phát triển làng nghề, có thể nói là nguồn tiêu thụ sản phẩm, đem lại lợi ích kinh tế cho làng nghề. Họ không đơn thuần đến thăm quan, chiêm ngưỡng mà còn nghiên cứu, tìm giải pháp nâng cao sản phẩm, đồng thời các khách thương gia đặt quan hệ buôn bán, trao đổi.Vì thế, làng nghề cần nhanh chóng đề ra và thực hiện các chính sách cụ thể, phù hợp để thu hút các nguồn khách tiềm năng, bảo đảm phát triển bền vững du lịch làng nghề chè nơi đây.

2.4.3.2. Thu nhập  từ  du lịch 

Thu nhập từ du lịch bao gồm tất cả các khoản thu do khách du lịch chi trả như doanh thu từ lưu trú, ăn uống, vận chuyển, bán hàng lưu niệm… Tuy nhiên vì du lịch có tính chất liên ngành, liên vùng nên các khoản thu trên không chỉ do ngành du lịch trực tiếp thu mà còn do nhiều ngành khác nữa ví dụ như y tế, ngân hàng, bưu điện, bảo hiểm… Chính vì vậy theo thống kê, sự đóng góp của ngành du lịch trong nền kinh tế của tỉnh còn thấp và chưa đầy đủ. Từ năm 2008 đến 2012, lượng khách du lịch đến Thái Nguyên tăng cho nên doanh thu cũng tăng. Nhưng do hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu về số lượng và kém về chất lượng nên chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch, điều này làm ảnh hưởng đến việc phát triển của ngành du lịch.

  • Tại các làng nghề chè Tân Cương

Tại các làng nghề chè Tân Cương, loại hình du lịch phát triển chủ yếu là loại hình tham quan làng trà và Không gian văn hóa trà, loại hình vui chơi giải trí chưa nhiều vì vậy hoạt động du lịch tại đây chỉ là hoạt động du lịch cuối tuần mà đại đa số du khách tới đây là du khách sinh sống và làm việc tại Thái Nguyên. Do đó doanh thu do hoạt động du lịch tại đây mang lại chủ yếu là từ nguồn thu từ mua chè, ăn uống và một số ít ở nhà dân trong làng

Mua chè: đa số các khách thương gia là những người đến các làng chè để mua chè về bán buôn, bán lẻ tại Hợp tác xã chè Hảo Đạt, hợp tác xã chè Tân Hương (Tân Cương), hợp tác xã chè Nghìn Hạnh

Sử dụng các dịch vụ: Khi đến các làng chè du khách thường có nhu cầu đến tham quan Bảo tàng chè Thái Nguyên để nghe thuyết minh, hướng dẫn về ông tổ nghề chè và cách trồng và chế biến chè ở Thái Nguyên

Ở nhà dân, lưu trú và ăn uống: Khi đi mua sắm kết hợp tham quan du  khách thường tìm kiếm nhà dân để lưu trú, ăn uống nhưng thời gian lưu trú không nhiều, khoảng từ một đến hai ngày

Bảng 2.6 : Thu nhập du lịch tại các làng nghề chè Tân Cương  và làng nghề chè La Bằng

Là một xã chủ yếu phát triển nền kinh tế nông nghiệp, việc phát triển hoạt động du lịch cuối tuần tại làng nghề chè Tân Cương làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng công nghiệp hóa trên cơ sở đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp phục vụ nhu cầu du lịch, thúc đẩy các ngành kinh tế vệ tinh như vận tải, kinh doanh lưu trú, dịch vụ… phát triển, góp phần tạo việc làm và thu nhập cho người dân địa phương Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

  • Tại các làng  nghề chè La Bằng

Thu nhập của các làng nghề chè La Bằng chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong tổng  thu nhập xã hội về du lịch, đây là con số quá khiêm tốn. Người dân trồng chè và có thu nhập chủ yếu từ trồng chè, năm 2012, thu nhập bình quân đầu người của xã đạt 23 triệu đồng/người/năm. Tuy nhiên một thực tế giải thích phần nào sự khiêm tốn này chính là bởi điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật tại làng trà La Bằng còn kém cả về số lượng và chất lượng: toàn bộ làng trà hiện nay chỉ có một nhà khách của UBND xã La Bằng, số lượng khoảng 10 phòng và một nhà văn hóa có khả năng phục vụ khách lưu trú. Đồng thời tại đây, ngoài dịch vụ tham quan các di tích lịch sử, tham quan làng chè ra thì hầu như không còn sản phẩm du lịch nào có sức hút giữ chân du khách ở lại chính vì vậy mà số lượng khách du lịch đến tham quan hầu như không sử dụng dịch vụ lưu trú mà chỉ tham quan, có thể sử dụng thêm dịch vụ ăn uống rất hạn chế về thực đơn và giá cả.

Một lý do nữa khiến doanh thu về dịch vụ du lịch tại các làng nghề chè La Bằng thấp là bởi, du khách tới tham quan không phải mua vé và thuê thuyết minh viên tại Không gian văn hóa chè La Bằng. Ba lý do cơ bản trên đã dẫn tới  thu nhập về dịch vụ du lịch tại làng chè La Bằng còn khá khiêm tốn so với làng trà Tân Cương

2.4.3.3. Sản phẩm du lịch làng chè

  • Tham quan:

Trong các làng nghề nông nghiệp, có lẽ chỉ có “làng hoa” và “làng chè” là có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, hấp dẫn hơn cả, cảnh quan ấy thỏa mãn du khách muốn tìm đến một vùng quê yên ả, không khí thoáng đãng, cảnh sắc xanh tươi. Đến Thái Nguyên, nếu không ghé thăm đồi chè và thưởng thức vị ngọt hậu của “đệ nhất danh trà” thì coi như chưa thấy cái thơ mộng của gốc chè, lá chè, hoa chè và cái cần mẫn của những bàn tay khéo léo tạo nên những gói chè xanh đặc sản thấm đượm tình đất – tình người Thái Nguyên.

Vùng chè Thái không chỉ thể hiện trong nhiều bài thơ ca ngợi cái hương vị quyến rũ:

  • Thoang thoảng hương cốm bay
  • Búp xanh non như ngọc
  • Chè Thái Nguyên ngọt giọng Ấm lòng khách tri âm.

Mà chúng ta còn gặp ở đây cảnh đẹp riêng có qua những câu thơ:

  • Vùng chè sóng mượt chân mây
  • Màu xanh trải mịn thấm đầy gió sương
  • Chắt chiu giọt đất Tân Cương
  • Đón từ giọt nắng tạo hương bấy ngày

Vùng chè Thái,  không chỉ có những đồi chè xanh mướt mà còn thấp thoáng bóng các cô gái nghiêng nón hái chè:

  • Đồi chè bát ngát
  • Xanh biếc lưng trời
  • Bồng bênh mây trôi… Đôi tay ngọc ngà
  • Lượn nhanh thoăn thắt Nét cười như hoa
  • Tình vương ánh mắt…

Cảnh sắc làng chè không đơn điệu bởi những đồi chè lại nhấp nhô, ẩn hiện những mái nhà vườn cây trái xum xuê, nên đã mời gọi và níu kéo bước chân du khách… Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Sản phẩm trà nổi tiếng, cảnh sắc đẹp như một bức tranh, sự đa dạng về tài nguyên du lịch trong vùng, các làng chè Thái chắc chắn sẽ có được sự cuốn hút đặc biệt với du khách trong và ngoài nước. Thêm vào đó, hiện nay các công ty du lịch lữ hành ra đời ngày càng nhiều và luôn tìm kiếm, khai thác những địa điểm, sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan của du khách trong và ngoài nước. Vẻ đẹp của miền đất và con người nơi vùng chè nổi tiếng và rộng thứ hai cả nước này hẳn sẽ là điểm khai thác mà các công ty du lịch lữ hành ngắm tới để hợp tác đầu tư.

Khi đến làng chè Tân Cương du khách như lạc vào một không gian bạt ngàn màu xanh của núi rừng Tân Cương, có nhiều điểm dừng chân tham quan lý tưởng như Bảo tàng trà với Không gian văn hoá trà Tân Cương, du khách được tham quan Chợ chè Tân Cương với sản phẩm đặc trưng trà truyền thống. Du lịch tìm hiểu về không gian văn hóa Trà du khách sẽ thông qua những tài liệu, hiện vật và nội dung trưng bày, du khách sẽ cảm nhận được sự độc đáo của điều kiện tự nhiên cho cây chè phát triển, thấy được những giá trị lịch sử, văn hóa của chè và đồng thời cũng cảm nhận sự vất vả một nắng hai sương của người dân vùng chè. Mỗi chúng ta khi nâng chén trà thơm nồng và đậm đà lên môi cũng từ đó mới thấy được những giá trị của cuộc sống và nét tinh tế của người dân vùng chè. Điều đó có nghĩa thương hiệu chè Thái Nguyên nói chung và thương hiệu chè Tân Cương nói riêng không phải tự nhiên hay vô tình có được, mà trên thực tế do sự bồi tụ và lắng đọng của thời gian theo dòng chảy lịch sử mà ở đó đất chè đã chắt chiu cho sự sống, phát triển của chè và người trồng chè, người thưởng trà đã gây dựng nên nét văn hóa trà độc đáo.

Làng chè La Bằng có nhiều tiềm năng để phát triển loại hình du lịch sinh thái, do La Bằng nằm sát chân núi Tam Đảo nên thời tiết mát mẻ, khách du lịch thích đến suối La Bằng để tận hưởng không khí trong lành và tắm mát vào mùa hè. Mặt khác du khách đến La Bằng còn đến thăm Khu di tích thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên năm 1936

 Làng chè cũng cần có “Nhà truyền thống làng nghề”, có đội văn nghệ quần chúng biểu diễn dân ca và các làn điệu múa dân tộc để mừng đón khách đến thăm, có cả những cỗ xe ngựa đưa khách rong ruổi quanh làng chè, thăm danh lam thắng cảnh và di tích văn hóa lịch sử trong vùng.

b. Homestay:

Là loại hình du lịch được ưa chuộng khi tham gia vào du lịch cộng đồng tại các làng chè Thái Nguyên. Đây là một hình thức phát triển mối giao hòa về mặt tự nhiên, văn hóa và con người giữa các đô thị và nông thôn thông qua việc đến ở (homestay) hoặc tham quan có mục đích nhằm hưởng thụ các sản vật địa phương. Bên cạnh đó còn được thưởng ngoạn các danh lam thắng cảnh và tham gia văn hóa đồng quê nên loại hình du lịch này đã được khẳng định là một hình thức du lịch mang tính cộng đồng bình đẳng và bền vững. Gần đây lượng khách quan tâm tới du lịch nông nghiệp ngày càng lớn vì đa số rất quan tâm tới thực phẩm ngon sạch và không gian sinh hoạt của các nông hộ. Du lịch nông nghiệp luôn hỗ trợ du khách trở thành du khách tích cực trong tất cả các hoạt động không bao giờ nhàm chán. Tham gia loại hình “Du lịch làng nghề nông nghiệp” du khách sẽ được nhìn ngắm đồi chè xanh mướt, được tham gia hái chè cùng các cô gái thoăn thoắt đôi tay, khách được thăm cảnh sao chè, được thử vò chè, sao chè và nếu du khách lại được uống ấm trà tự tay mới vò, mới sao….

Làng nghề chè tham gia vào mạng lưới “Du lịch nhà vườn” cần vận động nhiều gia đình sửa chữa nhà cửa để đón khách du lịch. Đây không phải là những căn nhà mới xây dựng với tiện nghi hiện đại mà là các ngôi nhà vốn có, được tu bổ cho hợp với tiêu chuẩn của hệ thống du lịch: có phòng để tiếp khách, có phòng ngủ, bàn ăn và quan tâm đặc biết đến nguồn nước sạch và khu công trình phụ văn minh. Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Thái Nguyên hiện đã xây dựng được trung tâm văn hóa trà, tuy nhiên không gian đẹp, công trình lớn, hoành tráng, nhưng vẫn chưa thu hút được nhiều du khách. Du lịch Homestay tại Làng chè Tân Cương phát triển khiêm tốn, một số ít du khách nước ngoài có nhu cầu lưu trú thì nghỉ tại gia đình nghệ nhân Nguyễn Văn Thắng. Nguyên nhân Homestay Thái Nguyên chưa thực sự phát triển thì có nhiều song cơ bản là Thái Nguyên chưa biết kết hợp tận dụng lợi thế  mô hình du lịch nông nghiệp (homestay) với không gian mở mặc dù, từ lâu Thái Nguyên được biết đến như một “Thủ đô” của Trà Việt

  • Các tour du lịch đặc sắc:

Làng chè giữa một vùng tài nguyên du lịch đa dạng nên cho phép hình thành 3 tour du lịch đặc sắc đi qua các địa danh tiêu biểu, trong đó có các làng nghề chè nổi tiếng, bao gồm:

  • Tour thứ nhất: Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam – chùa Đán – chùa Y Na – Không gian văn hóa trà Tân Cương – khu du lịch sinh thái Hồ Núi Cốc
  • Tour thứ hai: Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam – di tích đền Đuổm – khu di tích lịch sử sinh thái An toàn khu Định Hóa- Không gian văn hóa trà Tân Cương
  • Tour thứ ba: Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam – làng chè La Bằng – khu du lịch Sinh thái Hồ Núi Cốc – làng chè Tân Cương

2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên

2.5.1. Ảnh hưởng của vị trí địa lý

Làng nghề chè Tân Cương do nằm gần Khu du lịch Hồ Núi Cốc nên đã thu hút một số lượng lớn khách đến thăm quan công trình thủy lợi lớn nhất tỉnh Thái Nguyên. Tuy nhiên con đường Tân Cương vào làng nghề chè, không cùng trục giao thông với đường Tố Hữu nên cũng là trở ngại, đoàn khách phải đi xa thêm hơn 8km mới tới được làng nghề chè; điều này khiến không ít du khách ngần ngại, không muốn đi.

Làng nghề chè La Bằng nằm cách huyện Đại Từ trên 10km, khoảng cách này tương đối thuận tiện khi La Bằng thu hút du khách bởi La Bằng là cái nôi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên. Nhưng cũng do khoảng cách xa Khu du lịch sinh thái Hồ Núi Cốc khoảng 15km nên lượng du khách tới La Bằng không nhiều bằng làng chè Tân Cương.

2.5.2. Ảnh hưởng của sự tham gia của người dân, những nguồn lợi người dân được hưởng từ du lịch chè

Các chuyên gia du lịch nhận định, sự liên kết và chia sẻ lợi nhuận giữa hãng du lịch lữ hành với người dân làng nghề là điều kiện tiên quyết cho việc duy trì và phát triển du lịch làng nghề. Bởi chỉ khi người dân cảm thấy có lời, thì họ mới yên tâm sản xuất, giữ nghề và có động cơ tích cực để tìm hiểu cách làm du lịch, từ đó mới biết làm du lịch.

Làng du lịch cũng nên xây dựng một số công trình “Nhà nghỉ nông thôn” thiết kế kiểu nhà sàn… để có thể đón tiếp nhiều đoàn khách phương xa mong được sống trong khung cảnh khác lạ, êm ả, thơ mộng và ấm cúng của đồng quê Việt Bắc, khác với nơi đô thị ồn ào, náo nhiệt.

Mỗi làng chè cũng cần có “Quán ăn nông thôn” với các món ăn đặc sản địa phương, có “Quán nước” dưới gốc cây cổ thụ bên đường và sẵn sàng một ấm trà ngon đón khách thăm làng, có “cửa hàng” bầy bán sản phẩm trà hảo hạng…

Điều hết sức cần thiết là người dân trong “làng du lịch” cần có thái độ giao tiếp nồng hậu, niềm nở và tự hào hướng dẫn khách du lịch tham quan làng quê mình. Đón du khách nước ngoài cần có nhiều thanh thiếu niên địa phương có trình độ ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh để họ được giao lưu thoải mái, được giới thiệu cặn kẽ để thỏa mãn sự hiếu kì…

Hoạt động du lịch làng nghề muốn phát triển cần có sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư: du khách khi đến làng nghề tham quan đồi chè xanh bát ngát, tập hái chè và sao chè, chế biến chè… sẽ cần đến sự chỉ dẫn của chính nghệ nhân, những người thợ thủ công chứ không phải là hướng dẫn viên nữa. Bởi vậy, người dân làng nghề cũng phải được trang bị những kiến thức nhất định như các kỹ năng bán hàng, kỹ năng giao tiếp… Đa số những kiến thức này do người dân tự học hỏi từ việc giao lưu, tiếp xúc với du khách nên chắp vá và không đồng đều. Để đảm bảo được ấn tượng tốt đẹp của du khách khi đến làng nghề, người dân còn được tập huấn về kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh, đón khách du lịch, cách bài trí nhà cửa, kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm và cả kỹ năng marketing du lịch. Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Tại làng chè Tân Cương: người dân tích cực tham gia vào hoạt động du lịch, họ đã hiểu biết khá tường tận về xu hướng, tiềm năng và lợi ích có thể thu được khi làm loại hình dịch vụ này.  Khi tham gia phục vụ khách du lịch, nhất là khách nước ngoài  thích du lịch khám phá, dã ngoại tại những vùng nông thôn, miền núi. Khách muốn được trải nghiệm, trực tiếp chứng kiến hoặc được thử làm những công việc của nhà nông, hay thưởng thức những món ăn dân dã. Những thứ người dân đang có, đang làm hàng ngày có thể trở thành sản phẩm du lịch đem lại lợi nhuận…

Tại làng chè La Bằng: người dân thân thiện, nhiệt tình và mến khách. Đây là làng chè có khá nhiều hộ gia đình mong muốn làm du lịch, họ tích cực tham gia vào các lớp học tập huấn phát triển du lịch cộng đồng do Sở Văn hoá – Thể thao – Du lịch Thái Nguyên kết hợp với Uỷ ban nhân dân xã La Bằng tổ chức năm festival trà 2011

2.5.3. Ảnh hưởng của cơ sở vật chất – cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch với khả năng tiếp cận đến làng nghề chè

Do xác định cây chè là cây chủ lực của tỉnh Thái Nguyên nên hệ thống cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng được chú trọng để phát triển du lịch. Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ du khách tham quan đặc biệt có Không gian văn hóa Trà. Không gian văn hóa Trà Tân Cương trên diện tích 27.000m2 của vùng đất chè nổi tiếng, nhằm giới thiệu những giá trị lịch sử, văn hóa của chè. Điều đó có nghĩa thương hiệu chè Thái Nguyên nói chung và thương hiệu chè Tân Cương nói riêng không phải tự nhiên hay vô tình có được, mà trên thực tế  do sự bồi tụ và lắng đọng của thời gian theo dòng chảy lịch sử mà ở đó đất chè đã chắt chiu cho sự sống, phát triển của chè và người trồng chè, người thưởng trà đã gây dựng lên nét văn hóa trà độc đáo.

Làng nghề cũng tập trung xây dựng cổng làng khang trang, bề thế với trị giá trên 70 triệu đồng ở xóm Cây Thị, T.P Thái Nguyên với 3,5km đường giao thông nội xóm đều đã được bê tông hóa sạch đẹp. Cuối năm 2012, xóm Cây Thị đón Bằng công nhận làng nghề chè truyền từ đó, người dân làm chè được đón nhận khá nhiều sự hỗ trợ về kiến thức, thiết bị chế biến chè, quảng bá sản phẩm và nhiều đoàn khách tìm đến.

Tuy nhiên do cơ sở lưu trú tập trung hầu hết ở TP Thái Nguyên nên tại làng chè hiện nay đang xây dựng mô hình một vài cơ sở lưu trú tại làng.  Từ năm 2012, thông qua xây dựng mô hình làng văn hóa du lịch cộng đồng, thành phố Thái Nguyên đã lựa chọn 3 xóm điển hình (thuộc các xã: Tân Cương, Phúc Trìu và Quyết Thắng) ở vùng chè đặc sản Tân Cương để tập trung hỗ trợ xây dựng điểm đưa vào khai thác phục vụ khách du lịch. Những hộ gia đình đủ điều kiện (cảnh quan sạch đẹp, nhà cửa rộng rãi, chủ nhân có kiến thức, thời gian và lòng nhiệt tình…) sẽ được cấp giấy chứng nhận được phép đón tiếp khách lưu trú tại gia (hiện có gần 10 hộ đang tích cực và có khả năng hoàn thiện các tiêu chí đón tiếp khách lưu trú tại gia gồm các gia đình:

Bảng 2.7: Gia đình có cơ sở lưu trú phục vụ khách Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Trong 10 hộ gia đình trên thì có 8 hộ đã đủ tiêu chuẩn đón khách. Riêng 8 hộ này đã đón được trên 1.400 lượt khách  đến tham quan, trong đó có hàng trăm du khách ngoại quốc. Qua đó góp phần tăng thu nhập đáng kể cho các hộ dân làng nghề (thông qua dịch vụ lưu trú, ẩm thực, hướng dẫn khách tham quan và bán sản phẩm). Mặt khác, việc đón nhiều du khách đã góp phần nâng cao giá trị thương hiệu chè của các làng nghề, người dân ngày càng có ý thức hơn trong việc sản xuất sạch và nâng cao chất lượng sản phẩm. * Hệ thống cơ sở ăn uống

Các nhà hàng kinh doanh ăn uống tại Thái Nguyên tương đối phát triển, với hệ thống nhà hàng phục vụ cả khách nội địa và khách quốc tế. Tập trung rải rác tại trung tâm thành phố Thái Nguyên, với các nhà hàng như Nhà hàng Asean, Nhà hàng Dạ Hương, nhà hàng Victory, nhà hàng trong Khu du lịch Hồ Núi Cốc (Hương Hồ, Hoa Sim, Hồng Nhung, Vân Hải…) với các đặc sản vùng hồ, rừng núi địa phương … Những năm gần đây thì các quán ăn, nhà hàng tư nhân của Thái Nguyên phát triển với tốc độ khá nhanh (Hoa Biển, nhà hàng Quý Suốt, nhà hàng dê Đức Cường), phần nào đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch đang tăng lên về số lượng

  • Giao thông, cơ sở vật chất tại Làng nghề

Giao thông tỉnh Thái Nguyên có 3 loại hình: Đường bộ, đường thủy nội địa và đường sắt. Do đặc thù địa hình nhiều sông suối nhỏ và dốc, giao thông đường sắt và đường thủy hạn chế, hình thức vận tải bằng đường bộ là chính, đặc biệt đối với khách du lịch. Toàn tỉnh có 4600 km đường rải nhựa, đổ bê tông 40%, số còn lại là đường đất [27, tr.35]

Giao thông tại làng chè Tân Cương: đường Tân Cương trải nhựa từ Thành phố Thái Nguyên vào do Sở Văn hoá Thể thao – Du lịch kết hợp với Uỷ ban nhân dân tỉnh đầu tư thực hiện. Xác định rõ xây dựng làng văn hóa du lịch cộng đồng “Vùng chè đặc sản Tân Cương” gắn với mục tiêu xây dựng nông thôn mới nên ngay từ khi triển khai, các cấp, các ngành đã quan tâm chỉ đạo, tập trung lồng ghép các nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Thành phố đã xây dựng và nâng cấp được trên 10km đường bê tông liên xóm, liên xã đạt tiêu chí nông thôn mới, với tổng kinh phí đầu tư 23.980 triệu đồng.

Giao thông tại Làng chè La Bằng đã phần nào giải quyết được nhu cầu đi lại của người dân và hiện tại Làng chè La Bằng huyện Đại Từ đang tập trung xây dựng thành điểm đến của khách du lịch. Tại đây, Không gian văn hoá Trà La Bằng (Đội 8, xóm Tiến Thành) được xây dựng năm 2011 với vườn chè cổ và cải tạo, chỉnh trang, chăm sóc vườn chè của các xóm: Tiến Thành, Đồng Đình, Kẹm với diện tích 100ha, trong đó chọn xóm Tiến Thành là trung tâm.

Tuy nhiên, Làng chè Tân Cương, La Bằng chưa có xe buýt đến tận nơi, đường vào làng chè La Bằng còn nhỏ, hẹp;  hầu như các tuyến đường đều thiếu các chỉ dẫn, biển quảng cáo cho du lịch, đây là một trong những trở ngại cho khách du lịch đến với làng nghề chè Thái Nguyên

2.5.4. Ảnh hưởng của nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động du lịch làng nghề Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Nguồn nhân lực quản lý du lịch: Để xây dựng được Ban Quản lý làng nghề cần phải đảm bảo đội ngũ cán bộ quản lý đủ về số lượng và chất lượng. Làng nghề cần có chính sách thu hút các đối tượng này. Đặc biệt cần chú trọng đến đội ngũ cán bộ là con em trong làng đã và đang theo học lĩnh vực quản lý du lịch. Sử dụng lực lượng cán bộ quản lý là con em trong làng sẽ đảm bảo được sự gắn kết lâu dài với làng nghề của các đối tượng này

Đội ngũ hướng dẫn viên du lịch tại làng nghề: Cũng giống như nguồn nhân lực quản lý du lịch, làng nghề cần có chính sách thu hút đối với đội ngũ hướng dẫn viên, nhất là con em trong làng. Hiện lao động trong làng nghề hầu hết là người dân địa phương trực tiếp tham gia phục vụ khách du lịch Liên kết với các trường đào tạo hướng dẫn viên để mở các lớp hướng dẫn viên cho con em trong làng. Sử dụng đội ngũ hướng dẫn viên này vừa có thể tạo việc làm cho người làng, vừa giải quyết được tình trạng thiếu nhân lực. Hơn thế nữa, họ là những người sinh ra và lớn lên ở làng nghề nên không ai có thể hiểu sâu về làng nghề hơn họ, tình yêu với làng, với nghề là nền tảng cho họ gắn bó với công việc của một hướng dẫn viên.

Về tham quan học hỏi kinh nghiệm :

  • Đến nay đã có 5 lớp tập huấn được tổ chức, về những nội dung và kỹ năng DLCĐ với sự tham gia của hàng trăm lượt người, 25 người được đi tham quan thực tế, học tập kinh nghiệm tại các làng DLCĐ ở huyện Sa Pa (Lào Cai).
  • Tổ chức 01 chuyến tham quan học tập kinh nghiệm tại hai bản Tả Van và Tả Phìn của huyện SaPa tỉnh Lào Cai từ ngày 20 – 23/3/2013 (30 người)
  • Tổ chức 01 chuyến tham quan học tập kinh nghiệm tại Bản Lác huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình từ ngày 28/6 đến 01/7/2013 (30 người)
  • Thời gian tới sẽ có thêm nhiều lớp tập huấn được tổ chức, cùng với việc thành lập các câu lạc bộ giao tiếp tiếng Anh, văn hóa trà và văn nghệ để phục vụ nếu du khách có nhu cầu

Kết quả các lớp tập huấn:

  • 01 lớp tập huấn về ẩm thưc (30 hộ dân)
  • 01 lớp tập huấn về cách sắp xếp phòng nghỉ lưu trú (30 hộ dân)
  • 01 lớp tập huấn về nấu ăn và vệ sinh an toàn thực phẩm (30 hộ dân)
  • 01 lớp tập huấn về công tác bảo vệ môi trường (30 hộ dân)
  • 01 lớp tập huấn về du lịch cộng đồng phát triển kinh tế địa phương cho các hộ dân , các làng nghề chè truyền thống, đội văn nghệ (90 hộ dân)
  • 01 lớp tập huấn về nghệ thuật pha trà, mời trà, thưởng trà, hướng dẫn khách tham quan trực tiếp tham gia trải nghiệm mô hình này cho các hộ dân tham gia dự án, đội văn nghệ, các làng chè truyền thống (80 người) [26, tr.5]

2.5.5. Ảnh hưởng từ hoạt động quảng bá du lịch chè 

Thông qua festival trà quốc tế Thái Nguyên năm 2011 và Liên hoan trà quốc gia Thái Nguyên năm 2013 là cơ hội để Thái Nguyên quảng bá về du lịch chè.  Các làng nghề chè tham gia Lễ hội văn hóa Trà tại Festival Trà Thái Nguyên – Việt Nam lần thứ hai, năm 2013 gồm các xóm: Hồng Thái I xã Tân Cương; Thanh Phong, Khuôn II, Nhà thờ xã Phúc Trìu; Cây Thị xã Phúc Xuân tham gia tại Hội thi. Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Kết quả: Đạt 7 cúp vàng, 6 cúp bạc và 01 giải khuyến khích

Kêt quả hoạt động truyền thông quảng bá tại Tân Cương :

  • Xây dựng 2 biển chỉ dẫn vào Làng văn hóa du lịch cộng đồng “Vùng chè đặc sản Tân Cương”
  • In ấn và cấp phát 1000 tờ gấp tuyên truyền về du lịch thành phố Thái Nguyên – Hoạt động xây dựng mô hình làng văn hóa du lịch cộng đồng “Vùng chè đặc sản Tân Cương” hiện được đưa tin thường xuyên trên trang thông tin điện tử của thành phố, trang web của Đài Truyền thanh – truyền hình thành phố.
  • Có các bài, phóng sự đưa tin trên các báo Văn nghệ, báo Thái Nguyên, cổng thông tin điện tử tỉnh Thái Nguyên, báo Nông nghiệp, báo Dân trí, Cẩm nang du lịch Châu Á, Đài truyền hình Việt Nam, Diễn đàn chia sẻ thông tin du lịch “Điểm hẹn Việt”
  • Xây dựng 12 phim tư liệu giới thiệu về 12 làng nghề chè truyền thống làm tài liệu về tài sản du lịch thành phố Thái Nguyên [26, tr.5]

2.6. Đánh giá tình hình khai thác các làng nghề chè của Thái Nguyên cho hoạt động du lịch

2.6.1 Những mặt thuận lợi

Việc đầu tư phát triển cây chè trong những năm gần đây là thế mạnh trồng cây công nghiệp lâu năm của tỉnh Thái Nguyên. Nghị định 66 ra đời đã góp phần bảo tồn, phát triển nghề thủ công, làng nghề truyền thống. Giá trị sản xuất từ các ngành nghề nông thôn ngày càng tăng, trở thành ngành kinh tế chủ lực phát triển kinh tế ở nhiều địa phương

Lễ hội festival Trà quốc gia được tổ chức hai năm một lần, là điều thuận lợi để thu hút du khách đến với Thái Nguyên và níu chân du khách. Thái Nguyên là tỉnh có thể phát triển được loại hình du lịch làng nghề chè bởi 3 tiêu chí: (i)cộng đồng thân thiện, hiếu khách; (ii) khí hậu Thái Nguyên trong lành, mát mẻ ; (iii) an ninh an toàn đảm bảo cho hoạt động lưu trú của du khách

Làng nghề Trà Tân Cương đã xây dựng và khẳng định thương hiệu trên thị trường. Trà Thái Nguyên đã xác lập 3 kỷ lục, đó là Kỷ lục “Trình diễn pha trà và thưởng trà có số lượng người tham gia đông nhất”(năm 2011), Kỷ lục “Bộ ấm trà gắn gốm lớn nhất Việt Nam” (năm 2011), Kỷ lục “Thương hiệu trà được nhiều người biết đến nhất ’’(2013).

2.6.2 Những khó khăn Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi cũng còn một số khó khăn, bất cập. Khó khăn lớn nhất hiện nay là thiếu quy hoạch phát triển du lịch làng nghề và đầu tư cho quy hoạch phát triển du lịch chưa đúng tầm

Bên cạnh đó, các làng nghề chè được hình thành dựa trên tính chất đặc thù của địa phương là trồng cây chè. Các làng nghề chè ở Thái Nguyên còn gặp khó khăn về thị trường khách du lịch, còn thiếu tính bền vững, hạ tầng cơ sở còn yếu. Chất lượng sản phẩm đảm bảo nhưng mẫu mã lại chưa phong phú, đa dạng, chưa bắt mắt người tiêu dùng. Việc xây dựng thương hiệu, đăng ký bản quyền cho làng nghề và sản phẩm của làng nghề chưa được quan tâm đúng mức. Các làng nghề chè Thái Nguyên chưa tận dụng hết những lợi thế của mình, số ít gia đình đủ tiêu chuẩn có khả năng phục vụ khách nước ngoài lưu trú, du lịch Homestay chưa thực sự được chú trọng phát triển như Đà Nẵng, Huế.Mặt khác, vấn đề môi trường cũng là vấn đề cần khắc phục, đặc biệt là làng chè La Bằng. Để tạo điều kiện cho du lịch làng nghề chè phát triển, cần dồn tất cả các nguồn lực để tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng đồng bộ, xây dựng các tiêu chuẩn phục vụ khách tại làng nghề mình.

Ngoài ra, xu thế của thế giới là gắn các sản phẩm truyền thống, quảng bá các sản phẩm truyền thống thông qua hình thức du lịch làng nghề hiện nay còn yếu vì vậy các nghệ nhân và người lao động trong các làng nghề cũng chưa thực sự nắm bắt được nhu cầu của thế giới để sản xuất đúng hướng. Mặc dù số lượng các làng nghề chè ở Thái Nguyên còn ít nhưng đã đem lại tổng giá trị sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động trên địa bàn. Do vậy, việc xây dựng và phát triển các làng nghề là vấn đề hết sức quan trọng. Và để giúp các làng nghề thoát khỏi khó khăn, rất cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ của các ban ngành, chính quyền địa phương và bản thân mỗi người dân trong làng nghề

2.6.3 Nguyên nhân Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Cho đến nay hoạt động du lịch tại làng nghề  chè vẫn chưa thực sự phát triển, chưa khai thác hết tiềm năng vốn có. Nguyên nhân trực tiếp có thể thấy rõ là các làng nghề chè chưa thực sự chủ động trong việc giới thiệu, liên kết với các công ty lữ hành hoạt động du lịch  để có thể nắm được nhu cầu của du khách, tìm ra cách thức tổ chức và cung cấp các dịch vụ phù hợp

Thứ hai là những trở ngại về điều kiện tiếp cận điểm du lịch làng nghề, làng nghề chè Tân Cương và La Bằng vẫn đang thiếu nhiều yếu tố để có thể thu hút được du khách như: Hạ tầng cơ sở còn yếu kém – “bộ mặt” làng nghề chưa cải thiện được, bãi đỗ xe, nơi giới thiệu và bán sản phẩm, hướng dẫn viên du lịch giỏi ngoại ngữ, cơ sở sản xuất cho khách tham quan và trải nghiệm … là những nguyên nhân kìm hãm phát triển du lịch. Đặc biệt làng nghề chè La Bằng chưa chú trọng về cơ sở vật chất, không có những showroom trưng bày sản phẩm, hoạt động còn nhỏ lẻ chủ yếu mang tính chất hộ gia đình, không tập trung nên rất khó khăn trong việc tổ chức cho các đoàn khách lớn đến tham quan và cũng chưa tao được dấu ấn riêng trong lòng du khách

Thứ ba, công tác quản lý Nhà nước cũng như vai trò của cấp ủy, chính quyền địa phương và các tổ chức nghề nghiệp trong việc định hướng, quản lý và phát triển du lịch làng nghề. Các chính sách phục vụ cho du lịch cần phải đề cao hơn nữa tính hiệu quả, trên cơ sở đạt được các tiêu chí văn hóa gắn với du lịch, kinh tế làng nghề  Thứ tư, việc giữ gìn vệ sinh môi trường  tại làng nghề chè La Bằng chưa được quan tâm đúng mức  gây ảnh hưởng không tốt tới việc tạo thương hiệu, điểm đến cho khách du lịch

Thứ năm, vấn đề thị trường, thông tin, xúc tiến và cùng với những hạn chế về năng lực đón tiếp phục vụ du lịch của cộng đồng dân cư tại làng nghề…dẫn tới sản phẩm du lịch làng nghề vẫn chưa thuyết phục đươc nhà đầu tư bằng giá trị tăng thêm. Sản phẩm du lịch làng nghề chè còn đơn điệu, chưa chú ý những mẫu sản xuất mang tính đặc sắc, sáng tạo gắn với những hoạt động sôi nổi ở làng nghề chè Tân Cương, La Bằng. Sản phẩm đặc trưng của làng nghề là những tinh hoa, đặc sắc nhất của các nghệ nhân chưa đưa vào trưng bày rộng rãi hơn trong bảo tàng và quảng bá.

Thứ sáu, làng nghề chè Tân Cương, La Bằng chưa tạo thêm nhiều cơ hội cho du khách trải nghiệm tại làng nghề để kéo dài thời gian lưu lại của du khách.

Thứ bảy, các làng nghề chưa có sự đầu tư tập trung hiệu quả, cần phải xác định lại các tiêu chí để bổ sung thành lập tiêu chí làng nghề  để có thể hoàn chỉnh thống nhất và hiện đại hóa làng nghề để nâng cao khả năng cạnh tranh, giảm giá thành và tạo ra hàng hóa chất lượng cao

Thứ tám, làng nghề phải có chính sách tôn vinh nghệ nhân hơn nữa, cùng với đó đổi mới hoạt động của các tổ chức quỹ dành cho sự phát triển các làng nghề. Hoạt động du lịch nông nghiệp nông thôn (Homestay) cần được chú trọng đặc biệt hơn nữa  Thứ chín, hiện nay đã có nhiều hiệp hội ngành chè nhưng cần có chính sách để các hội phát triển theo hướng gắn kết hơn

Là một tỉnh giàu tiềm năng, thế mạnh về du lịch như Thái Nguyên cần gắn làng nghề chè với phát triển du lịch nhằm phát huy được giá trị mang lại từ các làng nghề. Hiện nay, các sản phẩm từ các làng nghề truyền thống còn xuất hiện khá khiêm tốn trong các tua, tuyến du lịch của tỉnh. Vì vậy việc gắn kết các làng nghề với phát triển du lịch, nhất là du lịch sinh thái, không chỉ góp phần quảng bá sản phẩm của làng nghề, mà còn thông qua làng nghề để làm đa dạng thêm dịch vụ du lịch

Tiểu kết chương 2 Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

Thái Nguyên là tỉnh có nguồn tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng, nhiều lợi thế để phát triển du lịch thăm quan các di tích lịch sử, cảnh quan thiên nhiên, du lịch trải nghiệm làng nghề. Song thực trạng hoạt động kinh doanh du lịch làng nghề của tỉnh lại chưa mang lại những lợi ích về mặt kinh tế, văn hoá – xã hội. Không gian văn hóa trà Tân Cương, La Bằng mở cửa đón khách tham quan không thu vé, các dịch vụ phục vụ du lịch còn ít, hệ thống cơ sở ăn uống hạn chế về thực đơn và giá cả. Hoạt động Homestay chưa thực sự hấp dẫn khi cơ sở lưu trú tại làng nghề còn tương đối giản đơn. Thu nhập du lịch của làng nghề chè chiếm tỉ trọng còn khá thấp so với thu nhập chung của tỉnh trong nhiều năm nay, tỉnh lại xác định đưa ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; số lượng khách đặc biệt là khách quốc tế đến tham quan còn hạn chế. Làng chè Tân Cương chủ yếu thu hút lượng khách trong tỉnh và chỉ phát triển du lịch cuối tuần, khách du lịch quốc tế còn ít. Làng chè La Bằng cơ cấu khách chỉ dừng lại ở khách học sinh sinh viên, các cựu chiến binh về thăm lại chiến trường di tích 27/7, các nhà nghiên cứu. Làng nghề chè Tân Cương có thuận lợi do xây dựng được Không gian văn hóa, là một bảo tàng sống động thu hút du khách tham quan, tìm hiểu. Còn làng chè La Bằng giao thông còn khá khó khăn, là yếu tố cản trở du lịch phát triển. Nhìn chung ở cả hai làng nghề chè Tân Cương và La Bằng cơ sở vật chất còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng, sản phẩm du lịch còn nghèo nàn chưa đủ sức hấp dẫn để níu chân khách lại quá hai, ba ngày. Tuy nhiên, để các làng nghề chè gắn kết với phát triển du lịch, cần khuyến khích người dân hợp tác làm ăn theo mô hình kinh tế tập thể. Khi các làng nghề làm ăn đồng bộ, có quy mô sản xuất tập trung, thì ngành du lịch cũng dễ dàng phối hợp nhằm hình thành các điểm du lịch làng nghề. Đồng thời tạo thuận lợi cho việc quy hoạch phát triển làng nghề gắn với ưu tiên đầu tư vốn để phát huy các giá trị mang lại từ làng nghề truyền thống. Với sự quyết tâm giữ gìn nghề truyền thống của người dân, gắn với đề án phát triển du lịch làng nghề giai đoạn 2012 – 2015, hy vọng sẽ tạo nên “cú hích” mới cho làng nghề chè Thái Nguyên phát triển, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển du lịch tại làng nghề. Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Luận văn: Giải pháp phát triển du lịch làng chè tại Thái Nguyên

One thought on “Luận văn: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề chè Thái Nguyên

  1. Pingback: Luận văn: Phát triển du lịch làng nghề tại chè đặc sản Thái Nguyên

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464