Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện của Tỉnh Phú Thọ dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Giới thiệu chung về điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội tỉnh Phú Thọ
2.1.1. Về điều kiện tự nhiên
Diện tích đất tự nhiên 3.532 km2, trong đó diện tích đất nông nghiệp là 97.610 ha, đất rừng là 195.000 ha với 64.064 ha rừng tự nhiên, đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 10.000 ha, các loại đất khác là 19.299 ha.
Đơn vị hành chính: Tỉnh Phú Thọ có 13 huyện, thành, thị gồm thành phố Việt Trì (là trung tâm chính trị – kinh tế – văn hoá của tỉnh Phú Thọ và là thành phố về miền lễ hội cội nguồn các dân tộc Việt Nam), thị xã Phú Thọ và các huyện: Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập, Cẩm Khê, Tam Nông, Thanh Thuỷ, Hạ Hoà, Thanh Ba, Đoan Hùng, Lâm Thao, Phù Ninh.
Địa hình tỉnh Phú Thọ mang đặc điểm nổi bật là chia cắt tương đối mạnh vì nằm ở phần cuối của dãy Hoàng Liên Sơn, nơi chuyển tiếp giữa miền núi cao và miền núi thấp, gò đồi, độ cao giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Căn cứ vào địa hình, có thể chia Phú Thọ thành hai tiểu vùng cơ bản sau:
Tiểu vùng Tây Nam hay hữu ngạn sông Hồng gồm các huyện: Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập, Tam Nông, Thanh Thủy, Cẩm Khê và một phần của Hạ Hòa có diện tích tự nhiên gần 2.400km2, bằng 67,94% diện tích tự nhiên toàn tỉnh; độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 200 – 500m. Đây là tiểu vùng có những lợi thế phát triển chủ yếu như: trồng cây ôn đới, cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, cây lâm nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, khai thác khoáng sản, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng… Tuy nhiên, tiểu vùng này có nhiều khó khăn về giao thông và dân trí còn thấp nên việc khai thác tiềm năng nông, lâm, khoáng sản… để phát triển kinh tế – xã hội còn hạn chế. Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Tiểu vùng Đông Bắc hay tả ngạn sông Hồng gồm thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ và các huyện: Lâm Thao, Phù Ninh, Thanh Ba, Đoan Hùng và phần còn lại của Hạ Hòa, có diện tích tự nhiên 1.132,5km2, bằng 32,06% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Địa hình đặc trưng của tiểu vùng này là các đồi gò thấp, phát triển trên phù sa cổ (bình quân 50 – 200m) xen kẽ với những dộc ruộng và những cánh đồng bằng ven sông. Đây là vùng tương đối thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả, sản xuất lương thực, nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi. Một số khu vực tập trung những đồi gò thấp tương đối bằng phẳng (tập trung chủ yếu ở vùng Đông Nam của tỉnh) thuận lợi cho phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và phát triển các hạ tầng kinh tế – xã hội khác.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục
2.1.2. Về kinh tế xã hội
Phú Thọ là nơi đóng đô của Nhà nước Văn Lang thời đại các Vua Hùng, nhà nước đầu tiên trong lịch sử nước ta; là vùng đất cổ giàu truyền thống lịch sử và văn hiến, nhân dân Phú Thọ cần cù trong lao động sản xuất, sáng tạo nhiều loại hình văn hóa,văn nghệ dân gian phong phú.
Tình hình kinh tế trong những năm qua trên địa bàn tỉnh ổn định và phát triển, các giải pháp, chính sách phát triển kinh tế của nhà nước đã và đang phát huy tác dụng. Tuy nhiên chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; thiên tai tiếp tục diễn biến khó lường, tác động tiêu cực tới tình hình sản xuất và đời sống nhân dân trên địa bàn tỉnh. Song, nhờ chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp cùng với sự tích cực chủ động của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh, nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao ở hầu hết các ngành; đời sống nhân dân ổn định; an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
2.1.2.1. Dân số, lao động, việc làm và đời sống dân cư Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Dân số trung bình toàn tỉnh năm 2018 ước tính 1.404,1 nghìn người, tăng 0,8% so với năm trước, trong đó: nữ chiếm khoảng 50,7%; dân số thành thị chiếm 19,1%; tỷ suất tăng dân số tự nhiên đạt 11,40‰.
Tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế ước tính năm 2018 là 769,4 nghìn người, tăng 8,6 nghìn người so với năm 2017, trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 53,5% tổng số, giảm 3,2 nghìn lao động; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 24,3%, tăng 6,7 nghìn lao động; khu vực dịch vụ chiếm 22,2% tăng 5,1 nghìn lao động. Tỷ lệ lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế đã qua đào tạo ước đạt 22,7%, tăng 1,1 điểm phần trăm; tỷ lệ lao động thất nghiệp 2,2%.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có trên 143,3 nghìn công nhân, viên chức lao động. Nhìn chung, đời sống của công nhân, viên chức, người lao động tiếp tục được đảm bảo, việc làm cơ bản ổn định, không có tình trạng thiếu hoặc mất việc làm kéo dài; thu nhập của công nhân viên chức lao động được tăng lên do Nhà nước thực hiện việc điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng và mức lương cơ sở. Tiền lương bình quân của công nhân viên chức lao động trên địa bàn là trên 4,7 triệu đồng/người/tháng. Khu vực HCSN là trên 4,8 triệu đồng/người/tháng; khối sản xuất kinh doanh là trên 4,7 triệu đồng/người/tháng.
Theo Cục Thống kê tỉnh Phú Thọ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế ước tính năm 2018 là 8 trăm nghìn người, tăng 8,1 nghìn người so với năm 2017, trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 54,6% tổng số, giảm 8 nghìn lao động; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 22,9%, tăng 10 nghìn lao động; khu vực dịch vụ chiếm 22,4% tăng 6,1 nghìn lao động. Tỷ lệ lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế đã qua đào tạo ước đạt 26,7%, tăng 0,5 điểm phần trăm; tỷ lệ lao động thất nghiệp 1,60%, giảm 0,04 điểm phần trăm. Dân số trung bình toàn tỉnh năm 2017 ước tính 1.392 nghìn người, tăng 0,7% so với năm trước, trong đó: trong đó nữ chiếm khoảng 50,5%; dân số thành thị chiếm 18,8%.
Như vậy có thể thấy đây là một ưu thế, khi Phú Thọ có đội ngũ lao động trẻ, là điều kiện tốt cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Góc nhìn khác về lực lượng lao động của Phú Thọ ta thấy: Giống như nhiều địa phương khác trong cả nước, thiếu lao động có trình độ chuyên môn cao đang là khó khăn lớn cho các cơ quan, các cơ sở sản xuất, nghiên cứu khoa học. Tình trạng sinh viên tốt nghiệp ra trường không đảm nhận được lao động ở chính chuyên ngành mình được đào tạo, phải cần đào tạo lại và có thời gian bồi dưỡng; Tình trạng sinh viên, sau tốt nghiệp ra trường không muốn về địa phương, ở lại các thành phố lớn trở thành lao động phổ thông, hoặc lao động không ổn định việc làm tại các thành phố này. Số này cùng một lực lượng lao động di dân từ các nơi đổ về các thành phố lớn chỉ mục đích kiếm sống tạo nên một thị trường lao động không ổn định, rất khó quản lý. Điều kiện thu nhập của đa phần số lao động này không đảm bảo cho họ cuộc sống ổn định, an toàn!
Việc quản lý, sử dụng, bồi dưỡng quy hoạch nguồn nhân lực của tỉnh, nhất là khu vực các huyện còn gặp nhiều khó khăn. Quan điểm căn cứ trên quy hoạch để đưa ra chính sách đầu tư nhân lực; Căn cứ kế hoạch dịch chuyển của cơ cấu ngành kinh tế, chú trọng cơ cấu nội ngành công nghiệp, dịch vụ và các sản phẩm chủ lực mũi nhọn như kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Phú Thọ chưa được lấy làm căn cứ để xây dựng chiến lược về lực lượng lao động của Phú Thọ.
Báo cáo do Viện Khoa học Lao động và Xã hội (ILSSA) thực hiện cho biết, trong giai đoạn 2010 – 2015, lực lượng lao động của Việt Nam dự kiến sẽ gia tăng khoảng 1,5%/năm (tương đương với khoảng 738.000 lao động/năm). Báo cáo cũng đưa ra khuyến nghị Chính phủ cùng với người lao động và người sử dụng lao động cần ưu tiên các biện pháp thúc đẩy năng lực cạnh tranh của đất nước, bao gồm tăng cường các thể chế thị trường lao động, đầu tư phát triển nguồn nhân lực, xúc tiến chất lượng việc làm và mở rộng hệ thống an sinh xã hội. Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Phân tích về kết luận của Viện Khoa học Lao động và Xã hội (ILSSA) về lao động Việt Nam thời gian tới, đặc biệt là khu vực các thành phố lớn và thị xã thì thấy nhu cầu cần nguồn lao động chất lượng cao với thực trạng và dự báo, đặt ra trách nhiệm của các cấp quản lý, những người sử dụng lao động và các cơ quan chức năng, các cơ sở đào tạo- trong đó có trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện, phải đưa vào đề án hoạt động nội dung tổ chức các chương trình gắn với cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cho các vùng kinh tế của tỉnh Phú Thọ. Thêm nữa, giải quyết khắc phục những hệ lụy đi kèm của việc tăng dân số hiện đang đầy áp lực đối với tỉnh Phú Thọ.
2.1.2.2. Về tăng trưởng kinh tế
Kinh tế trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong những năm qua tiếp tục tăng trưởng khá, vượt mục tiêu đề ra, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2018 theo giá so sánh 2010 ước đạt 40.890,4 tỷ đồng, tăng 8,34% so với năm 2017 (vượt kế hoạch 0,84%); trong đó khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,75%; khu vực dịch vụ tăng 7,69%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,29%.
Cơ cấu kinh tế (cơ cấu giá trị tăng thêm) năm 2018: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 21,57% (năm 2017 đạt 21,68%); khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng 37,86% (năm 2017 đạt 37,59%); khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng 40,57% (năm 2017 đạt 40,73%). Cơ cấu kinh tế 2018 tiếp tục có sự chuyển dịch theo hướng tích cực theo hướng giảm tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng và dịch vụ.
Đóng góp vào mức tăng trưởng chung 8,34%, khu vực công nghiệp – xây dựng có mức tăng trưởng cao nhất, đóng góp 3,85 điểm phần trăm; tiếp theo đó là các ngành dịch vụ đóng góp 2,84 điểm phần trăm; khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản đóng góp 1,03 điểm phần trăm; thuế sản phẩm đóng góp 0,63 điểm phần trăm.
2.1.2.3. Về văn hoá xã hội
Vị trí của một tỉnh cửa ngõ tây bắc với sự đầu tư tập trung đã tạo tiền đề vật chất cho sự thay đổi nhanh chóng bộ mặt văn hoá- xã hội. Hệ thống cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường học, bệnh viện, các công trình phúc lợi công cộng…) được quan tâm đáng kể. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao, báo chí, tuyên truyền, giải quyết các chính sách xã hội, việc làm cho người lao động; công tác xóa đói, giảm nghèo… đã có nhiều chuyển biến đáng kể. Công tác chăm sóc và giáo dục học sinh ngày càng được quan tâm chu đáo; Việc chăm sóc sức khoẻ nhân dân đã có nhiều tiến bộ.
Nhiều doanh nghiệp quốc tế đã vào làm ăn ở Việt Nam. Sự giao lưu, giao thoa với nhiều nền văn hóa trong nền kinh tế thị trường và thời đại hội nhập điều kiện tiếp thu những giá trị tốt đẹp của thời đại để làm giàu thêm nét văn hóa ngàn năm.
Bên cạnh những cơ hội, cũng xuất hiện những vấn đề xã hội mới: Kinh tế thay đổi nhưng chưa vững chắc. Đô thị hóa đã khiến một bộ phận người dân giàu lên nhanh chóng từ việc bán đất, nhưng vấn đề xã hội cũng phát sinh từ việc nghề nông bị xoá bỏ ở nhiều vùng nông thôn cũ; Một số lượng người lao động chưa có việc làm và có tiền chưa biết sử dụng đồng tiền cho phát triển kinh tế bền vững. Việc bán đất có tiền cũng nảy sinh nhiều sinh hoạt không lành mạnh như cờ bạc, nghiện hút, kinh doanh mua bán đất và lừa đảo góp hụi dẫn đến những vụ bể hụi thành chuỗi với những khoản tiền lớn đã xảy ra tác động đến đời sống của nhiều gia đình và của xã hội. Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Tình hình KT-XH nêu trên có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển GDĐT Phú Thọ. Tuy nhiên, trong tiến trình đổi mới, những khó khăn là nhỏ so với những thuận lợi, những thành tựu đạt được đã báo hiệu sự khởi sắc trên quê hương, tạo tiền đề để Phú Thọ tiếp tục phát huy truyền thống, làm giàu thêm những giá trị văn hóa từ sự bổ sung những giá trị của các vùng miền.
2.2. Quá trình phát triển sự nghiệp Giáo dục tỉnh Phú Thọ
Ngày 2-9-1945 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, lịch sử giáo dục nước nhà bước sang một trang mới. Ngày 8-9-1945, Chính phủ ký ba sắc lệnh quan trọng về Bình dân học vụ. Chỉ sau hơn một tuần thành lập Nha bình dân học vụ, tại Phú Thọ, Ty Bình dân học vụ đã ra đời để điều hành công tác chống giặc dốt. Cùng với việc chống nạn mù chữ, tỉnh Phú Thọ đã bắt tay vào xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân, một số trường tiểu học và trung học được thành lập. Phú Thọ tự hào là một trong những chiếc nôi đầu tiên của ngành giáo dục mầm non cả nước. Trải qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đầy khó khăn, vất vả, những người làm công tác giáo dục Đất Tổ nhận thức rõ vinh dự và trách nhiệm để đưa sự nghiệp giáo dục của tỉnh ngày càng phát triển.
Hơn 70 năm qua, với nhiều tên gọi khác nhau, bắt đầu là Ty Giáo dục, sau đổi thành Sở Giáo dục, Sở Giáo dục – Đào tạo rồi Sở Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) cho đến nay, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành GD&ĐT Phú Thọ đã không ngừng phấn đấu xây dựng sự nghiệp “Trồng người” ngày càng phát triển, góp phần rèn đức, luyện tài cho bao thế hệ.
Từ xuất phát điểm còn nhiều khó khăn, đến nay trên địa bàn tỉnh có 917 trường mầm non, phổ thông; 14 trung tâm; 1 Trường Bồi dưỡng Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục; 2 trường đại học, 10 trường cao đẳng, 5 trường trung cấp. Toàn bộ 277/277 xã, phường, thị trấn có trung tâm học tập cộng đồng. Để thực hiện có hiệu quả công tác phát triển giáo dục, ngành đã chủ động tham mưu cho Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành các văn bản tăng cường quản lý Nhà nước về lĩnh vực giáo dục, xây dựng các Đề án, dự án, chương trình, kế hoạch phát triển giáo dục các giai đoạn; các văn bản chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ các năm học trên địa bàn tỉnh; đã tổ chức thực hiện nghiêm quy định trách nhiệm quản lý Nhà nước về giáo dục, bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý trong việc thực hiện các đề án, dự án, quy hoạch đối với giáo dục và phát triển nguồn nhân lực. Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Chất lượng giáo dục ở các ngành học, cấp học được nâng lên rõ rệt và nhiều năm nay đã được xếp vào nhóm các tỉnh, thành phố có thành tích giáo dục khá của cả nước. Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ được duy trì và phát triển khá vững chắc; 100% trẻ mẫu giáo 5 tuổi đến trường, được tham gia đánh giá kết quả và hoàn thành chương trình giáo dục mầm non theo quy định của Bộ GD&ĐT. Trẻ em 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100%. Nhiều năm qua, trên địa bàn tỉnh không có học sinh tiểu học bỏ học. Học sinh hoàn thành chương trình tiểu học vào học lớp 6 hàng năm đạt 100%; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS và tốt nghiệp THPT đạt bình quân trên 98%; số học sinh trúng tuyển vào các trường cao đẳng, đại học liên tục tăng cao, hàng năm có từ 2 đến 3 trường THPT nằm trong tốp 200 trường có điểm trung bình thi đại học cao nhất của cả nước. Chất lượng học sinh giỏi các cấp ổn định ở mức cao, nhất là học sinh giỏi quốc gia và quốc tế, trong ba năm liền (2010-2012) tỉnh Phú Thọ có 3 học sinh đoạt giải trong kỳ thi Olympic Toán quốc tế với 1 Huy chương Vàng và 2 Huy chương Đồng. Đặc biệt, năm học 2014-2015, thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm 2015 đạt 47 giải, xếp theo chất lượng giải Phú Thọ đứng thứ 4, xếp theo số lượng giải đứng thứ 16/63 tỉnh, thành; có 1 học sinh đoạt Huy chương Đồng Olympic Hóa học quốc tế. Như vậy, trong 5 năm (2010-2015) tỉnh Phú Thọ có 4 học sinh đoạt giải trong kỳ thi Olympic quốc tế. Năm 2012, Phú Thọ là một trong 6 tỉnh đầu tiên trong cả nước hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi (vượt trước 3 năm so với kế hoạch). Hiện nay, toàn tỉnh có 276/277 đơn vị cấp xã, 13/13 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; 154 đơn vị cấp xã, 2 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2, các đơn vị còn lại đều duy trì vững chắc chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 1; 277/277 đơn vị cấp xã, 13/13 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS; tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 trở lên đạt 99,7%.
Cùng với giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên thực hiện nhiều giải pháp tích cực để phát triển cả số lượng và chất lượng. Tích cực, chủ động triển khai Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2013-2020” và Đề án “Xóa mù chữ đến năm 2020”; tham gia các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Ngành phối hợp với Hội Khuyến học tỉnh tổ chức thí điểm các mô hình “Gia đình học tập”, “Dòng họ học tập”, “Cộng đồng học tập”, “Đơn vị học tập” ở 15 xã, phường, thị trấn.
Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển GD&ĐT, việc đầu tư cơ sở vật chất tạo điều kiện phục vụ dạy và học được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu giúp nâng cao chất lượng, giảm khoảng cách giữa các trường ở vùng thuận lợi và nơi khó khăn. Hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học được quan tâm đầu tư, tỷ lệ kiên cố hóa trường học đạt 85,6%. Công tác xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia đạt kết quả tích cực, dự kiến hết năm 2015 tổng số trường học đạt chuẩn quốc gia là 573/917 trường, đạt 62,6%; đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục để tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị dạy học. Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Công tác phát triển, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ luôn được ngành chú trọng, quan tâm thường xuyên và là giải pháp then chốt để nâng cao chất lượng giáo dục. Ngành đã tập trung xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, vững về chính trị, trong sáng về đạo đức và tận tâm với nghề.
Hiện nay, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục cơ bản đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, chuẩn hóa về chất lượng. Tỷ lệ giáo viên có trình độ trên chuẩn về trình độ đào tạo cấp học mầm non là 68,9%; tiểu học: 79,78%; THCS: 70,01% và THPT: 11,84%. Ngành đã phối hợp với các cơ quan liên quan chỉ đạo các cơ sở giáo dục thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách miễn, giảm học phí, chính sách tín dụng học sinh, sinh viên; triển khai thực hiện có hiệu quả các Đề án, Chương trình và Dự án về giáo dục đào tạo theo mục tiêu và lộ trình đã được phê duyệt.
Với những kết quả đạt được, trong 70 năm qua, GD&ĐT Phú Thọ đã tạo dựng được niềm tin với các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân trong tỉnh; khẳng định được vị thế so với giáo dục các tỉnh, thành trong cả nước. Ghi nhận những kết quả đạt được, liên tục 5 năm từ năm 2010-2015, Sở GD&ĐT được Bộ GD&ĐT tặng Cờ “Đơn vị tiêu biểu xuất sắc”. Những kết quả đạt được của ngành GD&ĐT được chọn là một trong 10 sự kiện và thành tựu nổi bật của Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2010-2015.
Bảng 2.1: Quy mô số trường, số học sinh các cấp học của tỉnh Phú Thọ
Dân số Phú Thọ trên 1.4000.000 (số liệu điều tra nhân khẩu Cục thống kê tỉnh Phú Thọ 12/2018). Với mục tiêu cố gắng cao nhất để có trường học phủ khắp mọi địa bàn, ngành GDĐT Phú Thọ đã chủ động tích cực tăng số lượng trường học, nhưng vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu học tập của các tầng lớp nhân dân, nhất là bậc mầm non, tiểu học. Nhiều chính sách đối với cơ sở được ban hành, Sở Giáo dục đã tập trung đầu tư cung cấp thiết bị; Sửa chữa và xây mới nhiều cơ sở vật chất cho các nhà trường, thực hiện xóa phòng học tạm cấp 4; Xây dựng nhiều cơ chế chính sách phù hợp…Ưu tiên cho các vùng khó khăn để từng bước nâng cao sự đồng đều. Ngành giáo dục cũng Xây dựng kế hoạch để bồi dưỡng, nâng cao được chất lượng cho ĐN Cán bộ quản lý không chỉ chuẩn về đào tạo mà còn chuẩn về nghề nghiệp. Xây dựng kỉ cương trong làm việc, được coi là động lực của sự phát triển. Trên nguyên tắc đó, mặc dù có những thuận lợi và những khó khăn, có những khoảng cách ngay trong hệ thống, nhưng lãnh đạo Sở Giáo dục Phú Thọ đã đưa ra những giải pháp rất kịp thời cho ngành. Mục tiêu hàng đầu cho ngành giáo dục sau hợp nhất, đó là xây dựng: “Kỷ cương nghiêm – chất lượng thực hiệu quả cao”. Kỷ cương trong điều hành – trong các hoạt động dạy của thày, học của trò- cũng như các hoạt động quản lý chuyên môn, nhân sự, tài chính, cơ sở vật chất và các điều kiện khác. Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Nhìn chặng đường phát triển đã qua, giáo dục Phú Thọ đạt được những thành tựu to lớn cả về quy mô phát triển, chất lượng và hiệu quả… Đóng góp xứng đáng vào công cuộc phát triển kinh tế – xã hội của Thủ đô và đất nước!
2.3. Giáo dục thường xuyên của tỉnh Phú Thọ trong những năm qua
Giáo dục tỉnh Phú Thọ sớm tạo nên những thành tựu ban đầu và giữ vị trí quan trọng trong hệ thống của hoạt động giáo dục thường xuyên; Phú Thọ là tỉnh có niềm tự hào với những thành tựu diệt dốt, xóa mù chữ cho nhân dân. Ngay từ những năm đầu sau cách mạng Tháng 8/1945, với phong trào xóa mù chữ, Phú Thọ đã tập hợp tài liệu dạy học không chỉ cho nhân dân tỉnh nhà mà còn cho nhiều địa phương trong cả nước. Sau 3 năm phát động cao trào diệt dốt (1956 – 1958) Phú Thọ đạt tỉ lệ xoá mù chữ 87,7%. Từ những trường BTVH, Phú Thọ đã đào tạo nâng cao trình độ cho 1 số lượng lớn cán bộ ở các vị trí chủ chốt từ Tỉnh đến địa phương, và cùng với họ là những người lao động. Chuyển sang mô hình giáo dục thường xuyên, nhiều trung tâm cũng nhanh chóng tìm được lối đi phù hợp, đúng chức năng nhiệm vụ của trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện với nội dung được xây dựng căn cứ từ thực tế nhu cầu địa phương nơi trung tâm giáo dục thường xuyên đóng.
Những đặc điểm khác biệt về kinh tế – văn hoá – xã hội – nguồn nhân lực của các huyện của tỉnh Phú Thọ cũng đưa đến những sự khác nhau trong xây dựng nội dung hoạt động giữa các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện với trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện; Giữa trung tâm các huyện với nhau.. Nghiên cứu địa bàn với nhu cầu và định hướng phát triển, Ban giám đốc trung tâm giáo dục thường xuyên đã duy trì chương trình văn hóa, đồng thời tập trung mạnh mảng liên kết đào tạo với các trường trung cấp, trường nghề để bổ sung đội ngũ nhân lực có tay nghề kỹ thuật vào các thành phần kinh tế đang cần được tăng trong thời điểm huyện chuyển đổi mô hình kinh tế. Trung tâm cũng phát triển mạnh hoạt động đào tạo trong kết hợp với Trung tâm học tập cộng đồng (TT HTCĐ) để triển khai dạy nghề, tập trung nghề Kỹ thuật chế biến sản phẩm ăn uống, cung cấp nghề cho người dân trên địa bàn khi quận đứng ở vị trí đầu mối giao thông và đang phát triển nhiều loại hình dịch vụ.
Với sự tư vấn của trung tâm giáo dục thường xuyên với lãnh đạo Đảng uỷ, Ủy ban về công tác chỉ đạo và đầu tư cho các TT HTCĐ, sự hướng dẫn giúp đỡ của Trung tâm đối với Ban quản lý các TT HTCĐ trong quá trình hoạt động, TT HTCĐ phát triển và đóng góp hết sức hiệu quả vào sự phát triển của các địa phương. TT HTCĐ nhiều năm nay luôn là nơi thuyết minh tính hiệu quả của mô hình TT HTCĐ tại địa phương.
Cũng qua cách thức tổ chức các chương trình không giống nhau của hai GDTX này thì thấy Ban giám đốc các trung tâm giáo dục thường xuyên đã xác định nhu cầu, thế mạnh và điểm yếu, để từ đó tìm ra con đường và nhiệm vụ trọng tâm cho riêng đơn vị mình; Huy động dược nguồn lực và đủ năng lực thuyết minh lôi cuốn, tập hợp thành nguồn lực giúp đơn vị thực hiện được nhiệm vụ như kế hoạch đã đề ra. Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Số học sinh tham gia chương trình giáo dục thường xuyên chiếm một số lượng tương đối lớn, công tác tuyển sinh không chịu áp lực cao. Hoạt động của các TT GDTX cấp huyện tập trung vào nhiệm vụ thực hiện các chương trình Bổ túc văn hóa, một vài trung tâm được giao hai nhiệm vụ: Hoạt động giáo dục thường xuyên và dạy nghề kỹ thuật tổng hợp. Việc hỗ trợ tư vấn cho hoạt động của TT HTCĐ, việc tổ chức các lớp XMC, giáo dục sau biết chữ, dạy nghề chưa được tập trung chú ý.
Về cơ chế quản lý, các trung tâm giáo dục thường xuyên chịu sự quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân dân các huyện, quản lý về chuyên môn của Sở giáo dục Phú Thọ.
Chính sách đầu tư, cơ sở vật chất, ngân sách hoạt động là một trong những điều kiện tiên quyết quyết định chất lượng hoạt động của cơ sở GDĐT. Cùng các cấp học khác, Sở GDĐT Phú Thọ cho rà soát các văn bản giáo dục thường xuyên, làm tờ trình để được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt, các sở ngành chức năng kiểm soát điều chỉnh, bổ sung các nội dung về hành chính, tài chính, cơ sở vật chất… cho phù hợp với mô hình và sự phát triển của giáo dục thường xuyên giai đoạn mới.
2.4. Thực trạng về đội ngũ cán bộ quản lý của các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện tỉnh Phú Thọ
2.4.1. Phân cấp quản lý và tổ chức bộ máy
Về phân cấp quản lý và tổ chức bộ máy của các trung tâm giáo dục thường xuyên trước tháng 1 năm 2016 trở về trước các trung tâm giáo dục thường xuyên do Sở Giáo dục và Đào tạo quản lý theo quy chế tổ chức và hoạt động của trung tâm giáo dục thường xuyên được ban hành theo quyết định số 1660 của Bộ GDĐT khẳng định các trung tâm giáo dục thường xuyên do trực tiếp Sở Giáo dục quản lý, với tư cách đơn vị hành chính cấp 3, trung tâm giáo dục thường xuyên gặp nhiều khó khăn trong tổ chức hoạt động do không trực tiếp được tiếp nhận thông tin, được đề xuất kế hoạch ở những điểm đầu mối là Huyện ủy, UBND huyện, làm hạn chế hiệu quả và phạm vi triển khai nhiệm vụ cũng như khả năng chủ động hoạt động các Trung tâm.
Về bộ máy và cơ cấu tổ chức: Giai đoạn trước đây mỗi Trung tâm chỉ có một Giám đốc, hai Phó Giám đốc và biên chế trung tâm được quy định có từ 7 đến 12 người cho tổng các chương trình hoạt động, mỗi trung tâm được cơ cấu thành 3 hoặc 4 tổ chuyên môn gồm: Tổ văn hoá, tổ hành chính, tổ phong trào hoặc thêm tổ nghề tùy theo nội dung hoạt động triển khai tại trung tâm. Qua quá trình hoạt động các trung tâm giáo dục thường xuyên đã cơ cấu hợp lý hơn tổ chức thành các tổ chuyên môn (hoặc tách tổ tự nhiên, tổ xã hội), tổ nghề và liên kết, thêm tổ GDCĐ.
Trong mỗi trung tâm giáo dục thường xuyên đều có tổ chức Đảng (Chi bộ) tham gia chỉ đạo hoạt động của Trung tâm, có tổ chức Công đoàn cơ sở và tổ chức Đoàn thanh niên. Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên các trung tâm giáo dục thường xuyên các huyện tỉnh Phú Thọ đã được sự bổ sung về số lượng sau hợp nhất với các trung tâm dạy nghề. Tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ quy định tại quy chế ngành học; Các số liệu có thể thấy qua tổng hợp số liệu ĐN Cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện tỉnh Phú Thọ
Bảng 2.2. Tổng hợp số liệu ĐN Cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện của tỉnh Phú Thọ
Theo thỏa thuận làm việc giữa Sở Giáo dục và Đào tạo Phú Thọ và Sở Nội vụ, các trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Phú Thọ từ năm học 2015- 2016 được giao định biên chế là 21 nhân sự gồm: Ban Giám đốc có 1 Giám đốc và 2 phó giám đốc; Giáo viên đủ các môn học; Nhân viên hành chính 5 người gồm: Kế toán, thủ quỹ, cán bộ thiết bị thư viện, bảo vệ và y tế (trước 2014 biên chế được giao từ 7 đến 12 giáo viên, không có định biên nhân viên). Rất nhiều năm hoạt động, giáo viên các trung tâm giáo dục thường xuyên chỉ có duy nhất từ nguồn điều động và thuyên chuyển, không có tuyển dụng. Điều này làm ảnh hưởng đến chất lượng của đội ngũ. Nhiều lãnh đạo cấp trên vẫn chưa có cách nhìn đúng về giáo dục thường xuyên, chưa thấy được vai trò đối với xã hội của hoạt động giáo dục thường xuyên; Những điều kiện cần và đủ về năng lực, tâm huyết của người cán bộ khi hoạt động ở lĩnh vực này. Nhân viên tại các trung tâm giáo dục thường xuyên thì có 5/13 trung tâm có 3 nhân viên, còn lại 8/13 trung tâm khác chỉ có 2 nhân viên hành chính là nhân sự kế toán, thủ quỹ; Mới có một trung tâm giáo dục thường xuyên có nhân viên thư viện thí nghiệm là trung tâm giáo dục thường xuyên thành phố Việt Trì, như vậy các trung tâm giáo dục thường xuyên còn lại, sẽ khó khăn trong việc triển khai thực hiện các thí nghiệm phục vụ bài giảng khi phong trào sử dụng thiết bị dạy học đang được đề ra là một điều kiện để giáo viên nâng cao chất lượng giảng dạy. Các bộ đồ dùng dạy học được đầu tư hàng năm với một nguồn kinh phí lớn đang trở thành phí phạm khi không được sử dụng.
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy mới chỉ 5/13 trung tâm có số cán bộ giáo viên, nhân viên đủ, còn thì đều thiếu nhân sự, cơ cấu bộ môn không đồng bộ, môn thừa, môn thiếu, nhân viên chỉ mới có đủ ở mảng văn thư, thủ quỹ và kế toán.
Các chương trình thực hiện tại các trung tâm cấp huyện của tỉnh Phú Thọ những năm qua bao gồm: Các lớp Bổ túc THPT, các lớp bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học, dạy nghề cho giáo dục thường xuyên, dạy nghề cho học sinh THCS, THPT trên địa bàn các huyện (13 trung tâm). Chương trình hỗ trợ tư vấn hoạt động cho 13 trung tâm HTCĐ của các huyện… Như vậy, trung tâm giáo dục thường xuyên các huyện đã đảm nhận nhiều chương trình với số người học đông trong khi đội ngũ cán bộ giáo viên quá mỏng..
Chất lượng cán bộ cũng có sự chuyển biến, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ được thể hiện trong bảng thống kê 4 Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Bảng 2.3. Bảng tổng hợp trình độ Ban giám đốc trung tâm cấp huyện
Qua bảng số liệu ta thấy rằng, tất cả cán bộ, giáo viên, Cán bộ quản lý các trung tâm giáo dục thường xuyên các huyện của tỉnh Phú Thọ đều đã đạt chuẩn nhưng tỷ lệ trên chuẩn còn thấp, chỉ chiếm chưa đến 48.7%; Có 02 nhân viên kế toán đang hoàn thành chương trình Đại học. Ban Giám đốc các trung tâm có trình độ đạt chuẩn, nhưng trên chuẩn còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu chất lượng cần có của những người lãnh đạo đầu ngành.
Chất lượng lao động của đội ngũ chi phối bởi nhiều nguyên nhân khách quan chủ quan: Độ tuổi, giới tính là một trong những thông số phản ánh chất lượng của đội ngũ. Đội ngũ Cán bộ quản lý Phú Thọ với độ tuổi được phản ánh trong biểu thống kê tại bảng 2.2.
Bảng 2.4. Bảng tổng hợp độ tuổi Cán bộ quản lý trung tâm giáo dục thường xuyên Phú Thọ cấp huyện của tỉnh Phú Thọ
Số liệu từ bảng tổng hợp cho thấy: Ban giám đốc các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện của Phú Thọ theo giới tính phân chia theo tỉ lệ: Nam là 45,5%; Nữ 54,5%. Tại 13 trung tâm của các huyện, có hai trung tâm có lãnh đạo hoàn toàn là nữ; Số lãnh đạo đang ở độ tuổi năng động sung sức chiếm tỉ lệ thấp (4,5%). Độ tuổi trên 40 đặc biệt là 50 trở lên chiếm 52,3%. Với độ tuổi này, người lãnh đạo tích lũy được kinh nghiệm trong tổ chức nhưng tính năng động sáng tạo bị hạn chế.
Nhiều năm qua số lượng học viên học chương trình văn hóa trong các trung tâm giáo dục thường xuyên khá ổn định. Bảng 5 cho thấy quy mô người học, học viên tại các trung tâm giáo dục thường xuyên.
Bảng 2.5. Bảng quy mô người học, học viên
Ngoài ra, từ năm 2006, 100% các huyện của tỉnh Phú Thọ đã thành lập xong các TTHTCĐ phường. Các trung tâm giáo dục thường xuyên đều đã tham gia tư vấn thành lập cũng như giúp đỡ quá trình hoạt động sau thành lập cho các trung tâm; Triển khai các nội dung chuyên đề với số liệu tại mỗi phường trung bình khoảng 2000 đến 3000 lượt người mỗi năm. Ngoài ra một số trung tâm giáo dục thường xuyên đã hỗ trợ sâu hơn cho các TT HTCĐ bằng việc xuống trực tiếp dạy tại cộng đồng, tư vấn các chương trình nghề, trung cấp, đại học cho các thành viên của cộng đồng dân cư.
Như vậy để thực hiện một lúc rất nhiều nhiệm vụ, cho nhiều đối tượng, nhiều lứa tuổi tham gia học tập với số lượng lớn, cơ cấu tổ chức, bộ máy, ĐN Cán bộ quản lý của các trung tâm giáo dục thường xuyên phải đủ về số lượng, có nghiệp vụ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý, có cơ sở vật chất tốt mới đảm bảo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trên.
Khi chuyển sang giáo dục thường xuyên, tăng thêm chức năng và nhiệm vụ nhưng vẫn sử dụng cơ sở vật chất ban đầu của trường BTVH, một số trung tâm giáo dục thường xuyên đã cải tạo địa điểm để tăng giá trị sử dụng; Nhưng chỉ giải quyết được một phần khó khăn, đa phần cơ sở vật chất phòng học và hoạt động vẫn là khó khăn không dễ giải quyết của các lãnh đạo trung tâm giáo dục thường xuyên. Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Có thể nhìn tổng quát về điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị của các trung tâm tại
Bảng 2.6. Cơ sở vật chất, thiết bị, phòng học của trung tâm cấp huyện của tỉnh Phú Thọ
Qua bảng số liệu có thể thấy, các trung tâm giáo dục thường xuyên các huyện của Phú Thọ đã có trụ sở làm việc với số phòng học từ 9 đến 16 phòng, đảm bảo cho khoảng hơn 20 lớp học/ ngày.
Ngoài trung tâm giáo dục thường xuyên thành phố Việt Trì có đủ phòng TN theo tiêu chuẩn trung học phổ thông còn lại các trung tâm giáo dục thường xuyên không có phòng thí nghiệm. Sở GDĐT Phú Thọ những năm qua đã đầu tư kinh phí để các đơn vị được trang bị thiết bị theo danh mục quy định, nhưng do không có nhân viên thí nghiệm nên việc đánh giá chất lượng thiết bị khi mua sắm, việc hỗ trợ giáo viên thực hiện thí nghiệm cho tiết dạy gặp khó khăn. Mặt khác đa phần trung tâm giáo dục thường xuyên chưa được trang bị phòng thí nghiệm nên không tiến hành được thí nghiệm, hóa chất mua về quá hạn trở thành lãng phí.
Về cơ cấu đội ngũ cán bộ quản lý ở các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện, ngoài bí thư chi bộ, bí thư thư đoàn, chủ tịch công đoàn trung tâm, mỗi trung tâm có biên chế số tổ khác nhau từ 3-5 tổ, tên gọi và nhiệm vụ khác nhau theo quy định của Giám đốc. Mỗi đơn vị tổ là một hệ thống con; Các hệ thống con tập hợp lại thành một hệ thống lớn của Trung tâm giáo dục thường xuyên, thực hiện nhiệm vụ đào tạo và các chương trình theo kế hoạch của địa phương; Giám đốc thường phụ trách chung, phụ trách nhân sự, tổ chức, tài chính và có thể thêm tổ chuyên môn (thường là liên kết, nghề, hoặc GDCĐ). Những phần chuyên môn khác phân cho các Phó giám đốc phụ trách. Giám đốc thường kiêm Bí thư chi bộ để công tác chỉ đạo mang tính tập trung.
2.4.2. Số các đơn vị phòng, tổ và cán bộ quản lý trung tâm giáo dục thường xuyên Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Bảng 2.7. Số đơn vị (phòng, tổ) tại trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện tỉnh của Phú Thọ
Như vậy tại trung tâm giáo dục thường xuyên 13 huyện, thị, thành, tổng số tổ trưởng là 51 người, số tổ phó là 51 người, họ hoạt động dưới sự lãnh đạo của các Phó Giám đốc (do được Giám đốc giao trách nhiệm).
2.4.3. Số lượng, chất lượng Ban Giám đốc các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện của tỉnh Phú Thọ
Phân tích về đội ngũ Ban Giám đốc các trung tâm giáo dục thường xuyên thì thấy: Đội ngũ các bộ quản lý các trung tâm cấp huyện đã được biên chế đủ về số lượng tối thiểu, họ là những người có trách nhiệm quản lý thiết kế chương trình và chỉ đạo hoạt động của trung tâm. Thâm niên công tác, tuổi đời của đội ngũ, giới tính là một trong những điều kiện tác động trực tiếp đến chất lượng lao động quản lý của họ. Chất lượng đội ngũ Cán bộ quản lý các trung tâm giáo dục thường xuyên huyện về đào tạo và kinh nghiệm qua bảng 8: Thống kê trình độ và thâm niên quản lý của Ban giám đốc
Bảng 2.8. Bảng thống kê trình độ và thâm niên quản lý của Ban giám đốc (Năm học: 2017 – 2018)
2.4.4. Phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện của tỉnh Phú Thọ
Tiếp tục khảo sát thực trạng các phẩm chất và năng lực của ĐN Cán bộ quản lý các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện, tác giả sử dụng phiếu khảo sát để lấy ý kiến tự đánh giá của 21 Cán bộ quản lý và ý kiến đánh giá của 40 giáo viên biên chế của các trung tâm giáo dục thường xuyên; 13 CB, CV phòng ban Sở. Nội dung khảo sát gồm: 10 tiêu chí nhóm phẩm chất chính trị và đạo đức; 7 tiêu chí về năng lực; 7 tiêu chí nhóm phẩm chất tâm lý đặc thù đối với hoạt động. Mức độ đánh giá được chia thành; Tốt, Khá, TB, Yếu, Kém tương ứng với mức độ; 5, 4, 3, 2, 1. Kết quả được thể hiện tại Bảng 2a, 2b, 2c: Đánh giá, tự đánh giá phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức và năng lực ĐNCBQL. (Phụ lục 8)
Từ số liệu bảng 2a, 2b, 2c tác giả có nhận xét tổng quát như sau: Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Đội ngũ Cán bộ quản lý, giáo viên các trung tâm giáo dục thường xuyên, và số cán bộ chuyên viên Sở GD&ĐT đều thống nhất về việc xác nhận tầm quan trọng của những nhóm phẩm chất được đưa ra.
Trong 3 nhóm phẩm chất, nhóm phẩm chất chính trị, tư tưởng và đạo đức được đánh giá cao nhất; Tiếp đến là nhóm phẩm chất về năng lực và sau cùng là nhóm phẩm chất về tâm lý đặc thù đối với hoạt động. Kết quả đánh giá ở nhóm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức (bảng 2c) đều đạt mức độ khá và tốt là phù hợp với ĐN Cán bộ quản lý các trung tâm giáo dục thường xuyên các huyện của tỉnh Phú Thọ hiện nay. Toàn bộ Cán bộ quản lý đều là Đảng viên đa phần có phẩm chất chính trị, tư tưởng và đạo đức tốt, chấp hành tốt đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, có lối sống trung thực, thẳng thắn, sống nhân ái, thương yêu anh em đồng nghiệp, làm việc vì lợi ích chung của tập thể, vì sự phát triển của Trung tâm.
Kết quả điều tra nhóm phẩm chất, năng lực và phẩm chất tâm lý đặc thù đối với hoạt động có thấp hơn nhưng cũng ở mức độ trên trung bình khá. Kết quả này cũng phù hợp với thực trạng về độ tuổi và thâm niên công tác của ĐN Cán bộ quản lý, do độ tuổi lớn, làm công tác quản lý lâu năm, công tác bồi dưỡng và bồi dưỡng thường xuyên về nghiệp vụ quản lý còn thiếu, chưa mang tính lý luận mà đa phần tự rút kinh nghiệm từ quá trình làm việc, công tác bồi dưỡng chưa mang tính hệ thống. Một số còn những hạn chế nhất định về năng lực, thiếu năng động khi thực hiện chỉ đạo đơn vị thực hiện các nhiệm vụ.
Qua điều tra, kết quả tự đánh giá của Cán bộ quản lý và đánh giá của cán bộ trung tâm, cán bộ, chuyên viên SGD&ĐT có thể thấy: Kết quả tự đánh giá của Cán bộ quản lý các trung tâm giáo dục thường xuyên đồng thời phản ánh thực tế là năng lực của một số Cán bộ quản lý còn ở mức trung bình, mức độ sáng tạo còn thấp, Nếu so với mục tiêu nhiệm vụ mà ngành học giáo dục thường xuyên cần đáp ứng để có một “xã hội học tập” cho mọi người được học tập “liên tục, suốt đời…” thì đội ngũ CNQL chưa đủ năng lực đáp ứng.
Qua sự đánh giá này, tác giả cho rằng: Cần phải đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên cho ĐNCBQL các trung tâm giáo dục thường xuyên nói chung, các Cán bộ quản lý của Trung tâm giáo dục thường xuyên các huyện của tỉnh Phú Thọ. Họ cần có một số phẩm chất, năng lực, đặc biệt là năng lực hành động, phẩm chất tâm lý đặc thù, trình độ về sử dụng ngoại ngữ, tin học để làm tốt công tác quản lý. Đồng thời để xây dựng nguồn lực cho ĐN Cán bộ quản lý lâu dài cần bồi dưỡng lực lượng trẻ kế cận theo kế hoạch có lộ trình. Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Về yêu cầu riêng đối với GĐ: Để khảo sát thực trạng về 10 yêu cầu riêng đối với GĐ các trung tâm giáo dục thường xuyên, là người Cán bộ quản lý cấp cao, người đứng đầu, người lãnh đạo mọi hoạt động của trung tâm giáo dục thường xuyên, tác giả sử dụng phiếu điều tra để các GĐ tự đánh giá mức độ đạt được của bản thân và phiếu điều tra giành cho CB, CV Sở GD&ĐT đánh giá với các mức độ theo: Tốt, Khá, TB, Yếu, Kém, tương ứng với mức: 5, 4, 3, 2, 1.Đánh giá, tự đánh giá về những yêu cầu đối với Giám đốc trung tâm giáo dục thường xuyên. Qua kết quả điều tra cho thấy: Giám đốc các trung tâm giáo dục thường xuyên, và cán bộ chuyên viên SGD&ĐT nhất trí với những yêu cầu đưa ra như trên là rất cần thiết đối với Giám đốc trung tâm giáo dục thường xuyên trong giai đoạn hiện nay. Mức độ tự đánh giá của GĐ và đánh giá của cán bộ, chuyên viên SGD&ĐT về 10 yêu cầu của các GĐ có 60% đạt loại tốt, còn lại đều đạt mức độ Khá. Điều này thể hiện rằng: Đa phần các GĐ trung tâm giáo dục thường xuyên các huyện của tỉnh Phú Thọ đã am hiểu về đặc điểm, nhiệm vụ của trung tâm giáo dục thường xuyên, về mối quan hệ giữa Trung tâm với người học. Một số GĐ khả năng xử lý các tình huống hiệu quả đã lãnh đạo trung tâm giáo dục thường xuyên đạt kết quả tốt; Một số khác chưa thật nhạy bén, khả năng thu nhận và xử lý các thông tin chưa cao, chưa kịp chuyển thông tin thành nội dung chỉ đạo hoạt động của đơn vị. Chất lượng và hiệu quả các chương trình giáo dục ở các trung tâm giáo dục thường xuyên vẫn còn là mục tiêu hướng đến của các Giám đốc trung tâm giáo dục thường xuyên các huyện của tỉnh Phú Thọ.
2.4.5. Đánh giá chung về đội ngũ quản lý các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện của tỉnh Phú Thọ
Nhìn về đội ngũ lãnh đạo các trung tâm giáo dục thường xuyên các huyện của tỉnh Phú Thọ, tác giả có một số đánh giá sau:
Về số lượng và cơ cấu đã đủ chuẩn theo quy định nhưng trên thực tế hoạt động của nhiều TT thì cơ cấu và số lượng đó là chưa hợp lý, chưa thể đảm bảo cho nhiều trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện có chất lượng hoạt động tốt và bền vững. Đi vào cụ thể về chức năng và cơ cấu nhân sự, số học sinh, học viên thì thấy: 13/13 trung tâm có tư cách TT dạy nghề thương binh xã hội và dạy nghề hướng nghiệp là trung tâm giáo dục thường xuyên với số học sinh từ gần nghìn đến 4-5 nghìn. Như vậy, những trung tâm có số lớp HS nhiều, và triển khai nhiều đầu việc, sẽ ở tình trạng thiếu nhân sự.
Thành viên Ban Giám đốc đều là Đảng viên, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, chấp hành đầy đủ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước: Có kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, có kinh nghiệm công tác. Một số quản lý tạo được uy tín cá nhân đối với đồng nghiệp do có động cơ làm việc vì lợi ích tập thể, nhưng sự khác biệt về độ tuổi và thâm niên công tác, về tâm lý hợp tác nên tại một số trung tâm giáo dục thường xuyên tâm lý tự tin của cấp phó để chủ động sáng tạo, dám đón đầu, đề xuất thì chưa thật sự được phát huy; Hoặc dám nghĩ dám làm, nhưng sự tích lũy kinh nghiệm, kiến thức chưa đủ dầy, kết quả chưa đạt được như mong muốn. Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Nhìn vào số lượng thống kê cho thấy, Ban Giám đốc các trung tâm đã đủ số lượng tối thiểu theo quy định; 19% có thâm niên quản lý dưới 3 năm; 80,9% có trình độ Đại học; 14% có trình độ Thạc sĩ. Trình độ ngoại ngữ tin học cũng ở tình trạng yếu, hạn chế kết quả công việc khi chưa chủ động khai thác các phương tiện này cho học tập của bản thân cũng như kết nối hoạt động và chỉ đạo chuyên môn qua các phương tiện hữu hiệu này. Tỷ lệ trên chuẩn so với các cấp học khác còn rất thấp. Những nghiên cứu khoa học, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, quản lý chất lượng các chương trình GD&ĐT có giá trị ứng dụng và hiệu quả trong thực tế thì chưa nhiều mặc dù số SKKN đạt giải mỗi năm đều có.
Về Trình độ lí luận chính trị Phần lớn đội ngũ làm công tác quản lý được đề bạt từ giáo viên tốt. Trong quy chế bổ nhiệm trước đây không đưa vào quy định chuẩn về đào tạo trước bổ nhiệm.Nhiều trường hợp Cán bộ quản lý chỉ được bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý, tham dự lớp học chính trị sau vài năm vào vị trí. Như vậy là khi họ chưa đủ lí luận vững vàng thì hoạt động quản lý cũng sẽ gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, so với các bậc học khác và so với yêu cầu của tỉnh, Cán bộ quản lý các trung tâm giáo dục thường xuyên đã đa phần qua chương trình trung cấp chính trị, nhưng vẫn là chưa đủ so với yêu cầu chuẩn của tỉnh quy định.
Về Phẩm chất, năng lực, tâm lý đặc thù đối với hoạt động giáo dục thường xuyên thì có thể thấy, những yếu tố tâm lý cần thiết cho hoạt động quản lý tại các trung tâm giáo dục thường xuyên cũng chưa được thực sự chú ý, chưa được nhìn nhận như một bộ môn khoa học tác động đến hiệu quả công việc và văn hoá ứng xử trong Trung tâm. Một số trung tâm đã hiểu vị trí kết nối trong hoạt động của trung tâm giáo dục thường xuyên với các tổ chức, cá nhân trong cộng đồng là điều kiện cho việc xây dựng được công việc cho TT nên đã nhanh nhẹn, quyết đoán, thuyết phục được nhân viên cấp dưới và các lãnh đạo đồng tâm phấn khởi xây dựng tổ chức công việc. Đóng góp cho TT những nguồn lực: Tài lực (trí tuệ, sự nhiệt tâm), vật lực (tiền bạc, địa điểm..). để TT thực hiện các chương trình trong lúc còn khó khăn. Cũng qua cách tổ chức và cộng tác, qua kết quả công việc mà xác định uy tín TT, uy tín cá nhân người quản lý trong trung tâm giáo dục thường xuyên và đối với cộng đồng.
Bên cạnh đó còn có những Cán bộ quản lý không xác định được vị trí thủ lĩnh: phát hiện nhanh, kết nối giỏi, tham mưu thuyết phục hiệu quả vốn là những phẩm chất tâm lý đặc thù cần thiết để hoạt động giáo dục thường xuyên có thể hoàn thành được từng phần công việc, cũng như phát triển được trung tâm giáo dục thường xuyên thành một cơ sở có năng lực xã hội hoá hoạt động giáo dục. Họ gia trưởng, mệnh lệnh với cấp dưới; Khép kín ngại giao lưu với các cơ sở, đơn vị đóng trên địa bàn. Có thể thấy sự phác nhau trong phẩm chất tâm lý đặc thù sẽ dẫn đến kết quả đóng góp cộng đồng khác nhau của các trung tâm giáo dục thường xuyên do các Cán bộ quản lý đó làm thủ lĩnh.
2.5. Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trung tâm giáo dục thường xuyên các huyện của tỉnh Phú Thọ
2.5.1. Nhận thức về xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý các trung tâm giáo dục thường xuyên Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Qua kết quả điều tra về diễn biến số lượng ĐN Cán bộ quản lý ở các trung tâm giáo dục thường xuyên của Phú Thọ thời gian qua cho thấy: Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách cho hệ thống giáo dục thường xuyên, nhưng các chính sách đó chưa đủ và không phải đã được ban hành kịp thời hoặc ban hành là đã có ngay hiệu lực.
Từ tháng 1 năm 2016 trung tâm giáo dục thường xuyên các huyện thuộc tỉnh Phú Thọ thuộc quản lý của Ủy ban nhân dân các huyện mặc dù Quy chế tổ chức hoạt động đã nêu rõ các trung tâm giáo dục thường xuyên chịu sự quản lý trực tiếp của Sở Giáo dục và Đào tạo về chuyên môn. Có đến gần 20 năm hoạt động, đến 2010 thì Chuẩn Giám đốc trung tâm giáo dục thường xuyên mới được ban hành.Tiêu chuẩn hóa yêu cầu về những phẩm chất năng lực Giám đốc là điều kiện pháp lý để cấp quản lý có căn cứ đánh giá, bổ nhiệm; Cũng là để người cán bộ hiểu mình phải trau dồi trên những lĩnh vực, phương diện nào; Cơ quan quản lý cũng lấy đó làm căn cứ để xây dựng chương trình bồi dưỡng, kiểm tra, đánh giá nhân sự. Việc điều động cán bộ có năng lực về vùng giáo dục thường xuyên để chỉ đạo điều hành hiệu quả hoạt động, coi đó như một sự đầu tư cũng chưa phải đã được các cán bộ lãnh đạo nhìn nhận với ý nghĩa quan trọng cần có. Chính sách kịp thời trong thi tuyển và điều động cán bộ giáo viên đủ số lượng, đúng chất lượng chưa được chú ý. Đó là một số trong những nguyên nhân quan trọng cùng với công tác bồi dưỡng chưa đúng yêu cầu là những nguyên nhân khiến đội ngũ cán bộ quản lý các trung tâm giáo dục thường xuyên hoạt động kém hiệu quả.
Từ tháng 1 năm 2016 các Trung tâm cấp huyện của tỉnh Phú Thọ do Uỷ ban Nhân Dân huyện quản lí nhà nước. Sở Giáo dục thì quản lý về chuyên môn. Việc một đơn vị Trung tâm có 2 cấp quản lý đã dẫn đến có những nơi việc trung tâm được chỉ đạo sâu của cả hai cấp quản lý; Nhưng lại có có những vùng thì bị bỏ sót hoặc chỉ đạo không đồng nhất. Cơ quan quản lý nhà nước có thể có những quyết định nhân sự không phù hợp chuyên môn do không hiểu đặc thù, gây khó khăn và hạn chế cho trung tâm giáo dục thường xuyên trong quá trình phát triển. Cũng do 2 cấp nhưng không liên thông được thông tin, không họp bàn để thống nhất quản lý nên việc xây dựng các tiêu chí, xây dựng kế hoạch bồi dưỡng ĐN, xây dựng, hoàn thiện cơ cấu tổ chức và các nội dung khác còn có nhiều khó khăn bất cập. Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Mặt khác, hiện nay với sự quan tâm của lãnh đạo ngành, các trung tâm đều đã được đầu tư, những văn bản pháp lý cho chuẩn cơ sở vật chất làm căn cứ để được đề xuất và được đầu tư cho trung tâm giáo dục thường xuyên thì chưa có nên tham mưu thì vất vả mà đầu tư có thể chưa sát với nhu cầu và đối tượng.
2.5.2. Công tác quy hoạch, bổ nhiệm, bãi nhiệm, luân chuyển
Chúng tôi thấy rằng, trong thời gian qua công tác quy hoạch nguồn Cán bộ quản lý cho các trung tâm giáo dục thường xuyên chưa được chú trọng, còn mang tính tùy tiện, nhất là thời kì các trung tâm giáo dục thường xuyên thuộc quản lý cấp huyện. Tâm lí không muốn về làm việc tại các Trung tâm giáo dục thường xuyên, việc điều động có tính chất “bãi đáp tạm’’, hoặc là nơi giải quyết luân chuyển cán bộ không có nơi tiếp nhận thì về trung tâm… đã để hậu quả khi trong đội ngũ còn Cán bộ quản lý yếu kém về năng lực hoặc tư duy chưa theo kịp đội ngũ.
Mỗi năm cơ quan quản lý giáo dục đều chỉ đạo cơ sở giới thiệu nguồn, tuy nhiên về công tác quy hoạch, trên cơ sở nguồn để bồi dưỡng đánh giá thì chưa có chính sách cụ thể. Chủ yếu vẫn là Giám đốc trung tâm giáo dục thường xuyên trên cơ sở nhìn nhận nhân sự, các tổ chức trong trung tâm giới thiệu thì giao một số công việc để cá nhân đối tượng cán bộ bộc lộ năng lực, nhiệt tình, và kết quả. Mức độ bồi dưỡng tại chỗ, còn các lớp bồi dưỡng theo chính sách của ngành và tỉnh, bồi dưỡng có chương trình được thẩm định từ cơ quan chuyên môn cho đối tượng Cán bộ quản lý thì chưa có.
Việc đánh giá, nhận xét cán bộ trước khi bổ nhiệm vẫn còn chưa được xem là một khâu có ý nghĩa quan trọng, có ảnh hưởng đến hướng đi và tốc độ phát triển đơn vị sau khi nhân sự vào vị trí sau bổ nhiệm. Thực trạng này gặp nhiều nơi khi đề xuất nguồn còn dựa vào cảm tính, hoặc còn vì những quan hệ và góc cảm tình cá nhân thay vì nhìn từ yêu cầu cần có về người lãnh đạo trung tâm. Thêm nữa tâm lí cả nể, hiện tượng mang tính xã hội là “Có lên chứ không có xuống’’ nên lại có hiện tượng, cá nhân nhân sự trong thời gian được đánh giá thì cố gắng, khi đã được bổ nhiệm thì không còn giữ vai trò tiên phong nỗ lực, cán bộ nhân viên TT ngại va chạm đấu tranh, nhất là với người có quyền lực; Việc bãi nhiễm vì vậy rất ít, một số trường hợp luân chuyển khi có vướng mắc ở cơ sở.
Trước đây, do nhân sự thuộc quận nên các Cán bộ quản lý Trung tâm dường như không thực hiện luân chuyển do mỗi huyện thường chỉ có một trung tâm. Việc chuyển sang phổ thông hoặc từ phổ thông về thì không vì mụ c tiêu luân chuyển cán bộ để đưa chất lượng mới đến cho đơn vị thì không có, mà vì những lí do bổ sung đội ngũ hoặc lí do thay đổi môi trường như trên đã đề cập.
2.5.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Các Cán bộ quản lý Trung tâm trung tâm giáo dục thường xuyên rất có nhu cầu được bồi dưỡng để đảm nhận được nhiệm vụ ngày một nhiều và cao hơn trong vị trí công việc. Đa phần trong số họ rất tâm huyết, mong muốn đóng góp sức lực vào sự phát triển của Trung tâm; Các cấp quản lý, các cơ sở đào tạo cũng có kế hoạch, nhưng thực tế việc xem xét để đưa được một chương trình tổng thể, chia ra các giai đoạn và qua đó người Cán bộ quản lý ở cơ sở được trang bị chuẩn các kiến thức, nhất là được đánh giá giúp đỡ sau bồi dưỡng là dường như chưa có. Chương trình bồi dưỡng đang chỉ tập trung trong một số yêu cầu.
Thời gian thực hiện bồi dưỡng cũng chưa hợp lý, đội ngũ của trung tâm giáo dục thường xuyên mỏng và công việc nhiều mảng thường là thực hiện cùng nhau. Việc triển khai bồi dưỡng chung hình thức các môn học cùng lúc, vào thời gian đầu năm học như cấp học phổ thông có những bất cập, có lúc gần như huy động hết lực lượng, không còn người để đảm nhân công việc của trung tâm. Vì vậy có chương trình bồi dưỡng triển khai nhưng cán bộ lại không tham gia được đủ vì còn phải làm việc tại cơ quan.
Các trung tâm giáo dục thường xuyên của Phú Thọ đã thành lập câu lạc bộ Giám đốc, sự giao lưu giữa các lãnh đạo cũng tạo nên một môi trường bồi dưõng hiệu quả cho các Cán bộ quản lý các TT khi họ trao đổi thông tin, học tập phương pháp của đơn vị bạn từ những trao đổi. Tuy nhiên, mức độ, hình thức các sinh hoạt, tổ chức chưa thật sự hiệu quả do công tác kế hoạch chưa xây dựng tốt.
2.5.4. Cơ cấu tổ chức và bộ máy
Cơ cấu tổ chức các trung tâm giáo dục thường xuyên các huyện đã được hướng dẫn khá rõ, cho lãnh đạo Trung tâm quyền linh hoạt chủ động gắn với tình hình địa phương để kết cấu mô hình hoạt động và cơ cấu phòng ban tổ chức.Về nhân sự Ban Giám đốc số lượng đã được quy định. Số lượng biên chế nhân sự của mỗi trung tâm cũng được tăng và quy định rõ. Nhưng văn bản chỉ đạo chưa bao hàm đến tính cá biệt của một số mô hình khi các Trung tâm đó không chỉ hoạt động ở một chức năng giáo dục thường xuyên mà còn hoạt động thêm nhiệm vụ của các hoại hình giáo dục khác. Các Giám đốc đã cơ cấu bộ máy cơ cấu phòng, ban, tổ, nhưng cách phân chia vẫn còn nhiều nơi chưa thật sự khoa học; Trên thống kê tại phần thực trạng, tác giả nhận thấy có trung tâm chưa xác định được rõ mô hình giáo dục thường xuyên, cảm giác về sự khác nhau giữa trung tâm giáo dục thường xuyên hôm nay với trường BTVH hôm qua chưa rõ ràng; Các TT đều chưa thành lập Hội đồng thi đua khen thưởng, dù rằng các hoạt động thi đua khen thưởng vẫn được thực hiện mỗi năm nhưng chưa có hội đồng chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch và theo dõi trong quá trình. Cơ cấu tổ có nơi chưa hợp lí, mảng TT HTCĐ còn trung tâm chưa phân công nhân sự chịu trách nhiệm, hoặc chưa xếp hoạt động này vào tổ nhóm chuyên môn của Trung tâm.
2.5.5. Chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ quản lý Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Chế độ phụ cấp đối với ĐN Cán bộ quản lý ở các trung tâm giáo dục thường xuyên ở Phú Thọ hiện nay đã được hưởng phụ cấp theo các mức xếp loại của Trung tâm mà họ quản lý.Tuy nhiên, chính sách đãi ngộ nhìn nhận đến lao động của người cán bộ quản lý các TT hiện nay còn nhiều thiệt thòi. Ở trên đã điểm qua chính sách đào tạo bồi dưỡng còn chưa đủ khiến người Cán bộ quản lý Tại các trung tâm giáo dục thường xuyên như thấy mình phải “tự bơi”. Những đãi ngộ mang tính nghề nghiệp cũng chưa được đề cập đến như là một chính sách. Người Cán bộ quản lý giáo dục thường xuyên vất vả rất nhiều và phải đảm nhận một khối lượng công việc đầy ắp, luôn nỗ lực lao động cá nhân trong trách nhiệm đầu tầu, nhưng họ lại không được tính phụ cấp 30% như giáo viên nếu không đứng lớp. Đây là quy định không hợp lý và thiếu tính đánh giá kích thích cần được xem xét điều chỉnh lại.
Những nguyên nhân của thực trạng trên
Qua khảo sát, điều tra, phân tích, đánh giá thực trạng về xây dựng ĐN Cán bộ quản lý các trung tâm giáo dục thường xuyên các huyện của tỉnh Phú Thọ trong thời gian qua, tác giả cho rằng có cần nhìn nhận đến một số những nguyên nhân cơ bản sau:
Mặc dù Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã có những chủ trương, chính sách để phát triển giáo dục thường xuyên, xây dựng Xã hội học tập, nhưng việc cụ thể hóa các chủ trương chính sách đó kịp thời thành các văn bản pháp lý chỉ đạo xây dựng mạng lưới, tổ chức bộ máy, đầu tư Cơ sở vật chất, đội ngũ cho việc triển khai đề án là chưa đồng bộ. Sự đầu tư cho giáo dục thường xuyên để trở thành đơn vị có năng lực thực hiện đề án chưa được chú trọng; Chính quyền các cấp ở địa phương chưa đồng nhất cách hiểu và mức độ quan tâm, sự chỉ đạo trong chính sách về giáo dục thường xuyên, trong triển khai thực hiện đề án xây dựng Xã hội học tập. Mặt khác, chưa có thiết chế quy định rõ trách nhiệm của các cấp, các đơn vị trong việc phối hợp với giáo dục thường xuyên để thực hiện các quyết định, nên việc các đơn vị giáo dục thường xuyên được là thành viên tham gia triển khai kế hoạch này trong cộng đồng là còn rất hạn chế.
Công tác xây dựng ĐN Cán bộ quản lý cho các trung tâm giáo dục thường xuyên chưa được chú trọng như là một điều kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm. Từ đó mà các kế hoạch về quản lý, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, khảo sát, đánh giá đúng về nhu cầu, về số lượng và chất lượng của ĐN Cán bộ quản lý chưa được coi trọng thực hiện nghiêm túc. Sau khi được giao quản lý các trung tâm giáo dục thường xuyên, Sở Giáo dục và Đào tạo đã triển khai tích cực công tác tham mưu với UBND tỉnh về công tác nhân sự, bổ nhiệm, điều chuyển cũng được quan tâm kịp thời, chú trọng đến năng lực hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ quản lý.
- Bảng tổng hợp đội ngũ cán bộ quản lí trung tâm cấp huyện của tỉnh Phú Thọ
- Bảng tổng hợp trình độ chuyên môn đội ngũ cán bộ quản lí trung tâm cấp huyện của tỉnh Phú Thọ
Tiểu kết chương 2 Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Qua nghiên cứu thực trạng đội ngũ Cán bộ quản lý Trung tâm giáo dục thường xuyên các huyện của tỉnh Phú Thọ, tác giả có một số kết luận sau:
Đội ngũ Cán bộ quản lý các trung tâm giáo dục thường xuyên có bản lĩnh chính trị vững vàng. Trình độ chuyên môn đạt chuẩn. Họ ý thức được vai trò của người lãnh đạo trong tập thể, trách nhiệm của ngành học giáo dục thường xuyên đối với sự phát triển của Phú Thọ trong công cuộc đổi mới.
Đa phần các cản bộ quản lý đã xây dựng được uy tín đối với đơn vị, các cấp quản lý, với đối tác và nhân dân địa phương.
Công tác phát triển đội ngũ Cán bộ quản lý tại Trung tâm giáo dục thường xuyên các huyện của tỉnh Phú Thọ nói riêng, hệ thống các đơn vị giáo dục thường xuyên nhìn chung đã được quan tâm hơn trong thời gian sau mở rộng, đã tập trung cho công tác quy hoạch, bồi dưỡng ở mức độ nhất định. Quy trình bổ nhiệm Cán bộ quản lý được thực hiện theo đúng quy chế quy định.
Bên cạnh các mặt đạt được, vẫn còn những tồn tại, hạn chế sau:
Nhìn chung số Cán bộ quản lý khi mới được bổ nhiệm đa phần còn nhiều lúng túng trong quản lý, chỉ đạo do công tác bồi dưỡng trước bổ nhiệm chưa tốt, có những trường hợp chưa được tham gia học tập những lớp bồi dưỡng chính thức; Một số Cán bộ quản lý còn thiếu nhạy bén trong công việc, khả năng đi trước đón đầu mới chỉ có ở một số ít cán bộ. Một số ít tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm chưa cao, thiếu tính quyết đoán …nên ảnh hưởng không ít đến hiệu quả của công tác quản lý.
Trình độ quản lý giáo dục chủ yếu mới ở mức bồi dưỡng các chương trình đơn lẻ, chưa hệ thống, khả năng sử dụng và khai thác, ứng dụng CNTT để phục vụ công tác quản lý giáo dục còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập.
Công tác quy hoạch Cán bộ quản lý giáo dục còn mang nặng tính thụ động, tuần tự khép kín, cục bộ; chưa thành chuỗi mắt xích gắn liền của các chương trình: Đào tạo – bồi dưỡng- đánh giá- bổ nhiệm. Do đó, hiệu quả của quy hoạch chưa là khâu cần xem xét khi nó ảnh hưởng đến chất lượng của công tác quản lý. Luận văn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Vì vậy, để có đội ngũ Cán bộ quản lý các trung tâm giáo dục thường xuyên đảm bảo có chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, cần phải có những biện pháp phát triển đội ngũ Cán bộ quản lý các trung tâm giáo dục thường xuyên nói chung, các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện, gắn với thực tế và mang tính khả thi cao.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục

Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com
Pingback: Luận văn: Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trung tâm giáo dục