Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường THCS tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.3. Thực trạng hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS tại các trường công lập thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương
2.3.1 Nhận thức về khái niệm kỹ năng sống
Để nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống trong trường học thì kỹ năng sống không những cần được các nhà giáo dục chú trọng và tổ chức một cách khoa học có hiệu quả mà học sinh cần nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng sống để từ đó có thái độ học tập, rèn luyện tích cực nhằm tự rèn luyện và trang bị kỹ năng sống cho bản thân. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Sau đây là đánh giá nhận thức của học sinh THCS và GV- CBQL tại các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương về kỹ năng sống.
Bảng 2.9 Nhận thức của học sinh và GV- CBQL tại các trường công lập thị xã Dĩ An, Bình Dương về kỹ năng sống.
Kết quả nghiên cứu ở bảng 2.9 cho thấy: Đa số học sinh THCS ở thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đều cho rằng kỹ năng sống là khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp với ứng xử tích cực giúp con người có thể kiểm soát, quản lý có hiệu quả các nhu cầu và thách thức trong cuộc sống, quan điểm này chiếm vị trí nhiều nhất (73,1%). Em HS1 THCS Võ Trường Toản trả lời phỏng vấn cho hay: “Trước khi tham gia các chương trình kỹ năng sống ở trường, em thường xuyên có những cảm xúc và hành vi tiêu cực trong học tập và trong cuộc sống, em cảm thấy thật tệ mỗi khi không quản lý được cảm xúc của mình. Nhưng sau khi em được các thầy cô dạy các kỹ năng sống về quản lý cảm xúc hiệu quả, giải quyết vấn đề,… em đã quản lý được tốt hơn cảm xúc của mình trong nhiều tình huống, nhất là trong giao tiếp với bạn bè, và cha mẹ, em thấy mình cũng gặp nhiều thuận lợi hơn trong học tập và trong cuộc sống”. Kết quả quan sát học sinh của chúng tôi cũng cho thấy rằng: việc các em được giáo dục các hoạt động kỹ năng sống giúp cho các em có những thói quen tích cực, có thể kiểm soát cảm xúc, suy nghĩ và hành vi. Việc kiểm soát những cảm xúc, suy nghĩ và hành vi tiêu cực, thúc đẩy những hành vi tích cực, nhất là trong những tình huống cám dỗ hay trong những thử thách giúp các em dần hoàn thiện bản thân mình, trở thành những người công dân tốt hơn. Số liệu trên cho thấy đa phần học sinh đều có nhận thức đúng đắn về bản chất của kỹ năng sống. Như vậy có thể cho rằng rằng học sinh ngày nay đã có sự tiếp cận nhanh nhạy với nguồn thông tin và có thể quá trình giáo dục KNS ở các trường có được kết quả tốt. Tuy nhiên, vẫn còn lại 26,9 % học sinh chưa nhận thức đúng đắn về kỹ năng sống. Với số lượng học sinh chưa nhận thức được khái niệm KNS có thể do khả năng khái quát của các em còn hạn chế do nhận thức chưa đầy đủ, hoặc độ tuổi còn trẻ của các em. kiến đánh giá của GV- CBQL đa số đồng tình với ý kiến của học sinh, tức là: kỹ năng sống là khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp với ứng xử tích cực giúp con người có thể kiểm soát, quản lý có hiệu quả các nhu cầu và thách thức trong cuộc sống. Ý kiến này chiếm 88,2 %, đây là tỉ lệ rất cao chứng tỏ hiện nay đa số giáo viên đã quan tâm và có nhận thức đúng đắn về hoạt động này. Phỏng vấn sâu GV-CBQL cũng cho thấy rằng, hiện tại do hạn chế về thời gian và nội dung cần truyền tải trong các môn học quá nhiều nên giáo viên các bộ môn chỉ tập trung giảng dạy kiến thức chuyên môn mà chưa tích hợp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nhiều.
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn 11,8 % ý kiến của GV- CBQL lựa chọn những nội dung không phải định nghĩa chính xác của kỹ năng sống. Tuy đây là con số nhỏ nhưng vẫn có tác động đến hiệu quả của việc giáo dục KNS và công tác quản lý hoạt động giáo dục KNS cho học sinh các trường THCS công lập thị xã Dĩ An, Bình Dương. Kết quả phỏng vấn giáo viên cũng cho thấy: Nhiều giáo viên trải qua quá trình công tác nhiều năm, họ nhận thức được vai trò cũng như tầm quan trọng của kỹ năng sống đối với học sinh, họ hiểu được bản chất của kỹ năng sống, và việc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh sẽ có tác dụng như thế nào đối với việc hình thành nhân cách của học sinh. Tuy nhiên, một số giáo viên mới ra trường, chưa có nhiều kinh nghiệm làm việc với học sinh thì họ chưa có nhận thức đầy đủ về kỹ năng sống và sự cần thiết của kỹ năng sống đối với học sinh. Khi giáo viên là người dẫn đường mà vẫn chưa có nhận thức đầy đủ hoặc chưa tìm hiểu về kỹ năng sống thì sẽ khiến cho hiệu quả giáo dục bị ảnh hưởng.
Như vậy, cả học sinh và GV- CBQL tại các trường công lập thị xã Dĩ An, Bình Dương đều có nhận thức đúng đắn về kỹ năng sống với tỉ lệ khá cao, bên cạnh đó vẫn còn có những học sinh và GV – CBQL chưa nhận thức đúng đắn và đang còn ở một chừng mực nhất định về kỹ năng sống.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Viết Thuê Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Quản Lý Giáo Dục
2.3.2 Nhận thức về mục đích rèn luyện kỹ năng sống Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Để đánh giá mức độ nhận thức của học sinh và CBQL, GV trên các trường THCS công lập tại thị xã Dĩ An về mục đích của việc giáo dục KNS cho học sinh chúng tôi đã tiến hành khảo sát và có được kết quả sau:
Bảng 2.10. Ý kiến của học sinh và GV – CBQL về mục đích rèn luyện kỹ năng sống của học sinh.
Đánh giá của học sinh: học sinh được khảo sát có nhận thức đúng đắn về mục đích giáo dục KNS, các ý kiến được đánh giá với tỉ lệ cao là: giúp học sinh biết cách giải quyết các vấn đề trong cuộc sống một cách tích cực, giúp học sinh có thái độ tích cực khi đối diện các vấn đề trong cuộc sống, giúp học sinh phát huy các thế mạnh bản thân, giúp học sinh có hành vi tích cực đối với môi trường xung quanh. Số lượng học sinh cho rằng mục đích quan trọng nhất của việc giáo dục kỹ năng sống trong trường học là tích hợp tất cả các mục đích trên chiếm tỉ lệ cao nhất (57,8%). Đây đều là những nhận thức đúng đắn về mục đích của giáo dục kỹ năng sống trong trường học. Thực tế quan sát học sinh và phỏng vấn sâu một số em học sinh cho thấy: Học sinh được tham gia rèn luyện kỹ năng sống thường xuyên tại trường, các em phát huy thế mạnh của bản thân một cách hiệu quả, thể hiện sự tự tin hợp lý, nhiều vấn đề khó khăn gặp phải trong quá trình học tập được các em giải quyết hợp lý. Nhiều học sinh khi tham gia rèn luyện kỹ năng sống một cách tích cực đã rèn luyện được kỹ năng ứng xử thân thiện trong mọi tình huống, giúp các em hình thành thói quen và kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng hoạt động xã hội. Thậm chí còn giáo dục cho học sinh thói quen rèn luyện sức khỏe, ý thức bảo vệ bản thân, phòng tránh các tệ nạn xã hội. Với tỷ lệ học sinh nhận thức đúng đắn về mục đích của giáo dục KNS có thể do quá trình thực hiện giáo dục KNS ở các trường ở Dĩ An đã thực hiện hiệu quả, cũng có thể do các em đã được tiếp cận nhiều nguồn thông tin từ nhiều kênh như truyền thanh, truyền hình, internet…. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Các mục đích còn lại được học sinh đánh giá với tỉ lệ 42,2% (đây là tỉ lệ tương đối lớn, gần bằng một nửa tỉ lệ học sinh tham gia nghiên cứu). Trong đó: Mục đích giúp học sinh biết cách giải quyết các vấn đề trong cuộc sống được học sinh đánh giá với tỉ lệ 32,4%. Có 22,9% học sinh đánh giá mục đích của việc rèn luyện kỹ năng sống là giúp học sinh có thái độ tích cực khi đối diện vấn đề trong cuộc sống. Mục đích giúp học sinh phát huy các thế mạnh bản thân với 20,6%. Mục đích giúp học sinh có hành vi tích cực đối với môi trường xung quanh 18,7%. Mục đích tạo sự thích thú trong học tập, góp phần cải thiện chất lượng học tập 17,9%. Mục đích thực hiện chính sách giáo dục được học sinh đánh giá với 10,1%. Mục đích giảm tỉ lệ nghỉ, bỏ học 5,4%. Tất cả các mục đích này đều đúng, tuy nhiên không đầy đủ. Kết quả này có thể được lý giải dưới nhiều lý do như có thể quá trình giáo dục KNS chưa được đưa vào chương trình chính khóa, chưa thành môn học riêng biệt, hoặc quá trình lồng ghép chưa được giáo viên triển khai hiệu quả trong các môn học, chưa được các nhà quản lý chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá kịp thời hoặc cũng có thể bản thân học sinh hiện nay chưa hề quan tâm, hứng thú đối với các hoạt động do nhà trường, thầy cô giáo tổ chức. Hơn nữa, có thể do độ tuổi của các em còn trẻ, khả năng nhận thức có giới hạn nên nhận thức chưa đúng đắn. Đặc biệt có 1,1% học sinh trả lời không biết mục đích của việc giáo dục kỹ năng sống trong trường học điều này có thể giải thích theo hướng những học sinh này ít tham gia hoạt động, hoặc khả năng học tập, rèn luyện rất thấp trong trường học. Cũng có thể những em này chưa nhận được sự giúp đỡ, quan tâm sâu sát của thầy cô và gia đình. Đây tuy là con số không lớn nhưng cũng có thể gây ảnh hưởng tới việc giáo dục kỹ năng sống và quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Đánh giá của GV – CBQL: Khác với ý kiến của học sinh, ý kiến đánh giá của GV- CBQL cho rằng: mục đích chính của việc học sinh THCS rèn luyện kỹ năng sống là giúp học sinh biết cách giải quyết các vấn đề trong cuộc sống một cách tích cực (51,5%). Phần lớn giáo viên cho rằng kỹ năng sống giúp học sinh giải quyết vấn đề một cách tích cực. Giáo viên đánh giá cao vai trò của kỹ năng sống đối với học sinh trong cuộc sống. Sự lựa chọn của đa số giáo viên là đúng nhưng chưa đầy đủ. Chính sự đánh giá chưa đầy đủ của giáo viên về mục đích của kỹ năng sống đối với học sinh góp phần làm cho hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS tại thị xã Dĩ An, Bình Dương chưa đạt được hiệu quả tuyệt đối. Kết quả trên có thể phán đoán giáo viên chưa được trang bị và chưa tự mình trang bị đầy đủ kiến thức về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh do nhiều nguyên nhân. Do đó, cần thêm nữa sự tác động của các nhà giáo dục nhằm giúp học sinh nhận thực đúng đắn hơn về mục đích rèn luyện kỹ năng sống để các em có động lực đúng đắn trong quá trình rèn luyện của bản thân.
Có 42,6% ý kiến của GV – CBQL cho rằng mục đích của việc học sinh THCS rèn luyện kỹ năng sống là bao gồm tất cả các mục đích được nêu ra: giúp học sinh biết cách giải quyết các vấn đề trong cuộc sống một cách tích cực, giúp học sinh có thái độ tích cực khi đối diện các vấn đề trong cuộc sống, giúp học sinh phát huy các thế mạnh bản thân, giúp học sinh có hành vi tích cực đối với môi trường xung quanh. Có 30,9% GV – CBQL đánh giá mục đích của việc rèn luyện kỹ năng sống là giúp học sinh có thái độ tích cực khi đối diện vấn đề trong cuộc sống. Mục đích giúp học sinh phát huy các thế mạnh bản thân với 23,5%. Mục đích tạo sự thích thú trong học tập, góp phần cải thiện chất lượng học tập với 14,7%. Mục đích thực hiện chính sách giáo dục được đánh giá ở vị trí với 10,3%. Mục đích giảm tỷ lệ nghỉ, bỏ học được đánh giá ít nhất với 5,9%. Các số liệu trên cho thấy, nhận thức của GV – CBQL về mục đích rèn luyện KNS của học sinh vẫn chưa đồng đều và thống nhất. Việc giáo viên chưa nhận thức đầy đủ và thống nhất về mục đích rèn luyện kỹ năng sống của học sinh sẽ gây cản trở tới việc quản lý hoạt động giáo dục KNS cho học sinh THCS tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương vì GV –CBQL là những người có tầm ảnh hưởng rất lớn đến học sinh, nếu như chính đối tượng này còn thiếu sót trong nhận thức được mục đích của rèn luyện KNS thì sẽ gây ra một số khó khăn trong công tác truyền đạt kiến thức cũng như kỹ năng cho học sinh. Tất cả sẽ gây ảnh hưởng đến công tác giáo dục KNS cho học sinh và công tác quản lý hoạt động giáo dục KNS cho học sinh.
2.3.3 Nhận thức về mức độ cần thiết của các kỹ năng sống đối với học sinh.
Vai trò của kỹ năng sống đối với học sinh THCS nói riêng là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên cũng tùy đánh giá của từng học sinh mà mức độ cần thiếBảng 2.11 Đánh giá của học sinh và GV- CBQL về mức độ cần thiết của các kỹ năng sống đối với học sinh THCS tại các trường công lập ở thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Kết quả nghiên cứu ở bảng 2.11 cho thấy:
Đánh giá của học sinh về mức độ cần thiết của các kỹ năng sống đối với học sinh THCS là cần thiết với điểm trung bình chung = 3,97 – mức độ cần thiết, không có kỹ năng nào được đánh giá với mức độ thấp hơn dù rằng đánh giá của học sinh về mức độ cần thiết của các kỹ năng sống đối với học sinh THCS thể hiện khác nhau điều đó được thể hiện ở chứng tỏ học sinh đã nhận thức được tầm quan trọng, sự cần thiết của KNS đối với học sinh THCS thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Đánh giá của GV – CBQL về mức độ cần thiết của các kỹ năng đối với học sinh ở mức cần thiết, ĐTB = 4,46 đó là 7 kỹ năng: Kỹ năng xác định giá trị, Kỹ năng kiên định, Kỹ năng hợp tác, Kỹ năng ứng phó với sự căng thẳng, Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, Kỹ năng thể hiện sự tự tin, Kỹ năng quản lý thời gian.
Có 06 kỹ năng được CBQL và GV đánh giá ở mức độ rất cần thiết: Kỹ năng tự nhận thức, Kỹ năng giao tiếp, Kỹ năng lắng nghe tích cực, Kỹ năng ra quyết định, Kỹ năng thể hiện sự cảm thông, Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn.
Theo nhận định chủ quan của cá nhân từ kết quả khảo sát thì GV – CBQL cho rằng những kỹ năng này rất cần thiết với học sinh là do xã hội càng phát triển, công nghiệp và máy móc càng thay thế cho con người thì sự giao tiếp và thể hiện tình cảm giữa con người với nhau lại càng có khoảng cách, nhất là trong thời đại công nghệ thông nghệ thông tin, cùng với việc các em vừa bị tác động của sự thay đổi tâm sinh lý từ hiện tượng dậy thì, vừa bị ảnh hưởng nhiều từ internet,..
Việc thiếu hụt kỹ năng sống ở học sinh hiện nay là tình trạng phổ biến, nhất là đối với học sinh ở thành phố, hay ở các nơi công nghiệp phát triển. Các em bị dành thời gian cho việc học văn hóa quá nhiều, mà ít có cơ hội được học kỹ năng, được giao lưu và phát triển toàn diện. Vì vậy mà các kỹ năng như: Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn; kỹ năng lắng nghe tích cực (Biết tiếp thu những điều đúng và biết bỏ những điều sai, biết tập trung chú ý để nghe); kỹ năng ra quyết định (Biết phân tích và chọn cái đúng); kỹ năng hợp tác; kỹ năng thể hiện sự tự tin; kỹ năng quản lý thời gian,.. đều được GV – CBQL đánh giá ở mức rất cần thiết hoặc khá cần thiết đối với học sinh các trường THCS công lập tại thị xã Dĩ An, Bình Dương.
Lý do có sự khác nhau về ý kiến của học sinh và GV- CBQL là do nhận thức của hai nhóm khách thể không giống nhau, học sinh với trình độ nhận thức đang còn ở trong một giới hạn nhất định, các em chỉ đánh giá được những gì gần gũi và quan trọng với các em nhất, còn với GV – CBQL thì với nhận thức đầy đủ hơn cũng như kinh nghiệm làm việc của mình, họ có những đánh giá khách quan hơn và thực tế hơn.
Như vậy, cả hai đối tượng khách thể đều đánh giá rằng các kỹ năng được nêu ra ở bảng trên đều cần thiết đối với các em học sinh THCS. Điều này chứng tỏ: đây đều là những kỹ năng sống vô cùng cần thiết và có ý nghĩa đối với học sinh THCS thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Qua đây cũng phản ánh rõ nét nhận thức đúng đắn của học sinh và GV- CBQL ở các trường THCS tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương về tầm quan trọng của kỹ năng sống đối với việc học tập cũng như cuộc sống đối với học sinh THCS.
2.3.4 Đánh giá về việc thực hiện nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
Việc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh THCS tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã và đang được thực hiện trong nhà trường. Sau đây là đánh giá của học sinh và GV – CBQL về những kỹ năng sống mà các em đã được rèn luyện tại trường và các môn học giúp các em rèn luyện kỹ năng sống của mình.
Bảng 2.12 Đánh giá của học sinh và GV – CBQL về những kỹ năng sống được rèn luyện tại trường tại các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
2.3.5 Đánh giá về mức độ hiệu quả thực hiện các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục KNS đã được thực hiện tuy nhiên để đo được mức độ hiệu quả chúng tôi đã khảo sát và kết quả thể hiện ở bảng 2.16 như sau:
Bảng 2.13 Đánh giá của học sinh và GV- CBQL về mức độ hiệu quả thực hiện các hình thức tổ chức hoạt động kỹ năng sống.
Kết quả nghiên cứu tại bảng 2.13 cho thấy:
Đánh giá của học sinh: Học sinh THCS tại các trường công lập thị xã Dĩ An, Bình Dương cho rằng các hình thức tổ chức hoạt động kỹ năng sống đều hiệu quả, ĐTB = 3,81. Tất cả các hình thức cụ thể đều được thực hiện hiệu quả, không có hình thức nào thực hiện kém hiệu quả cả. Trong đó:
Hình thức sinh hoạt chủ nhiệm được đánh giá là hình thức hiệu quả xếp thứ nhất với ĐTB = 4,09. Để tìm hiểu sâu hơn về hình thức này, chúng tôi quan sát giờ sinh hoạt lớp của giáo viên thông qua hình thức dự giờ, kết quả quan sát cho thấy: Giờ sinh hoạt chủ nhiệm là giờ mà giáo viên chủ nhiệm có nhiều thời gian dành cho học sinh nhất, bên cạnh việc giải quyết tình hình lớp và phổ biến một số nội dung rèn luyện mới thì đa phần giáo viên chủ nhiệm lồng ghép các hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong các hoạt động sinh hoạt tập thể, các trò chơi, các cuộc thi, . . . Các em sinh hoạt với tâm thế thoải mái, các em tự do được thể hiện kiến và hợp tác với các bạn khác, được chơi cho nên các em rất hào hứng tham gia các giờ sinh hoạt chủ nhiệm.
Hình thức được học sinh đánh giá hiệu quả thứ bậc hai với ĐTB = 3,99 là hình thức sinh hoạt dưới cờ. Ở tất cả các trường THCS công lập tại thị xã Dĩ An, Bình Dương, các chương trình giáo dục kỹ năng sống chưa được đưa vào chương trình học chính khóa mà chỉ tích hợp giáo dục kỹ năng sống trong các tiết học, các giờ sinh hoạt dưới cờ là một hình thức sáng tạo và được thực hiện thường xuyên hàng tuần. Kết quả phỏng vấn học sinh cho thấy, thường trong một tiết sinh hoạt dưới cờ, Hiệu trưởng, Tổng phụ trách Đội và giáo viên chủ nhiệm tổ chức các nội dung chính trong vòng 25 phút đầu, khoảng 20 phút còn lại thì GV – CBQL triển khai nội dung giáo dục kỹ năng sống qua hình thức tổ chức các cuộc thi, các trò chơi, . . . Giờ sinh hoạt dưới cờ là giờ học tập trung được đầy đủ học sinh các khối, cho nên để truyền tải một nội dung cho nhiều khối lớp mà không mất thời gian thì đây là một hình thức hiệu quả.
Thứ bậc ba là hình thức các hoạt động ngoại khóa, tham quan, dã ngoại ĐTB = 3,95. Sở dĩ, hình thức này được học sinh đánh giá hiệu quả là do, khi tích hợp giáo dục kỹ năng sống trong các hoạt động ngoại khóa, tham quan, dã ngoại thì học sinh được trải nghiệm nhiều, được có nhiều cơ hội thực hành kỹ năng, được giao lưu và học hỏi rất nhiều. Đây là cơ hội mà học sinh vừa được tiếp thu kiến thức vừa được áp dụng ngay vào thực tế.
Tiếp theo là các hình thức: Tích hợp giáo dục trong các môn học ĐTB = 3,93; hoạt động thể dục thể thao, văn hóa nghệ thuật ĐTB = 3,88; các hoạt động của tổ chức đoàn, đội, chữ thập đỏ ĐTB = 3,87; sinh hoạt chuyên đề KNS ĐTB = 3,71. Xếp cuối cùng là các hình thức: Một môn học riêng ĐTB = 3,67; Sinh hoạt NGLL ĐTB = 3,56. Các hình thức này đều được học sinh đánh giá hiệu quả, tuy nhiên mức độ hiệu quả không bằng các hoạt động trên vì tâm lý chung của học sinh là ham vui, thích vừa học vừa chơi, thích khám phá và trải nghiệm, các em không thích gò bó vào việc ngồi im nghe giảng.
Đánh giá của GV – CBQL: GV – CBQL đánh giá việc thực hiện các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS tại các trường công lập thị xã Dĩ An, Bình Dương ở mức độ hiệu quả ĐTB = 3,89. Trong đó, các hình thức đều hiệu quả, không có hình thức nào không hiệu quả. Trong đó: giống như đánh giá của học sinh, sinh hoạt chủ nhiệm được GV – CBQL đánh giá là hình thức sinh hoạt chủ nhiệm lồng ghép tổ chức hoạt động kỹ năng sống dành cho học sinh hiệu quả nhất xếp thứ bậc thứ nhất với ĐTB = 4,26.
Xếp thứ bậc thứ hai là hoạt động thể dục thể thao, văn hóa nghệ thuật ĐTB 4,19. Trong các hoạt động thể dục thể thao, văn hóa nghệ thuật. GV1 một giáo viên chủ nhiệm lớp 9 cho hay: “Tôi quan tâm tới việc giáo dục KNS cho học sinh vì theo tôi KNS vô cùng quan trọng và cần thiết với học sinh. Bên cạnh việc lồng ghép tích hợp giáo dục KNS trong môn học của mình mà trong giờ sinh hoạt chủ nhiệm, thì tôi cho rằng lồng ghép KNS cho học sinh thông qua hoạt động thể dục thể thao, văn hóa văn nghệ cũng rất hiệu quả. Những dịp mà nhà trường tổ chức hoạt động, nhất là các hoạt động văn hóa nghệ thuật, tôi đều khuyến khích học sinh của mình áp dụng các kỹ năng sống mình được rèn luyện trong các tình huống hoặc trong các hình nghệ thuật. Học sinh của tôi rất thích thú tham gia các hoạt động này”.
Vị trí thứ ba là các hoạt động của tổ chức đoàn, đội, chữ thập đỏ ĐTB = 4,10. Đây cũng là một hình thức được GV – CBQL đánh giá hiệu quả trong việc thực hiện các hình thức tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Lý do GV – CBQL đánh giá hình thức này hiệu quả vì thực tế hoạt động của tổ chức đoàn đội luôn được học sinh quan tâm và thu hút các em. Những hoạt động sôi nổi và có ích của tổ chức đoàn đội sẽ góp phần giúp cho việc giáo dục KNS đạt được hiệu quả nhất định.
Sinh hoạt dưới cờ (với ĐTB = 4,07) được GV – CBQL đánh giá hiệu quả ở vị trí thứ tư trong khi đó hình thức này được học sinh đánh giá hiệu quả ở vị trí thứ hai. Có sự khác biệt này là do, GV – CBQL cho rằng đây là một hình thức hiệu quả, tuy nhiên khi tổ chức hình thức này học sinh ngồi tập trung đông dưới sân trường, rất khó quản lý học sinh vì có những học sinh làm việc riêng và nói chuyện riêng trong giờ sinh hoạt dưới cờ. Do đó, hình thức này được đánh giá hiệu quả nhưng cũng có những hạn chế nhất định.
Các hoạt động ngoại khóa, tham quan, dã ngoại ĐTB = 4,02; sinh hoạt chuyên đề KNS ĐTB = 3,98; một môn học riêng ĐTB = 3,97 là các hình thức được đánh giá có mức độ hiệu quả tiếp theo. Các hình thức tích hợp giáo dục trong các môn học ĐTB = 3,91; giáo dục hướng nghiệp ĐTB = 3,91 và Sinh hoạt NGLL ĐTB = 3,88 xếp vị trí cuối cùng trong bảng đánh giá của GV – CBQL về mức độ hiệu quả trong việc giáo dục kỹ năng sống cho các em học sinh. Ở các hình thức này thì đánh giá của GV – CBQL khác học sinh. Có sự khác biệt về thứ bậc vị trí các hình thức là do nhận thức và cảm nhận của hai nhóm khách về mức độ hiệu quả của các hình thức là khác nhau. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Như vậy, cả học sinh và GV – CBQL đều đánh giá các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS tại các trường công lập thị xã Dĩ An, Bình Dương ở mức độ hiệu quả. Hai nhóm khách thể đặc biệt đề cao hình thức sinh hoạt chủ nhiệm, hoạt động thể dục thể thao, văn hóa nghệ thuật; sinh hoạt dưới cờ; hoạt động ngoại khóa chứng tỏ thông qua các hoạt động này học sinh luôn cảm thấy hứng thú, các em được hòa mình vào các sinh hoạt nhóm, tập thể, có cơ hội thể hiện bản thân. Tuy nhiên, trong khi các hình thức sinh hoạt chủ nhiệm, sinh hoạt ngoại khóa, sinh hoạt dưới cờ được đánh giá cao về mức độ hiệu quả thì có một môn học kỹ năng sống riêng, hoạt động giáo dục hướng nghiệp và sinh hoạt chuyên đề kỹ năng sống lại chỉ được xếp thứ bậc từ 7 đến 9. Điều này chứng tỏ rằng một bộ phận không nhỏ học sinh, GV- CBQL quan niệm rằng việc có một môn học kỹ năng sống riêng, hoạt động giáo dục hướng nghiệp và sinh hoạt chuyên đề kỹ năng sống chưa thể hiện vai trò quan trọng trong công tác giáo dục kỹ năng sống. Ngoài ra con đường chủ yếu để giáo dục KNS cho học sinh THCS hiện nay là tích hợp trong các tiết dạy của tất cả các bộ môn thì theo đánh giá của GV và HS lại không hiệu quả và quan trọng bằng các hình thức khác. Kết quả thể hiện có sự sai lệch trong nhận thức của GV và Hs về vấn đề này.
Đề khảo sát nhận thức của Giáo viên và HS về những môn học giúp HS hình thành KNS chúng tôi tiến hành và thu được kết quả sau:
Bảng 2.14 Đánh giá của học sinh về những môn học giúp học sinh hình thành và phát triển kỹ năng sống.
Bảng 2.15. Đánh giá của GV – CBQL về những môn học giúp học sinh hình thành và phát triển kỹ năng sống.
Kết quả nghiên cứu từ bảng 2.14 và 2.15 cho thấy
Đánh giá của học sinh: Nhìn chung, các em học sinh chủ yếu cho rằng có hai môn giúp các em hình thành và phát triển kỹ năng sống nhiều nhất đó là môn GDCD và môn Ngữ Văn. Môn giáo dục công dân giúp các em hình thành 10 kỹ năng sống, môn Ngữ văn giúp các em hình thành 8 kỹ năng sống. Như vậy, có thể do tính chất, tên gọi môn học các em nghĩ rằng giáo dục công dân là làm cho người công dân tốt hơn, môn văn là môn hướng dẫn cho con người sống tốt hơn nên các em đã nghĩ như vậy. Cũng có thể giáo viên giảng dạy hai môn này trong quá trình giảng dạy đã biết cách lồng ghép nhiều nội dung về KNS cho nên các em mới có nhận thức như trên. Ngoài ra, theo nhận thức của các em môn Toán và môn Tiếng Anh cũng có ảnh đến việc rèn luyện kỹ năng sống cho các em. Trong đó, môn Toán giúp các em rèn luyện kỹ năng kiên định, kỹ năng quyết định, kỹ năng hợp tác, kỹ năng quản lý thời gian, có thể các kỹ năng này khi đọc tên qua có vẻ liên quan đến tính toán, phân tích nên các em đã chọn như vậy.
Môn Tiếng Anh cũng giúp các em rèn luyện hình thành 3 kỹ năng gồm kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lắng nghe tích cực, kỹ năng tìm kiếm sự giúp đỡ, có thể khi đọc qua các kỹ năng này các em đã nghĩ đến môn Tiếng Anh giúp các em có ngôn ngữ nước ngoài mới tìm kiếm được sự trợ giúp trên mạng, hay có thể để học tiếng Anh thì cần lắng nghe để hiểu được giáo viên nói gì và trong dạy học tiếng anh việc giao tiếp có thể diễn ra thường xuyên liên tục hơn các môn khác nên các em đã chọn như vậy.
Kết quả bảng 2.14 cho thấy các môn như Lịch sử, địa lý, hóa, Vật lý …không được các em nhận thức về sự ảnh hưởng nhiều đến việc rèn luyện và hình thành KNS. Kết quả này cho thấy có thể một phần các em nhận thức còn hạn chế do độ tuổi, trình độ. Nhưng cũng có thể do quá trình giảng dạy giáo viên đã không nhấn mạnh, không chú trọng lồng ghép những nội dung về KNS cho các em.
Đánh giá của GV- CBQL:
GV – CBQL đánh giá tất cả các kỹ năng cụ thể đều được thực hiện thường xuyên bằng hình thức tích hợp trong các môn học. Trong đó, GV-VBQL đánh giá các môn như Văn, Toán, Tiếng Anh và GDCD là các môn học giúp học sinh hình thành và phát triển các kỹ năng sống nhiều nhất.
Có sự chênh lệch ý kiến của học sinh và GV- CBQL về mức độ thường xuyên của các kỹ năng sống được rèn luyện tại trường cũng như các môn học giúp hình thành các kỹ năng đó.
Qua bảng 2.14 và 2.15 cho thấy cả GV- CBQL và HS đều chưa có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc hình thành KNS qua các tiết học, tất cả các tiết học, các môn học đều có thể tích hợp giáo dục và rèn luyện KNS cho học sinh nếu GV thực hiện nghiêm túc, nhận thức đúng đắn, có kỹ năng và phương pháp sư phạm tốt. Đây là một vấn đề cần phải được cải thiện để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục KNS cho học sinh.
2.3.6 Đánh giá về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tác động trong việc giúp học sinh rèn luyện kỹ năng sống Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Để thực hiện hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS tại các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương hiệu quả cần rất nhiều yếu tố khác nhau thúc đẩy như: gia đình, tổ chức đoàn thể trong nhà trường, tổ chức đoàn thể ngoài nhà trường, hiệu trưởng, giáo viên, ý thức bản thân, …Sau đây là đánh giá của học sinh và GV – CBQL về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố trong việc giúp học sinh rèn luyện kỹ năng sống.
Bảng 2.16 Đánh giá của học sinh và GV- CBQL về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tác động trong việc giúp học sinh rèn luyện kỹ năng sống.
Kết quả nghiên cứu tại bảng 2.16 cho thấy:
Đánh giá của học sinh: học sinh đánh giá tất cả các yếu tố tác động có ảnh hưởng đến việc giúp các em rèn luyện kỹ năng sống, ĐTB = 3,56. Trong các yếu tố được đề xuất, có yếu tố học sinh cho rằng ảnh hưởng đến việc giúp các em rèn luyện kỹ năng sống, nhưng cũng có một số yếu tố các em còn phân vân. Yếu tố ý thức của bản thân, ĐTB=3,89 là yếu tố học sinh đánh giá có ảnh hướng lớn nhất. Tự ý thức có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động của con người. Nếu học sinh không tự ý thức, không có sự cố gắng của bản thân thì các em sẽ không tham gia hoặc tham gia với tâm thế bị ép buộc, không tích cực. Kết quả quan sát học sinh cũng cho thấy, đa phần học sinh nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng sống đối với bản thân và tầm quan trọng của ý thức bản thân trong việc rèn luyện kỹ năng sống cho nên các em chủ động, tích cực rèn luyện các hoạt động kỹ năng sống được giáo dục tại trường, chứng tỏ tự ý thức của bản thân ảnh hưởng rất lớn đến việc giúp học sinh rèn luyện kỹ năng sống. Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy: “Em cho rằng việc học là việc của mình, mình rèn luyện được nhiều thì mình tốt hơn thôi chứ không thể đổ lỗi cho người khác được” (HS3, trường THCS Bình An)
Có thể phán đoán học sinh có nhận thức đúng đắn về vai trò của tự nhận thức đối với việc rèn luyện kỹ năng sống có thể là do sự tác động, tư vấn hướng dẫn của giáo viên, của gia đình hoặc do tác động của các kênh thông tin, đặc biệt có thể thấy do các em thường được giáo dục theo hướng tự lập, tự chịu trách nhiệm. Đây là kết quả mang yếu tố tích cực đối với hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, nhà QLGD và GV phải nắm rõ yếu tố này nhằm có biện pháp tác động tích cực vào chính nhận thức của học sinh để đạt hiệu quả giáo dục cao nhất.
Xếp thứ hai là ý kiến giáo viên chủ nhiệm góp phần giúp giúp các em rèn luyện kỹ năng sống ĐTB = 3,85. Đối với học sinh, giáo viên chủ nhiệm được coi như người cha, người mẹ thứ hai của các em cho nên không thể thừa nhận được tầm ảnh hưởng của giáo viên chủ nhiệm trong việc hỗ trợ các em rèn luyện kỹ năng sống. Hơn nữa, các kỹ năng sống thường được tích hợp nhiều trong các giờ sinh hoạt chủ nhiệm, vì vậy học sinh đánh giá yếu tố này có mức độ ảnh hưởng quan trọng trong việc giúp các em học tập kỹ năng sống. Điều này cũng có thể thấy GVCN thật sự đã thực hiện tương đối tốt vai trò của mình đối với việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh và nhà QLGD cần có biện pháp tác động, bồi dưỡng, lựa chọn đội ngũ GVCN phù hợp nhằm thực hiện tốt công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS.
Xếp thứ ba là yếu tố gia đình ĐTB = 3,81. Học sinh cho rằng gia đình cũng là một trong các yếu tố quan trọng giúp các em rèn luyện kỹ năng sống, cho nên những gia đình có nhận thức đúng đắn về kỹ năng sống và vai trò của kỹ năng sống đối với học sinh, nhất là học sinh THCS – giai đoạn có nhiều thay đổi về tâm sinh lý thì sẽ giúp các em học sinh rèn luyện kỹ năng sống một cách tích cực, được tạo điều kiện để các em rèn luyện. Ngược lại ở những gia đình chưa có nhận thức đúng đắn về kỹ năng sống và vai trò của việc rèn luyện kỹ năng sống đối với học sinh thì sẽ làm hạn chế sự rèn luyện kỹ năng sống của các em rất nhiều. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Các yếu tố: Tổ chức đoàn thể trong nhà trường (Đoàn, Đội, Chữ Thập Đỏ, . . ) ĐTB = 3,45; bạn bè ĐTB = 3,45; hiệu trưởng ĐTB = 3,45; tổ chức, đội, nhóm, đoàn thể ngoài nhà trường (Thiếu nhi Thánh thể, chúng thanh niên Phật tử, . . .) ĐTB = 3,43 là các yếu tố học sinh phân vân không biết có ảnh hưởng hay không ảnh hưởng đến việc rèn luyện kỹ năng sống của các em. Sở dĩ học sinh đánh giá như vậy vì bạn bè là yếu tố giúp các em tham gia các hoạt động rèn luyện kỹ năng sống, nhưng không phải là yếu tố thúc đẩy để các em nỗ lực rèn luyện tích cực; các đoàn thể trong trường hoặc ngoài nhà trường hay hiệu trưởng chỉ là những nhân tố gián tiếp tác động đến các em học sinh, cho nên các yếu tố này cũng không quyết định phần nhiều đến hiệu quả việc học sinh rèn luyện kỹ năng sống.
Đánh giá của GV – CBQL: Đánh giá của GV – CBQL các yếu tố trong việc giúp các em tác động có ảnh hưởng tới việc rèn luyện kỹ năng sống rèn luyện của học sinh THCS công lập tại thị xã Dĩ An, Bình Dương, ĐTB = 4,19. Trong đó ba yếu tố được cho rằng rất ảnh hưởng tới việc tới việc rèn luyện kỹ năng sống rèn luyện của học sinh là yếu tố gia đình; yếu tố giáo viên chủ nhiệm và yếu tố ý thức bản thân.
Thay vì yếu tố bản thân được học sinh cho rằng ảnh hưởng nhất đến việc giúp các em rèn luyện kỹ năng sống thì GV – CBQL lại cho rằng yếu tố gia đình là yếu tố ảnh hưởng hàng đầu tố trong việc giúp các em rèn luyện kỹ năng sống với ĐTB= 4,82. Điểm đánh giá tương đối cao, chứng tỏ GV – CBQL cho rằng gia đình chính là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc giúp đỡ, hỗ trợ, tạo điều kiện để học sinh có thể rèn luyện kỹ năng sống đạt hiệu quả.
Được GV – CBQL đánh giá mức độ ảnh hưởng thứ hai là yếu tố giáo viên chủ nhiệm ĐTB = 4,54. Ý kiến này cũng giống như của học sinh, giáo viên chủ nhiệm như cha mẹ thứ hai của các em, việc học sinh rèn luyện kỹ năng sống tốt hay không phụ thuộc nhiều vào sự quan tâm, đốc thúc, nhắc nhở và do cả kiến thức, kỹ năng của giáo viên trong việc giáo dục kỹ năng sống.
Yếu tố được đánh giá ảnh hưởng mức thứ ba là yếu tố ý thức bản thân ĐTB=4,52. Không phủ nhận được tầm quan trọng của việc học sinh tự nhận thức và tự cố gắng trong việc rèn luyện kỹ năng sống, GV – CBQL cho rằng đây cũng là một trong ba yếu tố quan trọng nhất, ảnh hưởng nhất tới kết quả rèn luyện kỹ năng sống của các em.
Các yếu tố khác như giáo viên bộ môn, hiệu trưởng, tổ chức đội nhóm,… đều được đánh giá có ảnh hưởng đến việc rèn luyện kỹ năng sống của học sinh.
Có sự chênh lệch giữa học sinh và giáo viên về mức độ ảnh hưởng của các yếu tốt tác động trong việc giúp học sinh rèn luyện kỹ năng sống. Cả học sinh và GV – CBQL cùng đánh giá các yếu tố tác động đều ảnh hưởng đến việc giúp học sinh rèn luyện kỹ năng sống, nhưng giáo viên đánh giá cao hơn so với học sinh. Về thức bậc ảnh hưởng của các yếu tố cũng có sự khác nhau giữa học sinh và giáo viên. Điều này được giải thích là do học sinh chưa có nhận thức toàn diện về vấn đề, các em thường chỉ đánh giá đúng những vấn đề ngay trước mắt, còn những vấn đề xa xôi thì các em chưa nhận thức được, ví dụ như vai trò của hiệu trưởng – người quản lý nhà trường là vô cùng quan trọng trong việc quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống, nhưng học sinh chưa nhận thức rõ được điều này.
Hơn nữa, nhóm khách thể GV – CBQL với trình độ đạt chuẩn giáo viên THCS và kinh nghiệm làm việc, thì nhóm này có nhận thức đúng đắn hơn, bao quát hơn so với học sinh.
2.3.7 Đánh giá về mức độ thuần thục của học sinh trong việc thực hiện các kỹ năng sống được rèn luyện.
Để tìm hiểu và đánh giá về mức độ thuần thục của học sinh và GV- CBQL trong việc thực hiện các kỹ năng của học sinh sống tại các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương chúng tôi đã khảo sát và thu được kết quả sau:
Bảng 2.17 Đánh giá của học sinh và GV – CBQL về mức độ thuần thục của học sinh trong việc thực hiện các kỹ năng sống được rèn luyện
Kết quả nghiên cứu bảng 2.17 cho thấy:
Đánh giá của học sinh: học sinh tự đánh đánh giá các em thuần thục về tất cả các kỹ năng được đánh giá, ĐTB = 3,69. Trong đó, không có kỹ năng nào các em cho là mình còn phân vân hay chưa thuần thục.
Phỏng vấn sâu HS4 lớp 9 cho hay: “Em hay thường xuyên có những cuộc tranh cãi với mẹ em, mẹ không hiểu em và không nghe tâm tư của em, mẹ chỉ muốn em học thật giỏi mà không quan tâm đến những vấn đề khác của em. Nhưng sau khi em được rèn luyện kỹ năng giao tiếp, em biết thể hiện nhu cầu được chia sẻ của mình với mẹ, em cũng chủ động giao tiếp với mẹ hơn, mối quan hệ giữa em và mẹ được cải thiện rất nhiều”. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ ĐTB = 3,54 là các kỹ năng các em ít thuần thục hơn so với các kỹ năng khác. Sở dĩ kỹ năng này học sinh đánh giá thuần thục ít hơn các kỹ năng khác vì bản chất của kỹ năng này là tìm kiếm sự hỗ trợ từ người khác. Người hỗ trợ là người tin cậy, biết giữ bí mật và không phán xét. Việc tìm được người hỗ trợ tin đúng tiêu chí quả là một sự lựa chọn rất khó khăn, hơn nữa không phải lúc nào cũng tìm được người sẵn sàng hỗ trợ cho mình khi mình gặp khó khăn cho nên học sinh đánh giá như vậy là có cơ sở.
Có thể thấy học sinh đánh giá thuần thục ở tất cả các kỹ có thể là do các em được kháo sát quá tự tin, hoặc là những học sinh tích cực, nỗ lực, hoặc ở đo độ tuổi này các em thường nhìn cuộc đời màu hồng, chứa đánh giá đúng thực chất bản thân mình.
Đánh giá của GV – CBQL: GV – CBQL đánh giá mức độ thuần thục của học sinh trong việc thực hiện các kỹ năng sống được rèn luyện ở mức độ phân vân, ĐTB – 3,48. Trong đó, có những kỹ năng được GV – CBQL cho rằng học sinh thực hiện thuần thục và có một số kỹ năng GV – CBQL phân vân không rõ các em đã thực hiện thuần thục hay chưa.
GV – CBQL cho rằng học sinh thuần thục nhất kỹ năng thể hiện sự cảm thông. Học sinh thể hiện tình yêu thương, sự chia sẻ với mọi người, đặc biệt là với những người có hoàn cảnh khó khăn cần được giúp đỡ, thể hiện tình tương thân tương ái. Kỹ năng giao tiếp được đánh giá thuần thục thứ hai với ĐTB = 3,70. Học sinh giao tiếp ứng xử khéo léo, chuẩn mực với từng đối tượng giao tiếp. Kỹ năng được GV – CBQL học sinh thực hiện thuần thục thứ ba là kỹ năng thể hiện sự tự tin ĐTB=3,61. GV – CBQL cho rằng học sinh tự tin thể hiện bản thân mình trong những tình huống phù hợp, các em thể hiện khả năng, sở trường của mình trước tập thể và bên cạnh đó cũng không ngần ngại học học, tiếp thu những gì mình đang còn hạn chế.
Nhóm các kỹ năng ra quyết định ĐTB = 3,45; kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ ĐTB = 3,41; kỹ năng giải quyết mâu thuẫn ĐTB = 3,41; kỹ năng quản lý thời gian ĐTB = 3,32; kỹ năng kiên định ĐTB = 3,32; kỹ năng tự nhận thức ĐTB = 3,32; kỹ năng ứng phó với sự căng thẳng ĐTB = 3,30. Các kỹ năng này được GV – CBQL đánh giá ở mức phân vân. Các biểu hiện được đánh giá ở mức trung bình này là học sinh có khi còn phân vân chưa đưa ra được các quyết định phù hợp trong các tình huống học tập hàng ngày, học sinh chưa giải quyết được một số mẫu thuẫn trong học tập khi làm việc nhóm hay trong mối quan hệ với bạn bè, học sinh chưa biết lập thời khóa biểu cho bản thân, chưa tự thực hiện được đúng đắn thời khóa biểu đã đề ra, một số học sinh đánh giá quá cao bản thân, ngược lại một số học sinh lại quá tự ti về bản thân mình, nhiều em vẫn chưa tìm được cách ứng phó với sự căng thẳng khi thi cử hay trong các mối quan hệ trong trường học.
Như vậy, dù đánh giá nhiều kỹ năng học sinh thực hiện thuần thục và cũng có những kỹ năng học sinh chưa thuần thục, nhưng đánh giá chung của GV – CBQL là học sinh THCS tại các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương chỉ thuần thục các kỹ năng sống ở mức độ phân vân, học sinh cần tiếp tục và cố gắng hơn nữa trong việc rèn luyện các kỹ năng sống.
Có sự khác biệt về ý kiến đánh giá của học sinh và GV – CBQL về mức độ thuần thục của học sinh trong việc thực hiện các kỹ năng sống được rèn luyện.
Trong khi học sinh đánh giá các em thực hiện các kỹ năng sống ở mức độ thuần thục thì GV – CBQL lại phân vân, giáo viên cho rằng một số kỹ năng các em đã thuần thục nhưng cùng còn nhiều kỹ năng chưa được thực hiện tốt. Về thứ bậc các kỹ năng cũng được đánh giá khác nhau giữa hai nhóm khách thể này. Có sự khác biệt này là do nhận thức của hai nhóm khách thể này khác nhau, học sinh có sự đánh giá chủ quan hơn, đều này cũng được thể hiện ở kỹ năng tự đánh giá của các em là kỹ năng các em thuần thục thứ sáu với ĐTB = 3,39 trong khi đó giáo viên đánh giá kỹ năng này các em chưa thuần thục.
Nhìn chung, theo đánh giá của GV và CBQL có 7 kỹ năng là học sinh thực hiện thuần thục, các kỹ năng khác (gần 50%) CBQL đánh giá học sinh chưa đạt đến mức thuần thực, có thể thấy sự khác biệt này có thể là do học sinh không hoặc chưa có cơ hội thực sự thể hiện tốt các kỹ năng của mình ở trường, hoặc do tiêu chí, sự nhìn nhận về sự mức độ thuần thục của giáo viên CBQL và học sinh là khác nhau, có thể học sinh tự đánh giá mình quá cao so với tiêu chí đánh giá của GV và CBQL.
2.4 Thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Để tìm hiểu về thực trạng công tác quản lý này chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu theo hướng tiếp cận chức năng quản lý, phân tích ở các khía cạnh: công tác xây dựng kế hoạch cho hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, công tác tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, công tác chỉ đạo thực hiện các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, công tác kiểm tra đánh giá việc thực hiện các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, được trình bày từ kết quả tổng quát đến kết quả cụ thể. Dưới đây là các kết quả trình bày thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương cụ thể theo từng khía cạnh.
2.4.1 Đánh giá của giáo viên – CBQL về công tác xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
Xây dựng kế hoạch là khâu quan trọng trong công tác quản lý đặc biệt là công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Kết quả khảo sát kiến về thực trạng xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương được trình bày trong bảng sau:
Bảng 2.18 Mức độ thường xuyên và hiệu quả của công tác xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Kết quả nghiên cứu từ bảng 2.18 cho thấy:
Về mức độ thường xuyên của công tác xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục kỹ năng sống: Các hoạt động cụ thể trong việc xây dựng kế hoạch quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS được thực hiện ở mức độ thường xuyên, trung bình chung ý kiến được đánh giá là 3,85. Trong đó ba hoạt động được thực hiện thường xuyên hơn là: nắm vững những qui định và yêu cầu của cấp trên về GDKNS cho HS ĐTB = 3,97; xây dựng các loại kế hoạch GDKNS theo thời gian và công việc ĐTB = 3,91; duyệt các loại kế hoạch với ĐTB = 3,88. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Từ kết quả trên có thể nhận định công tác lập kế hoạch cho hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS tại các trường công lập trên thị xã Dĩ An được cán bộ quản lý ở đây đã thực hiện đầy đủ các bước và thường xuyên, tuy nhiên có những yếu tố như: Tìm hiểu nhu cầu và phân tích thực trạng của trường về GDKNS cho HS, Xác định mục đích và nội dung GDKNS, Xác định hình thức và phương pháp thực hiện vẫn chưa thật sự như mong đợi có thể do nhiều yếu tố như: CBQL và GV chưa có công cụ hiệu quả để tìm hiểu nhu cầu và phân tích thực trạng của trường về GDKNS cho học sinh hoặc do KNS là một phạm trù rộng với cả hình thức và biện pháp thực hiện rất đa dạng nên CBQL và GV nếu không được tập huấn trang bị đầy đủ kiến thức về GDKNS thì khó có khả năng thực hiện công tác này một cách thường xuyên và hiệu quả.
Tiến hành kiểm định ANOVA, kết quả cho thấy không có sự khác biệt có nghĩa thống kê ý kiến đánh giá của GV – CBQL giữa các trường về mức độ thường xuyên của công tác xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Về mức độ hiệu quả của công tác xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục kỹ năng sống: Các hoạt động cụ thể trong việc xây dựng kế hoạch quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS được thực hiện ở mức độ hiệu quả, trung bình chung ý kiến đánh giá là 3,66. Trong đó, các hoạt động được đánh giá hiệu quả hơn là: Xây dựng các loại kế hoạch giáo dục kỹ năng sống theo thời gian và công việc; duyệt các loại kế hoạch ĐTB = 3,73; hoạt động nắm vững những qui định và yêu cầu của cấp trên về GDKNS cho HS ĐTB = 3,69; và hoạt động xác định các lực lượng tham gia ĐTB = 3,67.
Phỏng vấn 2GV và 3CBQL ở các trường THCS công lập tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương cũng cho biết: thực tế GV- CBQL nắm vững được những quy định và yêu cầu của cấp trên về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, GV – CBQL cũng biết cách xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh theo thời gian và công việc, họ cũng biết xác định lực lượng tham gia, tuy nhiên họ gặp khó khăn trong việc xác định kinh phí để thực hiện việc giáo dục kỹ năng sống. Việc tìm hiểu nhu cầu riêng của từng trường về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh còn chưa được thực hiện rõ ràng cho nên nội dung kế hoạch còn rất chung chung, chưa dựa trên đặc điểm riêng của từng trường, từng khối lớp.
Tiến hành kiểm nghiệm ANOVA, kết quả cho thấy không có sự khác biệt giữa ý kiến đánh giá của giáo viên các trường THCS Bình An, THCS Võ Trường Toản và THCS Tân Đông Hiệp về mức độ hiệu quả của công tác xây dựng kế hoạch cho hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Tóm lại, các trường THCS công lập tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tương đối hiệu quả tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cụ thể về xây dựng kế hoạch trong quản lý khi thực hiện hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS.
2.4.2 Đánh giá của giáo viên – CBQL về công tác tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Kết quả khảo sát ý kiến về công tác tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương được trình bày ở bảng sau đây
Bảng 2.19 Mức độ thường xuyên và hiệu quả của công tác tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương
Kết quả nghiên cứu bảng 2.19 cho thấy:
Về mức độ thường xuyên: Công tác tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương đã thực hiện thường xuyên, đánh giá chung là 3,73. Trong đó hoạt động được thực hiện thường xuyên hơn cả là: Thành lập Ban chỉ đạo hoạt động giáo dục kỹ năng sống, Hoạt động xây dựng các cơ chế phối hợp với tổ chức trong nhà trường: Đoàn, Đội, Chữ Thập Đỏ; và hoạt động phân công nhiệm vụ cho các bộ phận và cá nhân tham gia. Các hoạt động được đánh giá ít thường xuyên hơn là: Xây dựng tiêu chí đánh giá; Quy định về chế độ chính sách cho GV, NV thực hiện công tác GDKNS cho HS; Tổ chức giao lưu học tập kinh nghiệm. Có thể phán đoán công tác tổ chức thực hiện GDKNS được thực hiện thường xuyên với việc thành lập Ban chỉ đạo, phân công công việc cụ thể, phối hợp với các tổ chức tốt nhưng các trường thường gặp khó khăn ở việc xây dựng các tiêu chí đánh giá có thể là do năng lực và kinh nghiệm của GV và CBQL đối với công tác giáo dục KNS chưa thực sự tốt cũng như các trường còn gặp khó khăn về vấn đề kinh phí nên chế độ chính sách cho giáo viên thực hiện công tác này chưa đảm bảo cũng như công tác giao lưu học hỏi cũng chưa đạt mực độ thường xuyên như mong muốn. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Về mức độ hiệu quả: Việc tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh được đánh giá hiệu quả với ĐTB = 3,69. Các hoạt động được đánh giá hiệu quả hơn cả là: Xây dựng các cơ chế phối hợp với tổ chức trong nhà trường: Đoàn, Đội, Chữ Thập Đỏ; Xin ý kiến cấp trên về GDKNS; hoạt động quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ phận và cá nhân tham gia. Các hoạt động được đánh giá ít hiệu quả nhất là: Xây dựng tiêu chí đánh giá hoạt động giáo dục kỹ năng sống; Thành lập Ban chỉ đạo hoạt động giáo dục kỹ năng sống; Tổ chức hệ thống thông tin về hoạt động giáo dục kỹ năng sống.
Kết quả kiểm định ANOVA cũng cho thấy rằng không có sự khác biệt có nghĩa thống kê đánh giá của GV – CBQL về mức độ thường xuyên và hiệu quả giữa các trường trong công tác tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Ngoài ra, để tìm hiểu sâu hơn thực trạng tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, các cuộc phỏng vấn GV – CBQL đã được tiến hành. Kết quả phỏng vấn GV – CBQL (3 CBQL-QL1,2,3,4 và 4 GV-GV1,2,3,4 trường THCS) cho thấy:
Về hệ thống văn bản có liên quan đến hoạt động này, các ý kiến của GV – CBQL cho biết, hiện nay còn thiếu những văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể về việc tổ chức và thực hiện hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh và các tiêu chí đánh giá cũng chưa được triển khai và hướng dẫn cụ thể cho nên việc tổ chức thực hiện các hoạt động kỹ năng sống cho học sinh tuy đã có hiệu quả nhưng vẫn còn những thiếu sót do sự phân công nhiệm vụ cho bộ phận và các cá nhân tham gia chưa rõ ràng, chi tiết. Trường vẫn chưa quy định rõ về chế độ chính sách cho giáo viên, các bộ thực hiện công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, các tiêu chí đánh giá hoạt động giáo dục kỹ năng sống chưa rõ ràng.
Về công tác bồi dưỡng, tập huấn cho GV, nhân viên: Các ý kiến cho biết đa số GV – CBQL còn thiếu kiến thức và kỹ năng liên quan đến giáo dục kỹ năng sống vì đây không phải là chuyên môn được đào tạo của họ. Các buổi tập huấn, bồi dưỡng cho GV – CBQL đã được tổ chức nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu học tập của tất cả GV – CBQL. Các trường phải tự nghiên cứu, tự tổ chức giao lưu học hỏi kinh nghiệm giữa các GV – CBQL trong trường về giáo dục kỹ năng sống.
Tóm lại, công tác tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên cần được đầu tư hơn nữa vào việc tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho giáo viên, cán bộ quản lý, cần quy định về nhiệm vụ, quyền hạn chế độ chính sách cho GV- CBQL trong công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
2.4.3 Đánh giá của giáo viên – CBQL về công tác chỉ đạo thực hiện hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
Kết quả khảo sát ý kiến về mức độ thường xuyên và hiệu quả của công tác chỉ đạo thực hiện hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương được trình bày ở bảng sau:
Bảng 2.20 Mức độ thường xuyên và hiệu quả của công tác chỉ đạo hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An.
Kết quả nghiên cứu bảng 2.20 cho thấy:
Về mức độ thường xuyên: Tất cả các công việc trong công tác chỉ đạo thực hiện kế hoạch hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương được đánh giá thực hiện thường xuyên, trung bình chung đánh giá là 3,79. Các hoạt động được thực hiện thường xuyên nhất là: Chỉ đạo việc lồng ghép, tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào giảng dạy và các hoạt động của nhà trường ĐTB = 4,02 vị trí thứ nhất; Chỉ đạo thực hiện các chuyên đề, các hoạt động trải nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ĐTB = 3,91 vị trí thứ hai; vị trí thứ ba là hoạt động theo dõi, đôn đốc, động viên GV và nhân viên ĐTB = 3,86. Các hoạt động ít được thực hiện thường xuyên là: Phân bố thời gian dành cho hoạt động giáo dục kỹ năng sống ĐTB = 3,67; Phối hợp với các lực lượng ngoài nhà trường ĐTB = 3,64; Phân bố kinh phí cho hoạt động giáo dục kỹ năng sống ĐTB = 3,57.Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Về mức độ hiệu quả: Việc chỉ đạo hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh được đánh giá mức độ hiệu quả với ĐTB = 3,74. Có những hoạt động được đánh giá hiệu quả cao hơn, có những hoạt động được đánh giá hiệu quả thấp hơn. Cụ thể, ba hoạt động được đánh giá hiệu quả cao hơn cả là: Chỉ đạo việc lồng ghép, tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào giảng dạy và các hoạt động của nhà trường ĐTB = 3,98 xếp vị trí thứ nhất; Chỉ đạo hướng dẫn GV, cán bộ, nhân viên nhà trường thực hiện kế hoạch ĐTB = 3,92 vị trí thứ hai; vị trí thứ ba là Chỉ đạo thực hiện các chuyên đề, các hoạt động trải nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho HS ĐTB = 3,86. Các hoạt động ít hiệu quả là: Phối hợp với các lực lượng ngoài nhà trường ĐTB =3,61; Phân bố thời gian dành cho hoạt động giáo dục kỹ năng sống ĐTB = 3,60 và cuối cùng là hoạt động phân bố kinh phí cho hoạt động giáo dục kỹ năng sống ĐTB =3,54.
Kết quả kiểm nghiệm ANOVA cho thấy không có sự khác biệt ý kiến đánh giá của GV – CBQL tại các trường về mức độ thường xuyên và hiệu quả của các hoạt động trong công tác chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương.
Ngoài ra, để tìm hiểu sâu hơn về thực trạng chỉ đạo hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS các trường công lập thị xã Dĩ An, Bình Dương. Chúng tôi tiến hành các cuộc phỏng vấn GV – CBQL. Kết quả phỏng vấn cho thấy:
- Về công tác thành tập chỉ đạo, đa số ý kiến cho biết trường thành lập ban chỉ đạo hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, ban chỉ đạo thường là hiệu trưởng, các phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn, trưởng các đoàn thể trong nhà trường như: Tổng phụ trách Đội TNTP HCM, Đoàn thanh niên, hội chữ thập đỏ, . . . Ban chỉ đạo sẽ phân công nhiệm vụ cho các cá nhân tùy theo hình thức giáo dục kỹ năng sống. Ví dụ, ban chỉ đạo sẽ giao nhiệm vụ dạy học lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các bộ môn học cho tổ trưởng chuyên môn và cho từng GV; giao cho tổng phụ trách Đội lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh vào các buổi sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt Đội và lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống trong các hoạt động văn nghệ, thể thao của trường; giao cho các GV chủ nhiệm và quản sinh thực hiện lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các sinh hoạt hàng ngày như giờ ra vào trường, giờ ra chơi và các hoạt động khác. Tuy nhiên, trên thực tế ban chỉ đạo này thường không họp thường xuyên mà kết hợp trong các cuộc họp hội đồng nhà trường phân công nhiệm vụ và nhắc nhở, sau các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cũng không họp bàn rút kinh nghiệm, hơn nữa thành viên ban chỉ đạo không phải tất cả đều được tập huấn và có kiến thức chuyên sâu về giáo dục kỹ năng sống.
- Về sự phối hợp giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường, có sự phối hợp giữa các lực lượng trong nhà trường nhưng chưa có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa nhà trường và gia đình trong hoạt động giáo dục kỹ năng sống. Đa số cha mẹ học sinh thường không giáo dục các em được kỹ năng sống và thường như phó mặc cho nhà trường về hoạt động này. Công tác phối hợp hoạt động của nhà trường với cha mẹ học sinh và địa phương chưa được thực hiện tốt. Tất cả làm cho sự phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường chưa chặt chẽ và đồng bộ.
Như vậy, tuy ý kiến đánh giá chung về những hoạt động trong công tác chỉ đạo việc thực hiện hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương là được thực hiện ở mức độ thường xuyên và hiệu quả, nhưng vẫn còn bất cập trong một số hoạt động như phân bố kinh phí, phân bố thời gian cho động giáo dục kỹ năng sống hay chưa làm tốt chỉ đạo các lực lượng xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, sự phối hợp hoạt động của nhà trường với phụ huynh học sinh và địa phương chưa chặt chẽ và hiệu quả,… Qua đó cho thấy, các trường cần đầu tư hơn nữa vào việc xây dựng ban chuyên trách hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, cần có sự kết nối nhiều hơn giữa các lực lượng giáo dục kỹ năng trong và ngoài nhà trường, bên cạnh đó cũng cần đầu tư kinh phí, phụ cấp thêm cho hoạt động giáo dục kỹ năng sống.
2.4.4 Đánh giá của giáo viên – CBQL về công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Kết quả khảo sát về thực trạng kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương được trình bày dưới bảng sau:
Bảng 2.21 Mức độ thường xuyên và hiệu quả của công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương
Kết quả nghiên cứu bảng 2.21 cho thấy:
Về mức độ thường xuyên: Các hoạt động kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương được thực hiện thường xuyên, trung bình chung đánh giá 3,64
Các hoạt động được thực hiện thường xuyên theo thứ tự là: Khen thưởng cá nhân và tập thể có thành tích tốt, nhắc nhở và phê bình cá nhân và tập thể chưa tốt; Xác định nội dung kiểm tra; hoạt động xác định các phương pháp kiểm tra và thực hiện kiểm tra định kỳ. Hoạt động được đánh giá ít thường xuyên nhất là phổ biến các tiêu chí đánh giá.
Về mức độ hiệu quả: Các hoạt động kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương được thực hiện hiệu quả. Các hoạt động được thực hiện hiệu quả theo thứ tự là: Khen thưởng cá nhân và tập thể có thành tích tốt, nhắc nhở và phê bình cá nhân và tập thể chưa tốt; hoạt động thực hiện kiểm tra đột xuất; hoạt động xác định nội dung kiểm tra. Được đánh giá hiệu quả ít nhất hoạt động phổ biến các tiêu chí đánh giá.
Tiến hành kiểm định ANOVA để xem xét có sự khác biệt giữa các trường hay không về mức độ thường xuyên và hiệu quả trong công tác công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, kết quả cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các trường về công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương.
Nhìn chung, công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương được thực hiện thường xuyên và hiệu quả nhưng chưa cao. Vì công tác kiểm tra, đánh giá này còn chưa được nhà trường coi trọng và chưa thực sự có các tiêu chí đánh giá cụ thể cho nên các kết quả kiểm tra, đánh giá còn mang tính hình thức và chưa đi vào chiều sâu.
2.4.5 Đánh giá của giáo viên – CBQL về những yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã được thực hiện thường xuyên và có đem lại hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh thành tích đạt được thì các kết quả phân tích và đánh giá nêu trên cho thấy công tác này vẫn còn những hạn chế nhất định. Cho nên, việc tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An, Tỉnh Bình Dương là việc làm rất cần thiết. Kết quả khảo sát ý kiến về vấn đề này được trình bày ở bảng sau:
Bảng 2.22 Những yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An, Tỉnh Bình Dương.
Kết quả nghiên cứu bảng 2.22 cho thấy:
Về các yếu tố liên quan đến nhận thức của các lực lượng giáo dục: Đánh giá của GV – CBQL cho rằng các yếu tố này ảnh hưởng đến công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các tường công lập thị xã Dĩ An, Bình Dương, ĐTB chung = 3,88.
GV – CBQL đánh giá nhận thức của nhà trường, các cấp quản lý giáo dục về vai trò của giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An, Tỉnh Bình Dương nhất. Nhận thức của các lực lượng xã hội về tầm quan trọng của công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ĐTB = 3,83 là yếu tố ảnh hưởng thứ hai. Sự hiểu biết của cha mẹ học sinh ĐTB = 3,80 là yếu tố ảnh hưởng thứ ba. Tiếp đến là yếu tố sự quan tâm của cha mẹ học sinh ĐTB = 3,76. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Xếp cuối cùng là yếu tố sự đầu tư thời gian và công sức để giáo dục kỹ năng sống cho con của cha mẹ ĐTB = 3,75.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh muốn đạt được hiệu quả cần sự phối hợp của nhiều lực lượng giáo dục, ngoài nhà trường, các cấp quản lý, lực lượng xã hội thì không thể phủ nhận vai trò to lớn của phụ huynh học sinh. Trên thực tế trình độ hiểu biết và nhận thức của phụ huynh học sinh về giáo dục kỹ năng sống còn khác nhau dẫn đến tình trạng có nhiều gia đình thực sự quan tâm đến kỹ năng sống của con, nhưng cũng không ít gia đình hoàn toàn phó mặc cho nhà trường, thậm chí có những hoàn cảnh cha mẹ là tấm gương trái chiều làm cản trở quá trình rèn luyện kỹ năng sống của học sinh.
Về các yếu tố liên quan đến hoạt động quản lý: Đánh giá của GV – CBQL cho rằng các yếu tố này ảnh hưởng đến công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các tường công lập thị xã Dĩ An, Bình Dương, ĐTB chung = 4,05. Trong đó, quy định cho giáo viên và nhân viên về giáo dục kỹ năng sống ĐTB = 4,14 là yếu tố được cho rằng ảnh hưởng lớn nhất. tiếp theo là các yếu tố: Sự phối hợp giữa cha mẹ HS với nhà trường về GDKNS; Sự chỉ đạo về tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh; trình độ, năng lực, kỹ năng của đội ngũ CBQL, GV, NV về giáo dục kỹ năng sống; Nội dung, chương trình giáo dục KNS cho học sinh. Ít ảnh hưởng nhất là yếu tố sự phối hợp với các cơ quan, ban ngành tại địa phương về công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Thực tế quan sát và phỏng vấn cho thấy sự chỉ đạo về việc tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh còn nhiều bất cập, việc xây dựng kế hoạch còn chưa được thực hiện tốt, hầu hết các trường có kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh một cách cụ thể. Nhiều trường còn ít quan tâm đến việc tổ chức, chỉ đạo hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Các văn bản quy định và hướng dẫn các trường tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh chưa được đầu tư, chưa có sự hướng dẫn cụ thể về xác định mục tiêu, nội dung, phân công nhân sự, quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của cá nhân, tập thể tham gia. Công tác bồi dưỡng GV – CBQL chưa được thực hiện nghiêm túc. Việc kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh của các cấp quản lý còn chưa thực hiện nghiêm túc và hiệu quả. Tất cả những yếu tố trên dẫn đến việc quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS tại các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương chưa đạt được hiệu quả cao.
Về các yếu tố liên quan đến các điều kiện quản lý: đa số ý kiến đánh giá cho rằng các yếu tố này đều ảnh hưởng đến công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương ĐTB = 3,69. Yếu tố được cho rằng ảnh hưởng nhất đến công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương là ảnh hưởng từ các phương tiện công nghệ hiện đại.
Kết quả phỏng vấn GV – CBQL cũng cho rằng việc thiếu sân chơi dành cho thanh thiếu niên và ảnh hưởng tiêu cực của các phương tiện công nghệ hiện đại đã có ảnh hưởng tiêu cực đến công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Cần phát triển mạnh hơn nữa “sân chơi” dành cho thanh thiếu niên, cần phối hợp mạnh mẽ giữa nhà trường và phụ huynh học sinh trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, phụ huynh học sinh cần cân nhắc và có biện pháp quản lý phù hợp khi có con sử dụng các phương tiện, dịch vụ mang tính công nghệ cao vì chúng có thể gây ảnh hưởng, cản trở đến việc hình thành, phát triển và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. GV – CBQL đặc biệt nhấn mạnh, GV đã nhận thức được sự cần thiết phải lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các tiết học nhưng thực tế có quá nhiều công việc phải giải quyết trong một tiết với khối lượng kiến thức quá nhiều nên việc lồng ghép vẫn đang gặp những khó khăn nhất định. Ngoài ra, ngoài thời gian đứng lớp, GV còn phải soạn bài giảng, chấm bài, nâng cao năng lực chuyên môn, họp hành, tham gia các cuộc thi, các phong trào của nhà trường, của cấp trên, của đoàn thể, …, GV – CBQL không có nhiều thời gian để đảm trách giáo dục kỹ năng sống. Các giáo viên cho biết họ rất ngại thêm việc và cần sự hỗ trợ tối đa các điều kiện từ nhà trường nếu được giao nhiệm vụ.
Tóm lại, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương hiện nay. Để làm tốt hơn nữa công tác này cần tập trung giải quyết các yếu tố gây cản trở và tiếp tục phát huy hơn nữa các yếu tố ảnh hưởng tích cực đến công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS ở các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
2.4.6 Nhận xét chung về công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Ưu điểm:
Công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS tại các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã được thực hiện đúng quy định. Quy trình tổ chức và các biện pháp tổ chức giáo dục kỹ năng sống được thực hiện thường xuyên và mang tính hiệu quả khá cao. Để đạt được kết quả như vậy là nhờ nhận thức đúng đắn của học sinh THCS và GV – CBQL tại các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương về kỹ năng sống, vai trò của kỹ năng sống đối với học sinh trong thời đại công nghệ 4.0.
Quá trình thực hiện quản lý giáo dục KNS cho học sinh được thực hiện đầy đủ và thường xuyên, các chức năng quản lý được đảm bảo. Dù chưa phải là một môn học chính qui trong nhà trường nhưng hoạt động GDKNS cho học sinh được các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường quan tâm thực hiện. CBQL và GV đều thực hiện nghiêm túc và thể hiện trách nhiệm cao trong việc thực hiện các hoạt động GDKNS cho học sinh, các cấp quản lý có quan tâm, có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện, tạo điều kiện về cơ sở vật chất đầy đủ cho việc tổ chức thực hiện các hoạt động GDKNS cho học sinh.
Hạn chế:
Công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS tại các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương còn những hạn chế trong các chức năng quản lý như trong công tác xây dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo thực hiện, kiểm tra đánh giá việc thực hiện kế hoạch giáo dục kỹ năng sống chưa thật sự thường xuyên và hiệu quả, công tác được thực còn mang tính hình thức, đối phó chưa đạt được chất lượng ở chiều sâu.
Các kế hoạch có được xây dựng tuy nhiên quá trình khảo sát thực trạng và nhu cầu cần GDKNS của học sinh cũng như điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ thách thực trước khi xây dựng kế hoạch còn chưa tốt, dẫn đến kế hoạch không sát với thực tế, không có tính khả thi và khi thực hiện còn phải chỉnh sửa và bổ sung nhiều.
Công tác tổ chức, chỉ đạo thực hiện có thực hiện thường xuyên tuy nhiên giáo dục KNS hiện nay đối với học sinh THCS ở Dĩ An không được tổ chức dạy thành một môn học cụ thể mà tích hợp giáo dục trong các môn học và các hoạt động tập thể do đó quá trình chỉ đạo đôi lúc gặp khó khăn.
Nhận thức của một số ít CBQL, GV, HS về KNS chưa đầy đủ và đúng đắn, dù số lượng này rất ít nhưng cũng gây ảnh hưởng không tốt đến kết quả và chất lượng của các hoạt động GDKNS cho học sinh.
Một điểm hạn chế mà kết quả khảo sát chỉ rõ là trong quá trình kiểm tra giám sát thực hiện kế hoạch GDKNS cho học sinh ở các trường đều chưa thực hiện tốt việc xây dựng các tiêu chí đánh giá, kiểm tra quá trình thực hiện một cách thường xuyên đã chưa được thực hiện nghiêm túc dẫn đến hiệu quả của các HĐGDKNS chưa cao.
Nguyên nhân của thực trạng:
Nhận thức của các lực lượng giáo dục theo khảo sát bằng bảng hỏi kết quả rất tốt tuy nhiên theo kết quả phỏng vấn sâu cán bộ quản lý và giáo viên lại thể hiện sự thiếu quan tâm và nhận thức của các LLGD về GDKNS còn chưa thật sự đúng đắn nguyên nhân được chỉ ra là do các LLGD này chưa được tập huấn, chưa được trang bị đầy đủ và hiệu quả kiến thức về KNS. Văn bản chỉ đạo của các cấp quản lý có ban hành nhưng do các yếu tố chủ quan và khách quan lại không được thực hiện nghiêm túc và hiệu quả. Hơn nữa, do tâm lý của một bộ phận rất ít gia đình học sinh, giáo viên là đặt năng sự quan tâm đến chất lượng giảng dạy, điểm số bài thi, tỉ lệ bộ môn mà chưa quan tâm nhiều đến việc phát triển KNS cho học sinh nên số lượng sinh này còn chưa được tạo điều kiện thuận lợi để tham gia và thụ hưởng các hoạt động GDKNS. Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
Hình thức tổ chức của các hoạt động GDKNS chưa đa dạng, chưa hiệu quả là do năng lực sư phạm của người thực hiện hạn chế, kinh nghiệm tổ chức và quản lý học sinh trong các hoạt động chưa hiệu quả, do kinh phí hạn hẹp, do thiếu sự phối kết hợp với các LLGD khác nhau, . . Bên cạnh đó, theo kết quả phỏng vấn CBQL và GV thì các lớp tập huấn, các lớp học chuyên sâu về KNS dành cho giáo viên, CBQL những người trực tiếp thực hiện HĐGDKNS chưa được tổ chức thường xuyên và hiệu quả dẫn đến năng lực sư phạm của giáo viên, của CBQL đối với HĐGDKNS chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn.
Chưa có tiêu chí thống nhất, cụ thể để đánh giá hiệu quả của các HĐGDKNS được chính thức ban hành bởi các cấp quản lý giáo dục do đó rất khó cho các CBQL trong quá trình kiểm tra đánh giá hoạt động này.
Ngoài ra các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện các hoạt động GDKNS cho học sinh chưa phát huy được hiệu quả tích cực như: kinh phí cho các hoạt động GDKNS cho học sinh ở các trường chưa cao, kinh phí hỗ trợ cho người thực hiện chưa được qui định rõ ràng, các thiết chế văn hóa, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác tổ chức các HĐGDKNS chưa đầy đủ, các sân chơi cho thanh thiếu niên chưa được xây dựng và tổ chức đầy đủ, sự phối hợp giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường chưa thật sự chặt chẽ và hiệu quả.
Nếu xây dựng tốt và thực hiện nghiêm túc, đồng bộ các biện pháp quản lý hoạt đông giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS và đảm bảo các điều kiện thực hiện thì chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương sẽ được nâng cao.
Tiểu kết chương 2
Qua khảo sát thực trạng quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS các trường công lập thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, tác giả nhận thấy như sau:
Kết quả khảo sát thực trạng nhận thức của học sinh THCS và GV – CBQL về kỹ năng sống khá cao; đa số các đối tượng được khảo sát đều nhận thấy sự cần thiết của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh; việc xác dịnh mục đích giáo dục kỹ năng sống của học sinh và GV – CBQL là tương đối chính xác, tuy nhiên vẫn còn những trường hợp chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động này.
Thực trạng giáo dục kỹ năng sống trong các trường THCS được thực hiện thường xuyên và hiệu quả thông qua các hình thức tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các môn học và thông qua các hoạt động ngoại quá, hoạt động ngoài giờ lên lớp. Công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cũng đem lại một số hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế, chưa tạo được nhiều cơ hội cho học sinh rèn luyện và phát triển các kỹ năng sống.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS các trường công lập thị xã Dĩ An, Bình Dương. Trong đó có nhiều yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS.
Những kết quả nổi bật về thực trạng quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS các trường công lập tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương được nêu trên là cơ sở thực tiễn quý giá để đề xuất biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống và chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương Luận văn: Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho HS xã Dĩ An
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Biện pháp quản lý giáo dục cho HS tại xã Dĩ An
Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com
Pingback: Luận văn: Khái quát về giáo dục học sinh tại THCS xã Dĩ An
Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ