Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Đất nước ta có 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc đều có bản sắc riêng của mình được kết tinh cùng với lịch sử trong quá trình hình thành và phát triển. Ngày nay, đứng trước xu thế toàn cầu hóa vừa tạo ra những cơ hội lớn cho sự phát triển mỗi dân tộc, đồng thời cũng xuất hiện không ít những thách thức, khó khăn nguy cơ về sự đồng hóa văn hóa, sự đánh mất bản sắc văn hóa. Do đó, việc khẳng định hệ giá trị đang là một vấn đề có tính cấp thiết, vừa có tính thời sự, vừa có tính lâu dài. Cần phải có chủ trương chính sách cụ thể trong việc giữa gìn và bảo tồn các giá trị truyền thống văn hóa dân tộc. Khẳng định tầm quan trọng của vấn đề, tại Nghị quyết Trung ương V khóa VIII và Nghị quyết Trung ương IX khóa XII, Nghị quyết chuyên đề về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, khẳng định vai trò của văn hóa trong tiến trình lịch sử dân tộc, tương lai đất nước: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội” với mục đích “Làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp” (Phan Ngọc, 2002) Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

Ngày 14/1/2011, Chính phủ đã ban hành nghị định số 05/2011/NĐ – CP về công tác dân tộc, trong đó khẳng định: “Đảm bảo việc giữ gìn tiếng nói, chữ viết, bản sắc dân tộc, phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc” (Nghị quyết TW 5, 1998). Đề cập đến chính sách phát triển giáo dục và đào tạo đối với các dân tộc thiếu số, nghị định 05/2011/NĐ – CP đã ghi: “Tiếng nói, chữ viết và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc được đưa vào chương trình giảng dạy trong các trường phổ thông, trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng, trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học phù hợp với địa bàn vùng dân tộc” (Nghị quyết TW 5, 1998). Về chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa, nghị định cũng đã nhấn mạnh: “Hỗ trợ việc giữ gìn và phát triển chữ viết của các dân tộc có chữ viết. Các dân tộc thiếu số có trách nhiệm gìn giữ văn hóa truyền thống tốt đẹp, tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình phù hợp với quy định của pháp luật” (Nghị quyết TW 5, 1998).

Các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước có nhiệm vụ giảng dạy chương trình phổ thông cấp trung học cơ sở cho học sinh dân tộc trong tỉnh, là cơ sở tạo nguồn cán bộ cho địa phương. Bên cạnh những nội dung giáo dục khác, các trường rất quan tâm đến công tác quản lý giáo dục giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc cho học sinh, đây là một vấn đề quan trọng góp phần không nhỏ vào sự thành công trong sự nghiệp giáo dục chung của các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước.

Hiện nay các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS có số lượng học sinh không nhiều so với các trường THCS khác trong tỉnh, nhưng lại có số lượng học sinh dân tộc đa dạng nhất. Sống trong môi trường nội trú, học sinh có điều kiện tiếp xúc với nhiều luồng văn hóa từ xã hội cả tích cực và tiêu cực, nhiều loại văn hóa có sức lôi cuốn mạnh mẽ với giới trẻ nói chung và học sinh nói riêng, đặc biệt là học sinh dân tộc. Điều này khiến các em dễ xa rời văn hóa truyền thống dân tộc. Nhiều học sinh tự ti về truyền thống văn hóa của dân tộc mình như việc ngại sử dụng trang phục dân tộc mình, thích trang phục theo mốt hiện đại. Học sinh có tư tưởng “ra phố” nên các văn hóa truyền thống bị coi là “quê mùa”. Những lí do trên sẽ làm cho một bộ phận học sinh dân tộc không còn yêu thích và quý trọng truyền thống văn hóa của dân tộc mình, thậm chí muốn giũ bỏ đế tiếp cận văn hóa hiện đại. Bên cạnh đó, mục tiêu và nhiệm vụ chính trị của các trường là “tạo nguồn cán bộ dân tộc chất lượng cho tỉnh để phục vụ công tác cán bộ tại địa phương” nên ngoài việc đào tạo kiến thức văn hóa còn cần giáo dục bản sắc văn hóa, trong đó khơi gợi lòng tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc là yếu tố quan trọng giúp các em phát triển tình yêu đối với quê hương. Văn hóa dân tộc là một điều kiện thuận lợi cho học sinh công tác sau này khi các em đã trưởng thành. Do đó, ngoài nhiệm vụ tăng cường chất lượng trong giảng dạy thì một vấn đề đặt ra đối với các trường là giúp các em luôn biết giữ gìn và phát huy văn hóa của dân tộc mình. Tuy nhiên, việc giáo dục bảo tồn văn hoá trong các nhà trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS của tỉnh Bình Phước hiện nay chưa toàn diện, hệ thống, phù hợp thực tế ở địa phương và chưa đáp ứng yêu cầu của Đảng và Nhà nước.

Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên đây, tôi chọn đề tài: “Quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước” làm luận văn tốt nghiệp khóa học.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>>  Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Quản Lý Giáo Dục

2. Mục đích nghiên cứu Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

Đề tài nghiên cứu lí luận và khảo sát thực trạng quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc, đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc tại các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu

Quản lý  hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh của trường Phổ thông Dân tộc Nội trú.

3.2. Đối tượng nghiên cứu

Quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Hệ thống hóa cơ sở lí luận về quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú.

4.2. Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc tại các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước.

4.3. Đề xuất các biện pháp quản lí hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước.

5. Giả thuyết khoa học Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

Nếu xây dựng được các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh tại trường PTDTNT có tính thực tiễn và khả thi thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục cũng như thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng trong việc giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc trong giai đoạn hội nhập hiện nay.

6. Phạm vi nghiên cứu

6.1. Nội dung

Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng, khảo nghiệm tính

cấp thiết và tính khả thi các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước trên cơ sở thực hiện các nội dung: mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, kiểm tra và đánh giá thông qua các chức năng quản lý: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra, đánh giá.

6.2. Thời gian

Từ năm học 2016 – 2017 đến năm học 2017 – 2018.

6.3. Địa bàn

Các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước (gồm 04 trường: Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS Bù Đăng, Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS Bình Long, Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS Lộc Ninh, Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS Đồng Phú)

6.4. Đối tượng khảo sát là Hiệu trưởng, các phó Hiệu trưởng, tổ trưởng, giáo viên và học sinh của 04 trường nêu trên.

7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

7.1. Phương pháp luận

7.1.1. Quan điểm hệ thống – cấu trúc

Vận dụng quan điểm hệ thống – cấu trúc vào nghiên cứu đề tài, xem xét quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh là một bộ phận của công tác quản lý nhà trường. Quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh là quá trình thực hiện các nội dung quản lý hệ thống với các bộ phận hợp thành: Chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, mục tiêu, nội dung, chức năng, phương pháp, qui trình có liên quan với nhau. Chủ thể quản lý với mục tiêu được xác định trong Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

xây dựng văn hóa nhà trường, thực hiện các nội dung và chức năng quản lý bằng các biện pháp quản lý cụ thể tác động vào đối tượng quản lý để đạt được kết quả.

7.1.2. Quan điểm lịch sử – logic

Quan điểm lịch sử được người nghiên cứu vận dụng để đánh giá thực trạng quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước trong bối cảnh phát triển giáo dục của tỉnh.

Quan điểm logic được người nghiên cứu vận dụng vào việc sắp xếp cấu trúc của đề tài theo logic nghiên cứu: Lý luận là cơ sở, làm nền tảng và soi đường cho việc nghiên cứu thực tiễn; đề tài đặt ra giả thuyết nghiên cứu có tính chất phỏng đoán; việc nghiên cứu thực trạng nhằm tìm kiếm bằng chứng để chứng minh cho giả thuyết; nếu giả thuyết được chứng minh, giả thuyết sẽ trở thành kết luận của đề tài.

7.1.3. Quan điểm thực tiễn

Dựa theo quan điểm này, người nghiên cứu tiến hành khảo sát, phỏng vấn cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học sinh tại các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước để biết được những khó khăn, hạn chế và những biện pháp đã thực hiện quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh cũng như nguyên nhân dẫn đến những khó khăn, hạn chế đó là gì, từ đó đề ra những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh tại các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước.

7.2. Phương pháp nghiên cứu

7.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

Nghiên cứu, phân tích các quan điểm lý luận thể hiện trong các văn kiện của Đảng, văn bản của Chính phủ, văn bản của Bộ GD&ĐT, nghiên cứu tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu chuyên môn liên quan đến nội dung đề tài.

7.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.

Thiết kế bảng hỏi dành cho Hiệu trưởng, các phó Hiệu trưởng, TTCM và một số GV của các trường nhằm khảo sát thực trạng hoạt động giáo dục văn hóa

dân tộc cho học sinh, thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh tại các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước và tính khả thi của các biện pháp đề tài đề xuất.

7.2.3. Nhóm phương pháp xử lý thông tin

Sử dụng phương pháp phân tích nội dung và công thức toán thống kê để xử lý số liệu đã thu được và rút ra từ các số liệu nghiên cứu.

8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

8.1. Ý nghĩa lý luận

Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận việc quản lí hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc nhằm giáo dục ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh ở trường dân tộc nội trú.

8.2. Ý nghĩa thực tiễn

Đề xuất những biện pháp quản lý phù hợp với thực tế và có tính khả thi giúp nâng cao chất lượng công tác quản lí hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh của các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước. Từ đó triển khai kinh nghiệm quản lý cho các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước nói riêng và hệ thống các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú nói chung. Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục cũng như thực hiện có hiệu quả chủ trương của Ðảng trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong giai đoạn hội nhập hiện nay.

9. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày trong 03 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú.

Chương 2: Thực trạng hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước.

Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC VĂN HÓA DÂN TỘC CHO HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ

1.1. Tổng quan lịch sử vấn đề nghiên cứu Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

1.1.1. Trên thế giới

Các nước trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia phát triển có nhiều công trình khoa học về lĩnh vực giáo dục bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc cho mỗi cộng đồng, mỗi tộc người. Phù hợp với sự phát triển kinh tế và đặc điểm vùng văn hoá, không gian văn hoá của mỗi quốc gia, coi trọng giáo dục thế hệ trẻ, đặc biệt là đối tượng học sinh trong các nhà trường.

Thời kỳ xây dựng CNXH ở Liên Xô và một số nước XHCN Đông Âu đã có những nghiên cứu của một số tác giả liên quan đến đề tài trên quan điểm triết học như: Tác giả A.F.Dashdamirov với tác phẩm “Dân tộc và cá nhân” (NXB “ELM” BaKu 1976 – Bản dịch Tiếng Việt). Tác phẩm đề cập tới quan hệ dân tộc và cá nhân, xem xét quan hệ cá nhân với tính cách là chủ thể các quan hệ xã hội. Tác giả có trình bày khái quát về cách nhìn nhận giá trị truyền thống với đặc trưng cơ bản của dân tộc đó là: Đoàn kết dân tộc. Tác giả An-phơ-rét Cô-din-gơ với tác phẩm “Dân tộc trong lịch sử và thời đại ngày nay” (NXB Thông tin lý luận, 1985) sử dụng quan điểm duy vật lịch sử phân tích vấn đề dân tộc, đề cập tới ý thức dân tộc và tình cảm dân tộc, giáo dục truyền thống ở mức độ khái quát. Những tác giả trên tuy không đề cập sâu đến nội dung giáo dục BSVH truyền thống trong nhà trường, nhưng góp phần làm phong phú thêm hiểu biết của chúng ta xung quanh vấn đề giáo dục bảo tồn văn hoá dân tộc theo quan điểm học thuyết Mác – Lênin.

Tại Paris – Cộng hòa Pháp (tháng 5.2010) có Hội thảo quốc tế: “Các trường văn hóa nghệ thuật trong thế giới hội nhập 2010” với chủ đề “Nền văn hóa đa dạng cho sự đa dạng và phát triển”. Tham dự Hội thảo có hơn 70 khách mời là giáo sư, tiến sĩ, các nhà khoa học, lãnh đạo các trường văn hóa nghệ thuật đến từ hơn 20 nước trên thế giới. Mối quan tâm chung và lớn nhất là Hội thảo đã xác định, làm rõ và khẳng định được những vấn đề quan trọng nhất trong thời đại hiện nay, đó là vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập và phát triển. Bảo tồn tính nguyên vẹn của không gian văn hóa các dân tộc, khôi phục, tái hiện và thống nhất các truyền thống văn hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc trên thế giới. Vấn đề giáo dục trong văn hóa và các vấn đề thiết lập chiến lược hiệu quả để bảo tồn văn hóa dân tộc và truyền thống giáo dục trong không gian thế giới.

1.1.2. Trong nước

Dân tộc Việt Nam trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước với 54 dân tộc anh em đã tồn tại và phát triển. Ở mỗi một dân tộc đều có những nét văn hóa riêng. Ở mỗi thời đại, việc đánh giá về những giá trị đó đều có dấu ấn của lịch sử, của thời đại.

Thời kỳ thực dân phong kiến, mặc dù đã có hệ thống trường học do chế độ thực dân xây dựng với mục tiêu của giáo dục đào tạo là phục vụ mục đích xâm lược và chính sách cai trị của chế độ thực dân, vì thế việc giáo dục bảo tồn bản sắc văn hoá các dân tộc nói chung và dân tộc thieu số nói riêng trong trường học là đi ngược lại chính sách nô dịch văn hoá bản địa của chế độ thực dân phong kiến, nên chưa có công trình nào nghiên cứu về giáo dục bảo tồn bản sắc văn hoá, giá trị văn hóa truyền thống trong nhà trường, chỉ có một số công trình nghiên cứu về đặc điểm văn hóa của các dân tộc nhằm mục đích phục vụ cho chính sách “chia để trị”của chế độ thực dân phong kiến. Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên khi truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam đã kết hợp một cách đúng đắn, sáng tạo giữa tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây, giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã rất nhiều lần nhấn mạnh việc giáo dục bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá, các giá trị truyền thống của các dân tộc Việt Nam. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những mục tiêu cơ bản mà cách mạng Việt Nam cần phải đạt được trong lĩnh vực văn hoá là: “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hoá đế quốc, đồng thời phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hoá tiến bộ thế giới để xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính dân tộc, khoa học và đại chúng” (Hồ Chí Minh, 1996, trang 173). Chủ trương trên đây thể hiện rõ ràng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giá trị văn hoá dân tộc. Người cho rằng: “Càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin bao nhiêu thì càng phải coi trọng những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cha ông bấy nhiêu” (Hồ Chí Minh, 1996, trang 554). Người đòi hỏi phải biết giữ gìn vốn văn hoá quý báu của dân tộc, khôi phục những yếu tố tích cực trong kho tàng văn hoá dân tộc, loại bỏ những yếu tố tięu cực trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân. Đây là quan điểm bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc có chọn lọc của Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này là một kho tàng lý luận có tính thực tiễn vô giá để lại cho Đảng và nhân dân ta tiếp tục nghiên cứu vận dụng trong công cuộc hội nhập và thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.

Vào thời kỳ đất nước đổi mới, nhất là những năm gần đây có nhiều công trình, đề tài khoa học, hội thảo khoa học về lĩnh vực văn hóa đã công bố liên quan đến đề tài với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Tác giả Trần Văn Giàu với “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” (NXB KHXH, HN, 1980). Tác giả Phan Huy Lê – Vũ Minh Giang với “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay” (Chương trình KHCN cấp Nhà nước đề tài KX.07-02, gồm 2 tập xuất bản năm 1994 và 1996). Tác giả Trần Ngọc Thêm, với tác phẩm: “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”(NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2001); “Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB GD, 1997’’ đã cung cấp những kiến thức, khái niệm cơ sở nền tảng cho ngành văn hóa học. Tác phẩm “Bản sắc văn hóa Việt Nam” của tác giả Phan Ngọc (NXB Văn học, 2002). Tác giả Trần Mạnh Thường có tác phẩm “Việt Nam văn hóa và giáo dục” (NXB VH-TT, 2010). Với quan điểm dân tộc học, tác giả Phan Hữu Dật có tác phẩm “Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam” (NXB CTQG, HN, 2004). Tác giả Nguyễn Hồng Hà “Văn hóa truyền thống dân tộc với giáo dục thế hệ trẻ” (NXB VHTT, HN, 2001); tác giả Nguyễn Trung Hoà (Trung tâm nghiên cứu phát triển các dân tộc thiểu số và miền núi) với tham luận: “Tri thức bản địa bảo tồn và phát triển chữ, tiếng Thái vùng Tây Bắc”. Bên cạnh đó cũng có đề tài luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Đức Long “Biện pháp quản lý phát triển các hoạt động giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc ở Trung tâm học tập cộng đồng huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La”(2009).

Tóm lại, điểm qua lịch sử vấn đề nghiên cứu có thể khẳng định rằng quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc đã được nhiều nhà khoa học, nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục quan tâm, tìm hiểu và đã đề xuất được nhiều biện pháp quản lý bảo đảm tính khoa học, hiệu quả và khả thi. Tuy vậy, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về quản lý hoạt động giáo dục VHDT ở trường PTDTNT. Kế thừa và phát triển các nội dung những người đi trước đã làm được, đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh các trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở tỉnh Bình Phước” được tổ chức triển khai nghiên cứu với mục đích sẽ góp phần tìm ra các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục VHDT ở các trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở tỉnh Bình Phước nói riêng, cũng như các cơ sở giáo dục trong hệ thống các trường PTDTNT thuộc tỉnh Bình Phước nói chung.

1.2. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

1.2.1. Quản lý

1.2.1.1. Khái niệm “quản lý”

Trong khoa học quản lý, khái niệm “quản lý” được coi là một trong những khái niệm công cụ đặc biệt quan trọng. Vì thế, các nhà khoa học quản lý đã đưa ra nhiều khái niệm về quản lý. Tùy theo cách tiếp cận, quản lý được hiểu với nhiều cách khác nhau như sau:

Theo Fayol: “Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức đều có, nó gồm năm yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát ấy” (Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc, 2012, trang 31).

Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó như thế nào, bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất (William – Tay Lor) (Phạm Minh Hạc, 2005).

Theo Đặng Quốc Bảo (2010, trang 6) thì: “Quản lý bao gồm: Quản có nghĩa là duy trì ổn định, lý là làm cho phát triển. Vậy quản lý là làm cho ổn định và phát triển” .

Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2003, trang 9): “Quản lý là sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý), trong tổ chức – nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”. Cũng theo Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2010, trang 9): “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra”.

Theo Phạm Viết Vượng (2003), “Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân hướng đến mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan”.

Các tác giả Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo (2006, trang 12) cho rằng “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra” .

Tóm lại: Quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức, thông qua công cụ và phương pháp quản lý nhằm làm cho tổ chức đó vận hành thuận lợi và đạt được mục tiêu đề ra.

Các khái niệm trên về “quản lý” được trình bày khác nhau về ngôn từ, cách diễn đạt song chúng có những đặc điểm chủ yếu sau: Hoạt động quản lý là những tác động có tính hướng đích (sự tác động có tổ chức, có mục đích…) của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý bằng các chế định xã hội, bằng tổ chức nguồn nhân lực, tài lực và vật lực, phẩm chất, uy tín của cơ quan quản lý hoặc người quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục đích trong điều kiện môi trường luôn biến động; Hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội; Hoạt động quản lý phải phù hợp với quy luật khách quan; Hoạt động quản lý là những tác động phối hợp nỗ lực của các cá nhân nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức.

1.2.1.2. Chức năng quản lí Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

Quản lý là một quá trình mà chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý- trong một tổ chức – bằng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo kiểm tra đánh giá, dựa trên những nguồn lực và những điều kiện có thể nhằm đạt được mục đích của tổ chức.

Theo Đặng Quốc Bảo (2010, trang 9) thì quản lý có 4 chức năng: “Kế hoạch hóa – Tổ chức – Chỉ đạo – Kiểm tra”. Có thể khái quát 4 chức năng như sau:

Kế hoạch hóa là quá trình xác định mục tiêu và quyết định những biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu. Thực chất của kế hoạch hóa là đưa toàn bộ những hoạt động vào công tác kế hoạch với mục tiêu, biện pháp, bước đi cụ thể và ấn định tường minh các nguồn lực, điều kiện để thực hiện mục tiêu.

Tổ chức là sắp xếp, sắp đặt một cách khoa học những yếu tố, những con người, những hoạt động thành một hệ toàn vẹn nhằm đảm bảo cho chúng tương tác với nhau một cách hợp lý.

Chỉ đạo là chỉ dẫn, động viên, điều chỉnh và phối hợp các lực lượng để thực hiện kế hoạch đã đề ra.

Kiểm tra là chức năng dùng để kiểm tra trạng thái của hệ thống, kiểm tra kết quả thực hiện kế hoạch so với mục tiêu đề ra, kiểm tra còn nhằm phát hiện sai sót để kịp thời uốn nắn, sửa chữa trong quá trình thực hiện kế hoạch.

Thông tin được coi là sợi dây liên kết cả 4 chức năng của quản lý.

1.2.2. Quản lí giáo dục

Quản lý giáo dục chính là một quá trình tác động có định hướng của nhà quản lý giáo dục (chủ thể) trong việc vận hành những nguyên lý, phương pháp … chung nhất của khoa học quản lý vào lĩnh vực giáo dục nhằm đạt những mục tiêu giáo dục đề ra. Chủ thể quản lý là trung tâm thực hiện các tác động có mục đích của giáo dục, trung tâm ra quyết định điều hành và kiểm tra các hoạt động của hệ thống giáo dục theo mục tiêu đề ra. Đối tượng quản lý giáo dục bao gồm nguồn nhân lực của giáo dục, cơ sở vật chất kĩ thuật của giáo dục và các hoạt động có liên quan đến việc thực hiện chức năng của giáo dục, đó chính là những đối tượng chịu sự tác động của cán bộ quản lý (chủ thể) để thực hiện và biến đoi phù hợp với ý chí của chủ thể quản lý đã đề ra.

Xét về cấp độ có thể hiểu khái niệm quản lí giáo dục như sau: Ở cấp vĩ mô, “quản lí giáo dục là hoạt động tự giác của chủ thể quản lí nhằm huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát,… một cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội” (Trần Kiểm, 2008, trang 10). cấp vi mô, “quản lí giáo dục thực chất là những tác động của chủ thể quản lí vào quá trình giáo dục (được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường” (Trần Kiểm, 2008, trang 12).

1.2.2.1. Quản lí nhà trường Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

Theo các tác giả P.V.Zimin, M.I.Kônđakôp, N.I.Xaxerđôtôp: “Quản lý nhà trường là hệ thống xã hội sư phạm chuyên biệt, hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý lên tất cả các mặt của đời sống nhà trường để đảm bảo sự vận hành tối ưu xã hội – kinh tế và tổ chức sý phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ đang lớn lên” (Trần Kiểm, 2008, trang 12).

Phạm Viết Vượng (2001, trang 205) cho rằng: “Quản lý nhà trường là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục khác, huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao giáo dục và đào tạo trong nhà trường”.

Theo Phạm Minh Hạc (2002, trang 73) thì “Quản lý trường học là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lí giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh”.

Như vậy, quản lý nhà trường chính là quản lý giáo dục trong một phạm vi xác định đó là đơn vị giáo dục là nhà trường. Do đó quản lý nhà trường là vận dụng tất cả các nguyên lý chung của quản lý giáo dục để đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường theo mục tiêu đào tạo. Bản chất quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy và học để đạt được mục tiêu giáo dục đề ra.

Quản lý nhà trường là một hoạt động thực hiện trên cơ sở những quy luật chung của quản lý, đồng thời có những nét riêng mang tính đặc thù của giáo dục. Quản lý nhà trường được quy định với bản chất lao động sư phạm của người giáo viên, bản chất của quá trình dạy học và quá trình giáo dục, trong đó mọi thành viên của nhà trường vừa là chủ thể sáng tạo chủ động vừa là đối tượng quản lý. Sản phẩm của các hoạt động trong nhà trường là nhân cách người học sinh được hình thành trong quá trình học tập, tu dưỡng và rèn luyện, phát triển theo yêu cầu phát triển của xã hội. Vì vậy, thực chất quản lý giáo dục là tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động trong nhà trường vận hành theo đúng mục tiêu đề ra. Trường học là một thành tố của hệ thống giáo dục nên quản lý trường học cũng được hiểu như một bộ phận của quản lý giáo dục.

1.2.2.2. Quản lí nhà trường phổ thông dân tộc nội trú Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

1.2.2.2.1. Trường PTDTNT

Khái niệm

Trường PTDTNT là loại hình trường chuyên biệt nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân. Nhà nước thành lập trường PTDTNT nhằm đào tạo các bậc học cho đối tượng con em các dân tộc thiểu số, con em các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện KT- XH khó khăn, là nơi đào tạo cán bộ cho các vùng dân tộc (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2016).

Trường PTDTNT có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển KT- XH và củng cố an ninh quốc phòng ở các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa.

Trường PTDTNT là loại trường chuyên biệt mang tính phổ thông, dân tộc và nội trú. Trường PTDTNT còn là nơi để thực hiện chế độ chính sách của Đảng, nhà nước đối với học sinh phố thông dân tộc thiểu số một cách khá đầy đủ và toàn diện nhất.

Nhiệm vụ của trường PTDTNT

Trường PTDTNT ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ như các trường phố thông bình thường còn phải thực hiện các nhiệm vụ sau [Điều 3 – Quy chế Tổ chức và hoạt động của trường Phổ thông dân tộc nội trú (Ban hành kèm theo Thông tư số 01/2016/TT-BGDĐT ngày 15/01/2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)]:

  • Tuyển sinh đúng đối tượng và chỉ tiêu được giao hằng năm.
  • Giáo dục học sinh về chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước; bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam; ý thức tham gia phục vụ phát triển kinh tế – xã hội ở vùng khó khăn sau khi tốt nghiệp.
  • Giáo dục kỹ năng sống và kỹ năng hoạt động xã hội phù hợp với học sinh PTDTNT.
  • Giáo dục lao động, hướng nghiệp và dạy nghề truyền thống phù hợp với năng lực của học sinh và yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
  • Tổ chức công tác nội trú cho học sinh, bảo đảm 100% học sinh của nhà trường được ăn, ở nội trú.
  • Theo dõi, thống kê số lượng học sinh đã tốt nghiệp hằng năm của nhà trường tiếp tục học ở cấp học, trình độ cao hơn hoặc trở về địa phương tham gia công tác, lao động sản xuất nhằm đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.

1.2.2.2.2. Hệ thống trường PTDTNT

Theo Điều 4 – Quy chế Tổ chức và hoạt động của trường Phổ thông dân tộc nội trú (Ban hành kèm theo Thông tư số 01/2016/TT-BGDĐT ngày 15/01/2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã ban hành:

Hệ thống trường PTDTNT bao gồm:

  • Trường PTDTNT cấp huyện đào tạo cấp trung học cơ sở được thành lập tại các huyện miền núi, hải đảo, vùng dân tộc;
  • Trường PTDTNT cấp tỉnh đào tạo cấp trung học phổ thông được thành lập tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Trong trường hợp cần thiết, để tạo nguồn cán bộ là con em các dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế – xă hội đặc biệt khó khăn, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) có thể giao cho trường PTDTNT cấp huyện đào tạo cả cấp THPT; bộ chủ quản có thể giao cho cơ sở giáo dục trực thuộc có đào tạo học sinh hệ phổ thông dân tộc nội trú đào tạo cả hệ dự bị đại học.

1.2.2.2.3. Quản lí nhà trường phổ thông dân tộc nội trú Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

Hệ thống trường PTDTNT thuộc hệ thống trường phổ thông công lập, vì thế nên việc quản lý nhà trường phổ thông DTNT được thực hiện theo sự phân cấp quản lý như sau:

  • Sở giáo dục và đào tạo giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lí các trường PTDTNT cấp tỉnh và trường PTDTNT cấp huyện (có cấp THPT).
  • Phòng giáo dục và đào tạo giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lí các trường PTDTNT cấp huyện đào tạo cấp THCS.
  • Cơ sở giáo dục có hệ PTDTNT trực thuộc bộ do bộ chủ quản quản lý (bộ chủ quản quản lý về tổ chức, nhân sự, tài chính; sở giáo dục và đào tạo quản lý về chuyên môn đối với cơ sở giáo dục đóng trên địa bàn có đào tạo cấp THPT; phòng giáo dục và đào tạo quản lí chuyên môn đối với cơ sở giáo dục đóng trên địa bàn chỉ đào tạo cấp THCS) (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2016).

Quản lí các trường PTDTNT nhằm tổ chức và điều khiển các hoạt động của nhà trường theo đúng kế hoạch và đạt được kết quả tốt nhất, cụ thể:

Mục tiêu: Nhằm tổ chức và điều khiển các hoạt động của nhà trường theo đúng kế hoạch và đạt được kết quả cao nhất, đặc biệt là các hoạt động giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

Nội dung: Thực hiện chương trình của trường phổ thông; Tổ chức hoạt động nội trú và nuôi dưỡng học sinh nội trú; Tổ chức hoạt động nội trú gồm: Hoạt động lao động, văn hóa, thể thao. Cụ thể: Lao động công ích, sinh hoạt văn nghệ, thể dục thể thao, các hoạt động theo chủ đề, chủ điểm, tham quan du lịch, lễ hội, tết dân tộc, giao lưu văn hóa và các hoạt động xã hội khác nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, xóa bỏ các tập tục lạc hậu, góp phần phát triển và hoàn thiện nhân cách học sinh; Nuôi dưỡng học sinh nội trú: hoạt động nuôi dưỡng bao gồm tổ chức bếp ăn tập thể đảm bảo dinh dưỡng theo đúng chế độ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, chăm sóc sức khỏe học sinh. Hoạt động nuôi dưỡng thực hiện công khai dân chủ, tôn trọng phong tục tập quán tiến bộ của các dân tộc (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2016).

1.2.3. Văn hóa dân tộc

1.2.3.1. Văn hóa

Văn hóa là gì? Câu hỏi được đặt ra từ lâu đối với tư duy của nhân loại, điều này chứng tỏ văn hóa đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, văn hóa được như là một cái gì thiêng liêng đối với mỗi con người, linh hồn của dân tộc. Với tư cách là một trong những hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, văn hóa là một khái niệm có nội hàm rộng, vì thế nó đã tạo nên diện mạo phong phú và đa dạng của đời sống tinh thần của con người, thời đại. Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

Văn hóa được chọn làm đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, trở thành thuật ngữ đa nghĩa, trên thế giới hiện nay có hàng trăm cách định nghĩa khác nhau về văn hóa và nhiều cách tiếp cận khác nhau:

Một số quan niệm về văn hóa ở phương Đông và phương Tây – Ở phương Đông: Thế kỷ VI -Trước Công Nguyên, Khổng Tử đã dùng thuật ngữ “Văn” để chỉ những giá trị đẹp của cuộc sống, trong sự giao tiếp, ứng xử của con người với con người. Cái đẹp ấy không chỉ là cái đẹp ở hình thức, mà nó bao hàm cả cái đúng và cái tốt. “Hoá” nghĩa là biến cải, biến đổi. Và “Văn hoá” là biến cải, biến đổi, bồi đắp cho đẹp ra, hướng con người đến cái đẹp và đạt tới chân – thiện – mỹ. Văn hóa sớm xuất hiện trong ngôn ngữ ngay từ Trước Công Nguyên, thời kỳ Tây Hán, trong bài “Chi Vũ” sách “Thuyết Uyển”, Lưu Hướng đã viết: “Bậc thánh nhân trị thiên hạ, trước dùng văn đức rồi sau mới dùng vũ lực” văn hóa được dùng để đối lập với vũ lực. Văn hóa phải được hình thành trong môi trường lành mạnh, ở ðó con người có những cách ứng xử vãn minh, vãn hóa mang tính giáo dục cao.

Vào năm 1943, Hồ Chí Minh đã nêu ra một định nghĩa về văn hoá: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.

Toàn bộ các sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tong hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (Hồ Chí Minh, 2009).

Quan niệm về văn hóa theo Trần Ngọc Thêm (1995, trang 10): “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động và thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”. Văn hóa được đề cập khá toàn diện và sâu sắc, văn hóa là một chỉnh thể, vừa mang tính đa dạng vừa là sự thống nhất của nhiều thành tố, thông qua hoạt động thực tiễn của con người những giá trị đó được kết tinh thành văn hóa. Tác giả khẳng định, văn hóa trước hết phải có tính hệ thống để phân biệt với tính tập hợp. Từ đó, tạo nên mối liên hệ giữa các hiện tượng thuộc về văn hóa, những quy luật về sự hình thành và phát triển của nó.

Trong định nghĩa trên, tác giả còn cho ta thấy tính “giá trị” của văn hóa. Tính giá trị được nhấn mạnh để phân biệt với phi giá trị. Sự phân biệt đó cho phép ta có được cái nhìn biện chứng khách quan trong việc đánh giá tính giá trị của sự vật hiện tượng, tránh được sự phủ định sạch trơn hay xu hướng cực đoan trong việc tìm hiểu văn

Trong tác phẩm: Việt Nam văn hoá sự cương, giáo sư Đào Duy Anh đã đưa ra quan niệm về văn hoá: “Hai tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thế nói rằng: Văn hoá tức là sinh hoạt” (Đào Duy Anh, 1992).

Theo Phan Ngọc (2002) định nghĩa: “Văn hoá là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hoá theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hoá dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của cá nhân hay tộc người khác”.

1.2.3.2. Bản sắc văn hóa dân tộc Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

Thuật ngữ “bản sắc” thường được sử dụng gắn với văn hóa thành cụm từ “Bản sắc văn hoá” và có thể hiểu bản sắc văn hoá là hệ thống các giá trị đặc trưng bản chất của một nền văn hoá được xác lập, tồn tại, phát triển trong lịch sử và được biểu hiện thông qua nhiều sắc thái văn hóa. Trong bản sắc văn hóa, các giá trị đặc trưng bản chất là cái trừu tượng, tiềm an, bền vững; còn các sắc thái biểu hiện của nó có tính tương đối cụ thể, bộc lộ và tính biến đổi.

“Bản sắc văn hoá dân tộc” là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được dân tộc sáng tạo ra trong lịch sử, là những nét độc đáo rất riêng của dân tộc này so với dân tộc khác. Xét về bản chất, bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện tinh thần, linh hồn, cốt cách, bản lĩnh của một dân tộc. Đây được coi là “dấu hiệu khác biệt về chất” giữa dân tộc này với dân tộc khác. Tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp ở Venise, F.Mayor – nguyên Tổng giám đốc UNESCO đã đưa ra một định nghĩa khái niệm văn hóa trên cơ sở nhấn mạnh tính đặc thù của bản sắc văn hoá dân tộc: “Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động” (Từ điển bách khoa Việt Nam, 2005, trang 798). Trong quan hệ quốc tế, bản sắc văn hóa dân tộc được xem như cái “thẻ căn cước”, là cốt cách của mỗi dân tộc thể hiện trên mọi phương diện.

Nhà thơ Tố Hữu đã khẳng định: “Trong đồng bào các dân tộc thiểu số, bản sắc văn hóa biểu hiện đậm đà nhiều mặt. Dân tộc nào cũng có tinh thần dũng cảm trong sản xuất và chiến đấu, tính chân thật thuỷ chung, lòng thương người mến khách. Ở nhà sàn, ăn cơm nếp, uống rượu cần. Đội mũ, khăn, áo, quần nhiều màu sắc, đàn hát, nhảy múa đông người… Những đức tính và nét sinh hoạt đó thường nổi bật trong đời sống của đồng bào ở miền núi” (Nông Quốc Chấn, Hoàng Tuấn Cư, Lò Giàng Páo, 1996, trang 26).

Nhìn nhận về giá trị bản sắc văn hoá Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam đã tổng kết tại Văn kiện Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình làng xã – Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống. Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo” (Văn kiện Hội nghị Trung ương khóa VIII, trang 7).

Tiến trình lịch sử phát triển của cộng đồng dân tộc Việt Nam cho thấy các giá trị bản sắc văn hóa của từng tộc người, từng dân tộc không phải ngẫu nhiên được hình thành mà đó là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh địa lý, lịch sử và chính trị. Các giá trị cốt lõi của bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc đã làm nên BSVH Việt Nam. Bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo thành những nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam.

Tóm lại BSVH dân tộc là một khái niệm không dễ xác định, bởi vì BSVH dân tộc có nhiều lớp khái niệm với các tầng nội hàm khác nhau. Song chúng ta có thể khẳng định rằng BSVH dân tộc là hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mĩ và lối sống của dân tộc tạo thành những đặc trưng tiêu biểu, tiến bộ, riêng biệt, không thể trộn lẫn nền vãn hoá của dân tộc này với dân tộc khác. BSVH dân tộc biểu hiện cho sức sống, sự sáng tạo và phát triển của dân tộc ðó.

1.2.4. Giáo dục văn hóa dân tộc Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

Giáo dục văn hóa dân tộc là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch nhằm bồi dưỡng cho học sinh phẩm chất, năng lực, trí thức cần thiết về giá trị vật chất và tinh thần, kinh nghiệm ứng xử, lối sống, ngôn ngữ của một dân tộc hướng tới sự phát triển toàn diện của người học trong đời sống văn hóa xã hội của chính dân tộc đó. Chính vì vậy, quan tâm đến việc giáo dục văn hóa dân tộc là một chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước trong thời gian qua.

Các nội dung giáo dục văn hóa dân tộc: Tình yêu quê hương, yêu dân tộc, đất nước, yêu gia đình. Khiêm tốn, thật thà, cần cù, sáng tạo, có ý chí vươn lên, Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán dân tộc, dạy chữ viết, tiếng nói của dân tộc cùng với tiếng phổ thông. Quan niệm đúng đắn về tình bạn, tình yêu, bảo vệ sức khỏe, bảo vệ môi trường. Phòng tránh các tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, văn hóa ứng xử, giao tiếp.

Các hình thức giáo dục văn hóa dân tộc: thông qua các giờ dạy văn hóa trên lớp, các bài giảng môn Giáo dục công dân, các buổi sinh hoạt trên lớp và sinh hoạt Đội, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi, giải trí, các hoạt động tình nguyện, từ thiện, dã ngoại, tham quan, tìm hiểu phong tục, tập quán của các dân tộc và các hoạt động khác.

Các phương pháp giáo dục văn hóa dân tộc: Giáo dục lồng ghép trong các môn học, tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Nêu gương cá nhân, tập thể có hành vi tốt hay chưa tốt trong hoạt động giữ gìn văn hóa dân tộc. Nhắc nhở, động viên, khen thưởng, kỷ luật kịp thời. Thông qua tổ chức các cuộc thi, tìm hiểu theo chủ đề. Giao lưu văn hóa giữa học sinh các dân tộc với nhau. Tìm hiểu bản sắc văn hóa, phong tục, tập quán của các dân tộc ở địa phương. Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia, là vấn đề tồn tại hay không tồn tại của từng dân tộc. Văn hóa dân tộc Việt Nam là tài sản vô giá, tinh hoa của các cộng đồng các dân tộc chung sống trên đất nước Việt Nam; là linh hồn, cốt cách của dân tộc, được hình thành, phát triển, tôi luyện, thử thách qua hàng ngàn năm xây dựng và bảo vệ đất nước; với bao biến cố thăng trầm của lịch sử, VHDT Việt Nam vẫn trường tồn và phát triển, tạo tiền đề, nền tảng tinh thần, sức mạnh để dân tộc ta vững bước, tự tin, chủ động hội nhập, giao lưu văn hóa trong khu vực và trên toàn thế giới.

Giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh trường PTDTNT

Nhiệm vụ vận dụng các giá trị văn hóa để giáo dục học sinh là mục tiêu lớn của ngành giáo dục đã được khẳng định trong luật giáo dục: “thừa kế và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.” (Luật Giáo dục, 2005, trang 2).

Trường PTDTNT có chức năng giáo dục VHDT cho học sinh dân tộc nhằm đảm bảo quyền của học sinh trong giáo dục. Nhờ có giáo dục VHDT, học sinh của trường PTDTNT được phát triển toàn diện, giữ được bản sắc văn hóa dân tộc, trở thành những công dân có tri thức, có văn hóa của dân tộc mình. Giáo dục VHDT trong trường PTDTNT còn góp phần quan trọng vào thực hiện nhiệm vụ bảo tồn và phát triển VHDT (Đặng Quốc Bảo và Nguyễn Thị Thu Huyền, 2013, trang 243).

1.2.5. Quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc ở trường Phổ thông dân tộc nội trú

GD VHDT là cách để bảo tồn và phát triển bản sắc dân tộc, truyền thống VHDT. Con đường để VHDT được bảo tồn và phát triển tốt nhất là thông qua giáo dục. Bằng con đường giáo dục, các giá trị về vật chất và tinh thần, các kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, kinh nghiệm ứng xử, lối sống, tâm thức, ngôn ngữ… của môt dân tộc được truyền dạy từ thế hệ này sang thế hệ khác môt cách cơ bản và hiêu quả nhất.

Trong các nhà trường, GD VHDT nhằm giúp người học nhân thức các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc mình, có ý thức về dân tộc, về những giá trị tinh thần và vật chất của dân tộc, về lịch sử, xã hội, về các kinh nghiệm trong cuộc sống; hình thành ở người học những tình cảm tốt đẹp về VHDT, có tình yêu thương gắn bó với cộng đồng, có ý thức trách nhiệm đối với sự phát triển của quê hương, biết tôn trọng , yêu quý, giữ gìn và phát huy VHDT truyền thống của dân tộc; hình thành nhân cách con người mới có tri thức và năng lực chuyên môn, đáp ứng công cuộc phát triển kinh tế – xã hội ở các vùng dân tộc và miền núi.

Quản lý hoạt động giáo dục văn hoá dân tộc là công việc rất quan trọng trong việc giữ gìn văn hóa dân tộc giúp người học nâng cao nhận thức về công tác bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp các dân tộc thiểu số nhằm mục đích nâng cao dân trí, bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc; tích cực tuyên truyền để mở rộng và đa dạng hóa loại hình dạy chữ, dạy tiếng dân tộc trong các nhà trường đặc biệt là các trường PTDTNT. Hoạt động GD VHDT có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp “trồng người”, nhưng cho đến nay, vấn đề này trong các cơ sở giáo dục vẫn mang tính tự phát. Vì thế quản lý hoạt động GD VHDT là quản lý các hoạt động hình thành trong người học lòng tự hào dân tộc, mong muốn lưu giữ, làm đẹp thêm truyền thống, văn hoá bản, làng, quê hương, đất nước, đóng góp sức mình vào quá trình phát triển giá trị VHDT.

1.3. Lý luận về hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh trường Phổ thông dân tộc nội trú

1.3.1. Đặc điểm học sinh trường Phổ thông dân tộc nội trú

Ở các trường PTDTNT đối tượng giáo dục là con em các dân tộc thiểu số, con em các dân tộc định cư lâu dài ở các vùng có điều kiện KT- XH đặc biệt khó khăn. Phần lớn các em đều ngoan, biết nghe lời khuyên bảo dạy dỗ của thầy cô và người lớn tuổi. Chăm chỉ cần cù trong lao động sản xuất, ham thích các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao và các hoạt động tập thể khác.

Hầu hết học sinh là người dân tộc thiểu số sinh ra và lớn lên ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, nơi điều kiện kinh tế xă hội cṇ nhiều khó khăn, giáo dục chưa phát triển. Năng lực nhận thức của học sinh không đồng đều, khả năng tư duy còn hạn chế, nhất là ở lớp 6.

Các phong tục tập quán lạc hậu cũng có ảnh hưởng xấu nhất định đến nề nếp sinh hoạt của học sinh như: tác phong chậm chạp, thích uống rượu, hút thuốc lá, yêu và kết hôn sớm, không ham mê học văn hóa… Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

Với đặc điểm đối tượng như trên đã cho thấy các em học sinh dân tộc khi hòa nhập với cuộc sống tập thể còn nhiều bỡ ngỡ, lúng túng, nhiều mặt chưa có mục tiêu phấn đấu, đó chính là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến động lực học tập, rèn luyện của các em. Vì vậy, ngoài việc đáp ứng yêu cầu quản lý HS nội trú, BLĐ, GV ở các trường PTDTNT còn phải đáp ứng được các năng lực khác như: có vốn hiểu biết về tâm lí, ngôn ngữ, phong tục, tập quán đặc trưng của mỗi dân tộc, mỗi địa phương các em sinh sống, biết khơi dậy cho các em lòng tự hào dân tộc và hướng phấn đấu đúng đắn. Giáo dục cho các em tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đặc biệt việc giúp các em khắc phục, sửa chữa những phong tục tập quán, thói quen lạc hậu là điều gặp nhiều khó khăn. Điều đó đặt ra cho công tác quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh ở các trường PTDTNT phải phù hợp với đặc thù của trường nội trú, với công tác quản lý và giáo dục của nhà trường.

1.3.2. Đặc điểm cụ thể về giáo dục văn hóa dân tộc của học sinh trường Phổ thông dân tộc nội trú

Trong quá trình GD nói chung và GDVHDT nói riêng cho HS ở trường PTDTNT có những đặc điểm nổi bật, đó là:

Mỗi cá nhân, mỗi nhóm học sinh trường PTDTNT là đại diện văn hóa của một vùng quê, một dân tộc. Trường PTDTNT tạo điều kiện để học sinh được tiếp xúc và thể hiện các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình để bảo tồn và phát triển những giá trị tốt đẹp. Nhờ được tiếp xúc thường xuyên với các hoạt động văn hóa và thông qua các hoạt động văn hóa, học sinh trường PTDTNT vẫn là người con của dân tộc mình, đồng thời còn là người hiểu biết và tôn trọng bản sắc văn hóa dân tộc anh em.

Giáo dục văn hóa dân tộc là cách để bảo tồn và phát triển truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc. Con đường để VHDT được bảo tồn và phát triển tốt nhất là thông qua giáo dục. Trong trường PTDTNT, giáo dục VHDT là nhằm giúp học sinh người dân tộc nhận thức được giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình, có ý thức về dân tộc, về những giá trị tinh thần và vật chất của dân tộc, về lịch sử, về xã hội, các kinh nghiệm trong cuộc sống; hình thành ở học sinh những tình cảm tốt đẹp về VHDT, có tình yêu thương gắn bó với cộng đồng, có ý thức trách nhiệm với sự phát triển của quê hương, biết tôn trọng, yêu quý, giữ gìn và phát huy bản sắc truyền thống của dân tộc; Hình thành nhân cách con người mới có trí thức và năng lực chuyên môn, đáp ứng công cuộc phát triển – kinh tế xã hội ở các dân tộc miền núi. Cho nên giáo dục cho học sinh trong trường PTDTNT không thể chỉ quan tâm đến giáo dục kiến thức, kỹ năng của các môn học mà bỏ qua hoặc coi nhẹ phần giáo dục và bảo tồn các giá trị VHDT.

Theo Đặng Quốc Bảo và Nguyễn Thị Thu Huyền (2013): Trong chức năng quy định, trường PTDTNT có nhiệm vụ giáo dục học sinh về VHDT. Giáo dục VHDT nằm trong mục tiêu giáo dục toàn diện của trường PTDTNT, nhằm giáo dục học sinh vừa có phẩm chất văn minh, hiện đại, vừa có phẩm chất dân tộc, truyền thống, trở thành người cán bộ đáp ứng nhu cầu xây dựng công cuộc mới cho quê hương, cho cộng đồng vùng dân tộc. Thực hiện chức năng quy định, trường PTDTNT triển khai nhiệm vụ giáo dục VHDT là một nhiệm vụ chính thức và bắt buộc.

Cũng theo Đặng Quốc Bảo và Nguyễn Thị Thu Huyền (2013): Việc phát triển giáo dục VHDT trong trường PTDTNT, cùng với các nội dung giáo dục đặc thù khác làm nổi rõ tính chất dân tộc và nội trú của loại hình trường này. Ngoài ra nó cũng thiết thực góp phần vào việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đồng thời góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số, về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Vì vậy giáo dục VHDT cho học sinh dân tộc cần linh hoạt, đa dạng, phong phú. Kết hợp hài hòa giữa các bộ môn văn hóa và hoạt động ngoài giờ lên lớp, tạo một không khí thân thiện cởi mở, không khiên cưỡng, gò bó.

1.4. Lý luận về chức năng quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh trường Phổ thông dân tộc nội trú Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

1.4.1. Kế hoạch hóa việc giáo dục văn hóa dân tộc

Với đặc trưng là trường PTDTNT, công tác quản lý kế hoạch thực hiện GDVHDT ở trường PTDTNT là hết sức cần thiết. Để xây dựng kế hoạch tổ chức các hoạt động GDVHDT ở trường PTDTNT có tính khả thi cần thực hiện tốt các nội dung sau:

  • Đảm bảo xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục hàng năm, từng học kỳ của nhà trường;
  • Trên cơ sở kế hoạch tổng thể của nhà trường, tiến hành xây dựng kế hoạch GDVHDT thông qua các môn học, các buổi sinh hoạt trên lớp, các hoạt động văn hóa – văn nghệ – thể dục thể thao – vui chơi – giải trí; các cuộc thi tìm hiểu về BSVH, phong tục, tập quán của các dân tộc.

Trên cơ sở các quy định cụ thể với từng đối tượng, từng nhiệm vụ cụ thể trong GDVHDT, nhà trường cần chỉ rõ mục tiêu các hoạt động, lực lượng tham gia, thời gian tiến hành và cách thức nhận diện kết quả đạt được. Bên cạnh đó mỗi nhà trường cần xây dựng kế hoạch và ban hành các qui chế, qui định có tính pháp quy để thúc đẩy hoạt động GDVHDT đạt hiệu quả. Làm tốt việc xây dựng kế hoạch giúp cho cán bộ, giáo viên, học sinh căn cứ vào đó mà thực hiện nhiệm vụ và là căn cứ để người quản lý kiểm tra việc thực hiện. Từ đó có sự điều chỉnh, khen – chê kịp thời.

1.4.2. Tổ chức các hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc

Trong công tác quản lý, muốn đạt hiệu quả tốt thì cũng cần có phương pháp tổ chức tốt. Vì đặc điểm việc GDVHDT diễn ra trong nhà trường cho nên cần lựa chọn cách thức truyền tải cho phù hợp. Đó là: Giáo dục lồng ghép qua các môn học: vận dụng một phần sản phẩm văn hóa của các dân tộc đã có sự lựa chọn, điều chỉnh đưa vào trong giờ dạy hoặc trong hoạt động ngoài giờ lên lớp để thực hiện một nội dung giáo dục phù hợp với mục tiêu giáo dục học sinh. Thực hiện thông qua tổ chức các cuộc thi, tìm hiểu theo chủ đề. Tổ chức giao lưu giữa học sinh các dân tộc với nhau, tìm hiểu phong tục, tập quán của các dân tộc ở địa phương. Xây dựng cõ chế phối hợp giữa các lực lượng trong và ngoài nhà trýờng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc GDVHDT. Đây là một nội dung cần thiết bởi vì môi trường để giữ gìn và phát triển VHDT không thể chỉ có trong nhà trường. Mà để nuôi dưỡng nó cần có cả môi trường bên ngoài nhà trường với các lực lượng khác tham gia như: gia đình, họ tộc, bản làng, cộng đồng, …

Tổ chức bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về GDVHDT cho đội ngũ giáo viên. Hoạt động GDVHDT trong trường PTDTNT đòi hỏi người tổ chức, người giảng dạy phải có chuyên môn sâu. Một thực trạng đang tồn tại là đội ngũ giáo viên các trường PTDTNT là người dân tộc thiểu số chưa nhiều; việc am hiểu phong tục, tập quán của các dân tộc chưa sâu sắc. Đồng thời hoạt động GDVHDT cần số người tham gia đông, thuộc các lĩnh vực khác nhau. Muốn thực hiện tốt hoạt động này, cần có kế hoạch xây dựng, tuyển chọn đội ngũ cán bộ, giáo viên có đủ năng lực, có tâm huyết và lòng nhiệt tình để triển khai nhiệm vụ. Bên cạnh đó cũng cần hợp tác với đội ngũ chuyên gia về các lĩnh vực liên quan để hỗ trợ cho hoạt động GDVHDT ở các nhà trường. Đội ngũ chuyên gia phải là những người hiểu biết sâu, có năng lực tổ chức hoạt động giáo dục học sinh về giá trị VHDT theo từng vùng, miền .

1.4.3. Chỉ đạo hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

Mọi hoạt động cần được chỉ đạo từ những người quản lí. Chỉ đạo chính là việc hướng dẫn, điều khiển và tạo động lực cho những người tham gia hoạt động GDVHDT ở các nhà trường thực hiện đúng mục tiêu, kế hoạch đặt ra. Chỉ đạo đội ngũ GV và HS tổ chức hoạt động giáo dục học sinh về giá trị VHDT theo từng chủ đề, với các phương thức tổ chức linh hoạt, mềm dẻo.

1.4.4. Kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc

Kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động, là khâu đặc biệt quan trọng trong tổ chức các hoạt động giáo dục. Đây là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý đồng thời mở ra một chu trình quản lý mới. Kiểm tra gắn liền với đánh giá kết quả đạt được của mục tiêu, phân tích được nguyên nhân thành công và hạn chế để rút ra bài học kinh nghiệm. Bên cạnh đó, kiểm tra còn có chức năng khuyến khích, động viên người làm tốt, ngăn chặn những sai sót có thể xảy ra.

Để kiểm tra kết quả việc thực hiện các hoạt động GDVHDT hiệu quả, người quản lý cần tiến hành theo các nội dung sau:

  • Lựa chọn vấn đề, nội dung kiểm tra và hình thức, thời điểm kiểm tra: Nội dung kiểm tra có thể bao gồm từ khâu lập kế hoạch đến việc triển khai kế hoạch và hoạt động cụ thể của các lực lượng giáo dục, học sinh và các điều kiện phục vụ cho hoạt động GDVHDT nói riêng và các hoạt động giáo dục nói chung.
  • Kiểm tra, đánh giá sẽ giúp hiệu trưởng và đội ngũ giáo viên có trách nhiệm GDVHDT, phát hiện những tồn tại, hạn chế, kịp thời điều chỉnh các tác động quản lý để đưa hoạt động giáo dục đến kết quả mong muốn. Đồng thời kiểm tra cũng giúp Hiệu trưởng phát hiện những cách làm hay, các giá trị văn hóa dân tộc tiêu biểu có ảnh hưởng tốt trong nhà trường và cộng đồng để nhân rộng. Đồng thời qua kiểm tra cũng loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu vẫn tồn tại trong cuộc sống của học sinh, của cộng đồng.

1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh trường Phổ thông dân tộc nội trú

1.5.1. Yếu tố chủ quan

Việc tuyên truyền cho các thế hệ học sinh dân tộc biết tôn trọng, giữ gìn và phát huy VHDT luôn luôn được chính gia đình, dòng họ giáo dục. Bên cạnh đó khi các em đến trường cũng được các thầy cô giáo dục nên cơ bản các em cũng có ý thức trong việc giữ gìn bản sắc VHDT mình.

Song bên cạnh đó, vẫn có một bộ phận học sinh chưa nhận thức đầy đủ về nghĩa, mục đích của việc giữ gìn bản sắc VHDT mình. Có em thì nghĩ rằng mọi phong tục tập quán của dân tộc mình từ xưa cho đến nay luôn đúng nên không có sự chắt lọc để phù hợp với thời đại ngày nay. Nhưng cũng có em thì lại mang tâm lý tự ty dân tộc, không muốn nhận mình là người dân tộc, ngại mặc trang phục của dân tộc mình. Một bộ phận học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số, kể cả một số người trưởng thành đã “quên” hoặc ít sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Xu hướng không thiết tha, mặn mà với các hoạt động văn hóa dân gian truyền thống, bản sắc văn hoá của mỗi tộc người, hay sự đồng hóa tự nhiên theo xu hướng “Kinh hóa” là một thực trạng khó cưỡng nổi trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Bình Phước, đặc biệt là đối tượng thanh thiếu niên người dân tộc thiểu số.

Từ nhận thức đơn giản như vậy đưa đến nề nếp học tập, sinh hoạt mang đậm dấu ấn của dân tộc mình chưa được coi trọng. Nhận thức chưa đầy đủ thì thái độ thực hiện cũng không thể đáp ứng các yêu cầu thiết yếu của nhà trường trong việc duy trì những nét tích cực học tập và sinh hoạt mang đậm nét tiêu biểu của dân tộc.

Chính vì thế việc củng cố nhận thức và hành động của học sinh dân tộc trong việc bảo tồn VHDT ở các trường PTDTNT nói riêng và trong các nhà trường nói chung cần được quan tâm.

1.5.2. Yếu tố khách quan Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

1.5.2.1. Mối quan hệ của học sinh với gia đình và môi trường xã hội

Học sinh nội trú trong những ngày nghỉ, ngày lễ về với gia đình, bạn bè và những mối quan hệ xã hội ở địa phương. Những học sinh chưa có ý thức học tập, nề nếp chưa tốt khi quay lại trường thường có biểu hiện của những nết không đẹp trong hành vi như: hút thuốc, uống rượu, vào trường muộn. Đây là một nguyên nhân dẫn đến việc vi phạm nội qui nhà trường của học sinh.

Đa phần gia đình của học sinh khi đã gửi con em nội trú vào nhà trường họ có suy nghĩ đơn giản là giao trách nhiệm giáo dục hoàn toàn cho nhà trường. Vì thế nhiều gia đình học sinh hầu như ít liên lạc với nhà trường, không có sự kiểm tra việc học tập, sinh hoạt của con em mình. Chỉ có nhà trường, GVCN chủ động liên lạc với cha mẹ học sinh. Cho nên công tác phối kết hợp trong giáo dục toàn diện của nhà trường gặp khó khăn.

1.5.2.2. Tác động của ban lãnh đạo, thầy cô giáo, bạn bè đối với việc giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

Với đặc điểm các em sống ở ký túc xá, nên ban lãnh đạo, thầy cô giáo, bạn bè là những người gần gũi thân thiết với các em khi xa gia đình, người thân. Việc tạo môi trường học tập, sinh hoạt tốt sẽ có tác động tích cực những nếp sống tốt, uốn nắn kịp thời những biểu hiện sai lệch, thiếu văn hóa trong nếp sống. Vì vậy vai trò, sự thống nhất của ban lãnh đạo, thầy cô giáo, bạn bè và các tổ chức đoàn thể là rất hữu hiệu trong giáo dục VHDT cho HS.

1.5.2.3. Điều kiện hỗ trợ cho việc thực hiện giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh

Với học sinh nội trú, ngoài việc giáo dục nhận thức, cần quan tâm đến đời sống tâm lý của các em để giúp các em khắc phục sự tự ti, mặc cảm vì học tập chưa tốt hoặc phải rời xa môi trường tự nhiên ở địa phương. Tạo môi trường sống cho các em thật sự thân thiện, gần gũi cũng chính là giúp các em biết lưu giữ những nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc mình, đồng thời biết loại bỏ những phong tục, tập quán, thói quen lạc hậu để phù hợp với thời đại.

Tóm lại, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục VHDT cho học sinh trường PTDTNT như nội dung học tập, các hoạt động tập thể, giáo dục ngoài giờ lên lớp, đội ngũ cán bộ giáo viên, gia đình… Chính vì vậy cần làm tốt công tác giáo dục VHDT cho học sinh ở trường PTDTNT là một nhiệm vụ chính thức và bắt buộc. Việc phát triển giáo dục VHDT trong trường PTDTNT, cùng với các nội dung giáo dục đặc thù khác góp phần vào việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số, về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Tiểu kết chương 1

Luận văn đã đề cập đến các khái niệm cơ bản như quản lí, quản lí giáo dục, quản lí nhà trường, quản lí trường phổ thông dân tộc nội trú; văn hóa dân tộc, giáo dục văn hóa dân tộc, quản lí hoạt động giáo dục văn hóa dân tộc ở trường PTDTNT. Quản lí hoạt động giữ gìn VHDT ở trường PTDTNT được luận văn nghiên cứu thông qua việc thực hiện các chức năng quản lí của hiệu trưởng trường PTDTNT là: Xây dựng kế hoạch, tổ chức các hoạt động giáo dục VHDT, chỉ đạo hoạt động giáo dục VHDT và kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các hoạt động giáo dục VHDT.

Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh nói chung và giáo dục VHDT cho học sinh các trường PTDTNT trong thời kỳ hội nhập thì vấn ðề giáo dục VHDT cho các em là một việc làm cần thiết. Các em tự tin trong cuộc sống song vẫn giữ được nét đẹp trong truyền thống của dân tộc mình thì mỗi cán bộ quản lý nhà trường cần phải có các biện pháp quản lý giáo dục VHDT cho học sinh hiệu quả, khả thi hơn. Việc nghiên cứu lý luận có tính hệ thống và tính thực tiễn là tiền đề khoa học để nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động giáo dục VHDT và biện pháp quản lý hoạt động giáo dục VHDT cho học sinh dân tộc trong các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS tỉnh Bình Phước. Vấn đề này sẽ tiếp tục được làm rõ ở chương 2 và chương 3. Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Luận văn: Tổng quan giáo dục ở các trường dân tộc nội trú

One thought on “Luận văn: Giáo dục VH cho học sinh các trường Dân tộc Nội trú

  1. Pingback: Luận văn: Biện pháp quản lý giáo dục văn hóa dân tộc cho HS

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464