Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tại các trường tiểu học huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

“Theo nhận định của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), an toàn giao thông (ATGT) đang là vấn đề mang tính toàn cầu. Thống kê mỗi năm trên thế giới, có 1,5 triệu người chết, 50 triệu người bị ảnh hưởng do liên quan TNGT; trong đó, thiệt hại do TNGT khoảng 1.500 tỷ USD (chiếm 2,5% GDP toàn cầu). Trước vấn nạn TNGT gia tăng, năm 2011, Hội đồng bảo an LHQ đã ban hành thông điệp thập kỷ toàn cầu hành động bảo đảm ATGT” [5].Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Việt Nam, theo số liệu của Tổng cục thống kế, năm 2015 có 22.404 vụ tai nạn giao thông, năm 2016 có 21.589 vụ tai nạn, năm 2017 có 20.280 vụ tai nạn, năm 2018 có 18.232 vụ tai nạn và 8.125 người chết. Năm 2019, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 17.626 vụ tai nạn giao thông, bình quân 1 ngày có 48 vụ tai nạn, 21 người chết, 37 người bị thương và 23 người bị thương nhẹ [4].

“Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi năm, trên thế giới có trên 186.000 trẻ em tử vong do tai nạn giao thông (TNGT), cứ 4 phút có một trẻ em mất đi mạng sống. Tại Việt Nam, theo Ủy ban An toàn giao thông (ATGT) Quốc gia, trung bình mỗi năm cả nước có hơn 1.900 trẻ em tử vong vì TNGT, chiếm 25% tổng số trẻ em tử vong do các tai nạn thương tích. Chính vì vậy, phòng tránh TNGT cho trẻ em là một vấn đề cần thiết và cấp bách của gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Tại Việt Nam, TNGT là một trong bốn nguyên nhân hàng đầu (khoảng 50%) gây tử vong cho tất cả trẻ em từ 5 tuổi trở lên. Trong đó tỉ lệ trẻ tử vong khi đi bộ một mình chiếm 36%, bị nạn khi tham gia giao thông bằng phương tiện xe đạp, xe mô tô, xe máy chiếm 20%. Tỷ lệ trẻ dưới 14 tuổi bị chấn thương sọ não do tai nạn giao thông chiếm 13,4% trong đó, đa phần các em đều không đội mũ bảo hiểm (MBH) khi xảy ra tai nạn. Những năm gần đây, tỷ lệ tai nạn giao thông ở trẻ em Việt Nam vẫn còn cao so với tỷ lệ bình quân thế giới và khu vực, mỗi năm trung bình 2.000 trẻ em Việt Nam thiệt mạng vì tai nạn giao thông” [50].

Từ tình hình ATGT trên thế giới và ở Việt Nam như vậy, tác giả nhận thấy rằng một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu để góp phần thực hiện ATGT là giáo dục ý thức cho người tham gia giao thông ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.

Tỉnh Phú Thọ nói chung và địa bàn huyện Thanh Sơn nói riêng hiện nay, dưới tác động của sự phát triển kinh tế xã hội địa phương, quy hoạch phát triển tổng thể xây dựng nông thôn mới và đô thị vẫn chưa đáp ứng được vấn đề nhu cầu giao thông thiết yếu cho nhân dân… Hiện nay, cơ sở hạ tầng giao thông của huyện Thanh Sơn vẫn còn nhiều hạng mục yếu kém, ý thức của người dân khi tham gia giao thông chưa cao nên dẫn đến số vụ tai nạn giao thông còn nhiều và diễn biến khá phức tạp. Theo số liệu thống kê của Ban ATGT huyện Thanh Sơn, năm 2016 có 15 vụ tai nan giao thông, 15 người chết, 4 người bị thương; 2017: 13 vụ tai nạn, 14 người chết, 4 người bị thương; 2018: 24 vụ tai nạn, 25 người chết, 13 bị thương; 2019: 21 vụ tai nạn, 23 người chết, 13 người bị thương [47]. Thực tế trong những năm gần đây, tỉnh Phú Thọ và huyện Thanh Sơn đã có nhiều biện pháp nhằm hạn chế tình trạng tai nạn giao thông như: đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn giao thông; quản lý lòng đường, vỉa hè, bán hàng rong, bảo đảm mỹ quan huyện thị, mở rộng đường, hạn chế xe tự chế và xe công nông, tăng cường tuyên truyền và bắt buộc mọi người thực hiện đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông; tuyên truyền thực hiện “văn hóa giao thông”, xây dựng người Thanh Sơn thanh lịch, văn minh cho các tầng lớp nhân dân…

Từ thực tiễn về tình hình ATGT nêu trên, cho thấy một trong những vấn đề quan trọng, cấp bách hàng đầu hiện nay để góp phần thực hiện ATGT cho nhân dân là giáo dục ý thức, hiểu biết và nắm chắc luật an toàn giao thông cho người tham gia giao thông ngay từ khi còn nhỏ tuổi ngồi trên ghế nhà trường. Vì vậy, giáo dục ATGT và quản lý hoạt động giáo dục ATGT trong nhà trường tiểu học là một công việc rất quan trọng, thiết thực và lâu dài, nhằm giáo dục thế hệ trẻ trở thành những người công dân tốt có ý thức chấp hành nghiêm túc Luật giao thông ngay từ khi còn là học sinh bậc tiểu học. Mong muốn của tác giả là các em học sinh tiểu học được giáo dục những kiến thức cơ bản nhất về ATGT, để trước hết bảo vệ chính bản thân mình và thấy được sự cần thiết phải thực hiện nghiêm túc luật giao thông, từ đó mỗi em học sinh luôn thực hiện tốt các quy định về an toàn giao thông, trở thành những người tham gia giao thông văn minh trong xã hội hiện đại.

Chính vì những lý do đó, tác giả quyết định chọn đề tài: “Quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tại các trường tiểu học huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn nghiên cứu Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>>  Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Quản Lý Giáo Dục

2. Mục đích nghiên cứu Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích đánh giá thực trạng quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông đường bộ trong các trường Tiểu học huyện Thanh Sơn, đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ATGT, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ATGT ở các trường tiểu học trong địa bàn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay.

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động giáo dục ATGT ở các trường Tiểu học huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ

3.2. Đốit ượng nghiên cứu: Quản lý giáo dục ATGT ở các trường tiểu học huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

4. Câu hỏi nghiên cứu

Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tại các trường tiểu học huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay diễn ra như thế nào?

Cần những biện pháp quản lý nào để nâng cao hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tại các trường tiểu học huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ?

5. Giả thuyết khoa học Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Giáo dục ATGT và quản lý hoạt động GD ATGT là một nhiệm vụ quan trọng của trường tiểu học. Quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh ở các trường Tiểu học huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ hiện nay vẫn còn nhiều bất cập cần phải xử lý để mang lại hiệu quả tốt nhất. Nhà trường cần phải có những định hướng quản lý giáo dục về tầm quan trọng của việc chấp hành luật giao thông, tăng cường an toàn và giảm thiểu TNGT cho các em học sinh. Do vậy, đề xuất được các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ATGT phù hợp với lứa tuổi mang tính thực tiễn cao, sẽ giúp các em dễ dàng tiếp thu và hình thành ý thức tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành những quy định về ATGT ngay từ khi còn là học sinh tiểu học.

6. Nhiệm vụ nghiên cứu

Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tại các trường Tiểu học

Tiến hành khảo sát, điều tra, đánh giá thực trạng giáo dục ATGT và quản lý giáo dục ATGT đường bộ cho học sinh tại các trường tiểu học huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay

Đề xuất một số biện pháp cụ thể về quản lý giáo dục ATGT cho học sinh tại các trường tiểu học huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay.

7. Phạm vi nghiên cứu

Cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh, Cha mẹ học sinh (CMHS) tại các trường Tiểu học trên địa bàn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Địa bàn nghiên cứu: 5 trường Tiểu học thuộc huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Thời gian nghiên cứu thực trạng: năm 2019-2020

8. Phương pháp nghiên cứu Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

8.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Nghiên cứu hệ thống hóa các tài liệu liên quan đến giáo dục an toàn giao thông và quản lý giáo dục an toàn giao thông áp dụng trong hệ thống giáo dục quốc dân

8.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

8.2.1. Phương pháp thống kê

Thu thập thông tin, tài liệu lưu ban ngành có liên quan đến quản lý giáo

8.2.2. Phương pháp quan sát

Trữ, thống kê từ các đơn vị và các cơ quan dục ATGT

Quan sát hành vi tham gia giao thông của các em học sinh và CMHS tại các trường tiểu học trong huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Quan sát trực tiếp các tiết học và các hoạt động giáo dục ATGT của lớp 1 đến lớp 5 ở một số trường khảo sát.

8.2.3. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi

Sử dụng các mẫu phiếu để điều tra cán bộ quản lý, giáo viên, phụ huynh học sinh, học sinh các trường Tiểu học huyện Thanh Sơn.

8.2.4. Phương pháp phỏng vấn

Phỏng vấn trực tiếp một số Hiệu trưởng, giáo viên và CMHS trường tiểu học trên địa bàn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ..

8.2.5. Phương pháp chuyên gia

Gặp gỡ, phỏng vấn, xin ý kiến chuyên gia, các nhà giáo có kinh nghiệm thực tế về quản lý giáo dục ATGT.

8.3. Phương pháp hỗ trợ

Các phương pháp phân tích số liệu, phương pháp thống kê toán học được xử dụng để xử lý các tài liệu thu thập được

9. Những đóng góp mới của đề tài

9.1. Về lý luận

Luận văn đã tiếp cận và cụ thể hóa một số nội dung của lý thuyết về quản lý quản lý giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học.

Luận văn sẽ đề xuất được biện pháp quản lý giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học góp phần định hướng việc tuân thủ pháp luật trong tương lai cho học sinh phù hợp với phát triển KT – XH của địa phương.

9.2. Về thực tiễn

Luận văn đã chỉ ra thực trạng về quản lý giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học, nêu bật tình hình giáo dục an toàn giao thông từ thực tiễn tại các trường tiểu học ở huyện Thanh Sơn (những mặt mạnh, mặt yếu, nguyên nhân những bất cập và những kết quả bước đầu) cũng như việc áp dụng các giải pháp quản lý giáo dục an toàn giao thông đã tổng kết được trong thực tiễn.

Kết quả nghiên cứu luận văn sẽ đưa ra những điểm mới về quản lý giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học trong giai đoạn hiện nay để xây dựng ý thức chấp hành luật giao thông cho học sinh, định hướng cho học sinh trở thành những công dân có ý thức tốt, có trách nhiệm khi tham gia giao thông.

10. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn trình bày thành 3 chương và 16 tiết

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tại trường Tiểu học.

Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tại các trường Tiểu học huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay.

Chương 3: Biện pháp quản lý giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tại các trường Tiểu học huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC AN TOÀN GIAO THÔNG CHO HỌC SINH TẠI TRƯỜNG TIỂU HỌC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Liên hiệp quốc đã công bố tuyên ngôn thế giới về quyền con người, trong đó nhấn mạnh rằng trẻ em có quyền chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt vì đây là đối tượng dễ bị tổn thương nhất. Nhưng đáng buồn thay, hàng ngày, hàng giờ trẻ em ở nhiều nơi trên thế giới vẫn phải chịu cảnh đói nghèo, bệnh tật, phải đối mặt với những yếu tố tiềm ẩn nguy hiểm đến tính mạng khi tham gia giao thông. Hiện nay, TNGT nói chung, TNGT đối với trẻ em nói riêng đã trở thành vấn đề cấp bách, thách thức mọi quốc gia trên thế giới và không dễ để giải quyết một cách triệt để.

Bảo đảm ATGT, giảm thiểu tai nạn giao thông TNGT từ lâu đã trở thành vấn đề xã hội mang tính chất toàn cầu. Hậu quả mà TNGT gây ra là vô cùng to lớn, không chỉ gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản mà còn đem lại những tổn thất nặng nề về kinh tế, xã hội. Vấn đề giảm thiểu TNGT, thiết lập và giữ ổn định TTATGT là bài toán nan giải đặt ra cho hầu hết các quốc gia, đòi hỏi các chính phủ phải cùng chung tay, thiết thực hành động vì mục tiêu chung bảo đảm tính mạng con người là trên hết.

Hội nghị cấp bộ trưởng toàn cầu về An toàn giao thông đường bộ lần thứ ba vừa diễn ra tại Xtốc-khôm, Thụy Điển (T3/2020), sự góp mặt của hơn 1.700 đại biểu là các bộ trưởng, quan chức cấp cao, đại diện các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức nghiên cứu, chuyên gia đến từ hơn 140 quốc gia. “Hội nghị do Tổ chức Y tế thế giới (WHO) phối hợp Chính phủ Thụy Điển tổ chức. Sau hai hội nghị trước tại Mát-xcơ-va, Nga (2009) và Bra-xi-li-a, Bra-xin (2015. Tuyên bố Xtốc-khôm nhận định, tai nạn trong giao thông đường bộ là vấn đề cấp bách của thế giới. Hằng năm, số người chết do tai nạn giao thông toàn cầu lên đến 1,35 triệu người, cùng khoảng 50 triệu người bị thương. Hậu quả của tai nạn giao thông không dừng lại trong mỗi gia đình nạn nhân, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển chung của toàn xã hội. Hội nghị là cơ hội nhìn lại chương trình “Thập niên hành động vì an toàn giao thông đường bộ 2011-2020” của WHO. Mục tiêu an toàn giao thông đường bộ được Đại hội đồng Liên hợp quốc ghi trong Nghị quyết tháng 9-2015, thuộc Chương trình nghị sự về phát triển bền vững đến năm 2030, gồm mục tiêu bảo đảm sức khỏe tốt và cuộc sống hạnh phúc; và bảo đảm hệ thống giao thông đường bộ an toàn. WHO phối hợp với các ủy ban khu vực và cơ quan của Liên hợp quốc về an toàn đường bộ nhằm nâng cao nhận thức trong cộng đồng quốc tế và kết nối các nguồn lực của từng địa phương trong việc thực hiện mục tiêu giảm một nửa số người chết, bị thương do tai nạn giao thông, trong giai đoạn 2011 – 2020. Theo Báo cáo toàn cầu về an toàn giao thông đường bộ của WHO, mục tiêu nêu trên đã thất bại. Các chuyên gia đánh giá, nguyên nhân là do tốc độ phát triển số lượng phương tiện cá nhân quá nhanh so với mức độ đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phát triển khung pháp lý và tuyên truyền về an toàn giao thông. Tuy nhiên, tỷ lệ tai nạn giao thông trên tổng dân số toàn cầu không tăng là một tín hiệu khả quan với cộng đồng quốc tế” [50].

Tuyên bố Xtốc-khôm của Hội nghị chỉ ra, tai nạn giao thông là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến cái chết của trẻ em và thanh niên trong độ tuổi 5 đến 29, chủ yếu là các nước có thu nhập thấp và trung bình. Được dự báo 500 triệu người chết và bị thương trên thế giới trong giai đoạn 2020 – 2030, tai nạn giao thông đường bộ có nguy cơ trở thành cuộc khủng hoảng nhân đạo toàn cầu. Tại Hội nghị, Tổng Giám đốc WHO A.Ghê-brây-ê-xút đánh giá, chúng ta đang trả giá quá đắt; phần lớn số vụ tai nạn có thể tránh được nếu thế giới chung tay, nghiêm túc và kiên quyết thực hiện các giải pháp an toàn. Nếu không được giải quyết triệt để, về dài hạn, tai nạn giao thông sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế thế giới, tạo ra sự mất cân bằng trong phát triển giữa các nước, khu vực và các mức thu nhập, đồng thời sẽ là chướng ngại vật lớn nhất đối với tiến trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.

Trên cơ sở đó, Tuyên bố Xtốc-khôm hối thúc các chính phủ, tổ chức và doanh nghiệp cùng chung tay hành động để mỗi phương tiện giao thông được sản xuất và bán ra thị trường vào năm 2030 có thể bảo đảm tiêu chuẩn an toàn cao nhất.

Hội nghị cũng đề ra mục tiêu giảm một nửa số người chết do tai nạn giao thông trong giai đoạn 2020 – 2030 và hướng tới “Mục tiêu Không” (Vision Zero) – không ai chết do tai nạn giao thông vào năm 2050. an toàn giao thông đường bộ, như các phương tiện khi tham gia giao thông, là thách thức xuyên biên giới; mọi tầng lớp trong xã hội, mọi quốc gia vì vậy cần ý thức được tầm quan trọng của an toàn đường bộ. “Mục tiêu Không” của Tuyên bố Xtốc-khôm có thể được hiện thực hóa trước năm 2050 với sự chung tay nghiêm túc của toàn thế giới [50].

Để thực hiện “Mục tiêu Không” Tuyên bố Xtốc-khôm đã khẳng định: Ngày nay, chính phủ các nước trên thế giới đều nhận thức sâu sắc vai trò của việc đảm bảo ATGT. Tuy nhiên trong bối cảnh toàn cầu hoá, nhu cầu đi lại và vận chuyển ngày càng gia tăng, bên cạnh đó là sự bùng nổ của phương tiện giao thông cơ giới thì việc duy trì mức độ kéo giảm TNGT là thách thức không nhỏ cho các quốc gia. Đây là vấn đề cần sự quan tâm của sâu sát, trong đó trước mắt các chính phủ cần tập trung vào những nội dung trọng điểm sau:

Thứ nhất, Nghiêm chỉnh thực thi các chính sách pháp luật trên lĩnh vực đảm bảo ATGT. Tiếp tục hoàn thiện, rà soát, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật chưa phù hợp; kịp thời ban hành bổ sung những quy định mới cho phù hợp với những diễn biến của tình hình ATGT. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính để nâng cao năng lực điều hành, quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT đường bộ. Đặc biệt phải chú trọng hơn nữa tới vai trò của cấp cứu sau TNGT, nâng cao năng lực của hệ thống y tế để giảm thiểu đến mức thấp nhất tổn thương về tính mạng, sức khoẻ của nạn nhân các vụ tai nạn.

Thứ hai, Tăng cường đầu tư cho lĩnh vực kết cấu hạ tầng giao thông, bảo đảm chất lượng khai thác của các công trình, đẩy mạnh xây dựng mạng lưới giao thông tĩnh cho phù hợp với tình hình phát triển hiện tại. Tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của hệ thống vận tải công cộng, hạn chế các phương tiện cá nhân, nghiên cứu và đưa vào sử dụng các loại công cụ, thiết bị thông minh hỗ trợ người tham gia giao thông như hệ thống xe tự lái, hệ thống phanh khẩn cấp thông minh, hệ thống tự động kiểm soát nồng độ cồn… để nâng cao an toàn, giảm thiểu rủi ro đáng tiếc cho người tham gia giao thông.

Thứ ba, Quan tâm hơn nữa đến đối tượng “những người tham gia giao thông dễ bị tổn thương” như người đi bộ, người đi xe đạp… Hiện nay, việc bảo đảm ATGT cho nhóm đối tượng này còn chưa được chú trọng đúng mức. Ở hầu hết các quốc gia có hệ thống giao thông hỗn hợp, người đi bộ và đi xe đạp sử dụng cùng một tuyến đường với các loại phương tiện cơ giới tốc độ cao như xe tải, xe khách, xe con, xe máy… nên luôn phải đối mặt với rất nhiều rủi ro. Các chính phủ cần có giải pháp thiết thực như quy định làn đường riêng cho người đi xe đạp, hạn chế tốc độ của các phương tiện cơ giới trên các tuyến đường có nhiều người bộ hành lưu thông… Đối với đối tượng trẻ em, cần thực thi nghiêm túc các chính sách liên quan đến việc thắt dây an toàn cho trẻ nhỏ, sử dụng ghế ngồi hỗ trợ dành riêng cho trẻ em trên ô tô, trẻ em khi ngồi trên mô tô xe gắn máy phải được đội mũ bảo hiểm đúng quy cách…

Thứ tư, Vấn đề đảm bảo ATGT, giảm thiểu TNGT đã trở thành vấn đề toàn cầu, đòi hỏi sự chung tay, chung sức của tất cả các quốc gia trên thế giới. Các chính phủ phải đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đảm bảo an toàn giao thông, chia sẻ kinh nghiệm, thành lập quỹ hỗ trợ các nước có nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển để đẩy lùi TNGT, thiết lập và duy trì hệ thống giao thông an toàn, thân thiện với con người và môi trường.

Đặc biệt, Tuyên bố Xtốc-khôm khẳng định việc GD, nâng cao nhận thức về ATGT của mỗi người dân khi tham gia hoạt động giao thông là việc làm cấp bách mà các nước trên thế giới phải tập trung đầu tư vào lĩnh vực này. Hiện nay, ở một số quốc gia có nền kinh tế – xã hội và văn hóa tiến bộ, vấn đề GD nói chung và giáo dục ATGT nói riêng đã được chính phủ quan tâm, đưa vào trong trương trình giáo dục phổ thông, trở thành một môn học chính khóa. Nhờ đó mà tỉ lệ tai nạn, thương vong do TNGT, nhất là giao thông đường bộ tại các quốc gia này đã giảm vô cùng nhỏ. Cụ thể, tại: Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Nhật Bản: Trước kia, là một quốc gia có vấn đề giao thông khá phức tạp, hiện nay Nhật Bản đã trở thành một trong những quốc gia có nền văn hóa và hệ thống giao thông an toàn nhất trên thế giới. Một trong những yếu tố được Chính phủ Nhật Bản quan tâm hàng đầu là giáo dục ý thức bảo đảm ATGT cho người dân, đặc biệt là trẻ em. Nhật Bản coi đây là giải pháp nền tảng để giảm thiểu ùn tắc giao thông cũng như TNGT. Hầu hết các địa phương đều ban hành các kế hoạch đảm bảo ATGT trong vòng 5 năm và các kế hoạch này luôn luôn lấy công tác giáo dục pháp luật giao thông làm trọng tâm. Cứ 2 lần một năm, Chính phủ Nhật Bản lại phát động chiến dịch tuyên truyền ATGT kéo dài 10 ngày trên quy mô toàn quốc nhằm nhắc nhở, khuyến khích người dân tham gia giao thông an toàn. Nhờ có chính sách đầu tư cho giáo dục ATGT ngay từ khi bắt đầu bước vào ghế nhà trường mà ý thức tham gia giao thông của mỗi người dân Nhật Bản được nâng cao. Nhật Bản quan niệm giáo dục ATGT là các hoạt động giáo dục tất cả đối tượng tham gia giao thông trong xã hội để phổ cập tư tưởng, kiến thức ATGT, làm cho mọi đối tượng tham gia giao thông có thói quen tốt về thái độ khi tham gia giao thông, bảo đảm ATGT đường bộ. Trẻ em Nhật Bản được phổ cập kiến thức ATGT ngay từ bậc tiểu học, với nội dung linh hoạt, tùy theo tình hình thực tế tại địa phương. Chẳng hạn như ở Kyoto, nơi học sinh tiểu học chủ yếu di chuyển bằng xe đạp, các em sẽ phải hoàn thành một khóa học về ATGT để được cấp bằng lái xe đạp. Còn ở Tokyo, các em học sinh cấp 1, cấp 2 được bố mẹ cho tự đi học bằng tàu điện ngầm, xe buýt nên việc giáo dục ATGT khi sử dụng các phương tiện công cộng là rất cần thiết.

Giáo dục ATGT cho thiếu nhi không chỉ nhằm bảo đảm an toàn cho trẻ em khi tham gia giao thông mà để khi lớn lên và tham gia giao thông dưới nhiều hình thức khác nhau các em cũng luôn có ý thức chấp hành pháp luật giao thông. Vì vậy mục đích của giáo dục ATGT cho thiếu nhi là giáo dục về thái độ tuân thủ quy tắc giao thông cơ bản, tạo thói quen tốt khi tham gia giao thông phù hợp giai đoạn phát triển tâm sinh lý, đồng thời cung cấp kiến thức, kỹ năng cơ bản cần thiết để các em tham gia giao thông an toàn trong cuộc sống hàng ngày.

Tại New South Wales (Australia), từ năm 1986, Chương trình Giáo dục An toàn đường bộ đã phối hợp với Bộ Giáo dục, Hiệp hội các trường độc lập, Chương trình Giáo dục An toàn đường bộ sớm cho trẻ em… cung cấp các nguồn tư liệu, khóa giáo dục và phát triển chuyên môn cho trường học, giáo viên. Đây là một phần trong chương trình giáo dục chính thức dành cho học sinh và đào tạo nghiệp vụ cho giáo viên. Chương trình Giáo dục An toàn đường bộ nằm trong môn Phát triển con người, Giáo dục thể chất và sức khỏe (PDHPE) đối với tất cả học sinh từ bậc mầm non tới 10 tuổi. Việc dạy và học tập trung vào các vấn đề về an toàn với người đi bộ, người ngồi trên xe cũng như người điều khiển xe trong tương lai.

Tại Singapore, hoạt động giáo dục an toàn đường bộ được thực hiện với trẻ từ 7-12 tuổi và tổ chức ở môi trường bên ngoài như tại các công viên về ATGT hoặc một khu vực có diện tích rộng tối thiểu chừng 4ha. Tại những địa điểm như vậy, các nhà giáo dục sẽ xây dựng bối cảnh và các thiết bị, đèn báo tín hiệu giao thông như trên đường phố để học sinh làm quen và trải nghiệm. Cảnh sát giao thông sẽ phối hợp với nhà trường tổ chức các bài giảng dạy về ATGT. Mỗi ngày, có khoảng 500 học sinh được học tập về lĩnh vực này. Trong mỗi buổi học, trẻ em sẽ được học tập lý thuyết rồi chơi trò chơi như tham gia đóng vai người đi bộ, cảnh sát giao thông, người đi xe đạp… để xử lý các tình huống giao thông. Sau trò chơi, cảnh sát giao thông sẽ khen thưởng những học sinh đã xử lý tình huống tốt, đúng quy định, chỉ ra các lỗi sai và đúc rút bài học kinh nghiệm.

Giáo dục ATGT không đơn thuần chỉ dạy quy tắc và thói quen khi tham gia giao thông cho mọi cá nhân, mà quan trọng là phải nuôi dưỡng ý thức tuân thủ, áp dụng vào cuộc sống thường nhật. Bài học kinh nghiệm về xây dựng một quốc gia có hệ thống ATGT nhất thế giới của Nhật Bản là: giới chức lãnh đạo Nhật Bản luôn là tấm gương sáng. Để thuyết phục người dân hạn chế sử dụng phương tiện cá nhân, nhiều quan chức cấp cao Nhật Bản tự nguyện di chuyển bằng các phương tiện công cộng như xe buýt, tàu điện ngầm… Nhờ đó, phần lớn người dân Nhật Bản, thậm chí cả trẻ em cũng đều có thói quen sử dụng phương tiện giao thông công cộng, qua đó làm giảm đáng kể tình trạng ùn tắc và TNGT.

1.1.2. Ở Việt Nam Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Theo Văn phòng Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình – Chủ tịch Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia đã chủ trì Hội nghị tổng kết công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông năm 2019 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2020 tại Hà Nội ngày 28 tháng 12 năm 2019 cho thấy, công tác đảm bảo trật tự ATGT đã trở thành phong trào thi đua giữa các địa phương, như một hiệu ứng dây chuyền của cả xã hội để kéo giảm TNGT. Lần đầu tiên kể từ năm 2014, tai nạn giao thông (TNGT) đã giảm trên 5% ở cả 3 tiêu chí (số người chết giảm 7,15%, số vụ TNGT và số người bị thương giảm trên 5% so với năm 2018). Năm 2019, số người chết do TNGT là 7.624 người, tương đương với số người chết của năm 2000, trong khi dân số tăng 16 triệu người, số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ tăng gấp 9 lần (năm 2000 có gần 7 triệu xe, năm 2019 có gần 63 triệu xe), số vụ TNGT do xe ô tô chở khách và thương vong đối với hành khách giảm sâu trong năm 2019. Tuy nhiên, tình hình TTATGT năm 2019 vẫn diễn biến phức tạp, còn xảy ra một số vụ TNGT đặc biệt nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận xã hội, nhất là tai nạn liên quan đến xe kinh doanh vận tải, do lái xe vi phạm quy định nồng độ cồn, sử dụng ma túy gây nên [50].

Kết luận hội nghị, Phó Thủ tướng Chính phủ Trương Hòa Bình, Chủ tịch UBATGT Quốc gia đánh giá, năm 2019 dù giảm các tiêu chí về TNGT nhưng tình hình giao thông đường bộ vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ và còn nhiều bất cập, phức tạp, nhiều vụ TNGT chết người, số người chết vẫn còn lớn. “Một đất nước mà trong một năm để chết tới hơn 7.000 người/năm vì TNGT là vẫn còn rất cao. Chúng ta phải tiếp tục giảm hơn nữa số người chết vì TNGT, tiếp tục kéo giảm ùn tắc giao thông đường bộ tại các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Bên cạnh GD chính trị tư tưởng trong từng đoàn thể, gia đình, người dân thì tăng cường xử phạt, xử lý nghiêm vi phạm trật tự ATGT là rất quan trọng”. Ngoài ra, Phó Thủ tướng cũng đề nghị các địa phương trên cả nước phải tổ chức đánh giá tìm ra các biện pháp hiệu quả nhất để toàn quốc kéo giảm số người chết vì TNGT, nhất là giao thông đường bộ xuống dưới 5.000 người trong giai đoạn 5 năm 2020-2025 [50].

Trước tình hình TNGT ngày có xu hướng diễn biến khó lường, mang tính thời sự, là vấn đề nóng bỏng mà cả xã hội quan tâm, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều văn bản chỉ đạo đến toàn dân, để toàn xã hội tiếp tục quan tâm nhiều hơn nữa đến công tác ATGT.

Nhiều năm qua, thực thi các văn bản chỉ đạo của các cấp,các ngành về ATGT, Bộ GD&ĐT cũng đã có nhiều văn bản chỉ đạo trong toàn ngành GD, phổ biến trong toàn thể các em học sinh các cấp về vấn đề ATGT. Bộ GD&ĐT cũng đã phối hợp với UBATGT Quốc gia tổ chức các hội thi tuyên truyền viên, báo cáo viên giỏi về ATGT trong ngành GD, tổ chức các hoạt động ngoại khóa về ATGT, tổ chức dạy và học về ATGT trong trường học nói chung và trong các trường tiểu học nói riêng để góp phần tăng cường kiến thức về ATGT, nâng cao năng lực cho giáo viên và kỹ năng thực hiện ATGT cho học sinh. Qua đó nâng cao ý thức chấp hành nghiêm túc luật pháp về ATGT cho các em học sinh. GD về chấp hành pháp luật là vấn đề quan trọng, xuyên suốt trong quá trình thực hiện GD và tự giáo dục của mỗi cá nhân. Trong đó, GD nâng cao ý thức chấp hành ATGT chính là một phần không thể thiếu của việc GD ý thức trách nhiệm đối với chính bản thân, gia đình và xã hội của mỗi con người. Vấn đề giao thông trong điều kiện kinh tế xã hội khoa học kỹ thuật phát triển hiện đại và các phương tiện tham gia giao thông cũng rất phong phú nhiều chủng loại, nên đặt ra cho hoạt động GDATGT hiện nay là phải được đưa vào giảng dạy cho trẻ em từ cấp tiểu học, với mục đích để ý thức giao thông của các em hình thành từ nhỏ, ăn sâu vào tâm trí các em mỗi khi tham gia giao thông sau này khi các em trưởng thành.

Giao dục Tiểu học là cấp học đầu tiên trong hệ thống GD quốc dân của Việt Nam, việc GD ATGT ở cấp tiểu học cần được đặc biệt quan tâm bởi có nhiều ưu thế thuận lợi: các em học sinh tiểu học sẽ tiếp nhận và hình thành ý thức, thái độ, hành tốt về ATGT nếu như công tác GD ATGT này tổ chức một cách sinh động( có mô hình, hình ảnh) phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của các em.

Vì vậy GD ATGT trong trường tiểu học là một nội dung không thể thiếu trong công tác quản lý nhà trường của người Hiệu trưởng trường tiểu học trong giai đoạn hiện nay hiện đại hóa, đô thị hóa, giao thông ngày càng phát triển.

Hiện nay, chương trình GD ATGT đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa vào giảng dạy trong nhà trường nhưng chỉ là một môn học dạy lồng ghép trong chương trình giáo dục chính khóa. Vì vậy, sự quan tâm của các nhà trường, các GV cũng chưa thực sự sát sao, dẫn đến việc khó hình thành ý thức, kĩ năng cho học sinh về ATGT, nhất là ATGT đường bộ, vì quá trình GD nào cũng phải thường xuyên và liên tục. Do đó, để góp phần giải quyết giảm thiểu nạn giao thông cho học sinh các cấp học hiện nay, Hiệu trưởng các nhà trường cần phải coi GD ATGT là một nội dung GD cấp thiết trong công tác quản lý nhà trường. Việc ra đời của chương trình GD ATGT và tìm những biện pháp có hiệu quả, khả thi để chương trình GD ATGT đi vào cuộc sống là một việc làm cấp bách và cần thiết.

Trong những năm gần đây, nhiều chủ chương, chính sách của Đảng, Chính phủ, các công văn, văn bản, kế hoạch của Bộ GD&ĐT, UBND Tỉnh Phú Thọ, Sở GD&ĐT và một số công trình nghiên cứu khoa học về ATGT đã được phổ biến rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng, nhằm góp phần nâng cao ý thức tham gia giao thông cho người dân đặc biệt là thanh niên, học sinh, đó là:

Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04/9/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông (ATGT) đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông[1], – Kết luận số 45-KL/TW ngày 01/02/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04/9/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông (ATGT) đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông[2],

Nghị định số 32/2007/NQ-CP của Chính phủ về một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế TNGT và ùn tắc giao thông.

Nghị quyết 88/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 24 tháng 8 năm 2011 về tăng cường thực hiện giải pháp trọng tâm bảo đảm trật tự ATGT.

Nghị quyết số 12/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 19/12/2019 về tăng cường bảo đảm trật tự an toàn giao thông và chống ùn tắc giao thông giai đoạn 2019-2020[25],

Chỉ thị số 52/2007/CT-BGD&ĐT ngày 31/8/2007 về tăng cường công tác GDATGT trong các cơ sở GD&ĐT,

Kế hoạch liên tịch số 9337/KHLT/BGD&ĐT-BCA-BGTVT-TWĐTN-ĐTHVN ngày 4/9/2007 giữa Bộ GD&ĐT, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Công an, TW

Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Đài Truyền hình Việt Nam về tăng cường công tác tuyên truyền, GD, xử lý các vi phạm pháp luật về trật tự ATGT trong học sinh, sinh viên,

Tài liệu cuộc vận động: “Học sinh, sinh viên gương mẫu thực hiện và vận động gia đình chấp hành nghiêm túc Luật giao thông” trong toàn ngành giáo dục từ năm học 2007 – 2008,

Quy chế HS, sinh viên các trường đại học và cao đẳng tại Quyết định số 42/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 13/8/2007, trong đó quy định: đua e hoặc cổ vũ đua xe trái phép là một trong những hành vi HS, sinh viên không được làm và HS, sinh viên vi phạm quy định về trật tự ATGT bị xử lý từ khiển trách đến buộc thôi học. Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Đề cương tuyên truyền, phổ biến Luật giao thông đường bộ cho học sinh sinh viên theo chủ đề năm 2009 (QĐ 3442/QĐ-BGD&ĐT ngày 12/5/2009).

Chương trình phối hợp số 235/CTPH/UBATGTQG-BGDĐT ngày 05/8/2013 giữa Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia và Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tăng cường công tác giáo dục an toàn giao thông trong trường học giai đoạn 2013-2018.

Kế hoạch số 417/ KH-BGD&ĐT ngày 17/5/2019, Kế hoạch tăng cường công tác an toàn giao thông trong trường học giai đoạn 2019-2021

Công văn số 3343/BGDĐT-GDCTHSSV ngày 05/08/2019 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông đầu năm học mới 2019 – 2020 cho học sinh, sinh viên.

Quyết định số UBND tỉnh ban hành Quyết định số 3294/QĐ-UBND của UBND tỉnh Phú Thọ ban hành ngày 20/10/2011 về việc Phê duyệt quy hoạch phát triển GTVT tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011-2020 và định hướng đến năm 2030

Chỉ thị số 08/CT-UBND tỉnh Phú Thọ, ngày 28/8/2019 về nhiệm vụ chủ yếu năm học 2019 -2020 của ngành giáo dục tỉnh Phú Thọ

  • Công văn số 10129/SGD&ĐT-HSSV về việc nâng cao chất lượng GD đạo đức – lối sống thông qua việc thực hiến pháp luật đảm bảo việc trật tự ATGT cho HS.
  • Công văn số 9417/SGD&ĐT-HSSV về việc tổ chức chuyên đề GDATGT cho HSSV năm 2015-2016.
  • Công văn số 5060/SGD&ĐT-HSSV về việc hướng ứng Tuần lễ ATGT đường bộ lần thứ 7 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 2019.
  • Công văn 5356/SGD&ĐT-GDTH về Bộ học liệu giáo dục pháp luật trong trường Tiểu học.

Nghị quyết số 01-NQ/ĐH ngày 26/6/2015 của ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Sơn lần thứ XXV

Ngoài ra còn một số Văn bản hướng dẫn đầu các năm học và trong các đợt cao điểm về bảo đảm ATGT như thi tuyển sinh, tết Nguyên Đán, …; Chỉ đạo tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn thực hiện các tiêu chí Văn hóa giao thông đối với từng cấp học; chỉ đạo đưa công tác GDATGT lồng ghép trong triển khai thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Nổi bật trong đó, Chương trình “ATGT cho nụ cười trẻ thơ” do Vụ Giáo dục tiểu học cùng Ủy ban ATGT Quốc gia, Cục CSGT và Honda Việt Nam (HVN) phối hợp triển khai từ năm 2008 đến nay cho các thầy cô giáo và học sinh tiểu học trên toàn quốc đã để lại nhiều dấu ấn tích cực, được toàn xã hội quan tâm hưởng ứng. Với việc tích cực mở rộng quy mô hoạt động và chất lượng đào tạo về ATGT cho học sinh, HVN cùng các cơ quan Chính phủ và Bộ ngành GD đang ngày tiến đến gần hơn mục tiêu xây dựng một xã hội giao thông Việt Nam an toàn, văn minh. Qua nhiều chương trình thiết thực có ý nghĩa to lớn, HVN cũng muốn nhấn mạnh thông điệp tới mọi người dân về tầm quan trọng của việc thúc đẩy ATGT, nâng cao ý thức và kỹ năng tham gia giao thông cho thế hệ tương lai, trong đó đặc biệt không thể thiếu bóng dáng những người thầy giáo, cô giáo tận tụy trong nhà trường tiểu học.

Ngoài ra có một số luận văn nghiên cứu về chủ đề quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông như:

Nguyễn Thị Thanh Vân: Biện pháp quản lý GDATGT của Hiệu trưởng các trường tiểu học quận Đống Đa thành phố Hà Nội (năm 2008)

  • Cao Thanh Nga: Quản lý QLGDATGT ở các trường THPT nội thành Hà Nội (năm 2010)
  • Nguyễn Thị Lan Anh: Quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông tại các trường Tiểu học quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội (năm 2016)
  • Đỗ Linh Trang: Quản lý giáo dục an toàn giao thông ở các trường THPT huyện Thủy Nguyên thành phố Hải Phòng (năm 2016)…

Với nhiệm vụ công tác đang làm tại Hội chữ thập đỏ của huyện Thanh Sơn, tác giả đã từng tham gia rất nhiều các hoạt động liên quan đến GDATGT với các cấp học phổ thông của địa phương thanh Sơn và tỉnh Phú Thọ, tác giả hiểu rằng Giáo dục, trang bị kiến thức ATGT cho mọi người dân, trong đó có trẻ em là giải pháp nền tảng để giải quyết các vấn đề mất trật tự ATGT hiện nay. Việc giáo dục ATGT cho trẻ em không chỉ nhằm đảm bảo an toàn cho các em khi tham gia giao thông mà khi trưởng thành các em sẽ luôn có ý thức tuân thủ pháp luật về giao thông. Phát triển các kỹ năng là một trong những yếu tố giúp trẻ em nhận thức được các yếu tố nguy hiểm, phản xạ lại các tình huống bất ngờ xảy ra và từ đó sẽ giảm thiểu những nguy cơ hay rủi ro khi tham gia giao thông.

Việc quản lý tốt GDATGT sẽ góp phần nâng cao chất lượng GD toàn diện. Đây chính là vấn đề mà tác giả nghiên cứu, hy vọng những kết quả nghiên cứu bước đầu của luận văn sẽ đóng góp một phần vào giáo dục ATGT trong hệ thống trường học phổ thông ở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay.

1.2. Các khái niệm cơ bản Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

1.2.1. Quản lý

Theo Từ điển Tiếng Việt: “Quản lý là trông coi, giữ gìn theo những yêu cầu nhất định” hoặc “Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [46].

Các tác giả Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc đưa ra quan niệm: “Quản lý là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức” [20].

Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực(nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài nước (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất” [37].

Từ đó có thể khái quát: “Quản lí là một dạng lao động đặc biệt nhằm gây ảnh hưởng, điều khiển, phối hợp lao động của người khác hoặc của nhiều người khác trong cùng tổ chức hoặc cùng công việc nhằm thay đổi hành vi và ý thức của họ, định hướng và tăng hiệu quả lao động của họ, để đạt mục tiêu của tổ chức hoặc lợi ích của công việc cùng sự thỏa mãn của những người tham gia”

1.2.2. Quản lý giáo dục Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Về thuật ngữ “quản lý giáo dục” hiện nay cũng có rất nhiều các quan niệm nghiên cứu khác nhau.

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học – giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”.

Tác giả Trần Kiểm, khái niệm quản lý giáo dục đối với cấp vĩ mô là: “QLGD được hiểu là hệ thống những tác động tự giác, có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật của chủ quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, CMHS và các lực lượng XH trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu GD của nhà trường” [37].

Từ đây, chúng ta có thể hiểu một cách khái quát nhất QLGD là sự tác động có chủ đích, có căn cứ khoa học, phù hợp với quy luật và phù hợp với các điều kiện khách quan… của chủ thể quản lý giáo dục tới đối tượng quản lý giáo dục nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các nguồn giáo dục, từ đó đảm bảo một cách khách quan các hoạt động của tổ chức hệ thống giáo dục quốc dân đạt được các mục tiêu giáo dục đã đề ra với chất lượng, hiệu quả cao nhất.

1.2.3. Quản lý nhà trường

Theo tác giả Trần Kiểm, “quản lý nhà trường có thể xem là đồng nghĩa với QLGD ở cấp vi mô. Quản lý nhà trường là một quá trình vận động của các thành tố tổ chức của nhà trường. Hệ thống đó bao gồm các thành tố cơ bản là: Chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, nội dung – phương pháp quản lý, mục tiêu quản lý” [37]. Các thành tố đó luôn vận động trong mối tương tác lẫn nhau, đồng thời diễn ra trong sự chi phối, tác động qua lại với môi trường kinh tế, chính trị, xã hội chung quanh mình.Tác động bên ngoài nhà trường gồm các cơ quan QLGD cấp trên, nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện GD, dạy học nhà trường. Tác động bên trong nhà trường là hoạt động của các chủ thể quản lý của chính nhà trường nhằm huy động điều phối giám sát các lực lượng GD của nhà trường thực hiện có chiến lược có hiệu quả các nhiệm vụ dạy học và GD đã đặt ra.

Theo tác giả Trịnh Thị Hồng Hà: “Quản lý nhà trường là quản lý GD tại cấp cơ sở trong đó chủ thể quản lý là các cấp chính quyền và chuyên môn trên trường, các nhà quản lý trong trường do Hiệu trưởng đứng đầu, đối tượng quản lý chính là nhà trường như một tổ chức chuyên môn – nghiệp vụ, nguồn lực quản lý là con người, cơ sở vật chất – kĩ thuật, tài chính, đầu tư khoa học – công nghệ và thông tin bên trong trường và được huy động từ bên ngoài trường dựa vào luật, chính sách,cơ chế và chuẩn hiện có” [29].

Theo tác giả Bùi Minh Hiền “Quản lý nhà trường là quá trình tác động có mục đích, có định hướng, có tính kế hoạch của các chủ thể quản lý (đứng đầu là Hiệu trưởng nhà trường) đến các đối tượng quản lý (giáo viên, cán bộ, nhân viên, người học và các bên liên quan…) và huy động, sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả các nguồn lực nhằm thực hiện sứ mệnh của nhà trường đối với hệ thống GD&ĐT, với cộng đồng và xã hội nhằm thực hiện mục tiêu GD đã xác định trong một môi trường luôn luôn biến động” [31].

Như vậy quản lý nhà trường là việc người Hiệu trưởng xây dựng mục tiêu, kế hoạch, tổ chức chỉ đạo thực hiện và kiểm tra đánh giá các kết quả đạt được so với yêu cầu và chuẩn mực đề ra trong chương trình giáo dục và nhiệm vụ năm học về chất lượng, phát triển toàn diện nhân cách học sinh.

1.2.4. Giáo dục an toàn giao thông Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Từ xưa đến nay, vấn đề an toàn giao thông luôn chiếm một vị trí quan trọng đối với các nước phát triển và đang phát triển. An toàn giao thông đang là vấn đề rất lớn và cần thiết trong đời sống của mỗi người dân. Nhưng hiện nay, tai nạn giao thông vẫn xảy ra với con số gia tăng. Đó là hồi chuông cảnh tỉnh mọi người trong toàn xã hội phải thay đổi thái độ sống, thực hiện tốt an toàn giao thông.

Theo Từ điển Tiếng Việt: “An toàn là đảm bảo tốt, không gây thiệt hại dù lớn hay nhỏ về vật chất và tính mạng của con người” [46]. An toàn giao thông là khái niệm luôn gắn liền với hoạt động của con người trong lĩnh vực giao thông.

Theo tác giả Đỗ Đình Hoà (Học viện cảnh sát nhân dân) thì: “An toàn giao thông là sự việc đảm bảo không có những việc xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của con người. Khi các đối tượng tham gia giao thông, đang hoạt động trên địa bàn giao thông công cộng tuân thủ các quy tắc an toàn giao thông, không có sự cố gây thiệt hại về người và tài sản cho xã hội”.

Đây là một khái niệm có tính chất khái quát cao và có ý nghĩa khoa học vì an toàn giao thông luôn gắn với hành vi của con người trong lĩnh vực giao thông song không nhất thiết phải có phương tiện giao thông (VD: Đi bộ trên vỉa hè). Quan niệm như vậy sẽ khái quát hơn so với việc coi an toàn giao thông là “bảo đảm an toàn khi đi trên các phương tiện giao thông” như một số tác giả khác.

An toàn giao thông phải luôn gắn liền với mọi người không kể ở đâu, lúc nào khi tham gia giao thông. An toàn giao thông gồm:

  • An toàn giao thông đường bộ.
  • An toàn giao thông đường sắt.
  • An toàn giao thông đường thuỷ (gồm nội thuỷ và hằng hải).
  • An toàn giao thông hàng không.

Bên cạnh đó còn có những vấn đề an toàn giao thông hỗn hợp như đường sắt và đường bộ.

Như vậy, An toàn giao thông là các hành vi văn hóa khi tham gia giao thông bao gồm việc chấp hành luật giao thông, phải có ý thức khi tham gia giao thông. An toàn giao thông còn là sự an toàn đối với người tham gia lưu thông trên các phương tiện đường bộ, hàng hải, hàng không, là sự chấp hành tốt các luật lệ về giao thông, cư xử phù hợp khi lưu thông trên các phương tiện giao thông. An toàn giao thông đang là vấn đề “nóng” luôn được sự quan tâm của xã hội.

1.2.5. Hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh trường tiểu học Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Khi bàn về lĩnh vực giáo dục, về cơ bản, các giáo trình về giáo dục học ở Việt Nam đều trình bày “Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – XH của các thế hệ loài người”. Giáo dục an toàn giao thông là một bộ phận của giáo dục.

Có rất nhiều các khái niệm về giáo dục an toàn giao thông: Giáo dục an toàn giao thông là quá trình giao tiếp giữa người dạy và người học để chia sẻ những kiến thức, kinh nghiệm trong lĩnh vực giao thông,nhằm định hướng, kêu gọi ý thức giao thông cao nhất cho mỗi cá nhân người học. điều kiện kinh tế xã hội và nhu cầu hiện nay, giáo dục ATGT cũng có thể xem là một tính cộng đồng khi tất cả các hoạt động xã hội đều có lồng ghép sự kêu gọi ý thức tham gia giao thông ở mỗi người.

Giáo dục ATGT là quá trình hình thành và phát triển kĩ năng tham gia giao thông an toàn dưới ảnh hưởng của tất cả các hoạt động từ bên ngoài, được thực hiện một cách có ý thức của con người trong nhà trường, gia đình và ngoài xã hội.

Giáo dục ATGT còn được hiểu là hệ thống những tác động có mục đích xác định được tổ chức một cách khoa học (có kế hoạch, có phương pháp, có hệ thống) của nhà trường nhằm phát triển kĩ năng và ý thức tham gia giao thông cho học sinh.

Đối với lứa tuổi học sinh tiểu học, hoạt động giáo dục ATGT được hiểu là quá trình truyền đạt những kiến thức và kỹ năng cần thiết về giao thông để mỗi cá thể học sinh khi tham gia giao thông đều có sự định hướng, ý thức hình thành và sự chấp hành, tuân thủ các luật giao thông đường bộ do nhà nước quy định. Đề từ đó làm căn cứ cho việc phát triển ý thức học tập hành vi giao thông tự chủ ở mỗi cá nhân các em HS về sau.

1.2.6. Quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh trường tiểu học

Cũng như quản lí giáo dục nói chung, quản lí hoạt động giáo dục an toàn giao thông là hoạt động có ý thức của con người nhằm theo đuổi những mục đích của mình. Mục đích giáo dục giáo dục an toàn giao thông cho học sinh cũng chính là một trong những mục đích của quản lý, đây là mục đích có tính khách quan. Nhà quản lý cùng với đội ngũ giáo viên, học sinh, các lực lượng xã hội, vv … bằng hành động của mình hiện thực hóa mục đích đó trong hiện thực.

Như vậy, “Quản lý hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học được hiểu là hệ thống những tác động tự giác, có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật của chủ quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha me học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học của nhà trường”.

Từ đây, ta có thể khái quát QLGD an toàn giao thông là sự tác động chủ đích,có căn cứ khoa học, hợp quy luật và phù hợp các điều kiện khách quan… của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm phát huy sức mạnh các nguồn giáo dục, từ đó đảm bảo các hoạt động của tổ chức hệ thống giáo dục đạt được mục tiêu giáo dục an toàn giao thông cho học sinh với chất lượng, hiệu quả cao nhất.

1.3. Đặc điểm hoạt động giáo dục an toàn giao thông ở trường Tiểu học Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

1.3.1. Đặc điểm của học sinh Tiểu học

Học sinh tiểu học là trẻ em, có độ tuổi dao động từ 6 đến 11 tuổi. Học sinh tiểu học có tình cảm hồn nhiên, trong sáng, nhận thức màu sắc cảm tính. Cùng với quá trình học tập và phát triển tâm lý, tình cảm của các em học sinh tiểu học được củng cố và phát triển trên cơ sở nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn đối tượng và chuẩn mực của các mối quan hệ trong cuộc sống của các em. Ở mỗi trẻ em, đều tiềm tàng những khả năng phát triển về trí tuệ, lao động, rèn luyện và hoạt động xã hội để đạt một trình độ nhất định về lao động nghề nghiệp, về quan hệ giao lưu và chăm lo cuộc sống cá nhân, gia đình.

Vì vậy, các em học sinh tiểu học chưa có đầy đủ ý thức, chưa có đủ phẩm chất và năng lực như một công dân trong xã hội, mà các em học sinh tiểu học rất cần sự giám hộ, bảo trợ, giúp đỡ của người lớn, của gia đình, nhà trường và xã hội. Các em học sinh tiểu học dễ thích nghi và tiếp thu cái mới và luôn hướng tới tương lai, nhưng cũng thiếu sự tập trung cao độ, khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ định chưa được phát triển mạnh, tính hiếu động, dễ xúc động còn bộc lộ rõ nét.

1.3.1.1. Đặc điểm nhận thức cảm tính và lý tính

Đặc điểm tâm lý và nhận thức của học sinh tiểu học tuy đơn giản, dễ nắm bắt nhưng rất khó định hướng và phát triển. Chỉ cần thiếu sự kiên nhẫn và tình thương thì việc giáo dục trẻ sẽ gặp nhiều khó khăn. Sự phát triển trí tuệ hay còn gọi là phát triển nhận thức của học sinh tiểu học đã được các nhà khoa học nghiên cứu và xác định hai quá trình từ cảm tính đến lý tính.

Nhận thức cảm tính là do các cơ quan cảm giác: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác đều phát triển và đang trong quá trình hoàn thiện. Và cơ quan tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan, đến cuối tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm.

Nhận thức lý tính

Về tư duy: Tư duy của trẻ mang đậm màu sắc xúc cảm và tư duy trực quan hành động chiếm ưu thế. Các phẩm chất tư duy chuyển từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quát. Khả năng khái quát hóa và phát triển dần theo lứa tuổi. Tuy nhiên hoạt động phân tích tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông học sinh tiểu học

Về tưởng tượng: Sự tưởng tượng của các em bắt đầu phong phú hơn so với lứa tuổi mầm non do có bộ não phát triển hơn và vốn kinh nghiệm ngày càng được tích lũy dần. Tuy nhiên ở lớp 1 và lớp 2, sự tưởng tượng của các em còn đơn giản, dễ thay đổi nhưng lên những lớp cao hơn, sự tưởng tượng bắt đầu hoàn thiện, có sự sáng tạo. Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Ngôn ngữ và sự phát triển nhận thức: Hầu hết học sinh tiểu học đều đã có ngôn ngữ thành thạo, trẻ vào lớp 1 bắt đầu tập viết đến khi học lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và hoàn thiện phần ngữ pháp, chính tả, ngữ âm. Nhờ có sự phát triển về ngôn ngữ mà trẻ trẻ có khả năng tự đọc, tự tìm hiểu, tự nhận thức và khám phá thế giới xung quanh

Trí nhớ: Giai đoạn lớp 1 và 2, khả năng ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều em chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết cách khái quát hóa hoặc xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu. Giai đoạn lớp 3, 4, 5 các em bắt đầu ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ cho các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, của môn học, yếu tố tâm sinh lý tình cảm hay hứng thú của các em…

Trên đây là những đặc điểm tâm lý và ý thức của học sinh tiểu học mà giáo viên và gia đình cần nắm rõ để có phương pháp giảng dạy và giáo dục con em mình hiệu quả hơn.

1.3.1.2. Đặc điểm tình cảm của học sinh tiểu học

Theo kết quả các nghiên cứu của M.S.eitec và P.I.Iakobson thì đứa trẻ 7 tuổi thường chưa có khả năng tri giác đúng đắn những biểu hiện giận dữ, sự sợ hãi và nỗi kinh hoàng của người khác. Do sự thiếu hoàn thiện trong tri giác và sự hiểu biết những tình cảm mà làm cho học sinh tiểu học thường hay bắt chước máy móc người lớn trong việc biểu hiện tình cảm của mình. Vì thế có thể nói tình cảm của học sinh tiểu học chưa bền vững, dễ thay đổi. Bởi vậy, cần kết hợp các phương pháp GDATGT cho trẻ với các đặc tính trên để đạt hiệu quả, đồng thời linh hoạt nội dung phương pháp GD theo sự phát triển từng khối lớp, từng học sinh phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ.

Khi nói về đặc điểm tâm lý tình cảm của học sinh tiểu học, vấn đề tình thân, tình bạn, … cũng là một yếu tố rất quan trọng trong quá trình phát triển của trẻ ở lứa tuổi này. Đối với các em học sinh tiểu học, tình cảm có vị trí vô cùng đặc biệt vì nó gắn kết nhận thức với hoạt động của trẻ em. Tình cảm tích cực sẽ kích thích trẻ em nhận thức tốt và thúc đẩy các em hoạt động đúng đắn. lứa tuổi này, đời sống xúc cảm, tình cảm của các em khá phong phú, đa dạng và cơ bản là mang trạng thái tích cực. Các em bỡ ngỡ, lạ lẫm nhưng cũng nhanh chóng bắt nhịp làm quen với bạn mới, bạn cùng lớp. Trẻ tự hào vì được gia nhập Đội, hãnh diện vì được cha mẹ, thầy cô đánh giá cao hay giao cho những công việc cụ thể. Các em đã biết điều khiển tâm trạng của mình, thậm chí còn biết che giấu khi cần thiết. Nhìn chung, học sinh tiểu học thường có tâm trạng vô tư, sảng khoái, vui tươi, đó cũng là những điều kiện thuận lợi để giáo dục cho các em những chuẩn mực đạo đức cũng như hình thành những phẩm chất trí tuệ cần thiết.

1.3.1.3. Đặc điểm về tính cách Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Việc hình thành nhân cách học sinh tiểu học mang những đặc điểm cơ bản sau: Nhân cách của các em lúc nào cũng mang tính chỉnh thể và hồn nhiên, luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng; những năng lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt. Việc hình thành nhân cách sẽ được hoàn thiện dần cùng với tiến trình phát triển của mình. GDATGT cho học sinh lứa tuổi hình thành nhân cách này là vấn đề rất phức tạp nhưng không phải nan giải.

Tri giác của học sinh tiểu học phản ánh những thuộc tính trực quan, cụ thể của sự vật, hiện tượng và xảy ra khi chúng trực tiếp tác động lên giác quan. Tri giác giúp cho trẻ định hướng nhanh chóng và chính xác hơn trong thế giới. Trong sự phát triển tri giác của học sinh, giáo viên tiểu học có vai trò rất lớn trong việc chỉ dạy cách nhìn, hình thành kỹ năng nhìn cho học sinh, hướng dẫn các em biết xem xét, biết lắng nghe.

Chú ý có chủ định của học sinh tiểu học còn yếu, khả năng điều chỉnh chú ý của các em có ý chí chưa mạnh. Do đó, việc sử dụng một số đồ dùng dạy học trực quan sẽ là phương tiện quan trọng để giáo viên tổ chức sự chú ý cho các em học sinh tiểu học, làm cho giờ học thêm hấp dẫn để kích thích và lôi cuốn sự chú ý của học sinh. Bên cạnh sự chú ý, thì trí nhớ cũng là một nét tính cách quan trọng của học sinh tiểu học. Lứa tuổi học sinh tiểu học sẽ có trí nhớ trực quan – hình tượng chiếm ưu thế nhiều hơn so với trí nhớ từ ngữ – logic. Tư duy của các em chuyển từ tuổi mầm non sang tuổi tiểu học, đến trường để học tập là tư duy cụ thể, thường dựa vào các đặc điểm trực quan sinh động của đối tượng và hiện tượng cụ thể. Trong quá trình hình thành và phát triển tư duy của các em học sinh tiểu học, tính trực quan cụ thể vẫn còn thể hiện ở các lớp đầu cấp là lớp 1 và lớp 2, sau đó mới chuyển dần thành tính khái quát hóa ở các lớp cuối cấp như lớp 4 và lớp 5. Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Tóm lại, học sinh tiểu học hồn nhiên, trong sáng, dễ thích nghi và tiếp nhận cái mới, luôn hướng tới tương lai nhưng các em chưa đủ ý thức, chưa đủ phẩm chất và năng lực như một công dân trong xã hội mà các em luôn cần sự bảo trợ, giúp đỡ, định hướng của người lớn, của gia đình, nhà trường và xã hội. Việc phát triển nhận thức cho học sinh tiểu học là một quá trình. Sự phát triển nhận thức cho trẻ ở lứa tuổi này về vấn đề ATGT đòi hỏi mỗi nhà GD phải kiên trì bền bỉ. Do đó, mỗi bậc cha mẹ, thầy cô trước hết phải là tấm gương cho trẻ trong công tác giáo dục.

1.3.2. Mục đích, ý nghĩa của giáo dục an toàn giao thông cho học sinh Tiểu học

Mục tiêu giáo dục an toàn giao thông ở trường tiểu học là một bộ phận quan trọng của quá trình giáo dục nói chung. Giáo dục an toàn giao thông góp phần thực hiện, mục đích chung của quá trình giáo dục, hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu nhưng rất quan trọng của nhân cách người công dân để các em nghiêm túc tuân thủ luật pháp, hiểu được tầm quan trọng của vấn đề ATGT.

Giáo dục an toàn giao thông ở Tiểu học nhằm đạt được mục đích sau:

Giúp học sinh có nhận thức về an toàn giao thông và các kỹ năng thực tế để áp dụng vào các hành vi hàng ngày khi các em đi trên đường. Học sinh phải biết về luật và hệ thống phương tiện giao thông, VD: Tránh xe thì phải tránh về bên phải, vượt xe là bên trái. Khi sang đường phải đi đúng phần đường cho người đi bộ và tín hiệu đèn xanh mới được đi… Phải bắt đầu từ những cái sơ khai nhất như đèn đỏ phải dừng lại, đèn xanh được đi.

Từng bước xây dựng cho các em học sinh ứng xử có văn hoá, đúng pháp luật, xoá bỏ những thói quen tuỳ tiện vi phạm quy tắc giao thông, hình thành cho các em ý thức tự giác tuân thủ pháp luật khi tham gia giao thông góp phần xây dựng môi trường giao thông trật tự, khoa học, an toàn, văn minh, thân thiện.

1.3.3. Nội dung hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh trong trường Tiểu học

Giáo dục an toàn giao thông cho các em học sinh tiểu học nhằm xây dựng ý thức giao thông cho các em từ nhỏ, hình thành những thói quen tốt sau này. Vì vậy, nội dung giáo dục pháp luật về an toàn giao thông cho học sinh tập trung nâng cao về nhận thức pháp luật và tâm lý pháp luật cho các em, cụ thể là: Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Bám sát nội dung của Luật giao thông đường bộ (Đã được Quốc hội Khóa 12 thông qua ngày 18/11/2008), những nghị định của Thủ tướng chính phủ, các văn bản dưới luật khác liên quan đến đảm bảo an toàn giao thông. Truyền thụ cho học sinh những hiểu biết có tính phổ biến, cần thiết về luật giao thông đường bộ và những quy định về giao thông đường sắt, đường thuỷ một cách dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với nhận thức của các em.

Lấy việc hình thành kỹ năng, hành vi đúng làm cơ bản. Giúp cho học sinh có hành vi đúng và biết cách xử lý các tình huống giao thông theo quy định của Luật giao thông đường bộ, khi đi đường học sinh không cần thuộc câu chữ trong luật nhưng có hành vi đúng theo quy định của Luật giao thông đường bộ.

Dạy từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó theo sự phát triển nhận thức của trẻ em, có nội dung trùng lặp (sự lặp lại) nhằm củng cố khắc sâu thêm và tăng cường rèn luyện kỹ năng.

Chủ đề giáo dục an toàn giao thông xoay quanh 8 nội dung sau:

  • Đi bộ và qua đường an toàn trên đường phố, trục lộ giao thông.
  • An toàn khi ngồi trên xe máy, xe đạp và các phương tiện giao thông khác.
  • Cách đi xe đạp an toàn trên đường phố (kỹ năng đi xe an toàn).
  • An toàn khi đi trên những phương tiện giao thông công cộng…
  • Hiểu biết các hiệu lệnh điều khiển và chỉ huy giao thông (Điều khiển giao thông của cảnh sát giao thông).
  • Đèn tín hiệu giao thông, biển báo hiệu giao thông, vạch kẻ trên đường…
  • Những điều kiện an toàn, chưa an toàn của đường phố.
  • Các loại đường giao thông và các phương tiện giao thông.
  • Tìm hiểu các nguyên nhân cơ bản gây tai nạn giao thông, cách phòng tránh tai nạn giao thông, trách nhiệm của học sinh trong việc đảm bảo an toàn giao thông.

Nội dung giáo dục ATGT đường bộ được quy định cụ thể đối với bậc Tiểu học theo những quy định luật pháp về trật tự ATGT và tập trung vào các vấn đề như sau:

  • Đi bộ trên đường an toàn, đi bộ qua đường an toàn, đi xe đạp trên đường an toàn.
  • Dự đoán để tránh các tình huống nguy hiểm, phòng tránh va chạm khi tầm nhìn bị che khuất và cảnh báo chơi đùa ở những nơi nguy hiểm dễ xảy ra tai nạn giao thông.
  • An toàn khi ngồi trên xe đạp, xe máy, quy định về đội mũ bảo hiểm; an toàn khi đi ô tô, xe buýt và các phương tiện giao thông đường thủy.
  • Hiệu lệnh của tín hiệu đèn giao thông, hiệu lệnh và chỉ dẫn của báo hiệu đường bộ, hiệu lệnh của cảnh sát giao thông; văn hóa khi tham gia giao thông [7].

1.3.4. Các hình thức giáo dục an toàn giao thông cho học sinh trong trường Tiểu học Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Trong các trường Tiểu học hiện nay, giáo dục ATGT được tiến hành theo một số hình thức chủ yếu sau:

1.3.4.1. Dạy, học ATGT theo tài liệu của Bộ GD&ĐT phối hợp với UBATGT Quốc gia biên soạn từ lớp 1 – lớp 5 trong chương trình giáo dục phổ thông

Điều 6 Luật giao thông đường bộ quy định: “Cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo có trách nhiệm đưa pháp luật giao thông đường bộ vào giảng dạy trong nhà trường phù hợp với các cấp học ngành học.”

Nghị quyết 32/2007/NQ-CP ngày 29/6/2007 của Chính phủ về một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế TNGT và ùn tắc GT: Bộ GD & ĐT có trách nhiệm: Ban hành chương trình GDTTATGT phù hợp trong nhà trường, tăng thời lượng giảng dạy chính khóa, các hoạt động ngoại khóa về TTATGT. Thực hiện chương trình giảng dạy TTATGT mới từ niên học 2008-2009 ở tất cả các cấp học.

Trên cơ sở các quy định trên, trong những năm qua, ngành giáo dục đã triển khai biên soạn và đưa vào giảng dạy bộ tài liệu giáo dục an toàn giao thông cho học sinh các bậc học từ mầm non đến đại học. Riêng đối với Tiểu học, từ lớp 1 đến lớp mỗi lớp có 6 bài học về ATGT trong Tài liệu Giáo dục ATGT, lớp 5 có 5 bài học về ATGT trong Tài liệu Giáo dục ATGT cho học sinh Lớp 5. Nội dung được hình ảnh hoá một cách sinh động, gắn với thực tế, giúp học sinh dễ hiểu, dễ tiếp thu, được biên soạn riêng cho từng lớp, mỗi lớp có nội dung chủ đề khác nhau, hoặc có cùng chủ đề nhưng khác nhau ở nội dung bài học cũng như các câu hỏi và bài tập, phù hợp với lứa tuổi của HS ở mỗi lớp. Các chủ đề cho từng lớp phù hợp với các chủ đề ngoại khoá về ATGT được thực hiện trong trường phổ thông.

Ngoài các tài liệu trên, hiện nay Quỹ TOYOTA Việt Nam đang phối hợp với Bộ GD&ĐT triển khai GDATGT cho học sinh lớp 1 bằng các nhân vật hoạt hình Rùa và Thỏ và Công ty TOYOTA Việt Nam triển khai thí điểm Sách ATGT cho nụ cười trẻ thơ do Honda tài trợ với 12 bài học bằng hình ảnh cho học sinh lớp 3.

Hiện nay, phương pháp giảng dạy ở bậc tiểu học đã được đổi mới không nặng về lý thuyết, cần được vận dụng triệt để trong giảng dạy về ATGT. Cụ thể: Dạy học tích cực với những hình thức hoạt động nhẹ nhàng sinh động trong từng bài dạy nhất là những bài học về ATGT là một nội dung khô khan đơn điệu dễ nhàm chán.

Để giúp các thầy giáo, cô giáo trong nhà trường tiểu học có thể thực hiện đổi mới phương pháp dạy học về ATGT, những bài học gợi ý trong sách giáo khoa được trình bày theo cấu trúc sau:

  • Mục tiêu bài học gồm toàn bộ những kiến thức, kĩ năng và thái độ mà các em HS cần phải đạt được sau mỗi bài học về ATGT. GV cần tập trung vào những mục tiêu giảng dạy để thực hiện bài dạy một cách có hiệu quả nhất.
  • Chuẩn bị nội dung giảng dạy là phần mà GV và HS chuẩn bị đồ dùng dạy học cho bài học về ATGT và các điều kiện cần thiết cho tiết học ATGT.
  • Các hoạt động dạy học về ATGT chủ yếu là những nội dung hoạt động dạy học cụ thể trong một tiết học nhằm đạt được mục tiêu của bài học.

1.3.4.2. Thực hiện dạy lồng ghép trong các môn học văn hóa Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Dạy lồng ghép có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học các môn học như: lồng ghép giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông… vào các môn học có liên quan như Đạo đức; TNXH, Khoa học … Cụ thể trong chương trình Tiểu học có:

Lớp 1: 3 tiết trong môn Tự nhiên – Xã hội và Đạo đức.

Lớp 2: Thời lượng: 2 tiết trong môn Tự nhiên – Xã hội.

Lớp 3: 1 tiết trong môn Tự nhiên – Xã hội.

Lớp 4: 1 tiết ở chủ đề Con người và sức khỏe trong môn Khoa học; 2 tiết trong môn Đạo đức.

Lớp 5: 1 tiết ở chủ đề Con người và sức khỏe trong môn Khoa học. 1.3.4.3. Tổ chức thông qua hoạt động GDNGLL

Tổ chức hội thi vẽ tranh, hội thi học tốt thể hiện những hiểu biết về ATGT.

Tổ chức sân chơi về ATGT nhằm thực hành kỹ năng ATGT đường bộ.

Tổ chức ký cam kết thực hiện ATGT giữa trường, học sinh, gia đình.

Sân khấu hóa hoạt động GD ATGT: tổ chức luyện tập chơi trò chơi và diễn những tiểu phẩm vui về ATGT…

Học sinh tham gia thi Giao thông thông minh trên trang web:http://gttm.go.vn/ Cuộc thi Giao thông thông minh trên Internet là một hoạt động nhằm giáo dục kiến thức, kỹ năng, thay đổi nhận thức, hành vi của học sinh, sinh viên và các đối tượng khác khi tham gia giao thông, góp phần xây dựng văn hóa giao thông

1.4. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục ATGT cho học sinh trong nhà trường Tiểu học Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Theo quan điểm phổ phận của quản lý giáo dục. dung cơ bản sau: biến hiện nay, quản lý hoạt động GD ATGT là một bộ Do đó quản lí hoạt động giáo dục ATGT theo các nội

1.4.1. Lập kế hoạch giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học

Lập kế hoạch là quá trình thiết lập, dự tính một cách khoa học các mục tiêu, nội dung, phương pháp, trình tự, thời gian tiến hành các công việc, chuẩn bị huy động các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực, thông tin,…) để triển khai các hoạt động một cách chủ động nhằm đạt kết quả cao nhất các mục tiêu giáo dục của nhà trường. Kế hoạch hoạt động GDATGT có thể tách riêng hoặc nằm trong kế hoạch tổng thể của một nhà trường, được xây dựng theo từng năm học, mang tính pháp quy, được cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp phê duyệt.

Hiệu trưởng dựa trên những định hướng lớn về hoạt động giáo dục an toàn giao thông của Đảng, chính phủ, Bộ GD&DT, các văn bản hướng dẫn thực hiện của các cấp quản lý và căn cứ vào điều kiện thực tế của nhà trường về tổ chức bộ máy, về nguồn lực và các điều kiện khác để xây dựng kế hoạch hoạt động. Kế hoạch phải mang tính cụ thể, tức là xác định mục tiêu cần đạt, dự kiến các nguồn lực để thực hiện (nhân lực, tài lực, vật lực), phân bố thời gian hợp lý và quyết định những biện pháp có tính khả thi để thực hiện. Kế hoạch giáo dục ATGT cho HS tiểu học phải thể hiện được các yêu cầu chủ yếu sau:

  • Khảo sát tình hình thực trạng nhằm định hướng các nội dung và hình thức giáo dục ATGT sao cho phù hợp với đặc điểm của nhà trường, của học sinh, của đội ngũ giáo viên, …
  • Xác định mục tiêu của hoạt động GD ATGT: Cần chỉ ra hoạt động GD ATGT nhằm vào đối tượng nào, giáo dục để đối tượng ấy thu nhận được những kiến thức, kỹ năng và có thái độ như thế nào. Nói cụ thể hơn là sau khi được giáo dục về ATGT thì các em học sinh sẽ đạt được mức độ như thế nào so với yêu cầu của pháp luật đối với một người tham gia giao thông.
  • Dự kiến các nguồn lực (nhân lực, tài lực, vật lực và thời gian) cho hoạt động GD ATGT: Đây là công việc chuẩn bị về lĩnh vực tổ chức nhằm định hướng được chọn ai, ở đâu để làm giảng viên, chi phí cho mọi hoạt động về GD ATGT sẽ nguồn nào, tài liệu và phương tiện vật chất khác (như hội trường, máy móc thiết bị, tranh ảnh tài liệu, mô hình, …) được khai thác ở đâu, thời lượng để thực hiện chương trình GD ATGT và tổ chức vào thời gian nào trong năm học, …

Dự kiến các biện pháp thực hiện và hình thức thực hiện mục tiêu GDATGT: Dự kiến các biện pháp và hình thức tổ chức là việc làm cũng không kém phần quan trọng. Việc này được thực hiện khi thực hiện chương trình GD ATGT. Nó thể hiện việc tổ chức giáo dục tập trung cả thời gian, hay tập trung từng giai đoạn, tổ chức thành lớp hay theo nhóm, ở tại trường hay tổ chức kết hợp với tham quan thực tế, …

1.4.2. Tổ chức hoạt động và tổ chức bộ máy GDATGT cho học sinh tiểu học Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

1.4.2.1. Tổ chức bộ máy

Để giúp cho mọi người cùng làm việc với nhau để thực hiện có hiệu quả mục tiêu GD ý thức ATGT cho HS, cần xây dựng và duy trì một cơ cấu nhất định về những vai trò, nhiệm vụ và vị trí công tác, đó chính là chức năng tổ chức trong quản lý giáo dục ATGT ở trường học.

Như vậy, chức năng tổ chức trong quản lý GD ATGT là việc thiết kế cơ cấu các bộ phận sao cho phù hợp với mục tiêu của tổ chức giáo dục ATGT cho học sinh trong nhà trường Tiểu học. Đồng thời việc thực hiện chức năng này còn phải chú ý đến phương thức hoạt động, đến quyền hạn của từng bộ phận, tạo điều kiện cho sự liên kết ngang, dọc, và đặc biệt chú ý đến việc bố trí cán bộ, giáo viên, các lực lượng khác – người vận hành các bộ phận của tổ chức.

Việc tổ chức hoạt động và tổ chức bộ máy GD ATGT trong nhà trường đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu về GD ATGT cho học sinh và tạo nên sức mạnh của tập thể, nếu việc phân phối và sắp xếp các nguồn lực được tổ chức một cách khoa học và hợp lý. Chúng ta có thể thực hiện chức năng này như một quá trình gồm 5 bước sau:

  • Bước 1: Lập danh sách các công việc cần hoàn thành để đạt được mục tiêu về GD ATGT cho học tiểu học.
  • Bước 2: Phân chia toàn bộ công việc thành các nhiệm vụ để các thành viên hay tổ nhóm trong và ngoài nhà trường thực hiện một cách thuận lợi và hợp logic.
  • Bước 3: Kết hợp các nhiệm vụ thực hiện GD ATGT một cách logic và hiệu quả.
  • Bước 4: Thiết lập một cơ chế điều phối, tạo thành sự liên kết hoạt động giữa các thành viên hay bộ phận chuyên môn, chức năng tạo điều kiện đạt được mục tiêu giáo dục một cách dễ dàng.
  • Bước 5: Theo dõi, đánh giá tính hiệu nghiệm của của cơ cấu tổ chức và tiến hành điều chỉnh nếu cần thiết để đảm bảo đạt được mục tiêu theo đúng tiến độ đã định.

Như vậy, để thực hiện được chức năng quan trọng này, hiệu trưởng hình thành một cấu trúc tổ chức tối ưu của hệ thống quản lý trong nhà trường về GD ATGT. Đó là sự phân quyền, phân nhiệm cho phó hiệu trưởng và các tổ chuyên môn; là việc xây dựng và phát triển đội ngũ nhân sự; là những quy định về cơ chế hoạt động phối hợp giữa chuyên môn với các đoàn thể trong nhà trường cùng bảo đảm thực hiện mục tiêu về GD ATGT đã đề ra; là sự phân bố nguồn lực và quy định thời gian cho các bộ phận nhằm thực hiện đúng kế hoạch đã định. Trong quá trình hoạt động của nhà trường, hiệu trưởng phải xác lập được một mạng lưới các mối quan hệ tổ chức và giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các bộ phận bên trong nhà trường cũng như mối quan hệ giữa nhà trường với cộng đồng xã hội để góp phần GD ATGT cho học sinh đạt hiệu quả tốt nhất.

1.4.2.2. Tổ chức các hoạt động giáo dục ATGT qua HĐGD NGLL

Thông qua các giờ chào cờ, các cuộc tuyên truyền, các cuộc thi tìm hiểu Luật giao thông GD cho học sinh thực hiện đúng luật giao thông, có văn hóa khi tham gia giao thông.

1.4.3. Chỉ đạo các hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Chỉ đạo là chức năng được thể hiện rõ trong nội dung của khái niệm quản lý. Sau khi lập kế hoạch và cơ cấu bộ máy GD ATGT trong nhà trường thì khâu vận hành và điều khiển hệ thống là cốt lõi của chức năng chỉ đạo. Nội dung của chức năng này là quá trình tác động của hiệu trưởng tới mọi thành viên của nhà trường, nhằm biến những yêu cầu chung về hoạt động GD ATGT của nhà trường thành nhu cầu, hoạt động của từng người, trên cơ sở đó mọi người tích cực tự giác tham gia và đem hết khả năng của mình để làm việc. Do vậy việc chỉ đạo các hoạt động GDATGT là cơ sở để phát huy các động lực cho việc thực hiện các mục tiêu GDATGT cho học sinh trong các nhà trường tiểu học.

Việc chỉ đạo các hoạt động GD ATGT, Hiệu trưởng cần thực hiện các nội dung sau đây:

Hiệu trưởng (hoặc trưởng các bộ phận) thực hiện quyền chỉ huy theo từng mảng công việc được giao và hướng dẫn triển khai các nhiệm vụ đã được nêu trong kế hoạch. Ban hành những quyết định quản lý đúng và kịp thời.

Thường xuyên đôn đốc, động viên và khuyến khích các cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh thực hiện.

Thực hiện giám sát việc triển khai nhiệm vụ của các cá nhân hoặc nhóm, bộ phận. Nếu có sai sót hoặc không hợp tình hình thực tiễn thì cần có phương án điều chỉnh kịp thời.

Thúc đẩy toàn bộ các hoạt động phát triển chung của nhà trường.

Để thực hiện tốt những nội dung trên, người Hiệu trưởng phải là người có tri thức, có kĩ năng ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định.

1.4.4. Kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục anh toàn giao thông cho học sinh tiểu học

Đây là chức năng quan trọng của nhà quản lý trong việc quản lý các hoạt động GD ATGT nói riêng, cũng như quá trình quản lý nói chung. Chức năng này không thể thiếu trong quá trình quản lý và là chức năng của mọi cấp quản lý. Kiểm tra, đánh giá là một hoạt động nhằm thẩm định, xác định một hành vi của cá nhân hay một bộ phận trong quá trình thực hiện quyết định. Ngoài ra, còn có thể hiểu kiểm tra là hoạt động quan sát và kiểm nghiệm mức độ phù hợp của quá trình hoạt động của đối tượng bị quản lý (GV, NV, HS,…) với các quyết định quản lý đã lựa chọn.

Trong việc kiểm tra, đánh giá các hoạt động GD ATGT, chức năng này thể hiện việc thực hiện các hoạt động kiểm tra/giám sát một cách chủ động đối với các công việc liên quan đến GD ATGT của nhà trường nhằm tìm ra, khẳng định những ưu điểm, phát hiện những hạn chế, sai sót, kịp thời thực hiện điều chỉnh cần thiết để hoạt động đi đúng hướng, đảm bảo thực hiện mục tiêu cuối cùng là hình thành ý thức chấp hành luật giao thông đường bộ cho học sinh. Trong quá trình vận hành các hoạt động giáo dục ATGT của nhà trường, nếu không đạt được kết quả mong muốn, Hiệu trưởng cần phải áp dụng các biện pháp điều chỉnh cần thiết để đạt được mục tiêu.

Quá trình kiểm tra, giám sát là tiến trình điều chỉnh và tự điều chỉnh liên tục và thường diễn ra theo trình tự sau:

Thiết lập các tiêu chuẩn mà một học sinh cần đạt được khi kết thúc một quá trình GD ATGT. Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Đo lường mức độ đạt được của học sinh so với tiêu chuẩn đã đề ra để có cơ sở tiến hành bước tiếp theo..

Tiến hành điều chỉnh sự lệch chuẩn nếu kết quả đo lường không đạt được mục tiêu. Khi đó, Hiệu trưởng phải xem xét lại quá trình thực hiện nhằm phát hiện những biện pháp, cách thức tổ chức chưa hợp lý để tiến hành điều chỉnh lại những biện pháp tổ chức của mình.

Có thể tiến hành điều chỉnh các tiêu chuẩn nếu cần thiết. Trên thực tế, có những vấn đề khi triển khai thực hiện mới lộ ra những bất cập, thiếu tính khả thi. Khi đó, việc kiểm tra giám sát sẽ giúp Hiệu trưởng thấy có thể có những tiêu chuẩn, tiêu chí không còn phù hợp phải thay đổi.

Như vậy, kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục ATGT là quá trình xem xét thực tiễn, đánh giá thực trạng về hoạt động giáo dục ATGT, qua đó khuyến khích những nhân tố tích cực, phát hiện những sai lệch và đưa ra các quyết định điều chỉnh kịp thời, nhằm giúp các bộ phận và cá nhân đạt được các mục tiêu về giáo dục ATGT cho học sinh đã đề ra. Trong quá trình thực hiện vai trò kiểm tra, hiệu trưởng cần phải xác định được kiểm tra, đo đường việc thực thi nhiệm vụ, so sánh, đối chiếu với mục tiêu đã đề ra và đưa ra quyết định điều chỉnh cần thiết. Cần thường xuyên đánh giá, sơ kết những thay đổi có được, mà không phải đợi đến cuối học kỳ hay kết thúc năm học

1.4.5. Quản lý sự phối hợp các lực lượng tham gia hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học

Nhằm ngăn chặn, đẩy lùi các vi phạm an toàn giao thông trong học sinh, góp phần thực hiện hiệu quả công tác giáo dục ATGT, Bộ GD-ĐT đã triển khai công tác giáo dục HSSV nắm vững các quy định của pháp luật khi tham gia giao thông.

Do vậy, các nội dung trọng tâm trong công tác giáo dục ATGT là các quy tắc giao thông đường bộ phù hợp với từng cấp học; các quy định về đội mũ bảo hiểm khi đi mô tô, xe gắn máy, xe đạp máy. Phổ biến cho HSSV các kiến thức cụ thể về bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản khi tham gia giao thông; cảnh báo các lỗi vi phạm các em học sinh thường mắc phải, những nguy cơ tai nạn và hậu quả phải gánh chịu khi các em vi phạm ATGT. Các sở GD-ĐT đã thực hiện chỉ đạo quyết liệt việc bắt buộc đội mũ bảo hiểm cho HS từ 6 tuổi trở lên; quy định rõ trách nhiệm của hiệu trưởng nhà trường trong việc triển khai và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện.

Tổ chức tập huấn về giáo dục ATGT cho đội ngũ giáo viên; rà soát lại toàn bộ chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức, thời lượng giảng dạy về trật tự ATGT đang thực hiện trong các trường học…

Các nhà trường phải thực hiện đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức giảng dạy về ATGT trong trường học; lấy thái độ, hành vi, trình độ nhận thức về thực hiện ATGT của HS là tiêu chí đánh giá, rèn luyện, xếp loại HS. Giáo viên chủ nhiệm nhắc nhở, có hình thức kiểm tra, giám sát hàng ngày đối với HS, thực hiện nghiêm túc kế hoạch giảng dạy ATGT theo quy định, giáo viên lồng ghép nội dung giáo dục ATGT trong các môn học.

Cùng với đó, việc yêu cầu sự vào cuộc của các cấp chính quyền, sự phối kết hợp của CMHS cũng được quan tâm. Hàng năm, các nhà trường tổ chức kí kết các văn bản cam kết giữa các lực lượng giáo dục trong việc thực thi giáo dục ATGT cho học sinh. Theo đó, trách nhiệm giữa các bên liên quan được quy định cụ thể nhằm đạt được mục tiêu chung: hình thành ý thức tham gia giao thông an toàn cho học sinh nhà trường

1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

1.5.1. Những yếu tố chủ quan

Nhà quản lý: Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm trước Đảng và Nhà nước về chất lượng và hiệu quả giáo dục của trường mình. Việc đưa giáo dục ATGT vào trong trường học có thực hiện thành công hay không, đầu tiên phải phụ thuộc vào nhận thức, trình độ tổ chức và năng lực triển khai trong thực tiễn của Hiệu trưởng. Giáo dục ATGT không thể triển khai nếu Hiệu trưởng không nhận thức đúng đắn về sự cần thiết phải giảng dạy ATGT. Để có thể hướng dẫn người dưới quyền thực hiện, Hiệu trưởng phải đưa ra những lý luận dạy học mới trong thực tiễn nhà trường, biết tổ chức học tập và tổng kết kinh nghiệm để nhân rộng. Ngoài ra, uy tín của Hiệu trưởng trong tập thể sư phạm có tác dụng như chất xúc tác, thúc đẩy sự phát triển của nhà trường.

Giáo viên: Giáo viên là yếu tố quan trọng nhất cho chất lượng giảng dạy bởi vì giáo viên là người hướng dẫn, dẫn dắt người học tiếp cận tri thức, kiến thức theo mục đích của chương trình giáo dục ATGT. Vì vậy, giáo viên ngoài việc nắm chắc kiến thức nội dung một bài học của mình truyền đạt, còn phải nắm được kiến thức của cả chương trình môn học, phần học để liên kết, hệ thống hóa kiến thức cần thiết giúp học sinh dễ nắm bắt những nội dung chính của bài học, môn học, phần học. Khi hiểu và vận dụng chắc kiến thức giáo viên sẽ tự tin trong quá trình truyền thụ tri thức đến cho học sinh, tránh được sự lệ thuộc vào giáo án, chủ động dẫn dắt người học tiếp cận kiến thức theo mục đích của giáo dục và của mình. Ngoài việc trang bị kiến thức lý luận về chuyên môn, đòi hỏi người giáo viên cần phải tìm tòi, học hỏi, tích lũy kinh nghiệm và kiến thức thực tiễn. Điều đó giúp bài giảng sinh động, gắn kết được nội dung bài giảng với thực tiễn thông qua những minh họa, ví dụ thực tiễn. Từ đó người học dễ tiếp thu bài, dễ nhớ bài bởi nội dung bài giảng gần gũi, gắn liền với cuộc sống. Cùng với đó, năng lực tổ chức hoạt động giáo dục ATGT sẽ gây được hứng thú học tập cho trẻ, kích thích sự suy nghĩ độc lập, sáng tạo của các em góp phần làm tăng hiệu quả giờ dạy.

Học sinh: Dạy học là một quá trình tác động qua lại biện chứng giữa người dạy và người học, người học là những đối tượng được tiếp nhận thông tin mà người dạy hướng đến, vì vậy, người học cũng có tác động không nhỏ đến chất lượng hoạt động của người dạy. Theo quan niệm mới về giáo dục hiện nay, khi người học là đối tượng trung tâm của quá trình giảng dạy, người học sẽ là chủ thể của quá trình nhận thức và chủ động trong việc tiếp nhận thông tin. Cho nên, chất lượng giảng dạy trong nhà trường hiện nay phải được xem xét trên phương diện tỷ lệ tri thức mà người học tiếp thu được. Mục tiêu của giáo dục ATGT tiểu học hiện nay là tạo được sự tương tác giao tiếp ATGT giữa các học sinh, giữa các tập thể, các lớp học sinh với nhau.

Gia đình: Đối với trẻ, gia đình và những người xung quanh có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành ý thức của bản thân mỗi em. Các thành viên trong gia đình cũng như người thân có chấp hành đúng Luật giao thông hay không có tác động rất lớn đến việc hình thành văn hóa giao thông cho các em.

Cơ sở vật chất, phương tiện giáo dục: ATGT là một trong những yếu tố quyết định đến kết quả dạy học. Nếu cơ sở vật chất tốt, hiện đại sẽ làm tăng thêm sự hấp dẫn, lôi cuốn của bài học, tạo môi trường thoải mái cho cả người dạy và người học; kích thích hứng thú học tập, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và giúp người học dễ dàng tiếp thu và ghi nhớ nội dung bài học.

1.5.2. Những yếu tố khách quan Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

Môi trường: Cơ sở hạ tầng, phương tiện giao thông đa dạng, hình thức tham gia giao thông, … cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới việc giáo dục cho học sinh. Môi trường thực tiễn tác động tới nhận thức và hành vi của trẻ, giúp trẻ chiêm nghiệm những bài học trên lớp. Những gì các em nhìn nhận được từ môi trường thực tế sẽ hình thành ý thức và kĩ năng tham gia giao thông của các em và dần hoàn thiện. Ngược lại, những điều em đã được học từ nhà trường sẽ không đạt được hiệu quả giáo dục, thậm chí còn làm phản tác dụng nếu môi trường giáo dục thiếu sự cộng hưởng.

Quy định pháp luật về ATGT: Là những qui định, điều luật về giao thông của pháp luật đã qui định.

Văn hóa giao thông: Là việc mọi đối tượng tham gia giao thông, thực hiện theo Luật giao thông một cách tự giác hay không tự giác. Bản thân họ có ý thức tham gia giao thông đúng quy định hay chưa.

Cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ: Quy hoạch tổ chức giao thông theo các tuyến, quy hoạch lòng đường hè phố văn minh, sạch đẹp, … giúp cho HS dễ dàng vận dụng những bài học từ trường lớp, từ đó hình thành ý thức tham gia giao thông.

Giáo dục giao thông ngoài nhà trường: Các hình thức ngoại khóa ATGT, các môn dạy lồng ghép cho đến các hình thức giáo dục, … việc tuyên truyền giáo dục thực tiễn về giao thông đường bộ cũng có tác động đến nhận thức của các tầng lớp nhân dân, trong đó có cả học sinh.

Tiểu kết chương 1

Hoạt động giáo dục ATGT là một bộ phận của giáo dục trong nhà trường, góp phần thiết thực trong việc hình thành nhân cách toàn diện cho học sinh.

Trong chương 1, tác giả đã tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về giáo dục ATGT, quản lý giáo dục ATGT, phân tích và hệ thống hóa những nội dung lý luận cơ bản như: khái niệm quản lý giáo dục, mục đích giáo dục ATGT, nội dung, hình thức giáo dục ATGT cho học sinh tiểu học và nội dung quản lý giáo dục ATGT theo 4 chức năng cơ bản của quản lý. Đó là:

  • Lập kế hoạch về giáo dục an toàn giao thông cho các em học sinh tiểu học
  • Tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho các em học sinh tiểu học
  • Chỉ đạo quản lý các hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho các em học sinh tiểu học
  • Kiểm tra, đánh giá, tổng kết, thi đua khen thưởng các hoạt động giáo dục an toàn giao thông cho học sinh tiểu học

Lứa tuổi học sinh Tiểu học đang phát triển mạnh về nhiều mặt: trí tuệ, thể chất, tình cảm,…Vì vậy giáo dục ý thức ATGT ở lứa tuổi này rất cần thiết để các em có những kiến thức, kĩ năng cơ bản ban đầu trong việc thực hiện ATGT.

Hoạt động quản lý giáo dục ATGT trong nhà trường chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như: gia đình, nhà trường, xã hội, sự phối hợp giữa các lực lượng, điều kiện cơ sở vật chất, môi trường sống, … Bởi vậy, người Hiệu trưởng không chỉ nắm vững những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý mà cần đề ra những biện pháp sáng tạo linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ATGT, từ đó đạt được mục tiêu giáo dục một cách hiệu quả nhất. Luận văn: Giáo dục an toàn giao thông cho HS huyện Thanh Sơn

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Luận văn: Tổng quan giáo dục giao thông huyện Thanh Sơn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464