Khóa luận: Pháp luật bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan

Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam

2.1. Các biện pháp bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam

2.1.1 Các biện pháp tự bảo vệ của chủ sở hữu

Biện pháp tự bảo vệ xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự của pháp luật Việt Nam, được ghi nhận tại Điều 9 Bộ luật dân sự năm 2015 và được cụ thể hóa tại Điều 198 Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi.

Biện pháp tự bảo vệ cho phép chủ thể bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được áp dụng những biện pháp nhất định để bảo vệ quyền của mình. Các biện pháp mà chủ thể bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể lựa chọn để áp dụng là: ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc người có hành vi xâm phạm phải xin lỗi, cải chính công khai; yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải bồi thường thiệt hại; yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong đó có tòa án và trọng tài bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; Khởi kiện ra t a án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình [16, Khoản 1 điều 198]. Chủ thể bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể sử dụng các biện pháp này bằng cách trực tiếp gặp chủ thể vi phạm hoặc sử dụng các phương thức khác như: gọi điện thoại, gửi thư qua bưu điện, gửi thư điện tử, FAX hoặc tiến hành những hành vi cụ thể để bảo vệ quyền sở hữu của mình. Người bị xâm phạm quyền sở hữu có thể lựa chọn áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khác nhau để tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình. Tuy nhiên, việc chủ thể áp dụng các biện pháp để tự bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan của mình không được trái với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.

Trong thực tế, khi quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm, biện pháp bảo vệ quyền đầu tiên được áp dụng là tự bảo vệ. Trước hết, biện pháp này tôn trọng quyền tự định đoạt của chủ thể. Hơn nữa, mặc dù không có sự can thiệp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng trong chừng mực nhất định, biện pháp này cũng giúp nhanh chóng ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm.

2.1.2 Các biện pháp pháp lý

  • Biện pháp hành chính

Xử lí vi phạm hành chính đối với quyền sở hữu trí tuệ là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp nhất định xử lí các hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng của cá nhân, tổ chức mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Xử lí hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan bằng biện pháp hành chính được quy định tại Mục 1 Chương XVIII Luật sở hữu trí tuệ, Chương IV Nghị định của Chính phủ số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lí nhà nước về sở hữu trí tuệ.

Đối với biện pháp hành chính, cách thức bảo vệ quyền của chủ thể bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ rất phong phú. Cụ thể, bao gồm các hình thức xử phạt hành chính (trong đó có hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung) và các biện pháp khắc phục hậu quả. Cảnh cáo và phạt tiền là hai hình thức xử phạt chính.

Bên cạnh đó, tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm, người xâm phạm c n có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung như sau: tịch thu hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ; đình chỉ hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm trong một thời hạn nhất định. Tuỳ từng trường hợp, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ c n phải chịu áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả như sau: buộc tiêu huỷ hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng tới quyền sở hữu trí tuệ; buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam đối với hàng hoá quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc buộc tái xuất đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ các yếu tố vi phạm trên hàng hoá.

Để bảo đảm việc xử lí các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng các biện pháp hành chính đạt hiệu quả, Luật sở hữu trí tuệ cho phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính. Các biện pháp cụ thể là: tạm giữ người, tạm giữ hàng hoá, tang vật, phương tiện vi phạm; khám người; khám phương tiện vận tải, đồ vật, khám nơi cất giấu hàng hoá, tang vật, phương tiện vi phạm về sở hữu trí tuệ; một số biện pháp khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính trong những trường hợp nhất định theo quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 215 Luật sở hữu trí tuệ. Theo Điều 211 Luật sở hữu trí tuệ, biện pháp hành chính áp dụng để xử lí những hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đến mức gây thiệt hại cho người tiêu dùng, cho xã hội.

Bên cạnh đó, tổ chức, cá nhân bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ yêu cầu cơ quan nào xử lí hành vi xâm phạm quyền sở hũu trí tuệ theo thủ tục hành chính cũng là một vấn đề lớn cần phải xem xét để hoàn thiện. Một vài giải pháp để giải quyết vấn đề này xin được đề cập ở chương 3.

  • Biện pháp hình sự

Khi hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng của cá nhân, tổ chức là hành vi nguy hiểm cho xã hội cấu thành tội phạm thì cá nhân, tổ chức đó bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc áp dụng biện pháp hình sự thuộc thẩm quyền của toà án.

Bộ luật hình sự quy định các tội danh và hình phạt tương ứng nhằm bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Để bảo vệ quyền tác giả, Bộ luật hình sự 2015 quy định hai tội: tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan [19, Điều 225] và tội vi phạm các quy định về hoạt động xuất bản [19, Điều 344].

  • Biện pháp dân sự

Biện pháp dân sự được áp dụng để xử lí hành vi xâm phạm theo yêu cầu của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra, kể cả khi hành vi đó đã hoặc đang bị xử lí bằng biện pháp hành chính hoặc biện pháp hình sự. Thủ tục yêu cầu áp dụng biện pháp dân sự, thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp dân sự tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Các tranh chấp sở hữu trí tuệ là loại tranh chấp dân sự, bởi vậy về nguyên tắc tranh chấp sở hữu trí tuệ được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự của Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định. Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều đặc thù của vi phạm, tranh chấp sở hữu trí tuệ, Luật sở hữu trí tuệ quy định nhiều nội dung cụ thể hơn so với Bộ luật tố tụng dân sự với mục đích giải quyết tốt loại vi phạm, tranh chấp này.

Khi bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, tác giả, chủ sở hữu của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học và tác giả, chủ sở hữu các quyền liên quan có quyền yêu cầu toà án bảo vệ quyền của mình. Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2014 (Điều 255, Điều 259, Điều 33, Điều 34), thẩm quyền giải quyết các tranh chấp sở hữu trí tuệ được xác định như sau:

  1. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
  2. Quyền yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp. Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.

Thủ tục tố tụng dân sự cho phép tác giả, chủ sở hữu của tác phẩm văn học, nghệ thuật, cũng như các chủ thể có quyền liên quan khác được quyền khởi kiện yêu cầu toà án công nhận quyền của mình; buộc người có hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan phải chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc người có hành vi xâm phạm phải bổi thường thiệt hại, phải thực hiện nghĩa vụ, phải xin lỗi, cải chính công khai; buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại các tác phẩm với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.

Theo biện pháp dân sự, t a án buộc cá nhân, tổ chức xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải bồi thường thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần cho các chủ thể quyền tác giả nói riêng và các quyền sở hữu trí tuệ nói chung. Tuy nhiên, khoản bù đắp tổn thất tinh thần chỉ dành cho tác giả các tác phẩm vãn học, nghệ thuật, khoa học, người biểu diễn; tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng mà không dành cho chủ sở hữu các đối tượng này. Mức bồi thường thiệt hại được xác định theo quy định tại Điều 205 Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009.

Trong trường hợp không xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất thì toà án có thẩm quyền ấn định mức bồi thường tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại nhưng không quá năm trăm triệu đồng (500.000.000. đồng). Mức bồi thường về tinh thần trong giới hạn từ năm triệu đồng (5.000.000 đồng) đến năm mươi triệu đồng (50.000.000 đồng).

Để bảo vệ quyền lợi các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, pháp luật quy định cho những chủ thể quyền sở hữu trí tuệ được yêu cầu toà án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời [16, Điều 206]. Biện pháp khẩn cấp tạm thời được toà án áp dụng theo thủ tục tố tụng dân sự. Luật sở hữu trí tuệ quy định các biện pháp tạm thời gồm: thu giữ, kê biên, niêm phong, cấm thay đổi hiện trạng, cấm di chuyển; cấm dịch chuyển quyền sở hữu. Tuy nhiên, cũng như việc áp dụng các biện pháp bảo đảm ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính, toà án chỉ ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong những trường hợp nhất định [16, điểm a, b khoản 1 Điều 206]. Thẩm quyền, thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự [20, Chương VIII, Phần thứ nhất].

2.1.3. Các biện pháp thương mại do nhà nước thực hiện

Biện pháp thương mại do nhà nước thực hiện là biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ. Cơ quan hải quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ. Cụ thể, cơ quan hải quan áp dụng hai loại biện pháp sau: tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; kiểm tra, giám sát để phát hiện hàng hoá có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Theo Điều 73 Luật hải quan năm 2014: “Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đã được bảo hộ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ có quyền đề nghị cơ quan hải quan áp dụng các biện pháp kiểm tra, giám sát hoặc tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Cơ quan hải quan chỉ quyết định tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu khi chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc người được ủy quyền hợp pháp có đơn đề nghị, bằng chứng về sở hữu hợp pháp quyền sở hữu trí tuệ, bằng chứng về việc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và đã nộp một khoản tiền hoặc chứng từ bảo lãnh của tổ chức tín dụng để bảo đảm bồi thường thiệt hại và các chi phí phát sinh theo quy định của pháp luật do việc đề nghị tạm dừng làm thủ tục hải quan không đúng.” Thủ tục cụ thể được quy định rõ tại điều 76 Luật Hải quan 2014.

2.2. Thực trạng bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan tại Việt Nam

2.2.1. Khuôn khổ pháp luật hiện hành của Việt Nam về bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan

  • Các văn bản pháp luật Việt Nam hiện nay về Sở hữu trí tuệ

Nhận thức được tầm quan trọng của tài sản trí tuệ trong đời sống xã hội hiện đại ngày nay cùng sự phát triển kinh tế quốc tế, Nhà nước đã đã quan tâm hơn tới việc ban hành các văn bản pháp luật, tạo ra hành lang pháp lý để tài sản trí tuệ được phát triển, tạo động lực cho chủ sở hữu tiếp tục sáng tạo. Sau những văn bản có tính chất nền móng như Nghị định 142-HĐBT ngày 14/11/1986 của Hội đồng Bộ trưởng quy định về quyền tác giả, Hiến pháp 1992 cũng có những quy định nền tảng cho pháp luật về sở hữu trí tuệ. Tiếp theo đó, Hiến pháp hiện hành 2013 cũng dựa trên nền móng của hiến pháp và pháp luật trước đó, hỗ trợ và khuyến khích sáng tạo, khẳng định sự bảo hộ mang tính hiến định của nhà nước với tài sản trí tuệ. Cụ thể, Điều 40, khoản 2 điều 62 Hiến pháp 2013 quy định:

  • Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó.”
  • Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.” Điều trên xuất phát từ mục đích: “Nhà nước, xã hội phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của Nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của Nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” [21, Điều 60].

Như vậy, hiến pháp hiện hành bảo vệ quyền thực hiện các hoạt động tạo ra tài sản trí tuệ của công dân, và bảo hộ quyền của công dân đối với tài sản trí tuệ đó.  Để thực hiện có hệ thống các nguyên tắc hiến định trên, pháp luật Việt Nam có nhiều văn bản quy định rõ hơn về việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng. Các văn bản Luật gồm có: Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009 với một số văn bản hướng dẫn như: Nghị định số 105/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ; Luật xuất bản 2012, Bộ luật Dân sự, Bộ luật hình sự hướng dẫn xử lý vi phạm về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng, …

  • Hội nhập quốc tế về quyền tác giả và quyền liên quan

Với chính sách hội nhập của Đảng và Nhà nước, Việt Nam đã và đang hợp tác, hội nhập quốc tế về quyền tác giả và quyền liên quan, trong đó có những điều ước quốc tế đa phương, song phương, các Hiệp định về kinh tế, thương mại.

Các điều ước quốc tế đa phương nổi bật có thể kể đến là:

  • Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật, có hiệu lực tại Việt Nam ngày 26/10/2004, hiện có 165 quốc gia thành viên.
  • Công ước Geneva về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống lại việc sao chép trái phép bản ghi âm của họ, có hiệu lực tại Việt Nam ngày 6/7/2005, hiện có 77 quốc gia thành viên.
  • Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng, có hiệu lực tại Việt Nam ngày 1/3/2007, hiện có 91 quốc gia thành viên.
  • Hiệp định TRIPS về những khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ, có hiệu lực tại Việt Nam ngày 11/1/2007, kể từ khi Việt Nam là thành viên của WTO, hiện có 157 quốc gia thành viên.

Các điều ước quốc tế song phương nổi bật:

  • Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ quyền tác giả, có hiệu lực ngày 23/12/1998.
  • Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Liên bang Thuỵ Sỹ về bảo hộ Sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực Sở hữu trí tuệ, có hiệu lực ngày 8/6/2000;
  • Hiệp định Thương mại giữa Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, có hiệu lực ngày 11/12/2001.

Một số Hiệp định về kinh tế, thương mại có các cam kết về Sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng:

  • Hiệp định khung về thương mại và đầu tư Việt Nam – Hoa Kỳ (TIFA), ký ngày 21/6/2007
  • Hiệp định hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản, ký ngày 8/10/2003 – Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Liên bang Nga về hợp tác trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, có hiệu lực từ 22/2/2010.
  • Các cam kết của Việt Nam khi tham gia WTO;
  • Cam kết của các nhà lãnh đạo tại các Hội nghị của APEC.

Nhận xét, đánh giá

Hầu hết các cam kết tại các điều ước quốc tế về cơ bản phù hợp với hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành, vì Việt Nam đã có bước tiến bộ mới trong hoạt động lập pháp về lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan trong những năm qua, đảm bảo cơ sở pháp lý cho hội nhập. Các luật chuyên ngành như Luật Xuất bản, Luật Báo chí, Luật Di sản văn hoá, Luật Điện ảnh, Pháp lệnh Quảng cáo và Pháp lệnh Thư viện có các quy định liên quan, phù hợp với từng ngành. Bộ luật Hình sự, Luật Hải quan, Pháp lệnh Xử phạt hành chính cũng có các quy định quan hệ tới quyền tác giả và quyền liên quan tùy theo tính chất và phạm vi điều chỉnh của mỗi luật. Như vậy, các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tác giả và quyền liên quan đã được ban hành tương đối đồng bộ, có hệ thống, đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội về quyền tác giả và quyền liên quan tại nước mình và tạo môi trường pháp lý cho hội nhập quốc tế.

Các cam kết quốc tế đã tác động sâu sắc đến toàn bộ hoạt động văn hóa, nghệ thuật và khoa học. Nó có tác động tích cực song cũng có những hạn chế bắt nguồn từ điều kiện kinh tế – xã hội của Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi.

Các cam kết tại các điều ước quốc tế đã tạo ra cơ sở pháp lý về việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ cho các nước thành viên. Việt Nam là nước đang phát triển, lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan lại rất mới mẻ và phức tạp, vì vậy việc thực hiện cam kết là một “gánh nặng” đối với các cơ quan, tổ chức và công dân. Hiện tại ở Việt Nam có 5 tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan, gồm: Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam, Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Việt Nam, Hội Bảo vệ quyền của nghệ sĩ biểu diễn âm nhạc Việt Nam, Trung tâm Quyền tác giả Văn học Việt Nam và Hiệp hội Quyền sao chép Việt Nam. Cũng theo đại diện các tổ chức này, nhiều năm qua, việc triển khai thực thi quyền tác giả, quyền liên quan còn khó khăn.

Việt Nam phải đầu tư nhiều nguồn lực mới bảo đảm thi hành tốt các cam kết trong khuôn khổ TRIPS, BTA, WTO và các điều ước đa phương, song phương mà Việt Nam đã ký kết, tham gia.

2.2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan ở Việt Nam hiện nay

  • Thực trạng

Trong những năm qua, chính sách bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan đã phát huy tác dụng tích cực. Hầu hết các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa – thông tin, từ báo chí, xuất bản, điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, nghệ thuật tạo hình đến phát thanh, truyền hình đều đã có ý thức tôn trọng quyền tác giả và quyền liên quan khi khai thác, sử dụng tác phẩm. Nhiều bộ, ngành, địa phương đã có các chương trình triển khai thực thi cụ thể, hiệu quả. Nhiều chủ thể quyền đã áp dụng các biện pháp để tự bảo vệ quyền của mình. Các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan đã được hình thành và đã có các hoạt động tích cực, hiệu quả.

Tuy nhiên, hiện nay, tại Việt Nam, mức độ vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan vẫn còn cao. Các hành vi in lậu văn hóa phẩm, sử dụng các tác phẩm âm nhạc mà không trả tiền cho chủ sở hữu, sử dụng các chương trình máy tính không có bản quyền và các hành vi xâm phạm tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hóa, và những hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan khác vẫn diễn ra tương đối thường xuyên. Tình trạng vi phạm bản quyền này đã gây thiệt hại cho chủ thể quyền và ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sáng tạo và ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, hợp tác kinh tế – văn hoá với các nước trên thế giới. Vi phạm bản quyền trong tất cả các lĩnh vực đang diễn ra rất phức tạp. Theo đánh giá của một số tổ chức theo dõi về sở hữu trí tuệ của thế giới thì tỷ lệ vi phạm bản quyền tại Việt Nam còn cao, nhất là trong các lĩnh vực băng đĩa âm nhạc, phần mềm máy tính và xuất bản.

Nguyên nhân của tình trạng nói trên trước hết là do nhận thức về quyền tác giả, quyền liên quan của của nhiều tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng tác phẩm còn nhiều hạn chế, đặc biệt là ý thức chấp hành pháp luật quyền tác giả, quyền liên quan chưa nghiêm túc. Ngoài ra, hệ thống thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan của các cấp, các ngành còn chưa đáp ứng yêu cầu theo quy định của pháp luật.

  • Vụ việc tranh chấp quyền tác giả: Vụ việc nhạc sỹ Trần Tiến – Tóm tắt vụ việc:

Tháng 5.1996, sau khi Sài G n Video sản xuất băng cassette có tựa đề “Tình khúc Trần tiến – Tạm biệt chim én” và tung ra thị trường, nhạc sỹ Trần Tiến đã có đơn khiếu nại gửi đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc Sài Gòn Video đã sử dụng 10 ca khúc của ông để sản xuất kinh doanh mà không hề xin phép, không trả tiền nhuận bút; tự ý cắt bỏ lời 3 của bài hát “Tạm biệt chim én”, bỏ một câu kết của bài “Cô bé vô tư”, sử dụng ba câu trong hai bài “Ngọn lửa cao nguyên” và “Chiếc v ng cầu hôn”, để ca sỹ Trung Đức hát sai một nốt nhạc trong bài “Tùy hứng lí qua cầu” và thay đổi tiết tấu trong bài “Vết chân tròn trên cát”; ngoài ra còn in ở bìa trang 2 hình ảnh cô gái ăn mặc hở hang, làm xuyên tạc nội dung ca khúc của ông.

Trong đơn khởi kiện của mình, nhạc sỹ đã yêu cầu Sài Gòn Video phải công khai xin lỗi ông trên các phương tiện thông tin đại chúng về các hành vi vi phạm trên, đồng thời phải bồi thường cho ông 50 triệu đồng (gồm tiền nhuận bút, tiền bồi thường tổn hại về vật chất và tinh thần, trong đó có khiến cho hợp đồng giữa nhạc sỹ Trần Tiến và Công ty vật phẩm văn hóa Thành phố Hồ chí Minh (kí ngày 16.4.1996) về việc sử dụng một số ca khúc của ông đã không thực hiện được). Sau phiên tranh luận tại tòa án, Hội đồng xét xử TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã căn cứ vào Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả về quyền tác giả năm 1994 (gọi tắt là Pháp lệnh) và các văn bản pháp luật có liên quan và tuyên bố:

Chấp nhận một phần yêu cầu của nhạc sỹ Trần Tiến buộc Sài Gòn Video phải xin lỗi công khai nhạc sỹ trên các phương tiện thông tin đại chúng vì các hành vi vi phạm trên.

Buộc Sài Gòn Video phải trả thù lao sử dụng 10 bài hát của nhạc sỹ và bồi thường thiệt hại hợp đồng đã ký giữa nhạc sỹ và Công ty vật phẩm văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.

  • Phân tích:

Vụ kiện của nhạc sỹ Trần Tiến với Sài G n Video là một trong những vụ kiện khá nổi bật về quyền tác giả trong lĩnh vực âm nhạc ở Việt Nam. Phán quyết của Toà án phù hợp với quy định của pháp luật về quyền tác giả vào thời điểm bấy giờ.

Các vi phạm của Sài G n video là: đã sử dụng 10 bài hát của nhạc sỹ trần Tiến mà không xin phép, không trả nhuận bút, thù lao. Hành vi này của Sài G n Video đã xâm phạm đến các quyền pháp lý mà tác giả được hưởng theo quy định tại điểm khoản 5 và 6 Điều 10 của Pháp lệnh: “Tác giả có quyền sau đây: …

  1. Hưởng nhuận bút hoặc thù lao khi tác phẩm được sử dụng
  2. Cho hoặc không cho người khác sử dụng tác phẩm của mình và được hưởng lợi ích vật chất từ việc cho sử dụng tác phẩm”.

Bên cạnh đó, hành vi xâm phạm của Sài G n Video c n làm tổn hại tới lợi ích của nhạc sỹ Trần Tiến và Công ty vật phẩm văn hoá TPHCM, cụ thể là khiến cho hợp đồng giữa nhạc sỹ và công ty không thực hiện được. Bởi hai lý do trên, việc nhạc sỹ Trần Tiến yêu cầu Sài Gòn Video bồi thường cho thiệt hại này là hoàn toàn có cơ sở pháp lý.

Ngoài ra, Sài Gòn Video còn xâm phạm quyền “được bảo hộ sự toàn vẹn tác phẩm, cho hoặc không cho người khác sửa đổi tác phẩm của mình” (khoản 3, Điều 10 Pháp lệnh) của nhạc sỹ Trần Tiến khi tự ý cắt sửa lời, sửa tiết tấu của một số ca khúc mà chưa được sự đồng ý của tác giả. Như vậy, với những hành vi nêu trên, có thể khẳng định rằng Sài Gòn Video đã xâm phạm nghiêm trọng quyền tác giả của nhạc sỹ Trần Tiến. Chính vì vậy, phán quyết của TAND Thành phố Hồ Chí Minh về các chế tài đối với đơn vị kinh doanh này là có cơ sở pháp lý.

Sài Gòn Video có thể lấy lí do “sản xuất chương trình” để không phải xin phép tác giả theo quy định tại khoản 2 Điều 33 Pháp lệnh, cụ thể: “Tổ chức sản xuất băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình khi sử dụng tác phẩm của người khác để sản xuất chương trình phải thực hiện các quy định sau đây: …

  1. Đối với tác phẩm đã công bố, không phải xin phép tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả, nhưng phải ghi tên tác giả, người biểu diễn, bảo đảm sự toàn vẹn của tác phẩm và trả thù lao

Tuy nhiên, trong trường hợp này, Sài Gòn Video đã sử dụng các tác phẩm của nhạc sỹ Trần Tiến để sản xuất băng cassette và bán ra thị trường nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận nên không thể được coi là “để sản xuất chương trình”.

  • Do đó, quy định này không áp dụng được với Sài Gòn Videos.

Qua thực tiễn xét xử vụ án này, có thể nhận thấy sự thiếu xót của Pháp lệnh trong việc quy định rõ khái niệm thế nào là “sản xuất băng âm thanh… để sản xuất chương trình”, vì vậy thực tế đã xảy ra việc lạm dụng quy định thiếu chặt chẽ của pháp luật để trục lợi và xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của chủ sở hữu quyền tác giả. Qua quá trình áp dụng trong thực tiễn quy định trên, các nhà làm luật cũng đã nhận ra và sửa chữa kẽ hở pháp lý này và hiện tại các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ, quy định này cũng đã không còn nữa.

2.2.2.3. Vụ việc tranh chấp quyền liên quan: Tranh chấp bản quyền phát sóng giải bóng đá Ngoại hạng Anh – Tóm tắt vụ việc:

Khoảng giữa tháng 07/2010 kênh truyền hình K + (“đứa con chung” giữa đài truyền hình VTV/VCTV và Hãng truyền hình Canal + Canal Overseas) tuyên bố đã có trong tay bản hợp đồng với nhà cung cấp để độc quyền phát sóng giải bóng đá Ngoại hạng Anh vào ngày Chủ nhật trên lãnh thổ Việt Nam. Sau khi K + tuyên bố, rất nhiều nhà đài đã phản ứng và xem đây là hành vi thể hiện sự độc quyền của K +. Nhiều người hâm mộ cũng lên tiếng phản đối vì phải tốn khá nhiều chi phí (mua đầu thu và trả phí hàng tháng cho K +) để xem được các trận đấu ngày Chủ nhật. Bộ công thương đã yêu cầu K+ đàm phán với các đài khác để giải quyết, nhưng khi việc đàm phán giữa các đài truyền hình theo chỉ đạo của Bộ TT &TT chưa tiến triển được bao nhiêu thì K + lên tiếng tố một số nhà đài đã vi phạm bản quyền khi phát sóng các trận đấu của giải Ngoại hạng Anh vào ngày Chủ nhật khi đơn vị này đang giữ độc quyền, đặc biệt là Truyền hình cáp Hà Nội (HCTV). Phía HCTV lại cho biết, họ đã mua được bản quyền từ kênh truyền hình True Sport (Thái Lan) để phát. Ngày 26/8, Bộ Thông tin – Truyền thông đã tổ chức cuộc họp giữa đại diện K+, MP & Silva. Đại diện HCTV không tới dự. Tại cuộc họp, K+ và MP & Silva đã công khai bản hợp đồng hai bên đã kí. Cục trưởng Cục Phát thanh truyền hình và Thông tin điện tử – ông Lưu Vũ Hải – đã xác nhận, bản hợp đồng độc quyền phát sóng gói Super Sunday của K+ với đối tác MP & Silva là hợp pháp, đồng thời yêu cầu các đài trong nước dừng việc phát sóng các trận đấu EPL ngay ở lượt trận thứ ba. Trong công văn mới nhất mà lãnh đạo True Vision – đơn vị sở hữu kênh True Sport – gửi cho Bộ Thông tin – Truyền thông đã khẳng định: “Các kênh True Sports chỉ để phục vụ khán giả tại Thái Lan. Tuy nhiên, có thể xảy ra việc tràn tín hiệu sang lãnh thổ cận kề Thái Lan. True Vision chưa bao giờ bán thuê bao hay đầu thu để xem các kênh True Sport tại Việt Nam”. Ngày 27-8, ban tổ chức giải ngoại hạng Anh cũng đã gửi đi thông cáo nhằm ngăn chặn việc phát sóng trái phép EPL tại Việt Nam. Thông cáo nêu rõ: “Việc các đài truyền hình ở Việt Nam thu sóng từ True Sports rồi phát trên hệ thống của mình là vi phạm bản quyền giải ngoại hạng Anh tại cả Thái Lan và Việt Nam. Bất kì đài truyền hình nào phát sóng EPL tại Việt Nam mà chưa được sự đồng ý của K+ đều là không hợp lệ”. Tới thời điểm này, K+ vẫn là đơn vị duy nhất có bản quyền phát sóng EPL ngày chủ nhật. Hiện tại HCTV đã ngừng phát sóng các trận đấu ngoại hạng Anh từ True Sports.

  • Phân tích

Trước hết, đây là một vụ việc tranh chấp bản quyền phát sóng. Khoản 3 Điều 35 Luật sở hữu trí tuệ có quy định, hành vi “Công bố, sản xuất và phân phối cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng mà không được phép của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng” là một hành vi vi phạm quyền liên quan được pháp luật sở hữu trí tuệ bảo vệ. Trong trường hợp này, có các hành vi sau được pháp luật quy định là hành vi xâm phạm quyền liên quan. Thứ nhất, các đài khác không mua hợp pháp tín hiệu phát sóng mà vẫn thực hiện việc thu phát giải bóng đá ngoại hạng Anh là vi phạm pháp luật sở hữu trí tuệ. Thứ hai, việc các đài truyền hình ở Việt Nam thu sóng từ True Sports rồi phát trên hệ thống của mình là vi phạm bản quyền giải ngoại hạng Anh tại cả Thái Lan và Việt Nam. Việc làm trái pháp luật kể trên xâm phạm nghiêm trọng tới quyền của tổ chức phát sóng được quy định tại điều 31 Luật Sở hữu trí tuệ. Vì vậy, các kênh này phải dừng việc thu phát chương trình này là hoàn toàn hợp lí.

Về phía K+, theo như thông báo của ban tổ chức giải bóng đá ngoại hạng Anh, K+ là đơn vị duy nhất có bản quyền phát sóng EPL ngày chủ nhật. Vì thế, theo khoản 20 Luật Sở hữu trí tuệ thì K+ có quyền độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện chương trình phát sóng đó. Nếu tổ chức, cá nhân nào khai thác, sử dụng quyền tài sản kể trên của K+ thì buộc phải xin phép, trả các quyền lợi vật chất cho chủ sở hữu. Vì vậy, yêu cầu các đài khác không được tiếp tục phát giải bóng đá ngoại hạng Anh là một yêu cầu hợp pháp.

Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng K+ đã vi phạm luật cạnh tranh khi tiếp tục giữ độc quyền phát sóng giải bóng đá ngoại hạng Anh, bởi phát thanh, truyền hình là lĩnh vực độc quyền nhà nước vì vậy nhà nước có quyền kiểm soát hoạt động của K+, có thể buộc K+ phải chia sẻ sự độc quyền của mình với các đài khác. Ý kiến trên là không đúng theo quy định của pháp luật. Ngoài dự thảo Danh mục hàng hóa, dịch vụ hoặc địa bàn thực hiện độc quyền nhà nước trong hoạt động thương mại, ban kèm theo Nghị định về hàng hoá, dịch vụ, địa bàn thực hiện độc quyền trong hoạt động thương mại, thì chưa có văn bản pháp luật nào quy định rõ về các loại hàng hoá dịch vụ nào thuộc độc quyền nhà nước. Hơn nữa, phát thanh, truyền hình cũng không nằm trong danh mục, vì vậy không thể nói đây là ngành dịch vụ nằm trong sự kiểm soát độc quyền của nhà nước. K+ có thể được phát sóng độc quyền chương trình trên theo như thoả thuận trong hợp đồng giữa K+ và MP&Silva, đã được Cục trưởng Cục Phát thanh truyền hình và Thông tin điện tử xác nhận là hợp pháp.

Từ thực tiễn vụ việc kể trên, có thể thấy pháp luật sở hữu trí tuệ của nước ta nói chung và các quy định về quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng vẫn còn rất nhiều những thiếu xót, bất cập cần sớm có những điều chỉnh chi tiết, cụ thể và đúng đắn. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lí nhà nước cần có sự quản lí tốt hơn để đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp cũng như quyền lợi của người dân.

2.2.3. Kết luận và những vấn đề đặt ra với việc bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan ở Việt Nam hiện nay

  • Kết quả đạt được

Các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về thực thi quyền tác giả và quyền liên quan đã bước đầu tạo cơ sở pháp lý nền móng cho việc bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan ở nước ta. Pháp luật quy định về quyền tác giả và quyền liên quan bao gồm những nội dung thiết yếu cho việc thực thi quyền tác giả, quyền liên quan của chủ sở hữu, cụ thể: Các quy định về hành vi vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan; các biện pháp thực thi quyền tác giả, quyền liên quan; hệ thống các cơ quan bảo đảm thực thi quyền tác giả, quyền liên quan. Những quy định này đã góp phần hình thành một cơ chế bảo đảm và một hành lang pháp lý cơ bản để thực thi quyền tác giả và quyền liên quan tại Việt Nam. Trước Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi bổ sung, các quy định về thực thi quyền tác giả và quyền liên quan còn chưa có tính hệ thống, thống nhất cao. Tuy nhiên văn bản pháp luật mới đã quy định cụ thể, rõ ràng hơn ví dụ như các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ cụ thể nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nào theo thủ tục tố tụng dân sự. Những quy định cụ thể này giúp chủ sở hữu quyền dễ dàng hơn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình, giảm bớt gánh nặng cho cơ quan nhà nước khi hỗ trợ, giải quyết các tranh chấp. Hơn nữa, hầu hết các quy định về thực thi quyền tác giả, quyền liên quan của pháp luật Việt Nam tương thích với các Công ước quốc tế quan trọng về quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả, quyền liên quan mà chúng ta đã ký kết và đang là thành viên như: Công ước Berne, Hiệp định TRIPs.

  • Hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được kể trên, pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ nói chung và quy định về quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng vẫn c n những tồn tại sau đây.

Thứ nhất, quy định về nguyên đơn trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015 chỉ nói chung về các nguyên đơn trong vụ án dân sự, không quy định rõ ai là người có quyền khởi kiện tranh chấp về sở hữu trí tuệ. Cụ thể pháp luật quy định: “Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu T a án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu T a án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn.” [20, khoán 2, điều 68]. Điều này dẫn tới hệ quả là trên thực tế, người có quyền khởi kiện đôi khi không hiểu rõ quyền lợi của mình mà bỏ mất quyền khởi kiện hoặc người không có quyền khởi kiện lại hiểu nhầm và khởi kiện nên không được Toà án giải quyết.

Thứ hai, quy định về chứng cứ trong tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng chưa được quy định rõ ràng. Khi giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, cũng như đối với các vụ án dân sự khác, “đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh” theo quy định của Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Tuy nhiên ngoài quy định tại Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về chín nguồn chứng cứ mà đương sự được sử dụng để đảm bảo nghĩa vụ chứng minh của mình thì chưa có văn bản pháp luật nào quy định về chứng cứ trong quá trình giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ. Điều này khiến việc chứng minh trong vụ án về quyền tác giả, quyền liên quan thường khó khăn hơn nhiều so với vụ án dân sự khác.

Thứ ba, các văn bản pháp luật liên quan đến sở hữu trí tuệ như Luật cạnh tranh cũng cần được điều chỉnh cho thống nhất và rõ ràng hơn, tránh việc lợi dụng kẽ hở pháp luật để trục lợi. Cụ thể qua vụ việc tranh chấp quyền phát sóng giải bóng đá ngoại hạng Anh, pháp luật cần sớm quy định rõ và đồng nhất danh mục các hàng hoá, dịch vụ do nhà nước độc quyền để ngăn chặn việc lợi dụng kẽ hở pháp luật để thu lợi. Dự thảo nghị định về hàng hoá, dịch vụ, địa bàn thực hiện độc quyền trong hoạt động thương mại đã có, tuy nhiên hiện vẫn c n nhiều tranh cãi và bất đồng quan điểm liên quan đến danh mục 20 hàng hoá và dịch vụ độc quyền nhà nước, khiến cho dự thảo chưa được thông qua và đưa vào thực tiễn áp dụng.

  • Vấn đề, thách thức hiện nay

Chúng ta đang sống trong thời đại toàn cầu hóa về kinh tế, văn hóa và cũng là thời đại bùng nổ thông tin và công nghệ, mà ở đó các loại hình tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được pháp luật bảo hộ đều có thể tồn tại trong môi trường kỹ thuật số nên người ta dễ dàng sao chép, dễ dàng phổ biến và dễ dàng lưu trữ chúng.

Cuộc cách mạng kỹ thuật trong phương thức tái bản, sao chép, lưu trữ thông tin bằng số hóa bao gồm cả các tác phẩm được bảo hộ quyền đã tạo ra hai mặt đối lập nhau. Một mặt, nó giúp cho tác giả có thể quảng bá tác phẩm của mình tới đông đảo công chúng một cách nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm hơn nhiều so với trước đây. Mặt khác, tiến bộ công nghệ này cũng tạo cơ hội cho việc phát sinh các hình thức khai thác và sử dụng bất hợp pháp mới. Thách thức trong vấn đề bản quyền ở kỷ nguyên kỹ thuật số là làm sao có thể bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu quyền tác giả và quyền liên quan trong việc sử dụng công nghệ mới để sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm của mình trong khi phải đối mặt với nạn khai thác và cạnh tranh bất hợp pháp ở khắp mọi nơi. Đó cũng là thách thức trong việc tự bảo vệ quyền của các chủ thể quyền, đồng thời cũng là thách thức đối với các cơ quan quản lý và thực thi về bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan.

Như vậy, chương 2 bao gồm nội dung về các biện pháp bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan và thực trạng bảo hộ quyền ở Việt Nam hiện nay. Thực tiễn thi hành pháp luật được thể hiện một phần thông qua hai vụ việc của nhạc sỹ Trần Tiến và vụ việc tranh chấp bản quyền phát sóng giải bóng đá ngoại hạng Anh. Từ đó, có thể thấy rằng vấn đề bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan hiện nay ở Việt Nam đã có sự chuyển biến, tuy nhiên vẫn c n nhiều hạn chế. Để bảo hộ tốt quyền tác giả, quyền liên quan không những đòi hỏi chính quyền cần có những biện pháp cụ thể, hiệu quả hơn, mà chính chủ sở hữu quyền cũng cần phải nâng cao nhận thức của mình để tự bảo vệ quyền lợi của bản thân.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464