Chia sẻ cho các bạn sinh viên ngành luật bài Báo cáo: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảm bảo quyền của công dân. Theo mình biết hiện nay có rất nhiều bạn sinh viên đang có một vấn đề chung là gặp khó khăn trong khi viết bài: luận văn, khóa luận, báo cáo, tiểu luận. Biết được điều đó nên mình đã ở đây để trợ giúp các bạn những bài báo cáo hay nhất. Sau đây là đề tài đầy đủ và cụ thể cho bài là Báo cáo: Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về đảm bảo quyền bào chữa của công dân. Hãy liên hệ với mình khi các bạn chưa lên được ý tưởng cho bài làm của mình nhé.
LỜI MỞ ĐẦU
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1991 đã được chứng minh về tính đúng đắn và tính định hướng, làm cho mọi người nhận thức rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nền tảng của Cương lĩnh này của Đảng chính là chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Báo cáo: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảm bảo quyền của công dân
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
Lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta gắn liền với công lao vô cùng to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo tiên phong của Đảng cộng sản Việt Nam. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng ta đã nhận thức ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là “một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”1. Trong hệ thống quan điểm đó, có tư tưởng về việc xây dựng một Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân, xây dựng một hệ thống pháp luật bảo đảm cho việc phát triển các quyền tự do và dân chủ của công dân, trong đó có quyền bào chữa và nhờ người khác bào chữa cho mình (từ đây gọi tắt là quyền bào chữa của công dân). Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh một cách thuyết phục nhãn quan chính trị và pháp lý sắc bén của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình giải quyết những vấn đề pháp lý phức tạp nảy sinh trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, mang đến tự do dân chủ cho nhân dân. Một trong những định chế thể hiện rõ nét tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của công dân chính là định chế về luật sư mà vai trò của nó ngày càng khẳng định trong quá trình phát triển dân chủ XHCN.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền bào chữa của công dân là một vấn đề lý luận chưa được quan tâm một cách thích đáng trong thời gian qua. Tư tưởng Hồ Chí Minh chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển khoa học xã hội của Việt Nam nói chung và công cuộc cải cách tư pháp nói riêng. Không thể hiểu biết một cách thật sự khoa học về bản chất và ý nghĩa, vai trò của luật sư và pháp luật về luật sư ở nước ta hiện nay nếu không nghiên cứu kỹ những tư tưởng nói trên. Về phương pháp tiếp cận với tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền bào chữa của công dân, cần đặt trong mối liên hệ không thể tách rời với hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là hình thức nhận thức xã hội nhất định liên quan đến cả một quá trình lịch sử của dân tộc; là sự chuyển hóa nhận thức đó vào trong các thể chế, các văn bản pháp luật.
Bài viết này bước đầu góp phần làm sáng tỏ các đặc điểm và nội dung chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền bào chữa của công dân, xem xét ảnh hưởng chi phối của tư tưởng đó trong tiến trình cải cách tư pháp và hoàn thiện chế định luật sư ở nước ta hiện nay.
1. Bối cảnh hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền bào chữa của công dân Báo cáo: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảm bảo quyền của công dân
Cho đến hiện nay, thời điểm hình thành nghề luật sư trên thế giới đang còn nhiều tranh cãi, nhưng xuất phát điểm của việc hình thành nghề nghiệp luật sư có căn nguyên sâu xa từ những áp bức và bất công trong xã hội. Đánh giá về cội nguồn lịch sử sâu xa của những bất công này, Lê-nin đã viết: “Tất cả các sách giáo khoa về lịch sử thời cổ, tất cả các bài giảng nói về vấn đề đó sẽ trình bày cho các đồng chí thấy cuộc đấu tranh giữa các Nhà nước quân chủ và cộng hòa; nhưng điểm căn bản là người nô lệ lúc ấy không được coi là người; không những không được coi là công dân, mà còn không được coi là người nữa. Luật pháp La Mã coi họ là các đồ vật. Không nói đến các luật lệ khác để bảo vệ cá nhân con người, ngay các luật lệ về tội giết người cũng không áp dụng cho người nô lệ”2. Tinh thần cao thượng, nghĩa hiệp của những hiệp sĩ thời xưa – những người không chỉ dùng tài hùng biện mà cả sự tinh thông về cổ luật để bênh vực cho những người bị áp bức bất công- phản ánh ước vọng ngàn đời của những tầng lớp nhân dân về sự công bằng, dân chủ hiểu như cách hiểu thời nay.
Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu vẫn quan niệm quyền bào chữa với tư cách là một chế định pháp luật lần đầu tiên được ghi nhận trong luật thực định là bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 và trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 và lịch sử nghề luật sư của Việt Nam chỉ xuất hiện vào thời điểm 1864 sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của chúng tôi, cùng với quan niệm chung của các hệ tư tưởng phương Đông coi các bậc vua chúa là kẻ bảo vệ dân và bảo vệ sự công bằng, thì quyền bào chữa đã được ghi nhận chính thức trong Lê triều hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức của thời nhà Lê (ban hành khoảng 1470-1497). Điều 691 của Bộ luật này quy định: “Những án xét rồi nhưng còn nghi ngờ thì chuyển qua quan viện thẩm hình, hội đồng nghị xét, hỏi tội phạm nhân đến khi họ nhận tội, nếu tội nhân không chịu nhận tội thì cho phép họ tự bào chữa, rồi xét lại kỹ lưỡng (“nhược bất phục thính kỳ tự lý”)3. Nếu chỉ xét trên bình diện này thì quyền bào chữa của cá nhân đã được ghi nhận trong luật thành văn của Việt Nam trước Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776 khoảng 300 năm. Nguyễn Ái Quốc vào thời điểm ra đi tìm đường cứu nước, bắt đầu có điều kiện tiếp xúc với những tư tưởng lịch sử và đương đại, chắc chắn đã nắm bắt được tinh thần nhân văn Á Đông trong cổ luật của nước ta để sau này sáng ngời thành tinh thần nhân văn pháp quyền. Báo cáo: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảm bảo quyền của công dân
Về phần mình, trước khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, có thể khẳng định rằng, Nguyễn Ái Quốc đã có điều kiện trực tiếp tiếp cận với các trào lưu tư tưởng pháp lý tiến bộ của giai cấp tư sản mới hình thành, trong đó phải kể đến Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776) và Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của Pháp (1789), cùng các tư tưởng và học thuyết về Nhà nước và pháp luật của giai cấp tư sản. Cơ sở để khẳng định điều này chính là sự phản ánh trong các bài viết, tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc đăng trên báo chí và sự vận dụng nhuần nhuyễn những tư tưởng pháp lý tiến bộ này được nâng lên từ quyền tự do dân chủ và nhân quyền của cá nhân thành quyền của các dân tộc trên thế giới.
Sau cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động phong trào công nhân, gia nhập Đảng Xã hội Pháp và hướng về nước Nga Xô viết, về chủ nghĩa Lênin. Sự tiếp thu tư tưởng nói trên đã đưa Nguyễn Ái Quốc đứng hẳn về phía Quốc tế cộng sản và trở thành người tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp; tiếp thu và dành nhiều thời gian nghiên cứu lý luận Mác-Lênin về cách mạng thuộc địa và xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc. Có thể nói, “hệ thống quan điểm lý luận về con đường cách mạng thuộc địa của Nguyễn Ái Quốc là sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết cách mạng của Mác, Ăngghen, Lênin với triết lý lịch sử phương Đông trở thành tư tưởng cách mạng chủ yếu hướng đạo phong trào dân tộc và các tổ chức chính trị theo khuynh hướng vô sản dẫn đến sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở nước ta vào năm 1929”4. Có thể nói, bắt đầu từ giai đoạn 1920 trở đi, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc nói chung, về vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội nói riêng đã được hình thành một cách cơ bản5.
Về phương diện xã hội, trước khi Bác Hồ đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, Người đã trực tiếp và qua nhiều kênh thông tin khác nhau, nhìn thấy những thảm cảnh mà đế quốc thực dân đã gây ra cho người dân thuộc địa. Người viết: “Tình cảnh nông dân các thuộc địa đó như thế nào ? Thật là khủng khiếp. Khó có thể nói được rằng ai trong số họ: người An Nam ở Đông
Dương, người da đen ở Cônggô hay là Xênêgan, hay là người bản xứ ở Bắc Phi- bị bóc lột nhiều hơn. Giữa những người đó có một cái chung: Tất cả họ bị dồn đến tình cảnh con vật thồ”6. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc vạch trần những tội ác tày đình của thực dân Pháp đối với dân tộc ta, thông qua chính sách thuế máu, chính sách ngu dân và đầu độc người bản xứ; những kẻ cai trị và “khai hóa” tàn ác; chính sách bóc lột người bản xứ và thứ công lý của kẻ thực dân7.
2. Một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền bào chữa của công dân Báo cáo: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảm bảo quyền của công dân
2.1.Chỉ có thể bảo đảm quyền bào chữa như là một trong các quyền tự do cơ bản của công dân khi đất nước được độc lập tự do:
Khi đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, Nguyễn Ái Quốc mới thật sự thấm nhuần tư tưởng về tự do dân chủ của người dân không thể tách rời với quyền của các dân tộc thuộc địa. Người khẳng định: “Trong con mắt của các dân tộc thuộc địa, trong lịch sử cuộc đời khổ đau và bị mất quyền của các dân tộc thuộc địa, Lênin là người sáng tạo ra cuộc đời mới, là ngọn hải đăng chỉ dẫn con đường đi tới giải phóng cho toàn thể nhân loại bị áp bức”8. Điều này cũng có nghĩa là sự thống nhất giữa mục tiêu giành độc lập dân tộc và thực hiện các quyền tự do dân chủ của nhân dân là đặc điểm chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta. Không có độc lập dân tộc thì không thể có quyền tự do dân chủ của nhân dân và ngược lại, không có quyền tự do dân chủ của nhân dân thì cuộc cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo và tiến hành mất đi động lực chủ yếu của nó. Nhờ có sự dìu dắt của Đảng, các tầng lớp nhân dân bị áp bức bóc lột không chỉ đi theo Đảng để đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến An Nam và giai cấp tư sản phản cách mạng, làm cho nước An Nam độc lập mà còn “đem lại mọi quyền tự do cho nhân dân”9.
Trải nghiệm qua thực tiễn của đất nước trong thời kỳ Pháp thuộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thấu hiểu hơn ai hết nỗi đau của người dân sống trong kiếp nô lệ và Người nhận ra chân lý là quyền và tự do của cá nhân, trong đó có quyền được hưởng sự công bằng về pháp luật và sự trợ giúp về mặt pháp lý, chỉ có thể được thể hiện một cách thực chất nhất khi dân tộc có được nền độc lập và tự do. Chính Người đã chuyển hóa một cách tài tình quan điểm về quyền và tự do cá nhân trong tư tưởng pháp lý tư sản thành quyền của “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”10. Trên một khía cạnh khác, Người quan niệm: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”11.
2.2 Vạch trần thứ công lý “giả tạo” qua cái gọi là sự khai hóa thực dân về pháp lý nhưng kế thừa các giá trị tiến bộ của chế định luật sư: Báo cáo: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảm bảo quyền của công dân
Mang nỗi đau buồn sâu sắc vì cả một dân tộc bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã đến với Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII của Đảng xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần sự tàn bạo đó thông qua hình ảnh: “Nhà tù nhiều hơn trường học, lúc nào cũng mở cửa và chật ních người. Bất cứ người bản xứ nào có tư tưởng XHCN cũng đều bị bắt và đôi khi bị giết mà không cần xét xử. Cái gọi là công lý Đông Dương là thế đấy! Ở xứ đó, người An Nam bị phân biệt đối xử, họ không có những bảo đảm như người châu Âu hoặc có quốc tịch châu Âu”12. Nguyễn Ái Quốc khi đi tìm con đường giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa thực dân, đã nhận ra bản chất sâu xa của cái gọi là “ưu việt của văn minh phương Tây” đó. Người viết: “Công lý được tượng trưng bằng một người đàn bà dịu hiền, một tay cầm cân, một tay cầm kiếm. Vì đường từ Pháp sang Đông Dương xa quá, xa đến nỗi sang được tới đó thì cán cân đã mất thăng bằng, đĩa cân đã chảy lỏng ra và biến thành những tầu thuốc phiện hoặc những chai rượu ty, nên người đàn bà tội nghiệp chỉ còn lại độc cái kiếm để chém giết. Bà chém giết đến cả người vô tội, và nhất là người vô tội”13.
Tuy nhiên, với nhãn quan chính trị và pháp lý sắc bén, sau khi giành được chính quyền dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan niệm quyền bào chữa là một trong những quyền tự do cơ bản của công dân, nên cần thiết phải duy trì tổ chức luật sư cũ do Pháp thiết lập từ năm 1864, có sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu mới của cách mạng. Trong hoàn cảnh chính quyền cách mạng non trẻ mới thành lập, phải chống chọi với thù trong giặc ngoài, thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng khác, nhưng chỉ sau 01 tháng 8 ngày kể từ khi công bố Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945, trong đó tạm thời cho duy trì các tổ chức đoàn thể luật sư theo Sắc lệnh ngày 25-5-1930 của Toàn quyền Đông Dương.
Với việc ban hành Sắc lệnh số 46/SL, Hồ Chí Minh đã quán triệt chủ nghĩa Mác- Lênin về tính kế thừa cách mạng, trong đó có sự vận dụng mang tính sách lược các quy định pháp luật cũ, miễn là nội dung không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hòa. Chính ở khía cạnh này, tư tưởng Hồ Chí Minh đã phát triển biện chứng ở chỗ Người luôn phân biệt một cách rành mạch giữa thứ “khai hóa pháp lý” mang tính nô dịch của chế định luật sư thời Pháp thuộc, với giá trị tư tưởng pháp lý và nhân quyền tiến bộ mà Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp 1789 đã khẳng định.
2.3. Đưa nguyên tắc “bảo đảm quyền bào chữa của công dân” thành nguyên tắc Hiến pháp, thực hiện chế định bào chữa viên nhân dân:
Không phải ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ khi thành lập chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân đã quan tâm điển chế hóa chế định luật sư thành chế định của Hiến pháp. Bởi lẽ, xuất phát từ quan niệm: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”14, luật sư với vai trò là người bảo vệ, giúp đỡ về mặt pháp lý cho người dân, đang thực hiện sứ mệnh thiêng liêng nhằm thực hiện một trong những quyền cơ bản của công dân là quyền bào chữa và nhờ người khác bào chữa cho mình. Suy rộng ra, nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của luật sư trong phát triển dân chủ và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, chính là nói đến vấn đề quyền con người được bảo đảm bằng pháp luật. Không thể nói đến dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nếu không đề cập đến một trong những chủ thể quan trọng, đóng vai trò nhất định trong thể chế xã hội và pháp lý- đó là luật sư.
Thật vậy, xuất phát từ quan niệm: “Nghĩ cho cùng vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này là vấn đề ở đời, và làm người”15, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người “khởi xướng nền chính trị và pháp quyền vì con người, cho con người và của con người”16. Để thực hiện cho được tư tưởng nhân quyền đó, Người đã cùng Đảng ta chỉ đạo việc xây dựng Hiến pháp năm 1946- bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á- chứa đựng những tinh hoa cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân của Đảng ta. Điều 67 của Hiến pháp năm 1946 quy định: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”. Sau này, Điều 101 Hiến pháp 1959 cũng khẳng định nguyên tắc: “Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm”.
Đây là một trong những quyền tự do cơ bản của công dân và từ đây, chế định luật sư đã trở thành chế định Hiến pháp- làm nền tảng cho toàn bộ hoạt động của luật sư trong chế độ XHCN và có được sự đảm bảo bởi đạo luật cơ bản của nước nhà và vai trò của luật sư trong cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng đã được khẳng định. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã đặt ra những thách thức “ngàn cân treo sợi tóc” với chính quyền cách mạng còn non trẻ. Trong giai đoạn này, một trong những vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta quan tâm là làm thế nào bảo đảm được các quyền và tự do dân chủ của nhân dân trong điều kiện chiến tranh? Chế định luật sư trong thời chiến sẽ được thực hiện như thế nào? Báo cáo: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảm bảo quyền của công dân
Ngày 18-6-1949, trong điều kiện cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn hết sức quyết liệt, giữa bộn bề công việc của chính quyền cách mạng, trong khi tổ chức hành nghề luật sư như quy định trước đây chưa có điều kiện thực tế để hoạt động, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 69/SL, quy định về chế định bào chữa viên nhân dân: “Từ nay đến khi nào có thể lệ khác, trước các tòa án thường và tòa án đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hình, trừ tòa án binh tại mặt trận, bị can có thể nhờ một công dân không phải là luật sư, bào chữa cho. Công dân do bị can đã tự chọn để bênh vực mình phải được ông Chánh án thừa nhận. Nếu bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án có thể, tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can, cử một người ra bào chữa cho bị can”17. Điểm đặc biệt của chế định này là: a) Bị can có quyền nhờ người bào chữa trước Tòa án; b) Người bào chữa cho bị can có thể không nhất thiết phải là luật sư; c) Người bào chữa này không được nhận tiền thù lao của bị can hay của thân nhân bị can. Có thể nói, chế định bào chữa viên nhân dân là một chế định đặc thù của một giai đoạn lịch sử cách mạng của nước ta, không giống với bất kỳ một chế định tương tự nào của các nước trên thế giới.
Cơ sở xã hội và tư tưởng cho việc hình thành chế định này xuất phát từ quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi quyền bào chữa là một quyền tự do dân chủ trọng yếu trong các quyền tự do dân chủ của người công dân và như Đại hội luật gia dân chủ quốc tế họp năm 1956 đã từng nhận định: Quyền tự do bào chữa là “thành trì cần thiết cho các quyền tự do khác”18. Xâm phạm đến quyền tự do bào chữa thì không thể nào thực hiện được các quyền tự do dân chủ khác, mặc nhiên thủ tiêu các quyền tự do đó. Tuy nhiên, sau khi giành chính quyền, đất nước bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ chống thực dân Pháp, mặc dù đã duy trì trên pháp lý tổ chức luật sư, nhưng thực tế hoạt động gặp rất nhiều khó khăn, trong đó phải kể đến tình trạng bị can chưa được sử dụng đầy đủ quyền chọn người bào chữa của mình, chưa có một “danh sách những người bào chữa” mà mình có thể lựa chọn. Hơn nữa, việc tổ chức phiên tòa và xét xử trong điều kiện thời chiến là cực kỳ khó khăn, “có khi phải xử án ngay trong lòng địch bằng những hình thức phiên tòa lưu động, lanh lẹ, những thủ tục đơn giản thích hợp”19. Bối cảnh thực tế đó là nguyên nhân khách quan dẫn đến việc Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định “biện pháp tình thế” là cho phép những người không phải là luật sư, nhưng do bị can lựa chọn hoặc Chánh án chỉ định được quyền bào chữa trước Tòa án.
Từ đây, có thể đi đến kết luận rằng, chế định bào chữa viên nhân dân hoạt động trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và kéo dài cho đến năm 1987, đã kịp thời phát huy tác dụng tích cực của nó trong việc tham gia và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trước Tòa án và đó là nét đặc sắc chưa từng có tiền lệ trong lịch sử nghề nghiệp luật sư trên thế giới.
2.4. Đấu tranh bảo đảm trên thực tế quyền bào chữa của công dân:
Mặc dù quyền bào chữa của công dân đã trở thành nguyên tắc Hiến định và tổ chức luật sư- bào chữa viên nhân dân đã được duy trì và hoạt động, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy trong điều kiện chiến tranh, quyền này không được coi trọng cả về quan điểm lẫn thực tế từ phía các cơ quan tư pháp, trong đó nổi lên là việc “chưa nhận thấy một cách sâu sắc tầm quan trọng của quyền tự do bào chữa trong chế độ dân chủ nhân dân của ta nói chung và trong nền tư pháp dân chủ nhân dân của ta nói riêng”20. Là người hết sức quan tâm đến công tác tư pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo Bộ Tư pháp lúc bấy giờ tự kiểm điểm lại việc thực hiện quyền bào chữa của bị can trong công tác điều tra và xét xử về hình sự. Người nói: “Công việc tư pháp cũng như mọi công việc khác càng làm ta càng tiến bộ, nhưng càng tiến bộ ta càng thấy rõ những sự trở ngại và những khuyết điểm nó còn sót lại. Và ta phải càng cố gắng để giải quyết hoặc khắc phục những trở ngại và khuyết điểm ấy”21. Theo kiểm điểm của Bộ Tư pháp vào thời điểm năm 1956, những biểu hiện của việc không coi trọng quyền bào chữa của bị can thể hiện ở chỗ trong điều tra thường có hiện tượng mớm cung, bức cung, trấn áp không để bị can được tự do khai nại, “đến nỗi nhân chứng khai có lợi cho bị can cũng bị trấn áp như bị can”; bị can ra trước Tòa không biết rõ nội dung buộc tội mình như thế nào để chuẩn bị việc bào chữa và sau khi tuyên án cũng có Tòa án không báo cho bị can biết họ có quyền kháng cáo; đoàn thể luật sư chưa được chú ý giúp đỡ trong khi chế độ bào chữa nhân dân chưa được xây dựng đến nơi đến chốn… Báo cáo: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảm bảo quyền của công dân
Vấn đề được coi là trở ngại lớn nhất chính là quan niệm về quyền tự do bào chữa của bị can và vị trí của bộ phận bào chữa trong toàn bộ công tác tư pháp. Dưới chế độ dân chủ nhân dân, cần quan niệm quyền bào chữa là một quyền tự do dân chủ trọng yếu trong các quyền tự do dân chủ của công dân, là “thành trì cần thiết cho các quyền tự do khác” và đã trở thành một nguyên tắc tố tụng căn bản phải được tôn trọng và triệt để thực hiện. Xâm phạm đến quyền tự do bào chữa thì không thể nào thực hiện được các quyền tự do dân chủ khác, “mặc nhiên thủ tiêu các quyền tự do đó”. Hơn nữa, chế độ bào chữa là một chế độ trọng yếu trong tố tụng, giúp cho công tác xét xử tiến hành được toàn diện và khách quan, xét xử được chính xác, bênh vực được quyền lợi hợp pháp cho bị can và bảo vệ pháp luật Nhà nước. Từ nhận thức đó, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 2225-HCTP ngày 24-10-1956 khẳng định “nếu bị can không được sử dụng đầy đủ quyền bào chữa thì không gọi là có công lý” và xác lập nguyên tắc tranh tụng bình đẳng giữa công tố viên và người bào chữa trong việc làm sáng tỏ sự việc, mới bảo đảm nguyên tắc tố tụng quan trọng là “trước khi tuyên án bị can phải được coi như người vô tội”, nghĩa to lớn của việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về bảo đảm quyền bào chữa của công dân chính là ở chỗ coi tư tưởng này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về luật sư ở nước ta hiện nay, vạch ra con đường tương lai sáng sủa và rộng rãi cho nghề nghiệp luật sư phát triển trong bối cảnh đổi mới của đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Không những thế, những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta là không thể thay thế được trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay, là hạt nhân cho sự nghiệp đổi mới hệ thống chính trị và là kim chỉ nam cho những định hướng phát triển đi lên CNXH của đất nước ta.
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp được ban hành như ngọn đuốc sáng dẫn đường cho tổ chức và hoạt động luật sư bước sang trang sử mới, với niềm tin mãnh liệt vào sự nghiệp đổi mới của Đảng và Bác đã vạch ra. Hơn lúc nào hết, dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng và khung pháp lý rộng rãi do pháp luật Nhà nước tạo ra, đội ngũ luật sư Việt Nam cần được nâng cao cả về số lượng, chất lượng chuyên môn và phẩm chất đạo đức để xứng đáng với lòng mong mỏi của Bác Hồ, sự tin cậy của Đảng và sự kỳ vọng của nhân dân. Báo cáo: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảm bảo quyền của công dân
Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com