Tiểu luận: Áp dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế ở Việt Nam

Chia sẻ cho các bạn sinh viên ngành luật Tiểu luận Áp dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế ở Việt Nam. Sự vận dụng quy luật luật giá Viêt Nam, đề tài tiểu luận môn pháp luận đại cương mới nhất dành cho các bạn tham khảo, ngoài ra viết luận văn luật còn hỗ trợ cho các bạn sinh viên đang gặp khó khăn trong việc hoàn thành môn pháp luật đại cương. Nếu như các bạn muốn tham khảo dịch vụ viết thuê môn pháp luận đại cương thì hẫy liên hệ cho mình nhé

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VIỆC ÁP DỤNG QUY LUẬT GIÁ TRị VÀO NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM

Mác từng khảng định ở đâu có kinh tế sản xuất hàng hoá thì ở đó có quy luật giá tị hiện nay nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn  hình thành và phát Triển cở chế thị trường cho nên việc vận dụng quy luật giá trị  là một quan đIểm tất yếu không tránh khởi .Nền kinh tế Việt Nam đã trai qua nhiều giai đoạn khác nhau ,quy luật giá trị lai được phát hiện và áp dụng theo nhiều cách khau rất phong phú và đa dạng phù họp đặc đúng của từng thời kỳ .Với cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp mà đạc trưng là nhà nước tiếp đIều khiển nền kinh tế bằng hệ thống các chỉ tiêu pháp lệnh : chỉ tiêu về sản lượng ,về  thu nhập ,về nộp ngân sách và tiêu thụ , về vốn và lãI suất tín dụng ngân hàng … giá cả do nhà nước quy định thực chất  cũng là một chỉ tiêu pháp lệnh mà giá cả lại là biểu hiện của quy luật giá trị. Chính vì vậy có thể nói trong thời kỳ này quy luật giá trị được áp dụng một cách cứng nhắc ,áp đặt này vào nền kinh tế thông qua việc định giá theo những chỉ tiêu có sẵn mà không để ý đến thực trạng của nền kinh tế Việt Nam .Cho đến những năm 1964, ở miền Bắc ,hệ thống giá chỉ đạo của Nhà nước đã được hình thành trên sở lấy giá thóc sản xuất trong nước làm căn cứ xác định giá chuẩn và tỷ lệ trao đổi hiện vật .Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 10 (khoáIII ) năm 1964 ,về công tác thương nghiệp và giá cả đã đánh giá : Hai hệ thống giá thu mua nống sản và giá bán lể hàng tiêu dùng đã được xây dụng tương đối hoàn chinh và cơ bản họp lý ,tỷ giá giữa hàng nông sản và hàng công  nghiệp nói chung thể hiện được mối quan hệ lớn của nền kinh tế quốc dân.

Hệ thống giá này về cơ bản được thực hiện  cho đến năm 1980 ,trong khi đIều kiện sản xuất ,lưu thông ,thị trường trong nước và quan hệ kinh tế đối ngoại đã có những thay đổi lớn. Hệ thóng giá chỉ đạo của nhà nước ngày càng thấp xa so với giá thị trường tự do. Việc duy trì giá mua nông sản thấp ,giá bán hàng công nghiệp cũng thấp nguyên nhân chủ yếu do kìm hãm sự phát Trion sản xuất nông nghiệp ,sản xuất công nghiệp ,lầm rối loạn phân phố lưu thông gây khó khăn cho ngân sách Nhà nước .Việc duy trì hệ thống giá này chủ yếu là do chúng ta có được sự viện trợ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước Đông Âu trước đây. Tiểu luận: Áp dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế ở Việt Nam

Có thể khái quát quá trinh diễn biến giá cả cho đên đầu năm 1991 như sau :Hầu hết hàng hoá và dịch vụ lưu thông trong xã hội đều theo chỉ đạo của Nhà nước ( ví dụ giá gạo 0.4đ/kg ,bán theo định lượng ). Suốt thời kỳ Nhà nước chỉ đạo giá cho đến trước cải cách giá năm 1981 trên thị trường có hai hệ thống giá :giá chỉ đạo của Nhà nước áp dụng trên thị trường có tổ chức và giá thị trường tự do biến động theo quan hệ cung cầu .Đặc điểm của giá chỉ đạo là không chú ý đến quan hệ cung cầu và gần như bất biến.

Cả giá chỉ đạo của Nhà nước và giá thị trường tự do đều không có quan hệ với giá thị trường thế giới  .Tỷ giá ở khu vực áp dụng Từ NĂM 1958-1980 vẫn là 5.644đ/rúp (tỷ giá kết toán nội bộ) .Đây chính  là cơ sở quan trọng để an định toàn bộ giá nội địa mà thực chất là sự bao cấp qua giá tư liệu sản xuất.

Các quan điểm cơ bản để chỉ đạo chính sách giá cả trong thời kỳ này:

  • 1)Hệ thông giá trong nền kinh tế phải được  chỉ đạo tập trung ,do Nhà nước quy định và đưa vào cuộc sống như những chỉ tiêu pháp lệnh của kế hoạch Nhà nước.
  • 2)Giá cả phải được an định và Nhà nước chủ  trương phấn đấu tạo đIều kiện đẻ hạ giá .
  • 3)Quan hệ cung cầu chỉ có ảnh hưởng đến giá cả những hàng hoá không thiết yếu và không có vị trí quan trọng trong nền kinh tế .
  • 4)Giá cả được xây dựng trên cơ sở lấp giá thị trường trong nước làm căn cứ ,tách rời hệ thống giá quốc tế theo chử chương xây dụng hệ thống giá độc lập ,tự chủ.

Thực tiễn phát Trion kinh tế qua mấy thập kỷ qua cho ta thấy,khi đánh giá chính sách giá cả cần phải xem trọng hai yếu tố :

Một là mô hình cơ chế kinh tế và quản ký kinh tế kiểu cũ với những đặc trưng cơ bản của no liên quan mật thiết đến các chính sách, đến sự hình thành giá cả trong hơn hai thập kỷ .

Hai là thực tiễn vận hành chính sách giá cả ,nhất là trong thời kỳ 1964-1975.

Yếu tố thứ nhất đã quyết định tính kế hoạch cao độ ,tính tập trung ,pháp lệnh của chính sách giá cả.Yếu  tố thứ hai có tác  động nổi bật yêu cầu  ổn định lâu dà i hệ thống giá. Tiểu luận: Áp dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế ở Việt Nam

Song ,điều đáng chú ý là từ những năm 1975 ,sau ngày miền Nam được giải phóng ,cùng với quá trình thống nhất đất nước về chính trị và quân sự ,việc thống nhất về thể chế kinh tế cũng được xúc tiến và được khảng định trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần IV tháng 12năm 1976 .Quá trình thống nhất về thể chế kinh tế trong cả nước ,trên thực tế là sự dập khuôn gần như toàn bộ thể chế kinh tế đã tồn tại trước đó ở miền Bắc .Để thực hiện được thể chế kinh tế thống nhất đó ,đòi hởi phảI tiến hành ở miền Nam các cuộc cảI tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh với quy mô rộng khắp nhằm quốc hữu hoá các cơ sở công thương nghiệp tư nhân ,xoá bỏ tư thương tổ chức lại thị trường theo hướng quốc doanh ,hợp tác xã và tổ hợp ,tiến hành hợp tác xá nông nghiệp  với mức độ khác nhau .

Như vậy ,lịch sử phát Triển kinh tế nước ta một lần nữa lại lặp lại thời kỳ trì trệ ,bảo thủ .Sự thống nhất đất nước ,đáng lẽ phảI mở ra một thời kỳ mới ,phát huy cao độ các động lục nền kinh tế hàng hoá và làm cho chúng trở thành đòn bảy mạnh mễ thúc đảy nền kinh tế đI lên .Song thực tế đã không diễn ra như vậy .Trong thời kỳ 1976-1980,khi chiến tranh đã chấm dứt ,cả nước chuyển sang nhiệm  vụ xây dựng kinh tế làm trọng tâm thì cơ chế giá  “thời chiến” không còn lý do tồn tại .

Trước đây ,chúng ta đã mắc sai lầm khi cường điệu tính hợp lý của hệ thống giá mua ,giá bán lẻ và giá tư kiệu sản xuất nhập khẩu vơI tỷ giá kết toán nội bộ 5.644đòng /rúp mậu dịch ,được định ra ngay sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi .

Trong giai đoạn này ,cùng với việc thống nhất thể chế kinh tế ,nhiều vấn đề mới nảy sinh .

Đất nước thống nhất đã tạo ra niềm phấn khởi lạc quan cả về chính xã hội và kinh tế  .Tuy nhiên ,những khó khăn mới cũng xuất hiện .Trước hết là sự thiếu hụt nguồn tàI trợ ,sự bùng nổ về tiêu dùng ,về công ăn việc làm đã bị dồn nén qua nhiều năm chiến tranh .

Cuộc cảI tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở các tỉnh phía Nam trên thực tế khong thu được  k ết quả mong muốn .Một bộ phận của khu vực kinh tế này đã được quốc doanh hoá và tập thể hoá ,nhưng hiệu quả rất thấp .Một bộ phận khác tiếp tục tồn tại và phát Triển thông qua thị trường tự do ,trong đó một bộ phận đã chuyển thành kinh tế ngầm .Thị trường tiếp tục bị phân hoá mậnh ,hàng hoá ngày càng khan hiếm ,chủ nghĩa vị bản ,cục bộ phát Triển mạnh cùng với cơ chế cấp phát vật tư ,tiền vốn theo chỉ tiêu kế hoạch đã kính thich các địa phương hình thành hàng loạt tổ chức kinh tế quốc doanh ,hoạt dộng bất chấp hiệu quả kinh tế ,nhằm bòn rút ,giành giật vốn liếng từ trung ương để kinh doanh ,mua đi bán lại ăn giá chênh lệch giá ,tăng thêm nguồn thu cho ngân sách địa phương .Để bảo vệ lợi ích cục bộ ,chính quyền địa phương đã sử dụng các biện pháp hành chính nhằm “ngăn sông ,cấm chợ “ ,chia cắt thị trường theo địa giới hành chính ,làm cho hàng hoá ,tiền tệ bị ách tắc nghiêm trọng .”Theo số liệu thống kê thời kỳ này ,mức tăng trưởng bình quân của công nghiệp nói chung chỉ đạt 0.6%năm .Nền kinh tế bước vào giai đoạn suy thoái nghiêm trọng ,lợi tức đầu tư giảm sút .Tổng giá trị đầu tư tăng bình quân 5.7%năm ,riêng đầu tư cho công nghiệp tăng 14%, nông nghiệp –0.9%, lâm nghiệp –11.8%; trong đó tổng sảm phẩn xã hội chỉ tăng bình quân –1.4% .tổng hàng háo bán lẻ giảm 3.5%năm ,xuất khẩu không đáng kể .Cơ cấu đầu tư vẫn thực hiện theo nguyên tắc cũ là yêu tiên phát Triển công nghiệp nặng ,mà chủ yếu là công nghiệp hướng nội .Tỷ trọng vốn đầu tư cho công nghiệp nặng chiếm 42-48%;nông nghiệp –19-20% ;công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến chỉ chiếm 10-11%” (14) .Cơ cấu đầu tư như vậy không tận dụng được tiềm lực tài nguyên và nguồn nhân lực phong phu của đất nước ,và cũng như kỹ thuật tiên tiến của thế giới ,do đó càng đầu tư thì hiệu quả càng giảm sút ,tình trạng thiếu vốn ,thiếu hàng hoa ,thiếu công ăn việc làm ngày càng gay gắt .

Cùng với việc các tổ chức kinh tế quốc doanh địa phương mọc lên nhanh chóng ,bộ máy hành chinh kinh tế từ trung ương đến tỉnh ,huyện ,xã đã phình lên ,tạo ra tình trạng thừa người thiếu việc làm nghiêm trọng .Trong kinh tế quốc doanh và trong bộ máy Nhà nước hình thành hệ thống quan liêu mà cho đến ngày nay vẫn còn là gánh nặng đối với toàn bộ nền kinh tế . Tiểu luận: Áp dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế ở Việt Nam

Việc duy trì chính sách tàI chính ,tín dụng ,chính sách giá cả và tiền lương theo kiểu cấp phát ,giao nộp hiện vật bình quân của nền kinh tế thời chiến gây ra tác hại nghiêm trọng đối với nền kinh tế .Đồng thời cũng xuất hiện mức chênh lệch ngày càng lớn giữa mặt bằng giá do Nhà nước quy định và mặt bằng giá thị trương tự do ,trong đó giá thị trương tự do cao gấp 7-8lần giá do Nhà nước quy định.

Trên thực tế ,sự đánh giá quá cao tiềm năng kinh tế của miền Nam sau ngày giảI phóng ,vận dụng một cách duy ý chi cơ chế kinh tế cũ trên phạm vi cả nước và những sai lầm trong chính sách đầu tư ,trong cảI tạo kinh tế tư nhân đã làm đảo làm đảo lộn kế hoạch phát Triển năm năm 1976-1980 .: “  chỉ tiêu về kế hoạch sản lượng lương thực dự định đến năm 1980 là 21 triệu tấn nhưng chỉ đạt 14 triệu tấn ,băng 69% than đạt 52% ,gỗ 455 ,đIện 72% ,xi măng 32% … các mục tiêu cải thiện đời sống và nâng cao phúc lợi xã hội không thực hiện được tiềm lực phát Triển bị kìm hãm ,động lực kinh tế bị vô hiệu hoá “(15)

Đời sống của nông dân ,công nhân viên chức lực lượng vũ trang giảm xút nghiêm trọng . Thực trạng kinh tế đó đã làm lung lay các các tư tưởng cổ đIển và làm xuất hiện những ý tưởng cải tạo đầu tiên trên một số lĩnh vực kinh tế nóng bỏng nhất như chính sách giá cả ,cơ chế kế hoạch hoá chính sách tàI chính

chính sách đầu tư và hiệu quả kinh tế quốc dân , Nhiều cuộc tranh luận đá diễn ra khá sôI động .Hai vấn đề trọng tâm đã được đề cập trong nghị quyết hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 là nâng cao hiệu quả kinh tế của sản xuất và hạn chế một bước cơ chếquản lý hành chính tậ trung , chú ý hơn đến sản xuất công nghiệp nhỏ sản xuất hàng tiêu dùng ở các địa phương thừa nhận kinh tế tư nhân và thị trường tự do như một thành phần của nền kinh tế quốc dân và thị trường xã hội . Nhờ đó , kinh tế tư nhân , nhất là công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp được phục hồi và phát Trion một bước , thị trường trở nên sôI động hơn . TUY nhiên trong khu vực kinh tế quốc doanh , tình hình vẫn còn khó khăn trì trệ , sản xuất tiếp tục giảm sút . cuối năm 1980 chính phủ đã đưa ra quyết định 96-cp về bãI bỏ chế độ giao nghĩa vụ nộp nông sản theo giá thấp và chuyển sang thu mua theo hợp đồng kinh tế hai chiều . Đồng thời cho phếp nông dân bán nông sản thừa theo giá thoả thuận thay thế việc mua theo giá khuyến khích . Tuy nhiên chính sách này chưa phát huy tác dụng ngay trong năm 2980 mà phảI sau đó một năm mới thực sự có tác động tốt

Cần phải nói thêm rằng , những tư tưởng cải cách của nghị quyết hội nghị trung ương 6 ( 9/1970) chỉ mới là tiếng chuông thức tỉnh đầu tiên đối với nền kinh tế . Các biện pháp chưa đụng chạm đến thể chế kinh tế và về cơ bản vẫn như cũ . Kế hoạch nhà nước vẫn tiếp tục quy định hàng loạt các chỉ tiêu pháp lệnh về cung ứng vật tư kỹ thuật , cung  ứng vốn và giao nộp sản phẩm , trong thu mua nông sản vẫn do nhà nước quy định với tỷ lệ thấp xa so với thị trường tự do

 Nói tóm lại , Nghị quyết trung ương 6 đã đánh dấu một bước chuyển căn bản về nhận thức và tư duy mới đối với công cuộc cải cách kinh tế ở nước ta , vạch ra phương hướng thay đổi chính sách và cơ chế kinh tế , trong đó lấy việc thay đổi căn bản chính sách giá cả và tiền kương là bước đột phá .

Đây chính là bước đầu trong việc vận dụng một cách sáng tạo hơn quy luật giá trị để đạt được những hiệu quả cụ thể hơn  mở đầu cho quá trình đổi mới đất nước. Tiểu luận: Áp dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế ở Việt Nam

Tiếp tục những tư tưởng của hội nghị trung ương 6 , sau năm 1981 nước ta đã có hàng loạt những cuộc cải cách nhằm đưa ra nền kinh tế phát Trion theo một hướng mới . Đảng ta đã thẳng thắn nhận biết và phê phán những sai lầm trong những chính sách kinh tế thời kỳ trước . , phê phán và yêu cầu sửa đổi chính sách và hệ thống giá hiện hành , phê phán tư tưởng kinh tế “ phi thị trường “ chỗ dựa lâu dàI và vững chác của hệ thống giá lúc đó . Việc đổi mới này đã bắt đầu tạo lập nền móng cho sự chuyển biến từ tư duy giá cả phi thị trường sang tư duy giá cả thị trường . Nó đã  tiến hành đIều chỉnh giá để kích thích sản xuất , tiến tới cảI cách toàn bộ hệ thống giá của nhà nước theo hướng làm cho giá cả phản ánh đầy đủ chi phí hợp lý về sản xuất và lưu thông , đảm bảo cho người sản uất có lợi nhuận thoả đáng . Gía cả phù hợp với sức mua của đồng tiền và có tính đến giá cả trên thị trường thế giới của hàng nhập , xoá bỏ những bù lỗ bất hợp lý của nhà nước và chấm dứt tình trạng xí nghiệp sản xuất kinh doanh bị lỗ vốn do nhà nước quy định giá không chính xác . Tiếp tục xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế : nỗ lực phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế , vừa cạnh tranh vừa hợp tác bổ xung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân . Để thực hiện được điều đó Đảng ta quyết định khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh phát Trion có hiêụ quả nắm vững những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy hiệu quả trong nền kinh tế . Tiếp tục đổi mới và kiện toàn kinh tế tập thể theo nguyên tắc tự nguyện , dân chủ ,bình đẳng  phát huy và kết hợp hài hoà sức mạnh của tập thể và xã viên.

Bên cạnh đó kinh tế tư nhân vẫn tiếp tục phát Triển , đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất , theo sự quản lý của nhà nước .. hướng kinh tế tư bản tư nhân phát Triển theo con đường tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức . Từng bước hình thành và mở rộng đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng , tư liệu sản xuất , dịch vụ … tiếp tục đổi mới và hoàn thiện công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu của nhà nước . Xây dựng các chính sách tài chính quốc gia và thực hiện cải cách cơ bản tài chính nhà nước theo hướng thúc đẩy khai thác tiềm năng tự nhiên của các tầng lớp nhân dân , vừa tích tụ vốn ở đơn vị kinh tế  vừa đảm bảo nguồn vốn tập trung của nhà nước. Sau hàng loạt những công tác cải tiến trên nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể :

“ Tính trung trong năm năm , GDP tăng hàng năm 5.2% (trong thời kỳ 1986-1990) và 8.2% ( 1991-1995) kế hoạch đề ra là 5.5-6.5% . Cũng trong 5 năm (1991-1995 ) hàng năm nông nghiệp tăng 4.5% , công nghiệp tăng  13.5% kim ngạch xuất khẩu tăng 20% . Trong sản xuất nông nghiệp có một kết quả nổi bật là sản lượng lương thực quy ra thóc đã tăng nhanh từ 21.5 triệu tấn (1990) lên 27.5 triệu tấn (1995) “ (16)

“ tỷ trọng công nghiệp và xây dựng cơ bản trong GDP đã tăng từ 22.6% (1990) lên 30.3% (1995) tỷ trọng dịch vụ từ 38.6% lên 42.5% “(17)

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Tiểu Luận Môn

NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ CÁC MẶT CÒN TỒN TẠI Tiểu luận: Áp dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế ở Việt Nam

Trong quá trình phát Triển kinh tế tiến lên chủ nghĩa xã hội , nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thắng lợi bước đầu hết sức to lớn đó không chỉ biểu hiện ở những con số phản ánh quá trình tăng trưởng mà còn thể hiện ở sự khăc phục được sự tách rời người lao động khỏi tư liệu sản xuất nên đảm bảo được tính tập thể của việc tổ chức nền sản xuất xã hội . Đó là do biết vận dụng chức năng tổ chức xã hội của quy luật giá trị .Bên cạnh đó do biết kết hợp giữa lợi ích của cá nhân với lợi ích kinh tế của tập thể và toàn xã hôị nên việc thực hiện công bằng xã hội kích thích nỗ lực nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lưọng công tác ., đời sống của nhân dân tiếp tục được cảI thiện và nâng cao

 Việc định hướng nền kinh tế và tiêu chuẩn hoá nền kinh tế đã chỉ ra những mục tiêu xác thực cụ thể cho từng bứoc tiến của nền kinh tế . Bên cạnh đó ta cũng phảI nhấn mạnh tới những thuận lợi trong quá trình cảI cách kinh tế ở Việt Nam hiện nay đó là cùng với xu thế phát Trion kinh tế thế giới Việt Nam tiến hành cảI cachs đồng thời với nhiều nước nằm trong một vùng tăng trưởng nhanh ( NICs ,A SEAN ,)nên có thể học hỏi được nhiều ưu điểm một vấn đề nữa cần đề cập là sự nhanh nhạy của Đảng và nhà nước ta trong quá trình đổi mới cách thức quản lý và định hướng nền kinh tế sao cho phú hợp với từng thời kỳ.

Tuy nhiên bên cạnh những thành công còn tồn tại những mặt hạn chế : đó lá sự vận dụng dập khuân những quy luật kinh tế , đôi khi cách nhìn nhận vấn đề còn lúng túng, quẩn quanh .Nền kinh tế nước ta vẫn còn mang nặng dấu ấn của nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu và chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất , tiết kiệm trong tiêu dùng , nền kinh tế phát Triển khá nhưng chất lượng và hiệu quả còn thấp . Vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế còn yếu nên khả năng quản lý chưa được bao quát

Nói tóm lại trong quá trình vận dụng quy luật giá tri vào nền kinh tế Việt Nam tuy còn có nhiều sơ suất nhưng cũng đã đạt được những hiệu quả nhất định nếu có thể hạn chế những thiếu sót , phát huy những thành quả đã đạt được thì chác chắn trong tương lai không xa nèn kinh tế Việt Nam sẽ phát Trion đuổi kịp các nước trong khu vực cũng như trên thế giới

NHỮNG GIẢI PHÁP CHO VIỆC VẬN DỤNG QUY LUẬT GIÁ TRI VÀO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

Để trong thời gian tới quá trình vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam không còn gặp những khó khăn trở ngại thì Đảng và nhà nước ta phảI thực hiện được những yêu cầu sau : Tiểu luận: Áp dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế ở Việt Nam

Việc vận dụng bên cạnh kế thừa cũng phảI có sự sáng tao để thực sự phù hợp với hoàn cảnh và đIều kiện của nền kinh tế nước ta vốn là nước đI lên CNXH không qua trung gian là TBCN , nền kinh tế còn mang nặng tính nông nghiệp lạc hậu .

ĐIều cần thiết thứ hai là phảI tăng cường liên kết các quan hệ hàng hoá tiền tệ với các quan hệ xã hội . Nâng cao nhận thức và trình độ của con người vì đội ngũ vận dụng quy luật giá trị vào sản xuất là diều quan trọng nhất . Nhận thức của con người mới quyết định vai trò và hiệu quả của quy luật giá trị đối với nền kinh  tế  thị trường

Vấn đề đặt ra là phảI vận dụng quy luật giá trị trong kinh tế xã hội chủ nghĩa ,hạn chế và hướng dẫn quy luật giá trị trong hai thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa

Chính sách giá cả ,chính sách và biện pháp quản lý thị trường phảI nhằm tạo điều kiện phát huy cao độ tác dụng của quy luật giá trị trong kinh tế xã hội chủ nghĩa hạn chế tác dụng của quy luật giá trị trong hai thành phần kinh tế phii xã hội chủ nghĩa .

Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta kinh tế xã hội chủ nghĩa không chỉ chịu ảnh hưởng của quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa ,mà cồn chịu tác động của các quy luật giá trị trong các thành phần kinh tế khong xã hội chủ nhgiã .Vì vậy hạn chế một số xí nghiệp chạy theo giá cả thị trường không tổ chức ,bán sản phẩm của xí nghiệp ra thị trường đó vơí giá cao hơn hoặt tìm mọi cách nâng giá cao hơn gía quy định để thu về chênh lệch giá cho lơI ích riêng của xí nghiệp cũng là một vấn đề cần thiết sớm phải thực hiện.

III   KẾT LUẬN Tiểu luận: Áp dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế ở Việt Nam

Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến sâu sắc từ kinh tế chỉ huy sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước . Sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng và nhà nước ta thể hiện trong các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế đã phát huy được những động lực to lớn của nền kinh tế mới đối với sự phát Trion của đất nước . Đặc biệt sự đổi mới về cả nhận thức lý luận lẫn công tác đièu hành thực tiễn trên lĩnh vực áp dụng quy luật giá trị định hướng XHCN vào nền kinh tế đã góp phần đáng kể vào những thành quả kinh tế chung .

Thực tiễn những năm qua chứng tỏ rằng quy luật giá trị với những biểu hiện của nó như giá cả , tiền tệ , giá trị hàng hoá .. là lĩnh vực tác động hết sức nhanh nhạy và lớn lao tới đời sống kinh tế xã hội của đất nước ảng và nhà nước ta đã nhận thức đúng đắn về vấn đề này và đã thực hiện nhiều cuộc cảI cách kinh tế tuân theo những nội dung của quy luật giá trị nhằm hình thành và phát Triển một nền kinh tế  hàng hoá  XHCN đa dạng và hiệu quả và đã đạt được những hiệu quả nhất định

Bên cạnh đó việc xụp đổ của nền kinh tế Liên Xô và các nước Đông Âu cũng là một thực tế cho thấy quan niệm về giá trị giá cả mà các nước đó  đã từng áp dụng có rất nhiều nhược đIểm và do đó không thể là cơ sở lý luận cho chính sách đIều tiết nền kinh tế ỏ nước ta . Nhưng những lý thuyết giá trị củakinh tế học phương tây mặc dù có những ưu đIểm nhất định nhưng cung có nhiều khiếm khuyết đặc biệt trong quan đIểm về cơ sở khách quan của giá cả . Cách duy nhất để có được cơ sở lý luận đúng đắn cho chính sách phát Trion kinh tế ở nước ta là dựa trên nguyên lý cơ bản của lý luận giá trị , tiếp tục phát Triển nó cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới , làm giàu nó bởi chính những thay đổi cho phù hợp với đIều kiện kinh tế của nước mình.

 Tóm lại quá trình phát Triển kinh tế là một quá trình lâu dàI , đòi hỏi gắt gao việc áp dụng đúng đắn các quy luật kinh tế , trong thời gian qua tuy đôI lúc sự vận dụng đó của nước ta còn chưa quán triệt nhiều khi là sự quẩn quanh ,dập khuân nhưng bên cạnh đó ta cũng đã đạt được những tiến bộ nhất định má nếu tiếp tục phát huy thì trong tương lai không xa chúng ta sẽ có một nền kinh tế XHCN phát  Triển và thịnh vượng .Tiểu luận: Áp dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế ở Việt Nam

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464