Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước về Xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đăk Nông dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa huyện Đắk R’lấp

2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

Huyện Đăk R’lấp nằm phía Tây Nam của tỉnh Đắk Nông, cách thị xã Gia Nghĩa 24km, cách thành phố Hồ Chí Minh 230km theo quốc lộ 14. Phía Đông Bắc giáp thị xã Gia Nghĩa, phía Tây giáp tỉnh Bình Phước, phía Nam giáp tỉnh Lâm Đồng và phía Bắc giáp huyện Tuy Đức. Ở vị trí này, Đắk R’lấp là cửa ngõ phía Nam của Đắk Nông nối Tây Nguyên với Thành phố Hồ Chí Minh, nơi tiếp giáp giữa Nam Bộ, Trung Bộ và Đông Bắc Campuchia.

Huyện có tổng diện tích đất tự nhiên là 63.420ha; dân số 85.621 người, trong đó có 25 đồng bào dân tộc anh em cùng sinh sống trên địa bàn 10 xã và 01 thị trấn gồm các xã Nhân Cơ, Nghĩa Thắng, Đạo Nghĩa, Kiến Thành, Nhân Đạo, Hưng Bình, Đắk Sin, Đắk Ru, Quảng Tín, Đắk Wer và thị trấn Kiến Đức. Bộ máy hành chính cấp huyện có 13 phòng ban; đơn vị hành chính cấp xã có 10 xã, 01 thị trấn với 110 thôn, bon, tổ dân phố, có nhiều thôn, bon cách xa trung tâm xã. Tỷ lệ người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ 13.92% tổng dân số toàn huyện. Tỷ lệ các tín đồ tôn giáo chiếm 32.55% dân số toàn huyện.

Huyện Đắk R’lấp có hệ thống giao thông tương đối hoàn chỉnh với 693,2km đường bộ, đã láng nhựa trên 100km, trong đó Quốc lộ 14 chạy qua địa bàn huyện với độ dài 35km đã được nhựa hóa hoàn toàn.

Khí hậu Đắk R’lấp thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên Tây Trường Sơn, có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 (chiếm tới 85% lượng mưa hàng năm). Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.

  • Lượng mưa trung bình hàng năm: 2.300 – 2.400mm.
  • Nhiệt độ trung bình hàng năm: 22,3o
  • Chế độ gió: Mùa mưa thường có gió Tây Nam cấp 2, cấp 3.
  • Mùa khô thường có gió Đông Bắc khô lạnh.

Nằm ở độ cao trung bình 700m so với mặt nước biển, địa hình Đắk R’Lấp chủ yếu là đồi núi, cùng với hệ thống sông suối khá dày và phân bố đều khắp trên địa bàn huyện đã làm cho địa hình Đắk R’lấp bị chia cắt tương đối nhiều và hơi thoải theo hướng Tây Bắc – Đông Nam[36]. Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Công

2.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa 

2.1.2.1. Điều kiện kinh tế – xã hội

Tiềm năng phát triển Công nghiệp:

Đắk R’Lấp là vùng giàu nguồn khoáng sản của tỉnh Đăk Nông, đặc biệt là Bauxit ở xã Nhân Cơ và Nhân Đạo với trữ lượng lớn về quặng nguyên và quặng tinh để sản xuất Alumin và điện phân nhôm. Thế mạnh bauxit của huyện đã được xây dựng thành chiến lược khai thác bauxite – Nhôm quốc gia, tạo cho Đắk R’lấp có nhiều tiềm năng, cơ hội để phát triển các ngành công nghiệp. Hiện nay, trên địa bàn huyện đã hình thành Khu Công nghiệp Nhân cơ với tổng diện tích 850 ha, vốn đầu tư gần 17 nghìn tỷ đồng. Trong đó có Nhà máy chế biến quặng bauxit, tuyển alumin công suất 650.000 tấn, có khả năng mở rộng lên 1,2 triệu tấn sản phẩm/năm (một trong hai nhà máy tuyển quặng alumin lớn nhất cả nước). Cuối năm 2016, Nhà máy đi vào hoạt động sẽ là nơi hấp dẫn cho các ngành công nghiệp phụ trợ đi kèm như lĩnh vực sản xuất hóa chất, cơ khí chế tạo – sửa chữa máy nông – công nghiệp và các ngành dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, nhà hàng… Đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước đến đầu tư. Hiện nay, Khu công nghiệp đang trong thời kỳ kiến thiết và xây dựng kết cấu hạ tầng để đón đầu các nhà máy phụ trợ theo bauxit.

Trên địa bàn huyện có 8 điểm mỏ đá bazan (đá xây dựng) với trữ lượng ước tính khoảng 123.000 m3, tập trung chủ yếu ở các xã Nhân Cơ, ĐăkWer, Quảng Tín và 3 mỏ cát, trữ lượng ước tính khoảng 150.000 m3, tập trung tại địa bàn xã Đăk Ru và Hưng Bình. Bên cạnh đó, Đắk R’lấp còn có nguồn khoáng sản quý giá khác là đá Grannite tại Đắk Ru với diện tích phân bố khoảng 2ha. Tuy diện tích phân bố không lớn nhưng đá ở khu vực này có dạng nguyên khối lớn, thuận lợi cho việc khai thác.

Đắk R’lấp còn có thế mạnh để phát triển ngành công nghiệp chế biến bởi nguồn nguyên liệu đầu vào sẵn có tại địa phương. Đó là các sản phẩm đa dạng của ngành nông nghiệp như cà phê, cao su, tiêu, điều… Với diện tích trồng cây lâu năm là 35.397ha, đến nay, huyện đã hình thành vùng chuyên canh cây công nghiệp dài ngày, trong đó cây cà phê 16.507ha, sản lượng là 22.283 tấn, chiếm gần ¼ cả về diện tích và sản cà phê của tỉnh; ngoài ra, còn có diện tích cao su và hồ tiêu lớn (cao su 7.977ha, hồ tiêu 2.970 ha), diện tích trồng cây điều lớn nhất tỉnh (7.296ha). Đến nay, trên địa bàn huyện chưa có nhà máy chế biến cà phê, một số nhà máy chế biến hiện có như nhà máy nước ép trái cây và hoa quả Giai Mỹ và nhà máy chế biến hạt điều Hồng Đức chưa đáp ứng được nhu cầu về chế biến nông, lâm sản của huyện, hầu hết sản lượng cà phê, cao su, hồ tiêu… chủ yếu xuất khẩu ở dạng thô.

Tiềm năng phát triển Nông nghiệp:

Huyện Đắk R’lấp có 63.420 ha diện tích đất tự nhiên, trong đó đất nông nghiệp 40.814,9ha, chiếm gần 70%  chủ yếu là đất bazan với độ phì khá, tầng dầy, hàm lượng chất hữu cơ cao, đất xốp thích hợp trồng các loại cây công nghiệp như cà phê, cao su, tiêu, điều…; diện tích đất lâm nghiệp 15.342,8ha. Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

Dù địa hình bị chia cắt mạnh nhưng Đắk R’Lấp cũng có một số đồng cỏ thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi và thung lũng Đắk Keh chạy dài trên 30km rất thuận lợi cho việc trồng các loại cây lương thực. Lợi thế này giúp Đắk R’Lấp phát triển mạnh về mô hình trang trại, hiện nay, trên địa bàn huyện có 149 trang trại chăn nuôi. Tuy nhiên, quy mô còn nhỏ, lẻ, chưa phát triển thành vùng sản xuất với quy mô sản xuất hàng hóa để đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.

Phía Nam Đắk R’Lấp tựa vào vùng Đồng Nai Thượng, Cát Tiên, Lâm Đồng với điều kiện khí hậu mát mẻ nên khí hậu Đắk R’Lấp được thiên nhiên “điều tiết” mang đặc điểm riêng, không phụ thuộc nhiều vào chế độ hai mùa như hầu hết các huyện trên địa bàn tỉnh, không khô nóng và cũng ít hứng chịu những kì mưa dầm kéo dài. Đây là điều kiện thời tiết thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.

Huyện có hệ thống sông suối dày đặc phân bố đều khắp trên địa bàn như suối Đắk R’Lấp, suối Đắk R’Tih (thuộc hệ thống suối thượng nguồn sông Đồng Nai) và nhiều hồ có diện tích mặt nước lớn, như: hồ Đắk Rta, Đắk Blao không chỉ đảm bảo nước cho nhu cầu tưới tiêu mà còn thuận lợi để huyện phát triển nuôi trồng thủy sản.

Tiềm năng phát triển Thương mại – Dịch vụ:

Đắk R’Lấp là một trong những địa phương trên địa bàn tỉnh có nhiều điều kiện để phát triển mạnh lĩnh vực thương mại – dịch vụ. Hệ thống viễn thông, hạ tầng giao thông tương đối hoàn chỉnh. Các tuyến quốc lộ huyết mạch (quốc lộ 14, 14C) đi qua, nối huyện với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và các tỉnh Nam Trung bộ, cùng với đó là tuyến đường sắt Chơn Thành – Cảng thị Vải – Gia Nghĩa sẽ được hình thành trong tương lai và cửa khẩu quốc tế Bu Prăng (Đắk Nông) – Oraing (Mundulkiri – Campuchia) sẽ góp phần thông thương hàng hoá các mặt hàng nông, lâm sản, đặc biệt là khoáng sản – bauxit tạo đà cho ngành thương mại của huyện ngày càng phát triển. Năm 2016, huyện có tổng mức bán lẻ hàng hóa lớn thứ 3 của tỉnh, đạt 1.172 tỷ đồng (đứng sau thị xã Gia Ngh a và Đắk Mil), có cơ sở kinh doanh nhiều nhất tỉnh với 2.566 cơ sở.

Tiềm năng phát triển Du lịch:

Đắk R’Lấp còn là vùng có nhiều thác nước đẹp như thác Pi Nao, Đăm Bri, Gầm Gì đã được quy hoạch thành những điểm du lịch của huyện trong tương lai. Một số xã thuộc khu vực phía Nam của huyện nằm trong vùng đệm Vườn Quốc gia Nam Cát Tiên với khí hậu mét mẻ và cảnh quan thiên nhiên độc đáo; cùng với đó là những giá trị văn hóa đặc sắc của 25 dân tộc anh em cùng sinh sống trên địa bàn huyện đã tạo cho Đắk R’lấp có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển dịch vụ du lịch[36].

2.1.2.2. Đặc điểm văn hóa

Văn hóa huyện Đắk R’lấp mang nhiều đặc điểm chung của các dân tộc anh em khu vực Tây Nguyên với nền văn hóa vô cùng phong phú và đa dạng mà nổi bật là văn hóa phi vật thể. Đắk R’Lấp là nơi lưu giữ nhiều tài sản văn hóa quý giá của người M’Nông. Bên cạnh các trường ca, truyện cổ, luật tục đã được ghi chép lại, trên địa bàn huyện còn phát hiện được nhiều di vật khảo cổ có giá trị như các bộ cồng chiêng cổ, các công cụ đá, đồ trang sức bằng đá của người tiền sử tìm thấy ở di chỉ Đắk R’Tih (nay thuộc huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông) và di chỉ Kiến Đức. Đặc biệt là bộ Goong Lú (đàn đá) có niên đại từ thiên niên kỷ I trước Công nguyên đã tìm thấy tại suối Đắk Kar (thuộc bon Bù Bir – xã Quảng Tín, huyện Đắk R’lấp). Hiện nay, các ngành chức năng của huyện đã tổ chức các lớp học đánh cồng chiêng, dệt thổ cẩm… thuê các nghệ nhân, những người có kinh nghiệm đến truyền dạy lại cho các học viên là các thanh niên của các buôn làng nhằm giữ gìn nét văn hoá truyền thống của dân tộc. Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về Xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Đắk R’lấp

2.2.1. Công tác chỉ đạo, điều hành xây dựng hệ thống văn bản 

Thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TU của Tỉnh ủy Đăk Nông về chương trình Xây dựng nông thôn mới và thực hiện sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, UBND huyện đã ban hành các Quyết định, Kế hoạch, văn bản chỉ đạo các phòng, ban trực thuộc và Ủy ban nhân dân các xã thực hiện Chương trình Xây dựng nông thôn mới trên địa bàn gồm:

Quyết định số 2198/QĐ-UBND, ngày 05/11/2010 của Ủy ban nhân dân huyện Đăk R’lấp, về việc thành lập Ban chỉ đạo Chương trình mục tiêu Quốc gia Xây dựng nông thôn mới huyện Đăk R’lấp giai đoạn 2010 – 2020;

Quyết định số 2157/QĐ-UBND, ngày 10/8/2011 của Ủy ban nhân dân huyện Đăk R’lấp, về việc ban hành Quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo Chương trình Mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới huyện Đăk R’lấp giai đoạn 2010 – 2020;

Quyết định số 2156/QĐ-UBND, ngày 10/8/2011 của Ủy ban nhân dân huyện Đăk R’lấp, về việc thành lập Ban chỉ đạo Chương trình mục tiêu Quốc gia Xây dựng nông thôn mới huyện Đăk R’lấp giai đoạn 2010 – 2020 (thay thế Quyết định số 2198/QĐ- UBND ngày 05/11/2010 của Ủy ban nhân dân huyện Đăk R’lấp);

Kế hoạch số 22/KH-UBND, ngày 30/5/2012 của Ủy ban nhân dân huyện Đăk R’lấp, về việc tổ chức thực hiện phong trào thi đua Xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Đăk R’lấp giai đoạn 2010 – 2020.

Quyết định số 3891/QĐ- Ủy ban nhân dân, ngày 08/12/2014 của Ủy ban nhân dân huyện Đăk R’lấp, về việc kiện toàn Ban chỉ đạo chương trình Mục tiêu quốc gia về Xây dựng nông thôn mới huyện Đăk R’lấp giai đoạn 2010-2020 (Thay thế Quyết định số 2156/QĐ-UBND, ngày 10/8/2011 của Ủy ban nhân dân huyện Đăk R’lấp);

Quyết định số 711/QĐ-UBND, ngày 30/3/2015 của Ủy ban nhân dân huyện Đăk R’lấp về việc thành lập Văn phòng điều phối Xây dựng nông thôn mới huyện;

Đối với cấp xã cũng đã có đầy đủ các văn bản như Nghị quyết của Đảng ủy, Nghị quyết Hội đồng nhân dân về Xây dựng nông thôn mới; Ban hành Quyết định thành lập Ban quản lý Xây dựng nông thôn mới, Ban Phát triển thôn, bon.

Việc ban hành và thực hiện các văn bản trên đãng từng bước góp phần đưa công tác quản lý nhà nước về Xây dựng nông thôn mới trên địa bàn vào khuôn khổ, góp phần nâng cao hiệu quả Xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Đắk R’lấp.

2.2.2. Ban hành cơ chế, chính sách và văn bản hướng dẫn thực hiện Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

Để đạt được các mục tiêu, tiêu chí đề ra, hàng năm Ban chỉ đạo Chương trình Xây dựng nông thôn mới huyện Đắk R’Lấp đã ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình. Trong Kế hoạch nêu rõ chỉ tiêu đạt được của từng xã và phân công rõ nhiệm vụ cụ thể cho các phòng ban, đơn vị chức năng, cho từng thành viên  hỗ trợ, kiểm tra, đôn đốc ủy ban nhân dân các xã hoàn thành các tiêu chí theo lĩnh vực đơn vị mình đã đăng ký.

UBND huyện cụ thể hóa chính sách của Nhà nước và ban hành cơ chế huy động vốn đầu tư xây dựng nông thon mới. Cụ thể là để xây dựng đường sá nông thôn – bê tông hóa đường thôn, xã thì vốn dân đóng góp khoảng 15-20%, vốn hỗ trợ từ ngân sách huyện khoảng 15%, vốn hỗ trợ của ngân sách cấp trên khoảng 50% và số vốn còn lại do hỗ trợ từ các doanh nghiệp. Ủy ban nhân dân huyện hỗ trợ 100% kinh phí để bồi dưỡng cán bộ cấp xã trong lĩnh vực xây dựng nông thôn mới.

Bên cạnh đó, Ban chỉ đạo Xây dựng nông thôn mới của huyện thường xuyên ban hành các văn bản đôn đốc, hướng dẫn thực hiện Chương trình, thư kêu gọi các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đóng chân trên địa bàn huyện tích cực đóng góp cho phong trào Xây dựng nông thôn mới; kêu gọi các đơn vị, tổ chức tham gia đăng ký nhận đỡ đầu cho các xã trong Xây dựng nông thôn mới. Chỉ đạo Ban quản lý Xây dựng nông thôn mới các xã rà soát, đánh giá lại các tiêu chí đạt được, gần đạt và tình hình triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.

BCĐ Xây dựng nông thôn mới của huyện thực hiện lồng ghép các chương trình, dự án trên địa bàn huyện nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân, thực hiện Xây dựng nông thôn mới.

BCĐ Xây dựng nông thôn mới của huyện tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân để nhân dân hiểu rõ những lợi ích thiết thực cho bản thân và cả cộng đồng dân cư khi tham gia Xây dựng nông thôn mới. Lấy nhân dân làm nguồn lực chủ đạo, giao quyền chủ động cho nhân dân và cộng đồng trong thực hiện Xây dựng nông thôn mới.

Tập trung huy động nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, đề xuất cho các xã thực hiện huy động nguồn vốn từ các doanh nghiệp địa phương và nguồn lực trong nhân dân để thực hiện xây dựng đường giao thông nông thôn, trường học, nhà văn hóa, chợ,….Bên cạnh đó, huyện cũng đã chỉ đạo các xã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện vay tín dụng tại các ngân hàng với lãi suất thấp phục vụ phát triển sản xuất…

Khuyến khích các xã thực hiện tuyên truyền, vận động, huy động nguồn vốn từ nhân dân để Xây dựng nông thôn mới; thực hiện chính sách mở cửa đối với các doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư kinh doanh trên địa bàn như đầu tư xây dựng chợ, đầu tư các công trình sân đá bóng,…

BCĐ Xây dựng nông thôn mới của huyện tiến hành kế hoạch thực hiện ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.

BCĐ Xây dựng nông thôn mới của huyện thực hiện chính sách mở rộng cửa nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tư xây dựng trên địa bàn; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trên địa bàn hoạt động; thường xuyên hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp và đầu tư sản xuất công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn huyện, thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế địa phương. Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

BCĐ Xây dựng nông thôn mới của huyện tạo điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển các hình thức liên kết hợp tác đa dạng giữa hộ nông dân với doanh nghiệp và các đối tác kinh tế khác.

Ủy ban nhân dân tỉnh Đăk Nông đã ban hành Quyết định số 1572/QĐ-UBND, ngày 04/10/2013 về việc triển khai Nghị quyết số 21/2013/NQ-HĐND ngày 19/7/2013 của Hội đồng nhân dân tỉnh quy định mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước về kiên cố hóa kênh mương nội đồng và giao thông nông thôn là chính sách phù hợp với địa phương, để dân tự làm đường giao thông; chính sách giảm nghèo bền vững hỗ trợ cấp cây, con giống, phân bón cho các hộ nghèo; chính sách hỗ trợ vay vốn phát triển sản xuất; chính sách hỗ trợ vay vốn thực hiện chương trình tái canh cà phê; chính sách hỗ trợ y tế cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và đối tượng chính sách xã hội; chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh đầu tư vào huyện trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, công nghiệp và xây dựng các dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; chính sách hỗ trợ cho đồng bào dân tộc thiểu số thành lập tổ hợp tác và hợp tác xã thực hiện sản xuất nông lâm nghiệp và dịch vụ.

2.2.3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về Xây dựng nông thôn mới

Trên cơ sở các văn bản đã hướng dẫn, ngày 10/8/2011 Ủy ban nhân dân huyện Đăk R’lấp đã ban hành Quyết định số 2156/QĐ-UBND về việc thành lập Ban chỉ đạo Chương trình mục tiêu Quốc gia Xây dựng nông thôn mới huyện Đăk R’lấp giai đoạn 2010 – 2020 (thay thế Quyết định số 2198/QĐ-UBND ngày 05 tháng 11 năm 2010 của Ủy ban nhân dân huyện Đăk R’lấp. The đó, Ban chỉ đạo Xây dựng nông thôn mới cấp huyện do đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện làm Trưởng Ban chỉ đạo; các Phó chủ tịch, Trưởng phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn là Phó ban; thành viên là các Trưởng phòng, ngành đoàn thể huyện. Đối với cấp xã: các xã trên địa bàn huyện thành lập Ban quản lý Chương trình Xây dựng nông thôn mới do đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã làm Trưởng Ban quản lý; cấp thôn thành lập Ban phát triển thôn do đồng chí trưởng thôn làm Trưởng ban. Sau khi được thành lập, Ban chỉ đạo huyện đã tổ chức rà soát, đánh giá 19 tiêu chí quốc gia về nông thôn mới tại các xã của huyện.

Ủy ban nhân dân huyện, Ban chỉ đạo huyện đã thành lập các Tổ, Đoàn Kiểm tra như: Tổ chuyên môn giúp việc; Tổ thẩm định Đề án; Tổ thẩm định nhiệm vụ, đồ án; Tổ giúp việc thực hiện cơ chế hỗ trợ xi măng làm đường thôn, xóm, đường ra đồng; Đoàn Kiểm tra kết quả rà soát các tiêu chí nông thôn mới theo quy định; Đoàn thẩm tra kết quả thực hiện các tiêu chí nông thôn mới đề nghị tỉnh công nhận “Xã đạt chuẩn nông thôn mới” tại các xã. Thông qua hoạt động của các Tổ, Đoàn đã quán triệt các văn bản chỉ đạo của các cấp đến các vấn đề có liên quan tới các ngành, các xã và toàn thể nhân dân. Trong quá trình chỉ đạo, Ban chỉ đạo và Ủy ban nhân dân huyện đã ban hành nhiều văn bản đôn đốc, nhắc nhở các xã đẩy nhanh tiến độ lập đồ án, đề án, tổ chức tuyên truyền và phát triển sản xuất, tích cực huy động nguồn vốn. Huyện đã có văn bản yêu cầu các xã thành lập Ban chỉ đạo,Ban quản lý xã và Ban Phát triển, Ban Giám sát thôn theo quy định và phân công nhiệm vụ cho từng thành viên trong Ban.

Cùng với việc triển khai Chương trình, kế hoạch Xây dựng nông thôn mới, Ủy ban nhân dân và BCĐ huyện đã tập trung chỉ đạo các phòng, ngành chức năng, Ủy ban nhân dân các xã căn cứ chức năng, nhiệm vụ của mình căn cứ chương trình, kế hoạch của huyện chủ động xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện các nội dung của Chương trình Xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện. Tập trung chỉ đạo tuyên truyền, phổ biến các văn bản hướng dẫn, các bước tiến hành; hướng dẫn, chỉ đạo các xã thành lập các ban theo quy định. Ban chỉ đạo huyện đã tích cực, chủ động chỉ đạo các cơ quan có liên quan của huyện, các Tổ giúp việc Ban chỉ đạo trong hướng dẫn, đôn đốc các xã tổ chức triển khai xây dựng[29]. Đến nay, 100% các xã đã được phê duyệt đồ án quy hoạch. Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

Cùng với hoạt động Ban chỉ đạo, sự phối hợp giữa các cơ quan và phòng ban chuyên môn trong thực hiện Xây dựng nông thôn mới là một trong những điểm góp phần đẩy nhanh tiến độ Xây dựng nông thôn mới ở huyện Đắk R’lấp. Đối với các phòng, ban Ủy ban nhân dân huyện đã có sự phối hợp tương đối đồng bộ và thường xuyên trong việc kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện chương trình Xây dựng nông thôn mới tại các xã. Đối với Ủy ban MTTQ và các đoàn thể huyện đã tích cực tuyên truyền vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân tích cực tham gia thực hiện “phong trào chung sức Xây dựng nông thôn mới”. Vai trò chủ thể của người dân được phát huy, từng bước giúp nông dân tiếp cận các cơ chế, chính sách và thay đổi tư duy sản xuất hàng hóa, đẩy mạnh liên kết sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân, hình thành liên kết với doanh nghiệp; vận động nhân dân tham gia chỉnh trang vườn, nhà ở, thực hiện chính sách về phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, hiến đất, tài sản và đóng góp công sức, tiền của để xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Bên cạnh đó, các đơn vị lực lượng vũ trang trong huyện đã chủ động xây dựng kế hoạch, tham gia giúp đỡ, ủng hộ các địa phương còn nhiều khó khăn trong Xây dựng nông thôn mới như: giúp đỡ, ủng hộ các trường mầm non, trường tiểu học, nhà văn hóa thôn, bon bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị và địa phương… Trong giai đoạn 2011 – 2015, Công an huyện đã thành lập và kiện toàn Ban chỉ đạo thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới. Trên cơ sở đó, tích cực tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới, trọng tâm đẩy mạnh tuyên truyền về công tác đảm bảo ANTT trong quá trình Xây dựng nông thôn mới. Định kỳ hàng tháng, 6 tháng, 01 năm tiến hành khảo sát, đánh giá báo cáo định kỳ kết quả thực hiện tiêu chí về “An ninh, trật tự, xã hội được giữ vững” trong Xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh đó, các tổ chức tự quản về ANTT, cụm liên kết an toàn về ANTT, các ban hòa giải ở các xã, thị trấn được củng cố và duy trì hoạt động. Đến nay, toàn huyện 100% các xã đạt tiêu chí 19 về ANTT.

Trong quá trình Xây dựng nông thôn mới, việc chuẩn hóa cán bộ và từng bước nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ công chức trong Ban chỉ đạo Xây dựng nông thôn mới nói riêng và cán bộ, công chức nói chung cũng được huyện quan tâm thực hiện. Chính vì vậy, đến nay, số cán bộ, công chức trên địa bàn huyện nói chung và cán bộ công chức cấp xã có trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn và trình độ lý luận chính trị không ngừng tăng lên.  

Có thể thấy rằng, bộ máy chỉ đạo, quản lý điều hành Xây dựng nông thôn mới từ huyện đến các xã đã đi vào hoạt động nề nếp, chính sách của huyện được điều chỉnh cùng với chính sách của tỉnh được phổ biến đến tận người dân; sản xuất nông nghiệp đạt khá. Tính đến 30/12/2017, toàn huyện đã có 2/10 xã được Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận đạt chuẩn nông thôn mới [32].

2.2.4. Công tác lập quy hoạch, đề án Xây dựng nông thôn mới 

2.2.4.1. Đối với công tác lập quy hoạch            

Trong Xây dựng nông thôn mới, quy hoạch được xem là khâu tiền đề quan trọng quyết định đến tất cả các chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện theo đúng hướng và mục tiêu đã đặt ra, chính vì vậy huyện Đắk R’lấp đã chỉ đạo tập trung thực hiện và phải được xây dựng bài bản, khoa học, phù hợp với đặc thù của huyện, từng vùng giúp phát huy được thế mạnh, giảm thiểu được những quy hoạch chắp vá, tùy tiện. Ngoài việc hợp đồng với đơn vị tư vấn, Ban chỉ đạo cấp huyện đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân các xã cử người trực tiếp tham gia cùng với đơn vị tư vấn suốt tiến trình lập quy hoạch, công tác lập quy hoạch được lập từ các thôn, bon, được cộng đồng tham gia đóng góp ý kiến và thống nhất sau đó mới trình lên hội đồng nhân dân thông qua.

Đến nay, đã có 10/10 xã hoàn thành lập quy hoạch chung và được phê duyệt. Đối với quy hoạch chi tiết mới chỉ có 01 xã Nhân Đạo đang được triển khai, 09 xã còn lại chưa được triển khai lập quy hoạch chi tiết, đây cũng là tình hình chung của tỉnh Đắk Nông hiện nay. Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

2.2.4.2. Đối với công tác lập đề án Xây dựng nông thôn mới

BCĐ Xây dựng nông thôn mới huyện yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã là người trực tiếp xây dựng đề án trên cơ sở kết quả đánh giá thực trạng nông thôn và quy hoạch đã được phê duyệt. Quy trình lập, thẩm định, phê duyệt đề án xây dựng nông thôn mới của các xã được tổ chức chặt chẽ và đảm bảo tính dân chủ, có sự tham gia của người dân. Trên cơ sở đề án phê duyệt, Ủy ban nhân dân các xã xây dựng kế hoạch tổng thể từng giai đoạn và kế hoạch hàng năm để triển khai thực hiện các nội dung của đề án. Kế hoạch tổng thể cũng phải tổ chức lấy ý kiến góp ý của cộng đồng dân cư và được HĐND cùng cấp ban hành nghị quyết thông qua, sau khi phê duyệt phải công bố công khai cho cộng đồng dân cư biết. Việc tổ chức thực hiện đề án luôn có sự phối hợp tham gia chặt chẽ của các cấp từ tỉnh đến xã.

Qua đó có thể thấy công tác chỉ đạo quy hoạch, xây dựng các đề án, kế hoạch được huyện thực hiện theo quy trình chặt chẽ, có phân công trách nhiệm phối hợp rõ ràng trong việc hướng dẫn các xã thực hiện. Cấp ủy Đảng, chính quyền, tổ chức đoàn thể từ huyện xuống cơ sở đã có sự quyết tâm, tích cực phối hợp triển khai thực hiện đồng bộ, gắn với quy hoạch, kế hoạch phát triển của địa phương.

Đến 31/12/2012, 10/10 xã của huyện đã được phê duyệt đồ án quy hoạch và đề án Xây dựng nông thôn mới. Trên cơ sở đó, các xã đã tổ chức công khai quy hoạch, đề án cho nhân dân trên địa bàn, đồng thời xây dựng quy định, quy chế quản lý quy hoạch.

2.2.5. Công tác đào tạo, tập huấn

Công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về các nội dung thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới luôn được cấp Đảng ủy, chính quyền địa phương quan tâm, chỉ đạo tổ chức kịp thời cho cán bộ chủ chốt cấp huyện và cấp xã một số nội dung thực hiện ban đầu như: Phương pháp tuyên truyền, vận động tham gia Xây dựng nông thôn mới; phương pháp khảo sát đánh giá thực trạng nông thôn; công tác lập, quản lý, tổ chức thực hiện quy hoạch, đề án Xây dựng nông thôn mới; đồng thời đã trang bị đầy đủ tài liệu về Xây dựng nông thôn mới đến tận các xã, thôn, bon, hộ gia đình trên địa bàn huyện.

BCĐ tỉnh đã trực tiếp biên soạn tài liệu tổ chức tập huấn cho các thành viên trong Ban chỉ đạo cấp huyện, toàn bộ 10 Ban quản lý cấp xã, 98 thôn trưởng của 10 xã trên địa bàn huyện qua đó đã nâng cao kiến thức, kỹ năng quản lý, tổ chức thực hiện và giám sát tại cộng đồng đối với đội ngũ cán bộ xã, thôn, bon, các đoàn thể về Xây dựng nông thôn mới.

Tổ chức các lớp tập huấn tại các xã với các chuyên đề: Giới thiệu nội dung chi tiết Bộ tiêu chí quốc gia; Hướng dẫn phương pháp khảo sát đánh giá thực trạng nông thôn theo bộ tiêu chí quốc gia; yêu cầu và nhiệm vụ quy hoạch Xây dựng nông thôn mới; phát triển sản xuất.

Nhằm khơi dậy những tiềm lực trong các cộng đồng tôn giáo, tăng cường sự đoàn kết, gắn bó mật thiết giữa các tổ chức tôn giáo trên địa bàn, góp phần huy động tổng lực của xã hội trong Xây dựng nông thôn mới, Ban chỉ đạo đã tổ chức Hội nghị giới thiệu Chương trình Mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới cho các chức sắc tôn giáo trên địa bàn để cùng với chính quyền địa phương cùng vào cuộc tuyên truyền vận động các cộng đồng tôn giáo tích cực tham gia Xây dựng nông thôn mới.

Ngoài ra các ban, ngành, đoàn thể trên địa bàn huyện đã tổ chức hàng trăm lớp tập huấn, hội thảo đầu bờ về chuyên ngành; tổng số lượt người tham gia các lớp tập huấn, hội thảo lên đến trên 10.000 lượt người tham dự.

2.2.6. Công tác tuyên truyền Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

Xây dựng nông thôn mới với mục đích cuối cùng là xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, do đó điều quan trọng nhất là phải làm cho người dân tích cực tham gia hưởng ứng, phải dựa vào sự tự giác của bản thân người dân, dựa vào nội lực của cộng đồng với sự hỗ trợ giúp đỡ của nhà nước. Nhận thức được điều này, những năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền và các hội đoàn thể trên địa bàn huyện luôn xác định Xây dựng nông thôn mới phải là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị; thường xuyên tổ chức tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân về ý ngh a, mục tiêu, nội dung của chương trình. Quá trình thực hiện để đảm bảo tính hiệu quả luôn bám sát cơ sở, đồng thời luôn đề cao và phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu đi đầu của cán bộ, đảng viên trong thực hiện. Kết hợp giữa các phương pháp truyền thống với hiện đại thông qua các hình thức phong phú và sáng tạo như: phát tờ rơi, biên soạn sổ tay hỏi đáp, gắn các khẩu hiệu, áp phích, panô trên các tuyến đường, nơi công cộng, tổ chức các hội nghị chuyên đề, mở các cuộc họp, tiếp xúc cử tri, tổ chức các hội thi, hội diễn văn nghệ quần chúng…

Hưởng ứng phong trào “Đắk Nông chung sức Xây dựng nông thôn mới”, Ban chỉ đạo Xây dựng nông thôn mới huyện tham mưu Ủy ban nhân dân huyện phát động phong trào thi đua “Toàn dân chung sức Xây dựng nông thôn mới” trên địa bàn huyện và đã được cán bộ, nhân dân huyện nhà hưởng ứng tích cực. Bên cạnh đó đã phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức Hội thi tìm hiểu về kiến thức Xây dựng nông thôn mới lần thứ nhất trên địa bàn. Từ năm 2013-2016, Đài truyền thanh truyền hình huyện đã có hơn 700 tin bài và phóng sự tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về Chương trình Xây dựng nông thôn mới, gần 200 đ a CD; 710 bản tin nông thôn mới tỉnh Đăk Nông và bản tin chuyên đề nông thôn mới hàng tháng, quí; Bản tin thông báo nội bộ của tỉnh, huyện phát hành hàng tháng. Phòng Văn hoá và thông tin và Ủy ban nhân dân các xã căng 1.725 băng zôn, 145 khẩu hiệu, 375 Panô tại trung tâm xã, nhà văn hóa thôn; các trục đường chính của huyện, xã, các khu dân cư), in, phát gần 60.000 tờ rơi tuyên truyền. Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

Hàng năm, Ban chỉ đạo Xây dựng nông thôn mới huyện đã tham mưu Ủy ban nhân dân huyện thành lập đoàn thăm quan học tập kinh nghiệm tại các tỉnh bạn về Xây dựng nông thôn mới và các mô hình sản xuất nông nghiệp chất lượng cao, học hỏi kinh nghiệm về phổ biến cho người dân trên địa bàn huyện.

Ngoài ra, thông qua công tác tuyên truyền, vận động, Ban chỉ đạo Xây dựng nông thôn mới huyện đã tham mưu cho Huyện uỷ, Ủy ban nhân dân huyện tổ chức các buổi giao lưu gặp mặt với các thôn, bon người đồng bào dân tộc thiểu số, các hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi trên địa bàn để động viên phát huy tốt hơn nữa, đồng thời nhằm tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất. Hướng dẫn, khuyến khích bà con nông dân trên địa bàn sản xuất cà phê theo hướng có chứng nhận theo các bộ tiêu chuẩn 4C, UTZ certifide… và triển khai thực hiện các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Ngoài ra, để thực hiện Phong trào thi đua “Đắk Nông chung sức Xây dựng nông thôn mới” do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh phát động, Ban chỉ đạo Xây dựng nông thôn mới huyện đã phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể trên địa bàn huyện tổ chức phát động các phong trào thi đua như phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”; Phong trào thi đua “Tuổi trẻ chung tay Xây dựng nông thôn mới” của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện; Phong trào thi đua yêu nước “Tuổi cao gương sáng” của Hội Người cao tuổi; Phong trào thi đua yêu nước của Hội cựu chiến binh phát huy bản chất Bộ đội Cụ Hồ chung tay Xây dựng nông thôn mới”… Ban chỉ đạo huyện cũng đã phát sổ tay Xây dựng nông thôn mới, tài liệu hỏi đáp, Bộ tài liệu về Xây dựng nông thôn mới và các văn bản hiện hành cũng như địa hình về xây dựng mô hình nông thôn mới cho các xã để tuyên truyền và tham khảo thực hiện.

Thông qua công tác tuyên truyền vận động đã góp phần quan trọng giúp cán bộ và nhân dân có nhận thức đúng về Chương trình Mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới, thay đổi cách nghĩ cách làm, khắc phục dần tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, khơi dậy tinh thần trách nhiệm, trong nhân dân luôn chủ động, sáng tạo, đưa chương trình thành một phong trào ngày càng lan rộng, được mọi tầng lớp nhân dân hưởng ứng với nhiều việc làm thiết thực.

2.2.7. Quản lý và sử dụng các nguồn lực Xây dựng nông thôn mới

Trong các nguồn lực phục vụ Xây dựng nông thôn mới, nguồn nhân lực và vật lực là hai nguồn lực quan trọng nhất góp phần đẩy nhanh hoặc làm chậm quá trình Xây dựng nông thôn mới. Với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân thụ hưởng”, thời gian qua, huyện Đăk R’lấp đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về chủ trương, ý nghĩa của phong trào Xây dựng nông thôn mới. Theo đó, người dân đã nhận thức được lợi ích của việc tham gia, tích cực đóng góp sức người, sức của Xây dựng nông thôn mới ở địa phương. Mặc dù đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, nhưng đến nay, qua sự vận động từ chính quyền, các đoàn thể xã, người dân đã đồng lòng nhất trí đồng ý hiến đất, góp tiền và ngày công lao động thi công các tuyến đường, xây dựng trường học, hội trường thôn, bon, cầu cống, kéo đường điện…

Cùng với đó, các xã trên địa bàn huyện đã làm tốt công tác huy động nguồn lực trong nhân dân và các doanh nghiệp đóng trên địa bàn xã để phục vụ tốt cho công tác Xây dựng nông thôn mới. Không những huy động về tiền bạc mà nhiều xã còn huy động được ngày công lao động của nhân dân, các tổ chức, đoàn thể như thanh niên, phụ nữ, nông dân…

Tổng số vốn huy động trong 2 năm giai đoạn 2016-2017 là 2.559,741tỷ đồng, trong đó:

  • Ngân sách Trung ương: 120,266 tỷ đồng
  • Ngân sách tỉnh: 207,501 tỷ đồng
  • Ngân sách huyện: 26,842 triệu đồng
  • Vốn lồng ghép các chương trình, dự án: 12,742 tỷ đồng
  • Vốn tín dụng: 1.955 tỷ đồng
  • Vốn doanh nghiệp: 104,5 tỷ đồng
  • Vốn huy động cộng đồng: 132,89 tỷ đồng để xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất như nâng cấp, cải tạo, xây dựng mới nhà ở xây dựng đường giao thông, chợ, trường học và xây dựng mới hàng ngàn căn nhà kiên cố, chỉnh trang nâng cấp nhà ở, cổng ngõ, tường rào, các công trình phụ…. Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

Bảng 2.1. Tổng hợp huy động các nguồn vốn Xây dựng nông thôn mới qua 2 năm (từ 2016-2017)

2.2.8. Kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm

Chính quyền các cấp trên địa bàn huyện đều xác định việc thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-TW và Chương trình Xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng nông nghiệp, nông dân, nông thôn, do đó rất chú trọng công tác chỉ đạo, kết hợp thường xuyên giám sát, kiểm tra tình hình thực hiện tại các xã trên địa bàn. Hằng năm, trên cơ sở kế hoạch của Ủy ban nhân dân tỉnh, Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn huyện đã xây dựng các kế hoạch, chương trình, ban hành nhiều văn bản để tổ chức thực hiện chương trình Xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là kiểm tra, giám sát hoạt động Xây dựng nông thôn mới. Qua đó, đã góp phần quan trọng trong việc bào đảm chất lượng các công trình xây dựng cơ bản được tốt hơn, sử dụng các nguồn vốn huy động đúng mục đích, hiệu quả… Định kỳ hàng quý, 6 tháng Ban chỉ đạo huyện đều đã tổ chức họp giao ban; tiến hành kiểm tra, giám sát tiến độ triển khai thực hiện ở các các xã, qua đó có ý kiến chỉ đạo giải quyết các khó khăn, vướng mắc cũng như định hướng các nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung thực hiện. Hàng năm đều tổ chức sơ kết Xây dựng nông thôn mới để đánh giá kết quả thực hiện và đề ra những giải pháp thật cụ thể để khắc phục khó khăn, hạn chế nhằm thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu của Chương trình Xây dựng nông thôn mới đề ra.

BCĐ cũng đã phân công các thành viên phụ trách từng địa bàn xã thường xuyên cử cán bộ xuống cơ sở theo định kỳ hoặc đột xuất để kiểm tra, hướng dẫn đôn đốc thực hiện đúng tiến độ, tình hình thực hiện đề án, kịp thời chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan, tránh sai sót, chấn chỉnh các mặt còn yếu kém trong khi thực hiện nhiệm vụ.

2.3. Thực trạng Xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Đắk R’lấp

Xây dựng nông thôn mới có vai trò rất quan trọng góp phần làm thay đổi diện mạo bộ mặt nông thôn, nâng cao đời sống cả về vật chất và tinh thần của người dân. Vì vậy, ngay sau khi tỉnh Đắk Nông phát động phong trào, huyện Đắk R’lấp nhanh chóng thành lập Ban chỉ đạo Xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đến từng thôn, bon, buôn, để người dân đóng góp ý kiến và cùng hưởng ứng tham gia. Huyện nhanh chóng chỉ đạo việc thành lập Ban quản lý Xây dựng nông thôn mới ở tất cả các xã; đồng thời vận động tất cả các tổ chức đoàn thể trên địa bàn vào cuộc vì mục tiêu chung. Ủy ban nhân dân huyện Đắk R’lấp đã phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện triển khai cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư gắn với Xây dựng nông thôn mới”, tạo phong trào thi đua rộng khắp giữa các thôn, bon, buôn, giữa các xã trong toàn huyện. Các tấm pa-nô, áp phích tuyên truyền cổ động trực quan cũng được dựng lên ở tất cả các xã.

Đến thời điểm 31/12/2017, đánh giá theo Bộ tiêu chí Quốc gia về xã NTM giai đoạn 2016-2020 của tỉnh Đăk Nông tại Quyết định số 391/QĐUBND ngày 07/3/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đăk Nông và Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ, tổng số tiêu chí NTM của 10 xã trên địa bàn huyện đã đạt được là 140/190 tiêu chí [32], đạt 73,7%, trong đó:

  • Nhóm 1 (đạt đủ 19 tiêu chí): có 02 xã Đăk Wer, Nghĩa Thắng.
  • Nhóm 2 (đạt 15-18 tiêu chí): có 3 xã Nhân Cơ, Nhân Đạo, Đạo Nghĩa.
  • Nhóm 3 (đạt từ 10-14 tiêu chí): có 04 xã gồm Kiến Thành, Đăk Sin, Quảng Tín, Đăk Ru.
  • Nhóm 4 (xã trung bình đạt chuẩn từ 5-9 tiêu chí): có xã Hưng Bình.
  • Nhóm 5 (xã khó khăn đạt chuẩn dưới 5 tiêu chí): Không có.

2.3.1. Tiêu chí về quy hoạch (nhóm I) Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

  • Kết quả thực hiện của các xã

Ủy ban nhân dân Huyện thường xuyên tiến hành rà soát, điều chỉnh bổ sung các quy hoạch sản xuất trong đồ án quy hoạch xã nông thôn mới gắn với tái cơ cấu nông nghiệp cấp huyện, cấp vùng và cấp tỉnh; bảo đảm chất lượng, phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và tập quán sinh hoạt từng vùng, miền.

Thường xuyên rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội, môi trường nông thôn trong đồ án quy hoạch xã nông thôn mới đảm bảo hài hòa giữa phát triển nông thôn với phát triển đô thị; phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có trên địa bàn xã.

Đến nay, toàn huyện có 10/10 xã đã hoàn thành quy hoạch chung xây dựng xã nông thôn mới (trong đó có quy hoạch sản xuất, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng), trong đó có 02 xã là Nghĩa Thắng và Nhân Đạo có quy hoạch chi tiết Xây dựng nông thôn mới (gồm quy hoạch chi tiết trung tâm xã và quy hoạch chi tiết điểm dân cư nông thôn); 03 xã gồm Kiến Thành, Đăk Wer, Quảng Tín lập quy hoạch chi tiết điểm dân cư nông thôn.

Tất cả các quy hoạch được xây dựng quy chế quản lý theo quy hoạch, tổ chức công bố công khai và niêm yết quy hoạch tại xã.

Đánh giá tiêu chí quy hoạch: có 10/10 xã đạt tiêu chí, đạt 100%.

2.3.2. Tiêu chí về phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội (nhóm II)

Về tiêu chí Giao thông

  • Hiện nay, hệ thống đường xã và đường từ trung tâm xã đến đường huyện được nhựa hóa hoặc bê tông hóa có tổng chiều dài là 168,2/211km, đạt 79,72%, góp phần giúp người và phương tiện khi tham gia giao thông được thuận tiện.
  • Đường trục thôn, bon và đường liên thôn, bon ít nhất được cứng hóa với tổng chiều dài là 130,25/287,23km, đạt 45,35%.
  • Đường ngõ, xóm đã cứng hóa với tổng chiều dài là 105,11/323,45km, đạt 32,5%, luôn được vệ sinh sạch, đẹp.
  • Đường trục chính nội đồng được cứng hóa, đảm bảo vận chuyển hàng hóa thuận tiện đạt 70,04% (14,31/20,43km).
  • Đánh giá tiêu chí giao thông đến 31 tháng 12 năm 2017, toàn huyện có 5/10 xã đạt tiêu chí giao thông gồm các xã (Đạo Nghĩa, Nhân Cơ, Nhân Đạo, Đăk Wer, Nghĩa Thắng) đạt 50%.

Về tiêu chí Thủy lợi

Tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp cần tưới trên địa bàn huyện: 28.298,74ha (bao gồm cây hàng năm, cà phê, tiêu và cây ăn quả). Diện tích đất sản xuất nông nghiệp thực tế được tưới từ nhiều nguồn khác nhau 25.768,68ha, chiếm 91,06%. Toàn huyện hiện có tổng số 40 công trình thủy lợi kiên cố, được nhà nước dầu tư. Trong đó có 30 công trình là hồ chứa, 10 công trình là đập dâng; trung bình mỗi xã có từ 2-6 công trình. Năng lực tưới thực tế đạt 7.867,56ha, đáp ứng 27,8% diện tích cây trồng cần tưới. Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

Trên cơ sở hướng dẫn và các quy định liên quan, 10/10 xã có tổ chức bộ máy thực hiện công tác phòng, chống thiên tai được thành lập và kiện toàn theo quy định của pháp luật, có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu trong công tác phòng, chống thiên tai tại địa phương. Có các hoạt động phòng, chống thiên tai được triển khai chủ động và có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu dân sinh.

  • Có cơ sở hạ tầng thiết yếu đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai.
  • Đánh giá tiêu chí thủy lợi: có 10/10 xã đạt tiêu chí, đạt 100%.

Về tiêu chí điện

  • Hiện nay, hệ thống điện đạt chuẩn theo quy định của ngành điện có 10/10 xã, đạt 100%. Trong thời gian qua, huyện tiếp tục đầu tư mở rộng mạng lưới điện nâng tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an toàn đạt 98%.
  • Đánh giá tiêu chí điện: có 5/10 xã đạt tiêu chí về điện gồm (Đạo Nghĩa, Nhân Cơ, Nhân Đạo, Đăk Wer, Nghĩa Thắng), đạt 50%.

Kết quả thực hiện Quyết định 558 của Thủ tướng Chính phủ

Các công trình điện trung áp, hạ áp và trạm biến áp (hệ thống điện) đầu tư liên xã đảm bảo đạt thông số kỹ thuật an toàn.

Hệ thống điện đã đầu tư giai đoạn 2011-2015 đồng bộ và đạt yêu cầu kỹ thuật trong vận hành với hệ thống phân phối. Nhưng hiện nay do nhu cầu điện cho phát triển kinh tế, nhất là điện cho bơm tưới cà phê, tiêu và nhu cầu điện sinh hoạt tăng nhanh nên hệ thống điện bắt đầu quá tải.

Hệ thống điện đầu tư giai đoạn 2016-2020 theo quy hoạch mới bắt đầu thực hiện nên không đảm bảo nguồn cung cấp điện đáp ứng nhu cầu sử dụng điện trong sinh hoạt, sản xuất của nhân dân và phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2016-2020; Nhất là lưới điện phục vụ sản xuất nông nghiệp (bơm tưới cà phê, tiêu…) đang tăng nhanh nên người dân đã tự kéo điện dẫn tới không an toàn.

Lưới điện hạ thế chưa đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng điện cho sản xuất và sinh hoạt của người dân nên tình trạng người dân phải tự kéo điện sử dụng, không an toàn còn xảy ra ở một số xã.

Đánh giá tiêu chí Điện: Tiêu chí điện của huyện Đắk R’lấp được đánh giá là chưa đạt theo tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.

Giải pháp thực hiện: Tiếp tục tập trung đầu tư nâng cấp, mở rộng lưới điện phân phối theo Dự án đầu tư “Cấp điện nông thôn tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2014-2020” phù hợp với kế hoạch hoàn thành xây dựng nông thôn mới của từng xã trên địa bàn huyện.

  • Về tiêu chí trường học Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học luôn được huyện chú trọng để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tại địa phương. Bên cạnh đó, ngành giáo dục của huyện cũng đã vận dụng mọi nguồn lực, sự tài trợ từ các doanh nghiệp, tổ chức xã hội để xây mới và nâng cấp các phòng học, mua sắm trang thiết bị, xây dựng sân chơi, bãi tập cho các trường học trong huyện. Đến nay, có 4/10 xã đạt tiêu chí Trường học gồm (Đạo Nghĩa, Nhân Cơ, Đăk Wer, Nghĩa Thắng), đạt 40%. Riêng xã Nhân Đạo bị rớt tiêu chí do thành lập mới trường Mầm non Kim Đồng.

  • Về tiêu chí cơ sở vật chất văn hóa

Hàng năm, huyện tổ chức huy động nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cùng với sự đóng góp của các doanh nghiệp và nhân dân các xã để tiến hành xây dựng nhà văn hóa xã; các điểm vui chơi, giải trí và thể thao cho trẻ em và người cao tuổi; tiến hành nâng cấp và tu sửa các công trình văn hoá ở địa phương; trang bị các trang thiết bị cần thiết trong các công trình văn hóa đảm bảo nhu cầu sinh hoạt, hội họp của người dân.

Tổng kinh phí thực hiện năm trong 2017: 15.405 triệu đồng.

Đánh giá tiêu chí cơ sở vật chất văn hóa: có 5/10 xã đạt tiêu chí về văn hóa  gồm (Đạo Nghĩa, Nhân Cơ, Đăk Wer, Nghĩa Thắng, Đăk Ru), đạt 50%; xã Nhân Đạo bị rớt tiêu chí do chất lượng tiêu chí được nâng cao.

  • Tiêu chí về cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn

Toàn huyện có 05 chợ xã, trong đó có 04 chợ đạt chuẩn là Nhân Cơ, Nhân Đạo, Nghĩa Thắng và Quảng Tín; Có 01 chợ tạm chưa đạt chuẩn là chợ Đắk Sin. Do bán kính tới chợ dưới 2km nên xã Đạo Nghĩa và Nghĩa Thắng đã sử dụng chung 1 chợ; Đăk Wer chung với Nhân Cơ, Kiến Thành chung với thị trấn Kiến Đức. Còn 02 xã chưa có chợ là Hưng Bình và Đắk Ru do không có cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn trong quy hoạch.

Đánh giá tiêu chí cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn: có 8/10 xã đạt tiêu chí, đạt 100%.

  • Tiêu chí về thông tin và truyền thông

Hiện nay, trên địa huyện Đăk R’lấp có 08 điểm phục vụ bưu chính, viễn thông và internet cho 9 xã. Còn 01 xã chưa có điểm bưu chính, viễn thông là xã Hưng Bình.

10/10 xã có đài truyền thanh và hệ thống loa đến các thôn, trong đó có 01 xã đạt chuẩn (Nhân Cơ); 05 xã gồm Đạo Nghĩa, Nhân Đạo, Nghĩa Thắng, Đăk Sin, Quảng Tín có 2/3 số thôn, bon có hệ thống loa hoạt động; 04 xã còn lại có đài truyền thanh, nhưng chất lượng hoạt động kém, không hoạt động cần phải nâng cấp (trạm và hệ thống loa).

Hệ thống mạng truyền dẫn cáp quang đã được phủ kín trên tất cả các xã. 100% số xã đã được đầu tư thiết bị và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý điều hành. Tuy nhiên, khó khăn hiện nay là số lượng máy tính trên số lượng CBCC xã chưa đủ; xã chưa có Trang thông tin điện tử hoặc Trang thông tin điện tử thành phần.

Tổng kinh phí thực hiện năm 2017: 600 triệu đồng.

Đánh giá tiêu chí thông tin và truyền thông: có 8/10 xã đạt tiêu chí về bưu điện (Đạo Nghĩa, Nhân Cơ, Nhân Đạo, Nghĩa Thắng, Đăk Sin, Quảng Tín, Đăk Wer, Đăk Ru), đạt 80%. Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

Tiêu chí về nhà ở dân cư

Trong 05 năm qua có hàng trăm căn nhà được hỗ trợ xây mới theo Quyết định số 167/ QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ, về xây mới, sửa chữa hàng chục căn nhà đại đoàn kết, nhà tình thương, nhà tình nghĩa do các tổ chức doanh nghiệp, đơn vị và các nhà hảo tâm hỗ trợ. Đến nay số xã không có nhà tạm, nhà dột nát: 07 xã, đạt 70%; Số xã có nhà tạm, nhà dột nát: 03 xã (Đăk Sin, Đắk Ru và Hưng Bình).

  • Số xã có tỷ lệ ≥ 75% nhà ở đạt tiêu chuẩn theo quy định: 09 xã, đạt 90%; có 01 xã chưa đạt là xã Hưng Bình.
  • Đánh giá tiêu chí Nhà ở dân cư: có 7/10 xã đạt tiêu chí, đạt 70%, 03 xã chưa đạt (Hưng Bình, Đăk Sin, Đăk Ru).

2.3.3. Tiêu chí về phát triển sản xuất gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nâng cao thu nhập cho người dân (nhóm III)

Hoạt động khuyến nông đang được duy trì một cách đều đặn, các cộng tác viên vẫn luôn duy trì họp giao ban khuyến nông định kỳ; thường xuyên tham quan các mô hình trồng trọt có hiệu quả từ đó đánh giá để triển khai các giải pháp chuyển giao cho người dân thực hiện.

Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn chăm sóc cây trồng, vật nuôi cho người dân. Khuyến nông viên được tham gia các lớp tập huấn do Phòng NN&PTNT huyện và Sở NN&PTNT tỉnh Đắk Nông tổ chức nhằm nắm bắt các kiến thức mới về quy trình chăm sóc cây trồng, vật nuôi từ đó hướng dẫn, chuyển giao quy đình cho người dân thực hiện.

Thường xuyên theo dõi tình hình sản xuất nông nghiệp tại địa phương, hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc cây trồng,vật nuôi cho nông dân.

Tiếp cận và theo dõi các hộ dân nuôi trồng các loại vật nuôi, cây trồng mới, theo dõi việc chuyển đổi giống vật nuôi, cây trồng trên địa bàn.

Triển khai các dự án và mô hình phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện như: Mô hình tưới nước tiết kiệm cho cây Hồ tiêu, Mô hình trồng chuối già lùn Nam Mỹ, Mô hình trồng và thâm canh vườn Điều, mô hình chăn nuôi gà lông màu.

Hiện nay huyện đã thành lập được 31 Câu lạc bộ khuyến nông, trong đó có một số câu lạc bộ hoạt động khá hiệu quả đó là câu lạc bộ Hào Quang, thôn 2 xã Đăk Wer chuyên cung cấp các sản phẩm rau sạch ra thị trường.

  • Tiêu chí về thu nhập Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

Thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn huyện đạt 48 triệu đồng/người/năm (nếu tính cả thu từ sản phẩm Alumin Nhân Cơ thì thu nhập bình quân đầu người đạt 63 triệu đồng/người/năm).

Đánh giá tiêu chí thu nhập: có 10/10 xã đạt tiêu chí, đạt 100%.

  • Tiêu chí về hộ nghèo

Theo kết quả tổng hợp điều tra hộ nghèo cuối năm 2017 khu vực nông thôn (không tính thị trấn Kiến Đức) trên địa bàn huyện có tổng số hộ gia đình là 21.049 hộ, trong đó hộ nghèo 1.370 hộ, chiếm 6,5%, cụ thể:

Biểu số 2.1. Tổng hợp đánh giá tiêu chí hộ nghèo năm 2017

Đánh giá tiêu chí hộ nghèo có 7/10 xã đạt tiêu chí (gồm Đạo Nghĩa, Nhân Đạo, Nhân Cơ, Nghĩa Thắng, Đăk Wer, Quảng Tín, Kiến Thành) đạt 70%.

  • Tiêu chí về lao động có việc làm thường xuyên

Tổng số người trong độ tuổi lao động có khả năng tham gia lao động khu vực hộ gia đình nông thôn trên địa bàn huyện: 45.411 người. Trong đó số lao động có việc làm thường xuyên: 41.500 người, chiếm 91,4%.

Đánh giá tiêu chí lao động có việc làm thường xuyên: có 10/10 xã đạt tiêu chí, đạt 100%.

  • Tiêu chí về tổ chức sản xuất

Hiện nay trên địa bàn huyện có 17 hợp tác xã, trong đó, 10 HTX nông nghiệp, 02 HTX xây dựng, 01 HTX vận tải, 02 HTX dịch vụ và môi trường, 02 HTX quản lý chợ. Đối chiếu các tiêu chí đã quy định, đến nay, số xã đạt chỉ tiêu có HTX hoạt động theo đúng quy định Luật HTX năm 2012 và hoạt động hiệu quả là 09 xã; 01 xã chưa có HTX là xã Nhân Đạo.

Số xã có mô hình liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản chủ lực đảm bảo bền vững: 07 xã (Đăk Wer, Nhân Cơ, Đăk Sin, Nghĩa Thắng, Quảng Tín, Đăk Ru, Kiến Thành).

Đánh giá tiêu chí hình thức tổ chức sản xuất: có 7/10 xã đạt tiêu chí, đạt 70% gồm các xã (Đăk Wer, Nhân Cơ, Đăk Sin, Nghĩa Thắng, Quảng Tín, Đăk Ru, Kiến Thành); xã Hưng Bình chưa đạt; 02 xã: Đạo Ngh a, Nhân Đạo bị rớt tiêu chí do chất lượng tiêu chí được nâng cao.

2.3.4. Tiêu chí về văn hóa, xã hội, môi trường (nhóm IV)

  • Tiêu chí về giáo dục và đào tạo

Công tác giáo dục đào tạo có bước phát triển khá, chất lượng không ngừng nâng cao. Đến nay, toàn huyện có 10/10 xã đạt phổ cập giáo dục Trung học cơ sở chiếm tỷ lệ 100%; tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 34 %; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS chiếm 87%; tỷ lệ thanh thiếu niên từ 15 đến hết 18 tuổi có bằng tốt nghiệp THCS trên 80%. Đến nay có 10/10 xã đã đạt tiêu chí về giáo dục, đạt 100%.

  • Tiêu chí về y tế Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

Trong 5 năm qua, huyện Đắk R’lấp đã huy động có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, kiên cố hóa trạm y tế xã, mua sắm trang thiết bị, dụng cụ y tế cho việc khám chữa bệnh. Đào tạo đội ngũ thầy thuốc đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ở tuyến cơ sở, củng cố, phát triển mạng lưới y tế thôn, bon. Huy động nhân dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế… Đến nay, tỷ lệ người dân tham gia Bảo hiểm y tế chiếm khoảng ≥ 85%; có 3/10 xã đạt 30% là Hưng Bình, Đăk Wer và Nghĩa Thắng.

Xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế có 7/10 xã, đạt 70%, 3 xã chưa đạt gồm Kiến Thành, Quảng Tín và Đăk Sin.

Trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể thấp còi (≤31,4%): 13.756/72.025 cháu, chiếm 19,1%.

Tổng hợp chung đến nay, toàn huyện có 3/10 xã đạt tiêu chí y tế gồm (Đăk Wer, Nghĩa Thắng, Hưng Bình), đạt 30%.

  • Tiêu chí về văn hóa

Triển khai mạnh mẽ cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư gắn với Xây dựng nông thôn mới, các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng được đa dạng hóa và phong trào sinh hoạt văn hóa cộng đồng đã được quan tâm thực hiện, từng bước ổn định.

Trên cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” đã thực sự góp phần động viên, khơi dậy mọi tầng lớp nhân dân phát huy tinh thần đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, chung sức Xây dựng nông thôn mới. Đến nay, có 82/100 thôn, bon đạt danh hiệu văn hóa, đạt 82%.

Đánh giá tiêu chí văn hóa: Có 10/10 xã đạt tiêu chí, đạt 100%.

  • Tiêu chí về môi trường và an toàn thực phẩm

Hoạt động bảo vệ môi trường và an toàn thực phẩm ngày càng được các cấp, các ngành quan tâm. Huyện đã chỉ đạo chính quyền cơ sở đã tổ chức vận động, tuyên truyền nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân tự giác thu gom, xử lý rác thải, trồng cây xanh ven đường thôn, bon, buôn tạo cảnh quan sinh thái, sạch đẹp ở mọi vùng quê nông thôn. Đồng thời, vận động, tuyên truyền người dân, các cơ sở kinh doanh thực hiện nghiêm các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm…

Đến nay toàn huyện có 5/10 xã (Đạo Nghĩa, Nhân Đạo, Nhân Cơ, Đăk Wer, Nghĩa Thắng) đạt tiêu chí Môi trường và An toàn thực phẩm.

2.2.5. Tiêu chí về hệ thống chính trị (nhóm V) Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

  • Tiêu chí về hệ thống chính trị và tiếp cận pháp luật

Hiện nay trên địa bàn huyện có 10 xã với 98 thôn, bon, bộ máy hệ thống chính trị tính đến nay đã được kiện toàn đầy đủ, 100% xã có đầy đủ các ban ngành, cán bộ cấp xã ngày càng đạt chuẩn. Qua hoạt động thực tiễn, đội ngũ cán bộ xã đã có bước trưởng thành nhanh, năng lực, tinh thần trách nhiệm, kỹ năng vận động quần chúng… đã được nâng lên rõ rệt.

Tổ chức cơ sở Đảng ở các xã đã được nâng cao chất lượng, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao vai trò hạt nhân trong lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Trong quá trình triển khai chương trình Xây dựng nông thôn mới, nhiều cấp uỷ Đảng cơ sở đã chủ động lựa chọn những vấn đề bức xúc, nổi cộm, những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân để bàn bạc, thảo luận trong cấp uỷ, chi bộ, và xây dựng thành nghị quyết chuyên đề để lãnh đạo thực hiện có kết quả.

Sự phối hợp giữa Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong chỉ đạo thực hiện các nội dung của Chương trình Xây dựng nông thôn mới ngày càng cụ thể và hiệu quả như Hội nông dân với chương trình xóa đói giảm nghèo; Hội phụ nữ với phong trào 5 không, ba sạch; Nhờ đó đã kịp thời khắc phục những hạn chế trong nhận thức của cán bộ và nhân dân; tháo gỡ khó khăn vướng mắc từ cơ sở; nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành, tạo sự nhất trí, đồng thuận cao trong cả hệ thống chính trị.

Nhìn chung đội ngũ có cán bộ, công chức xã đạt chuẩn tương đối cao, có 6/10 xã đạt chuẩn. Có 10/10 xã đạt chuẩn vì có đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở theo quy định. Có 6/10 xã có Đảng bộ đạt tiêu chuẩn “Tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh”. Có 7/10 xã có đảng bộ xã đạt tiêu chuẩn “Trong sạch, vững mạnh”. Có 10/10 xã có tổ chức chính trị – xã hội của xã đạt loại khá trở lên (100%). Có 4/10 xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật theo quy định. Có 10/10 xã đảm bảo bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình; bảo vệ và hỗ trợ những người dễ bị tổn thương trong các lĩnh vực của gia đình và đời sống xã hội đạt 100%.

Đánh giá tiêu chí hệ thống chính trị và tiếp cận pháp luật: Đến nay toàn huyện có 4/10 xã đạt tiêu chí, đạt 40%. Các xã đạt gồm (Đăk Wer, Nhân Đạo, Ngh a Thắng, Đạo Nghĩa).

Tiêu chí về quốc phòng và an ninh

Huyện đã phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, thường xuyên nắm bắt kịp thời tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của nhân dân; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân ở các vùng nông thôn, nhất là vùng đồng bào dân tộc nâng cao cảnh giác cách mạng, làm tốt công tác bảo vệ an ninh tổ quốc, phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội. Huyện cũng đã chủ động đấu tranh ngăn chặn các âm mưu, hoạt động chống phá của thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh nông thôn; xử lý tốt các vấn đề phức tạp phát sinh, không để bị động, bất ngờ; đẩy mạnh tấn công trấn áp tội phạm, tạo sự chuyển biến rõ nét về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn nông thôn.

Đến hết năm 2017, huyện có 10/10 xã đã xây dựng lực lượng dân quân “vững mạnh, rộng khắp” và hoàn thành các chỉ tiêu quốc phòng, đạt 100%. 10/10 xã đạt chuẩn an toàn về an ninh, trật tự xã hội và đảm bảo bình yên; không có khiếu kiện đông người kéo dài; không để xảy ra trọng án; tội phạm và tệ nạn xã hội (ma túy, trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút) được kiềm chế, giảm liên tục so với các năm trước, đạt 100%. Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

Đánh giá tiêu chí Quốc phòng và An ninh: Có 10/10 xã đạt tiêu chí này, đạt 100%.

2.4. Đánh giá hoạt động quản lý nhà nước về Xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đăk Nông

Xây dựng nông thôn mới là một chương trình trọng tâm có ý nghĩa quan trọng thay đổi toàn diện bộ mặt nông nghiệp, nông thôn. Cho đến nay, chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới tại huyện Đắk R’lấp đạt được những kết quả đáng ghi nhận cụ thể là cuối năm 2017, huyện Đắk R’lấp có 02/10 xã được Ủy ban nhân dân tỉnh Đăk Nông công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Tuy nhiên vẫn còn có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về quá trình Xây dựng nông thôn mới, về công tác quản lý nhà nước, về những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập, tính bền vững và khả năng nhân rộng của mô hình.

2.4.1. Những kết quả đạt được

 Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của tỉnh, các cơ quan, ban, ngành, của huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện, sự phối hợp hiệu quả trong tổ chức thực hiện giữa các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị – xã hội, huy động được cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc, tạo được sự đồng thuận cao của toàn xã hội đối với chủ trương Xây dựng nông thôn mới.

Công tác tuyên truyền, vận động được triển khai đúng định hướng, có sự chuyển biến tích cực từ thành thị đến nông thôn, từ huyện xuống cơ sở và toàn thể nhân dân. Qua nội dung phát động phong trào thi đua “Đắk R’lấp chung sức Xây dựng nông thôn mới”, đã được đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân đồng tình ủng hộ; người dân từng bước nhận thức về ý nghĩa, mục đích của chương trình và vai trò chủ thể của mình nên phấn khởi, tin tưởng và tích cực hưởng ứng tham gia phong trào. Đời sống kinh tế – xã hội của người dân tại các xã được cải thiện. Hệ thống chính trị ở vùng nông thôn ngày càng vững mạnh; vai trò của Mặt trận tổ quốc, các cơ quan, đoàn thể trong công tác tuyên truyền ngày càng phát huy trong việc nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân dân về Xây dựng nông thôn mới.

Bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc, được đổi mới, văn minh hơn, cơ sở hạ tầng được nâng cấp, hệ thống chính trị tiếp tục được cũng cố vững chắc, an ninh trật tự nông thôn luôn được giữ vững, thu nhập và điều kiện sống của người dân từng bước được cải thiện và nâng cao hơn. Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

Vai trò làm chủ của nhân dân đã được phát huy cao độ cho việc thực hiện chương trình Xây dựng nông thôn mới với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân hưởng thụ”. Các địa phương đã làm tốt công tác huy động nguồn lực trong nhân dân và các doanh nghiệp đóng trên địa bàn các xã để phục vụ tốt cho công tác Xây dựng nông thôn mới. Không những huy động về tiền bạc mà nhiều xã còn huy động được sự đóng góp về ngày công lao động của mọi tầng lớp nhân dân.

Về phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu: Đây là nhóm tiêu chí được các địa phương quan tâm và chỉ đạo tích cực trong quá trình triển khai chương trình. Việc xây dựng nâng cấp các công trình đều do người dân và cộng đồng lựa chọn từ nhu cầu thực tế và nguồn lực tổng hợp từ nhiều nguồn, nhà nước, địa phương, doanh nghiệp, người dân và vốn vay, trong đó nguồn vốn của Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhất. Đóng góp của người dân chủ yếu là ngày công lao động và một phần vốn huy động từ đổi đất, hiến đất để xây dựng đường giao thông thôn, xóm, tham gia vận động nhân dân giải phóng mặt bằng,… Trong quá trình xây dựng quy hoạch, các xã đã thực hiện lấy ý kiến góp ý của cộng đồng dân cư từ khâu khảo sát, lập danh mục đầu tư, xác định nguồn vốn đến khâu hoàn thiện bộ máy quản lý điều hành theo phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Các địa phương đã phát huy tiềm năng, thế mạnh của mình để tạo ra những sản phẩm hàng hóa có lợi thế, có giá trị, có sức cạnh tranh cao; lựa chọn, sắp xếp thứ tự ưu tiên các nội dung trong quy hoạch để xây dựng kế hoạch thực hiện một cách hợp lý, bảo đảm hoàn thành nội dung theo kế hoạch đã đề ra, đồng thời chú trọng việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư. Về nguồn lực: Đã huy động được nguồn lực tài chính nhiều hơn cho Chương trình Xây dựng nông thôn mới, nhất là Chương trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những kết quả trên đây cho thấy, quá trình quản lý nhà nước trong Xây dựng nông thôn mới tại huyện Đắk R’lấp đã được triển khai một cách đúng đắn, kịp thời và hiệu quả. Thành công bước đầu này còn cho thấy tác động tích cực đối với các cấp, các ngành và người dân, các doanh nghiệp về vai trò, vị trí của nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới. Qua đó, tăng lòng tin của người dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước trong giai đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.  

2.4.2. Một số hạn chế

Qua hơn 5 năm triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xay dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện, bên cạnh những kết quả mà huyện Đắk R’lấp đã đạt được cũng bộc lộ những tồn tại, hạn chế cần phải khắc phục trong thời gian tới.

  • Vẫn còn cán bộ và người dân hiểu chưa đúng về Chương trình xây dựng nông thôn mới, thiếu sự quan tâm, xem Chương trình là dự án và có tư tưởng trông chờ; một số ngành chưa chủ động vào cuộc và cho rằng đây là nhiệm vụ của riêng ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
  • Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ Chương trình hàng năm quá ít so với nhu cầu, chưa khai thác tốt các nguồn lực trong xã hội, cộng đồng để xây dựng cơ sở hạ tầng trọng yếu. Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.
  • Sản xuất nông nghiệp chủ yếu là phát triển theo quy mô hộ gia đình, các tổ chức kinh tế tập thể phát triển chưa mạnh; thị trường tiêu thụ sản phẩm nông sản phụ thuộc vào thị trường tự do, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chưa cao; Ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp còn hạn chế.
  • Trong công tác tuyên truyền, vận động một số đơn vị thực hiện chưa thường xuyên, kịp thời, hình thức tuyên truyền chưa phong phú, thiếu thuyết phục. Phong trào Xây dựng nông thôn mới ở một số địa phương chưa sôi động.
  • Diện tích tự nhiên các xã trên địa bàn rộng, cơ sở hạ tầng thiếu thốn, thực trạng nông thôn thấp so với Bộ tiêu chí quốc gia nên việc huy động nguồn lực để đáp ứng thực hiện Chương trình gặp nhiều khó khăn.
  • Việc huy động nguồn vốn để tiến hành xây dựng thêm cũng như bảo dưỡng, tu sửa các công trình đang hoặc đã xuống cấp trong các trường học, nhà văn hóa thôn, bon trên địa bàn các xã vẫn đang gặp nhiều khó khăn.
  • Vấn đề xử lý rác thải tại một số xã chưa được thực hiện, mới quy hoạch được bãi rác tạm cho khu vực chợ, chưa thành lập các tổ thu gom rác.
  • Việc kêu gọi, huy động thu hút nguồn vốn đầu tư của các đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức và nhân dân cùng tham gia bỏ vốn đầu tư thực hiện các dự án còn hạn chế; Ủy ban nhân dân xã chưa có kế hoạch và giải pháp cụ thể nhằm phát huy các nguồn lực trong cộng đồng dân cư; nguồn vốn của ngân sách xã chủ yếu dựa vào đấu giá đất, thu tiền sử dụng đất; vốn lồng ghép của cấp trên chưa được bố trí kịp thời.
  • Các thành viên Ban chỉ đạo chưa bám sát vào sự phân công nhiệm vụ do đó sự gắn kết, phối hợp với nhau chưa chặt chẽ, chưa tạo được hiệu ứng đồng bộ trong Xây dựng nông thôn mới.
  • Công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực còn hạn chế, chưa có đội ngũ Xây dựng nông thôn mới chuyên nghiệp, trình độ năng lực cán bộ cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu, còn nhiều lúng túng khi triển khai thực hiện.
  • Một số chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước được ban hành khá đồng bộ, kịp thời, hợp lòng dân nhưng lại chậm được triển khai ở từng cơ quan, đơn vị, cơ sở. Trong quá trình thực hiện thiếu kiểm tra, giám sát dẫn đến việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn hiệu quả chưa cao.
  • Các văn bản triển khai thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới chỉ đến được các xã, chưa triển khai được đến từng thôn, bon.

Vai trò của người dân trong Xây dựng nông thôn mới vẫn còn rất mờ nhạt. Một bộ phận người dân thiếu ý thức, còn bảo thủ, trì trệ, chưa loại bỏ được thói quen trông chờ, ỷ lại, còn thiếu ý thức, tinh thần tự giác, thiếu ý chí tự lực vươn lên. Nhiều người không chịu chuyển đổi ruộng đất để hiến đất làm đường giao thông nông thôn, gây cản trở đến công việc chung của cộng đồng. chương trình chưa thực sự huy động được các nguồn lực từ người dân và cộng đồng. Dẫn đến, chính quyền còn phải tham gia sâu vào quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế của các hộ như vận động và hỗ trợ các hộ cải tạo vườn tạp, phát triển chăn nuôi theo cách ”cầm tay chỉ việc”.

2.4.3. Nguyên nhân của hạn chế Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

  • Nguyên nhân chủ quan:

Sự vào cuộc của một số cấp ủy đảng, chính quyền địa phương chưa quyết liệt, thiếu tâm huyết, thiếu trách nhiệm; còn có ý thức trông chờ, ỷ lại, việc phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong Ban quản lý chưa rõ ràng dẫn đến việc triển khai tổ chức thực hiện chương trình còn yếu và chưa kịp thời. Năng lực cán bộ lãnh đạo một số xã còn hạn chế, chưa chấp hành nghiêm túc chỉ đạo của cấp trên; Thiếu chủ động, chưa tích cực trong việc triển khai chương trình, việc phối hợp với đơn vị tư vấn chưa kịp thời, sát sao, còn khoán trắng cho đơn vị tư vấn dẫn đến tiến độ thực hiện chậm so với kế hoạch. Cán bộ theo dõi nông thôn mới cấp xã năng lực còn hạn chế, lúng túng và chưa thật sự sâu sát với Chương trình. Do bộ phận tham mưu cấp huyện còn kiêm nhiệm. Một số phòng, ngành của huyện chưa chủ động, tích cực trong việc phối hợp chỉ đạo các xã theo tiêu chí ngành dọc; chưa sâu sát để nắm bắt tình hình và tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn cơ sở; còn tư tưởng ỷ lại, coi đây là trách nhiệm riêng của ngành Nông nghiệp. Một số thành viên Ban chỉ đạo chưa tích cực đi cơ sở hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc công tác Xây dựng nông thôn mới tại địa bàn được phân công. Ủy ban nhân dân các xã chưa có kế hoạch và giải pháp cụ thể nhằm phát huy các nguồn lực trong cộng đồng dân cư; nguồn vốn của Ngân sách xã chủ yếu dựa vào đấu giá đất, thu tiền sử dụng đất. Chưa phát huy thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong việc xây dựng đồ án quy hoạch và xây dựng đề án.

  • Nguyễn nhân khách quan:

Trình độ dân trí còn thấp, đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn khá cao. Vấn đề Xây dựng nông thôn mới ở nhiều nơi còn khá mới mẻ, liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế – xã hội, trong khi đó các bộ, ngành Trung ương chậm hướng dẫn hoặc hướng dẫn chưa rõ ràng và thường xuyên có sự điều chỉnh. Ngân sách Trung ương, tỉnh phân bổ hằng năm cho địa phương còn ít và chậm, đặc biệt là đối với những tiêu chí cần nhiều vốn; việc huy động nội lực từ cộng đồng dân cư và doanh nghiệp còn gặp khó khăn.

Tóm tắt chương 2

Chương này học viên đi sâu vào nghiên cứu quá trình triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về Xây dựng nông thôn mới tại huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đăk Nông giai đoạn 2012 – 2017. Qua phân tích và đánh giá thực trạng về công tác Xây dựng nông thôn mới tại huyện Đắk R’lấp theo các tiêu chí: bộ máy quản lý nhà nước; công tác quy hoạch; về công tác tổ chức, triển khai thực hiện; công tác huy động vốn; công tác quản lý về phát cơ sở hạ tầng thiết yếu; công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát triển khai thực hiện… Từ phân tích, đánh giá, tác giả đã rút ra những nhận định cần thiết về quá trình triển khai thực hiện chương trình Xây dựng nông thôn mới tại huyện Đắk R’lấp. Nhìn chung công tác Xây dựng nông thôn mới thu được nhiều kết quả quan trọng, hiệu quả của Xây dựng nông thôn mới đã có tiến bộ, sản xuất phát triển hơn, bộ mặt nông thôn được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên hiệu quả Xây dựng nông thôn mới còn hạn chế, cơ cấu sản xuất hàng hóa chưa có những đổi mới theo kịp mong muốn của người dân. Những kết quả phân tích đánh giá Xây dựng nông thôn mới là cơ sở quan trọng cho việc đề ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả chương trình Xây dựng nông thôn mới tại huyện Đắk R’lấp trong thời gian tới (được đề cập ở chương 3). Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước xây dựng nông thôn mới.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Luận văn: Giải pháp quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464